Khảo sát thành phần thiên địch (Vật ăn mồi) của rầy nâu hại lúa tại Châu Thành, An Giang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG KHẢO SÁT THÀNH PHẦN THIÊN ĐỊCH (VẬT ĂN MỒI) CỦA RẦY NÂU HẠI LÚA TẠI CHÂU THÀNH, AN GIANG Chủ nhiệm đề tài: Ths. NGUYỄN THỊ THÁI SƠN Long Xuyên, tháng 06 năm 2010 TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG KHẢO SÁT THÀNH PHẦN THIÊN ĐỊCH (VẬT ĂN MỒI) CỦA RẦ

pdf69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3168 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Khảo sát thành phần thiên địch (Vật ăn mồi) của rầy nâu hại lúa tại Châu Thành, An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y NÂU HẠI LÚA TẠI CHÂU THÀNH, AN GIANG BAN GIÁM HIỆU LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI Ths. Nguyễn Thị Thái Sơn Long Xuyên, tháng 06 năm 2010 LỜI CẢM TẠ Nhóm cán bộ nghiên cứu xin chân thành cảm ơn: - Trường Đại Học An Giang đã cấp kinh phí hoạt động cho đề tài này. - Phòng Nông Nghiệp - PTNT, Khuyến nông và trạm BVTV của huyện Châu Thành - tỉnh An Giang đã cung cấp thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm nghiên cứu đi điều tra thu mẫu ngoài đồng. - Bộ môn Khoa học Cây Trồng, Khoa Nông Nghiệp và TNTN, Trường Đại Học An Giang đã tạo mọi điều kiện cho đề tài được thực hiện tốt và đúng tiến độ. Nhóm tác giả Nguyễn Thị Thái Sơn Võ Thiện Phước i TÓM LƯỢC Trong hệ sinh thái nông nghiệp bền vững, côn trùng có ích đã được quan tâm ứng dụng trong quản lý dịch hại cây trồng. Đề tài được tiến hành tại năm địa bàn (Cần Đăng, Vĩnh Hanh, Vĩnh Bình, Vĩnh An và Vĩnh Nhuận) thuộc huyện Châu Thành tỉnh An Giang từ tháng 03 năm 2009 đến tháng 02 năm 2010, điều tra 50 hộ trồng lúa bằng phương pháp điều tra nông dân, sau đó chọn lại trên mỗi địa bàn 3 ruộng tiêu biểu (ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật như không sử dụng thuốc 40 NSS, phun thuốc theo phương pháp bốn đúng) để khảo sát về thành phần và sự đa dạng của các loại côn trùng thiên địch. Kết quả điều tra nông dân trên 50 hộ trồng lúa, ghi nhận nông dân ở Châu Thành về hiện trạng canh tác, biện pháp quản lý dịch hại, đa số các hộ trồng lúa có sự hiểu biết về thiên địch, 100% hộ điều tra sử dụng thuốc trừ sâu để trừ côn trùng gây hại. Kết quả điều tra ngoài đồng đã phát hiện được 77 loài côn trùng thuộc 10 bộ côn trùng (Coleoptera, Orthoptera, Hemiptera, Odonata, Dermaptera, Hymenoptera, Diptera, Thysanoptera, Homoptera, Lepidoptera), 44 họ. Với 45 loài côn trùng thiên địch, 21 loài sâu hại và 11 loài côn trùng chưa rõ vai trò trong hệ sinh thái. Mật số rầy nâu và sâu cuốn lá cao trên các ruộng lúa khảo sát, điều này đã đưa đến mật số thiên địch cao trên ruộng lúa. Nhóm thiên địch trên các ruộng khảo sát, trong đó đa dạng nhất là bọ rùa Coccinellidae có 4 loài, bao gồm Coccinella transversalis, Harmonia octomaculata, Micraspis discolor, Menochilus sexmaculatus. Chúng hiện diện trên cây lúa trồng ở khắp các địa bàn khảo sát. Trong bốn loài thì có hai loài (Micraspis discolor, Menochilus sexmaculatus) xuất hiện phổ biến và chúng tôi chọn hai loài này tiến hành khảo sát trong phòng thí nghiệm, thử khả năng ăn mồi và chu kỳ phát triển của chúng. Kết quả khảo sát về chu kỳ phát triển của 2 loài Micraspis discolor, Menochilus sexmaculatus đều ghi nhận cả hai có chu kỳ phát triển ngắn, trên dưới một tháng. Trong điều kiện phòng thí nghiệm (T0: 28 - 300C, H%: 75 – 85%): vòng đời của Micraspis discolor biến động từ 26 - 29 ngày (TB: 27,7 ± 0,04 ngày), vòng đời của Menochilus sexmaculatus biến động từ 21 - 29 ngày (TB: 25,9 ± 0,12 ngày). Với khả năng ăn mồi rất cao, hai loài Bọ rùa Menochilus sexmaculatus, Micraspis discolor đều tỏ ra có triển vọng trong công tác phòng trừ sinh học trên nhiều loại cây trồng khác nhau. ii MỤC LỤC Nội dung Trang Cảm tạ ...........................................................................................................................................i Tóm lược .......................................................................................................................................ii Mục lục .........................................................................................................................................iii Danh sách bảng ..........................................................................................................................vii Danh sách hình ..........................................................................................................................viii Ký hiệu và viết tắt .......................................................................................................................ix CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….........1 A. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU……………………………………………....2 I. MỤC TIÊU………………………………………………………………………………….....2 II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU………………………………………………………………....2 B. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU……………………………………………....2 I. ĐỐI TƯỢNG…………………………………………………………………………………..2 II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU…………………………………………………………………...2 C. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………....3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN……………………………………………………………………………..3 1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và hiện trạng sản xuất nông nghiệp của huyện Châu Thành……………………………………………………………………………….3 1.1. Điều kiện tự nhiên………………………………………………………………........3 1.1.1. Vị trí – giới hạn…………………………………………………………………….3 1.1.2. Thổ nhưỡng………………………………………………………………………...3 1.1.3. Khí tượng ……………………………………………………………………….....4 1.2. Hiện trạng sản xuất nông nghiệp…………………………………………………….5 1.2.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp………………………………………………5 1.2.2. Hiện trạng sản xuất nông nghiệp…………………………………………………..5 2. Đặc điểm hình thái, sinh học và khả năng gây hại của rầy nâu……………………….6 2.1. Vị trí phân loại, phân bố và ký chủ………………………………………………….6 2.2. Đặc điểm hình thái và sinh học………………………………………………….......7 iii 2.3. Tập quán sinh sống và cách gây hại…………………………………………….......8 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến mật số rầy………………………………………............9 2.4.1. Thức ăn……………………………………………………………………………9 2.4.2. Thời tiết…………………………………………………………………………...9 3. Sự đa dạng của thiên địch trên ruộng lúa……………………………………………10 3.1. Sự đa dạng và phong phú về côn trùng gây hại trên ruộng lúa……………………10 3.2. Sự đa dạng và phong phú về côn trùng thiên địch trên ruộng lúa…………………11 4. Các nhóm thiên địch trong ruộng lúa………………………………………………..12 4.1. Nhóm côn trùng ăn mồi……………………………………………………………12 4.2. Nhóm côn trùng ký sinh…………………………………………………………...16 4.3. Nhóm vi sinh vật ký sinh..........................................................................................18 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………………………………...20 1. Phương tiện thí nghiệm……………………………………………………………....20 1.1. Thời gian và địa điểm thí nghiệm……………………………………………….....20 1.2. Vật liệu thí nghiệm…………………………………………………………….......20 2. Phương pháp thí nghiệm……………………………………………………………..21 2.1. Phương pháp điều tra ngoài đồng……………………………………………….....21 2.1.1. Điều tra hiện trạng canh tác cây lúa……………………………………………..21 2.1.2. Quan sát trực tiếp ngoài ruộng…………………………………………………..21 2.2. Phương pháp nghiên cứu trong điều kiện lồng lưới…………………………….....22 2.3. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm…………………………….......22 2.3.1. Khảo sát một số đặc điểm hình thái, sinh học của một số loài thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm……………………………………………………..22 2.3.1.1. Đặc điểm hình thái của một số loài côn trùng thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm……………………………………………………………………….22 2.3.1.2. Đặc điểm sinh học của một số loài côn trùng thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm………………………………………………………………………………..22 2.2.3.3. Khảo sát khả năng ăn mồi của một số loài thiên địch phổ biến………………..24 2.4. Định danh……………………………………………………………………….. 25 iv 2.5. Xử lý số liệu…………………………………………………………………….....25 CHƯƠNG II. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ……………………………………………….26 1. Điều tra nông dân……………………………………………………………………26 1.1. Diện tích canh tác……………………………………………………………….....26 1.2. Đặc điểm canh tác các hộ điều tra……………………………………………........26 1.3. Hiện trạng canh tác các hộ điều tra……………………………………………......28 1.4. Côn trùng gây hại theo cách đánh giá của nông dân…………………………........30 1.5. Hóa chất bảo vệ thực vật được nông dân phòng trừ sâu hại……………………....30 1.6. Khả năng hiểu biết về thiên địch của nông dân…………………………………....31 1.7. Biện pháp phòng trừ rầy nâu và bệnh vàng lùn - lùn xoắn lá gây hại trên lúa….....32 2. Kết quả điều tra trực tiếp ngoài đồng………………………………………………..34 2.1. Tình hình chung trên các ruộng khảo sát………………………………………….34 2.2. Tình hình côn trùng thiên địch hiện diện trên các ruộng lúa………………….......36 2.3. Thành phần côn trùng gây hại trên ruộng lúa năm 2009 tại Châu Thành –An Giang…………………………………………………………………………42 3. Kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm…………………………………..........43 3.1. Đặc điểm hình thái, sinh học của Bọ Rùa Menochilus sexmaculatus, Micraspis discolor trong điều kiện phòng thí nghiệm…………………………….43 3.1.1. Bọ rùa Menochilus sexmaculatus……………………………………………….43 3.1.2. Bọ rùa Micraspis discolor...................................................................................45 3.2. Khảo sát khả năng ăn mồi của hai loài BR Micraspis discolor, Menochilus sexmaculatus phổ biến trên ruộng lúa trong điều kiện phòng thí nghiệm…………………………………………………………………..46 3.2.1. Khả năng ăn rầy nâu của Bọ rùa loài Micraspis discolor…………………........46 3.2.2. Khả năng ăn Rầy nâu của Bọ rùa loài Menochilus sexmaculatus………………47 3.2.3. Nhận xét chung về khả năng ăn rầy nâu của Menochilus sexmaculatus và Micraspis discolor………………………………………………………………….48 CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ……………………………………………........49 I. Kết luận…………………………………………………………………………………….49 v II. Đề nghị…………………………………………………………………………………….50 Tài liệu tham khảo………………………………………………………………………….....51 Phụ chương 1....……………………………………………………………………………….55 Phụ chương 2....……………………………………………………………………………….56 vi DANH SÁCH BẢNG Bảng Tựa Bảng Trang 1 Tình hình sản xuất nông nghiệp năm 2006 6 2 Diện tích trung bình, số hộ canh tác lúa tại Châu Thành – An Giang, năm 2009. 26 3 Đặc điểm nông hộ điều tra tại 5 xã thuộc huyện Châu Thành – An Giang. 27 4 Tỷ lệ % nông dân tham gia lớp IPM, chương trình KN và tập huấn 28 5 Hiện trạng canh tác của các hộ điều tra 29 6 Thành phần côn trùng và nhện gây hại theo cách ghi nhận và đánh giá của nông dân tại 5 xã thuộc huyện Châu Thành – An Giang, năm 2009 30 7 Loại thuốc hóa học nông dân thường sử dụng để phòng trừ sâu hại 31 8 Đánh giá khả năng hiểu biết về thiên địch của nông dân 32 9 Cách phòng trị rầy nâu và bệnh vàng lùn - lùn xoắn lá gây hại trên lúa 33 10 Thành phần côn trùng hiện diện trên lúa tại Châu Thành - An Giang, năm 2009 34 11 Thành phần loài thiên địch trên ruộng lúa tại Châu Thành – An Giang, năm 2009 37 12 Thành phần côn trùng chưa rõ vai trò trong hệ sinh thái tại Châu Thành – An Giang, năm 2009 38 13 Tần số xuất hiện của các loài Bọ rùa khảo sát trong điều kiện ngoài đồng 40 14 Thành phần và giai đoạn hiện diện của côn trùng gây hại trên ruộng lúa tại Châu Thành – An Giang 43 15 Chu kỳ sinh trưởng của bọ rùa loài M. sexmaculatus trong điều kiện phòng thí nghiệm (T0: 28 - 300C, H%: 75 – 85%), ĐHAG - 2009 44 16 Chu kỳ sinh trưởng của bọ rùa loài M. discolor trong điều kiện phòng thí nghiệm (T0: 28 – 300C, H%:75 - 85%), ĐHAG - 2009 46 17 Khả năng ăn mồi của bọ rùa loài Micraspis discolor trên rầy nâu trong điều kiện phòng thí nghiệm: T0C: 28-30; H%: 75-85%, ĐHAG - 2009 47 18 Khả năng ăn mồi của bọ rùa loài Menochilus sexmaculatus trên rầy nâu trong điều kiện phòng thí nghiệm (T0C: 28 - 300C; H%: 75 - 85%), ĐHAG - 2009 47 vii DANH SÁCH HÌNH Hình Tựa Hình Trang 1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm 24 2 Tỷ lệ nhóm côn trùng hiện diện trên các ruộng khảo sát. 36 3 Các loài thuộc họ Braconidae (Hymenoptera) 38 4 Các loài thuộc họ Ichneumonidae (Hymenoptera) 38 5 Các loài thuộc họ Chalcididae (Hymenoptera) 39 6 Các loài thuộc họ Drynidae (Hymenoptera) 39 7 Các loài ruồi thuộc bộ Diptera 39 8 Các loài bọ xít thuộc bộ Hemiptera 40 9 Các loài thiên địch thuộc bộ cánh cứng Coleoptera 41 10 Muồm muỗm Conocephalus sp. (Tettigoniidae) 41 11 Bọ đuôi kìm Euborellia sp. (Carcinopheridae), (a): trứng; (b): thành trùng 42 12 Trứng Menochilus sexmaculatus 44 13 Ấu trùng T2 của Menochilus sexmaculatus 45 14 Trứng Micraspis discolor 45 viii ix DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Cụm từ Viết tắt Quản lý dịch hại tổng hợp IPM Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL Đại học An Giang ĐHAG Bảo vệ thực vật BVTV Phát triển nông thôn PTNT Công ty cty Cộng tác viên ctv. Ngày sau sạ NSS Đông xuân ĐX Hè thu HT Dương lịch dl Năng suất tấn trên hecta tấn.ha-1 Thành trùng TT Ấu trùng AT Tuổi 1 T1 Tuổi 2 T2 Tuổi 3 T3 Tuổi 4 T4 Rầy nâu RN Bọ rùa BR Trung bình TB CHƯƠNG I MỞ ĐẦU Trong vài năm gần đây, nhất là vụ Đông Xuân năm 1999 - 2000 rầy nâu (Nilaparvata lugens) luôn là một trong những loài côn trùng gây hại quan trọng trên lúa. Rầy nâu không chỉ gây nên hiện tượng cháy rầy, mà nguy hiểm hơn là làm lây truyền virus gây bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá cho cây lúa. Những thiệt hại do rầy nâu gây ra bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá thường rất lớn. Năm 2005, đồng bằng sông Cửu Long thất thu khoảng 700.000 tấn lúa do rầy nâu gây ra (Kinh tế Việt Nam và Thế giới, 2008). Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007) vụ lúa đông xuân 2006 - 2007 tại các tỉnh phía Nam đã xuống giống gần 1.600.000 ha, diện tích nhiễm rầy nâu là 282.713 ha, nhiễm nặng 37.810 ha, nhiễm vàng lùn và lùn xoắn lá 61.692 ha, nhiễm nặng 18.076 ha. Riêng ở An Giang, trong vụ Đông Xuân 2007-2008 thì tổng diện tích nhiễm bệnh vàng lùn là 3.262 ha với nhiễm trung bình là 58 ha và nhiễm nặng là 147 ha (Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang, 2008). Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp, nhưng tác hại của rầy nâu trong những năm gần đây không giảm mà có xu hướng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do rầy nâu có tính kháng cao trên nhiều giống lúa phổ biến và nhiều loại thuốc trừ rầy thông thường (Nguyễn Văn Đĩnh, 2005). Rầy nâu có sức sinh sản mạnh, do đó dễ phát sinh thành dịch trong thời gian ngắn khi điều kiện khí hậu, thức ăn thích hợp nhất (Nguyễn Viết Tùng, 2006). Trong điều kiện thâm canh và chuyên canh sản xuất nông nghiệp hiện nay, việc bảo vệ duy trì, phát triển quần thể thiên địch tự nhiên được coi là hướng chính của biện pháp sinh học chống dịch hại. Bảo vệ duy trì phát triển quần thể thiên địch có sẵn trong tự nhiên chính là áp dụng nguyên lý sinh thái trong chống dịch hại, nhằm bảo vệ các mối quan hệ qua lại giữa các loài sâu hại và thiên địch trong hệ sinh thái nông nghiệp nói chung và sinh quần xã ruộng lúa nói riêng. Mục đích là làm tăng tỷ lệ chết tự nhiên do thiên địch gây ra cho các loài sâu hại (Lương Minh Châu, 1989). Để khống chế sự gây hại của rầy nâu trên ruộng lúa, hạn chế tối đa sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật thì việc quản lý rầy nâu gây hại cây lúa không ngừng được nghiên cứu, do đó đề tài: “Khảo sát thành phần thiên địch (vật ăn mồi) của rầy nâu gây hại lúa tại Châu Thành – An Giang” được thực hiện để hiểu rõ hơn vai trò của thiên địch rầy nâu trong tự nhiên nhằm có biện pháp phòng trừ rầy nâu bằng thiên địch có hiệu quả nhất. 1 A. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. MỤC TIÊU - Điều tra và phân loại thành phần loài côn trùng thiên địch. - Khảo sát khả năng ăn rầy nâu của côn trùng thiên địch. - Khảo sát một số đặc điểm sinh học của một số loài côn trùng thiên địch phổ biến. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Điều tra và phân loại thành phần loài thiên địch. - Điều tra hiện trạng canh tác cây lúa. - Mức độ phong phú thiên địch của rầy nâu trên ruộng lúa. 2. Khảo sát một số đặc điểm sinh học của một số loài thiên địch phổ biến. - Các giai đoạn phát triển. - Khả năng đẻ trứng và tuổi thọ của thành trùng. - Tỷ lệ trứng nở. - Thử khả năng ăn mồi (rầy nâu) của một số loài thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm. B. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU I. ĐỐI TƯỢNG Phân loại, định danh và khảo sát khả năng ăn mồi của một số loài thiên địch phổ biến đối với rầy nâu gây hại trên lúa tại Châu Thành - An Giang trong điều kiện phòng thí nghiệm. II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nghiên cứu mức độ phong phú thiên địch của rầy nâu trên lúa thu thập từ 5 xã thuộc huyện Châu Thành - An Giang. Bố trí thí nghiệm về khả năng ăn mồi và khảo sát một số đặc điểm sinh học của một số loài thiên địch phổ biến của rầy nâu gây hại trên lúa tại Châu Thành - An Giang. 2 C. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và hiện trạng sản xuất nông nghiệp của huyện Châu Thành 1.1. Điều kiện tự nhiên 1.1.1. Vị trí – giới hạn Huyện Châu Thành nằm tiếp giáp Thành phố Long Xuyên, với tổng diện tích tự nhiên 34.682 ha, diện tích đất sản xuất nông nghiệp 29.252 ha, dân số 171.480 người với 34.018 hộ, huyện Châu Thành có 13 xã và thị trấn với 63 ấp, tiếp giáp với 4 huyện và thành phố, đó là huyện Tịnh Biên, Châu Phú, Chợ Mới, Thoại Sơn và Thành phố Long Xuyên (Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Châu Thành, 2005). Vị trí giới hạn: ™ Phía Bắc Giáp huyện Châu Phú. ™ Phía Đông - Đông Bắc giáp huyện Chợ Mới. ™ Phía Đông - Đông Nam giáp TP. Long Xuyên. ™ Phía Nam giáp huyện Thoại Sơn. ™ Phía Tây giáp huyện Tri Tôn. ™ Phía Tây Bắc giáp huyện Tịnh Biên. 1.1.2. Thổ nhưỡng Theo Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Châu Thành (2005), trong vùng có các nhóm đất chủ yếu sau: - Nhóm đất phù sa: tập trung ở các xã Bình Thạnh và các tiểu khu của các xã cặp theo sông Hậu như An Châu, Bình Hòa, An Hòa. - Nhóm đất phèn: độ axit cao, nồng độ độc tố tiềm tàng cao và thiếu lân, tập trung ở các xã vùng tứ giác Long Xuyên (trong đó có các xã Vĩnh Nhuận, Tân Phú, Vĩnh Thành). - Nhóm đất xám: đất tơi xốp, độ phì nhiêu thấp, tập trung ở các xã Tân Phú, Vĩnh An, Vĩnh Bình. - Các nhóm đất khác: đất cát, đất sét nằm rải rác ở các xã. 3 1.1.3. Khí tượng Đặc điểm về tình hình khí hậu mang tính chất chung của khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm rất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình năm rất điều hòa, chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa các tháng nóng nhất và lạnh nhất không lớn lắm (3 - 60C). Nhiệt độ trung bình năm 260C - 300C. Độ ẩm trung bình hàng năm khá cao khoảng 82% rất thích hợp cho sự phát triển của cây lúa và hoa màu. - Độ ẩm trung bình mùa khô khoảng 79 %. - Độ ẩm trung bình mùa mưa khoảng 83 %. Gió huyện Châu Thành mang tính chất chung của đồng bằng sông Cửu Long, hằng năm có hai hướng gió chính: - Từ tháng 05 dl đến tháng 10 dl chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam. - Từ tháng 11 dl đến tháng 04 dl chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. - Mưa: Chế độ mưa phân bố theo hai mùa rõ rệt. - Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 dl đến tháng 11 dl. Lượng mưa chiếm 90 % - 93 % tổng lượng mưa hàng năm. - Mùa khô từ tháng 12 dl đến tháng 04 dl năm sau. Lượng mưa chiếm từ 7 % - 10 % tổng lượng mưa toàn năm. Chế độ mưa ít biến động qua các năm. 1.1.4. Thủy văn Huyện Châu Thành sử dụng nguồn nước ngọt từ sông Hậu. Nguồn nước dồi dào, chất lượng nước khá tốt, ít bị nhiễm bẩn do chất thải công nghiệp và sinh hoạt, ít nhiễm phèn, không nhiễm mặn và hàm lượng phù sa khá cao vào mùa lũ. - Mùa kiệt: chế độ bán nhật triều của Biển Đông ảnh hưởng mạnh trên sông và truyền vào mạng lưới hệ thống kênh rạch nội đồng. - Biên độ triều trên sông đạt từ 1 - 1,2 m. - Mùa mưa, ảnh hưởng của triều Biển Đông yếu dần, đến tháng 9 dl, tháng 10 dl thì phụ thuộc hoàn toàn vào chế độ thủy văn sông Mê Kông. 4 - Mùa lũ: sông ngòi, kênh rạch trong vùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của lũ thượng nguồn, mực nước dâng cao hơn mực nước bình quân mùa kiệt từ 3 - 4 m. 1.2. Hiện trạng sản xuất nông nghiệp 1.2.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp Diện tích đất nông nghiệp toàn huyện là 30.863 ha. Tổng diện tích gieo trồng 57.293 ha, riêng diện tích lúa gieo trồng cả năm là 55.490 ha, diện tích màu lương thực là 415,3 ha, màu thực phẩm là 1.077 ha, cây công nghiệp ngắn ngày là 254,5 ha. Một số cây trồng có sản phẩm phụ làm thức ăn cho bò như bắp, lúa, đậu nành, đậu xanh…(Niên giám thống kê huyện Châu Thành năm 2006). 1.2.2. Hiện trạng sản xuất nông nghiệp Đa số diện tích sản xuất nông nghiệp trong khu vực chủ yếu là sản xuất hai vụ lúa/năm, diện tích và sản lượng các năm tương đối ổn định. Theo thống kê năm 2006 tình hình sản xuất nông nghiệp các khu vực trong vùng như sau: - Lúa: tổng diện tích gieo trồng là 55.490 ha, năng suất đạt 62,9 tấn.ha-1, sản lượng 349.134 tấn. - Màu lương thực: tổng diện tích gieo trồng là 415,3 ha, năng suất đạt 349,3 tấn.ha-1, sản lượng 1.664,9 tấn. - Màu thực phẩm: tổng diện tích gieo trồng là 1.076,6 ha, năng suất đạt 288,6 tấn.ha-1, sản lượng 13.569,8 tấn. - Màu công nghiệp: tổng diện tích gieo trồng là 254,5 ha, năng suất đạt 512,7 tấn.ha-1, sản lượng 9.488,5 tấn. - Cây hằng năm khác: tổng diện tích gieo trồng là 57,3 ha, năng suất đạt 45 tấn.ha-1, sản lượng 257 tấn. 5 Bảng 1: Tình hình sản xuất nông nghiệp năm 2006 STT Loại cây trồng Diện tích (ha) Năng suất (tấn.ha-1) Sản lượng (tấn) 1 2 3 4 5 Lúa Đông Xuân Hè thu Vụ 3 Màu lương thực Bắp Khoai lang Chất bột khác Màu thực phẩm Đậu Xanh Đậu khác Dưa hấu Rau dưa các loại Màu công nghiệp Đậu nành Mía Mè Đậu đỏ Đậu phộng Cây hằng năm khác 55.490 27.686 27.681 126,5 415,3 395,8 1,5 18 1.076,6 45 1,9 89,6 940,1 254,5 34,2 211,2 0,1 1 8,3 57,3 62,9 71,5 54,5 47 349,3 34,6 165 149,7 288,6 14,3 - 144,4 129,9 512,7 20,7 445 11 14 22 45 349.134 197.957 150.582,1 594,9 1.664,9 1.371,4 24 269,5 13.569,8 64,5 - 1.292,8 12.212,5 9.488,5 70,8 9.398,4 0,1 1 18,2 257 Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành năm 2006 2. Đặc điểm hình thái, sinh học và khả năng gây hại của rầy nâu 2.1. Vị trí phân loại, phân bố và ký chủ Rầy nâu hay còn gọi là “muội nâu” có tên khoa học là Nilaparvata lugens Stal, họ rầy Delphacidae, bộ cánh đều Homoptera. Nilaparvata lugens được Stal đặt tên lần đầu tiên vào năm 1854, từ đó còn có những tên khác nhau: Delphax lugens Stal (1854), Delphax parisatis Kirkaldy (1907), Nilaparvata oryzae Esaki và Mashimoti (1932),… (Nguyễn Xuân Hiền và ctv., 1979). 6 Rầy nâu xuất hiện ở tất cả các nước trồng lúa, nhất là các nước ở vùng nhiệt đới Á Châu như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Nhật Bản, Philippins, Indonesia, Malaysia, Việt Nam,… (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Ở Việt Nam, rầy nâu có mặt ở khắp các vùng trồng lúa nhất là các vùng lúa thâm canh. Chúng có mặt ở các vùng đồng bằng, ven biển, trung du cho đến các vùng núi cao như Điện Biên (Nguyễn Công Thuật, 1996). Kết quả điều tra tương đối toàn diện trong hai năm 1967 - 1968 ở miền Bắc khẳng định loài Nilaparvata có hai loài là Nilaparvata baberi không hại lúa và loài Nilaparvata lugens hại lúa, ngô và cỏ dại tại các tỉnh Hà Giang, Hà Tây, Thái Bình,... Kết quả bước đầu của đợt điều tra sâu hại ở miền Nam bắt đầu từ tháng 3 năm 1977 cho thấy đã gặp rầy nâu ở các tỉnh Đồng Nai, Tiền Giang, Hậu Giang trên các cây lúa và ngô (Nguyễn Xuân Hiền và ctv., 1979). Ngoài ký chủ chính là cây lúa, rầy nâu còn có các loại ký chủ tạm thời như lúa mì và nhiều loại cỏ dại như cỏ gấu, cỏ lồng vực (Hà Huy Niên và Nguyễn Thị Cát, 2004). 2.2. Đặc điểm hình thái và sinh học Trứng rầy nâu được đẻ thành từng hàng vào bên trong bẹ cây lúa, mỗi hàng có từ tám đến 30 cái. Trứng rầy giống hình hạt gạo, dài từ 0,3 - 0,4 mm, mới đẻ màu trắng trong, sắp nở màu vàng, thời gian ủ trứng từ 5 - 14 ngày. Ấu trùng rầy nâu hay còn gọi là rầy cám, khi mới nở rất nhỏ, màu trắng sữa, càng lớn rầy càng chuyển thành màu nâu nhạt. Ấu trùng rầy nâu có năm tuổi, phát triển trong thời gian từ 14 - 20 ngày. Rầy trưởng thành có cơ thể dài từ 3,6 - 4 mm, màu nâu vàng, đỉnh đầu nhô ra phía trước, cánh trong suốt, giữa cạnh sau của mỗi cánh trước có một đốm đen (Nguyễn Xuân Hiền và ctv., 1979). Thành trùng rầy nâu có hai dạng cánh: - Cánh dài che phủ cả thân và chủ yếu dùng để bay đi tìm thức ăn. - Cánh ngắn phủ đến đốt thứ sáu của thân mình, dạng cánh này chỉ phát sinh khi thức ăn đầy đủ, thời tiết thích hợp và khả năng đẻ trứng rất cao (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Sự xuất hiện và tỉ lệ hai loại rầy cánh dài và cánh ngắn có liên quan nhiều đến điều kiện môi trường, chủ yếu là thức ăn. Ở lúa đẻ nhánh và làm đòng tỉ lệ rầy cái nhiều hơn so với rầy đực và rầy cánh ngắn cũng nhiều hơn so với rầy cánh dài, 7 ngược lại ở lúa chín, tỉ lệ rầy đực và rầy cánh dài lại nhiều hơn (Nguyễn Xuân Hiền và ctv., 1979). Đời sống trung bình của thành trùng rầy nâu từ 10 - 20 ngày. Rầy cái cánh dài có thể đẻ khoảng 100 trứng và rầy cái cánh ngắn có thể đẻ từ 300 - 400 trứng (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Vòng đời rầy nâu từ 25 - 28 ngày, trong điều kiện nhiệt độ 250C - 300C. - Trứng: 6 - 7 ngày. - Ấu trùng: 12 - 13 ngày. - Trưởng thành: 10 - 12 ngày. Rầy nâu là loại chịu mật độ cao, thích sống quần tụ và khả năng năng sống quần tụ cao. Cả rầy non và trưởng thành đều không thích ánh sáng trực xạ nên rầy nâu sống gần gốc lúa, chích hút ngay thân lúa, chỉ khi râm mát rầy trưởng thành mới có ở trên mặt tán lá. Khi bị động có thể nhảy lên các bộ phận khác của cây hoặc rơi xuống nước. Rầy trưởng thành cánh dài thích ánh sáng đèn (Nguyễn Xuân Hiền và ctv., 1979). 2.3. Tập quán sinh sống và cách gây hại Rầy trưởng thành tập trung thành từng đám ở trên thân lúa phía khóm lúa để hút nhựa, khi bị khua động thì lẫn trốn bằng cách bò hoặc nhảy sang cây khác, nhảy xuống nước, hoặc bay xa đến chỗ khác. Ban ngày rầy nâu ít hoạt động trên lá lúa. Chiều tối bò lên phía trên thân lúa hoặc lá lúa (Nguyễn Đức Khiêm, 2005). Sau khi vũ hóa từ 3 - 5 ngày thành trùng cái bắt đầu đẻ trứng bằng cách rạch bẹ lá hoặc gân chính của phiến lá, gần cổ lá. Rầy cái tập trung đẻ trứng ở gốc cây lúa, cách mặt nước 10 - 15 cm. Cả thành trùng và ấu trùng rầy nâu đều thích sống dưới gốc cây lúa, chúng chích hút cây lúa bằng cách cho vòi chích hút vào mạch libe của mô hút nhựa. Trong khi chích hút rầy tiết nước bọt phá hủy mô cây, cản trở sự di chuyển nhựa nguyên và nước lên phần trên của cây lúa làm cây lúa bị héo khô, gây ra hiện tượng cháy rầy (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Rầy nâu thích tấn công cây lúa còn nhỏ, nhưng nếu mật số cao có thể gây hại mọi giai đoạn tăng trưởng của cây lúa: - Lúa đẻ nhánh: rầy chích hút nơi bẹ tạo thành những sọc màu nâu đậm dọc theo thân do nấm và vi khuẩn tấn công tiếp theo. 8 - Lúa từ làm đòng đến trổ: rầy thường tập trung chích hút ở cuống đòng non. Ngoài ảnh hưởng gây hại trực tiếp như trên, rầy nâu còn gây hại gián tiếp cho cây lúa như: - Mô cây tại các vết chích hút và đẻ trứng của rầy trên thân cây lúa bị hư do sự xâm nhập của một số loài nấm, vi khuẩn. - Phân rầy tiết ra có chất đường thu hút nấm đen tới đóng quanh gốc lúa, cản trở quang hợp, ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa. - Rầy nâu thường truyền các bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá cho cây lúa, làm lúa bị thất thu hoặc giảm năng suất. 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến mật số rầy Theo W.H. Reissig và ctv. (1985), thì những trận dịch rầy nâu thường kết hợp với sự phát triển hệ thống thủy lợi để đáp ứng cho việc canh tác lúa quanh năm (vì vậy rầy nâu liên tục phát triển), sự sử dụng phân bón thái quá đưa đến hậu quả là lượng rầy nâu tăng cao hơn và việc sử dụng các loại nông dược giết chết các loại thiên địch có ích. 2.4.1. Thức ăn Đây là yếu tố quan trọng, đóng vai trò quyết định đối với việc tăng hoặc giảm mật số rầy nâu trên đồng ruộng. Các giống lúa ngắn ngày, đáp ứng với phân đạm nhiều, lá xanh, thân mềm, năng suất cao nhưng không kháng rầy, được trồng nhiều là nguồn thức ăn ưa thích của rầy. Lúa cao sản được trồng liên tục 2 - 3 vụ trong năm nên trên đồng ruộng luôn có thức ăn thích hợp cho rầy nâu. Việc bón nhiều phân, nhất là phân đạm, làm cho cây lúa xanh tốt, nhiều dưỡng chất, thân mềm dễ thu hút rầy đến sinh sống và phát triển mật số. Hệ thống thủy lợi càng phát triển và hoàn chỉnh giúp cây lúa phát triển tốt, đây cũng là điều kiện thuận lợi cho rầy tới sinh sống và phát triển mật số (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). 2.4.2. Thời tiết Nhiệt độ thích hợp cho rầy nâu phát triển là từ 25 - 300C. Mưa lớn liên tục trong nhiều ngày sẽ làm rầy trưởng thành bị suy yếu, rầy cám bị rửa trôi, đồng thời rầy cũng dễ bị nấm bệnh tấn công, trong khi mưa nhỏ hoặc mưa nắng xen kẽ, trời âm u rất thích hợp cho rầy phát triển mật số. Ẩm độ thích hợp đối với rầy nâu là từ 80 - 86 %. Rầy nâu có khả năng di chuyển xa và nếu có gió rầy bốc lên theo gió và bị cuốn đi đến những nơi rất xa. Các báo cáo ở Nhật và Phillippines cho thấy rầy 9 nâu di chuyển rất xa, có thể đến hàng chục ngàn cây số (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). 3. Sự đa dạng của thiên địch trên ruộng lúa Số loài thiên địch phát hiện được của rầy nâu và rầy lưng trắng cho cả vùng Châu Á - Thái Bình Dương là 170 loài. Riêng rầy nâu, đến năm 1979, đã có 79 loài thiên địch ghi nhận được ở các nước trồng lúa thuộc Châu Á (Phạm Văn Lầm, 2003). K. L. Heong và ctv. (1991) ghi nhận có 46 loài ăn mồi thuộc nhóm bọ xít và nhện, 14 loài ong ký sinh các loài rầy gây hại trên ruộng lúa tại Philippines. Theo A. T. Barion và J. A. Litsinger (1995), có trên 342 loài nhện đã được phát hiện trên các ruộng lúa tại Philippines và các nước khác ở vùng Đông Nam Châu Á. Phạm Văn Lầm (2000) phát hiện 415 loài thiên địch trên lúa ở Việt Nam thuộc 14 bộ, 58 họ, 241 giống của các lớp côn trùng, nhện, nấm và tuyến trùng. Có khoảng 85 loài hiện diện thường xuyên trong ruộng lúa, chiếm 20,4 % trong tổng số loài đã phát hiện được. Trong đó đã phát hiện được 84 loài thiên địch của rầy nâu và rầy lưng trắng, 71 loài thiên địch trên sâu cuốn lá nhỏ và 51 loài thiên địch trên sâu cuốn lá lớn. Về diễn biến hệ sinh thái trong ruộng lúa, Lã Phạm Lân và ctv. (1995) ghi nhận: nhóm ăn mồi phát triển quần thể khá ổn định, nhóm ký sinh hiện diện tương đối thấp, có chiều biến thiên cùng chiều với sự xâm nhập của s._.âu hại. Bambaradeniya & Amerasinghe (2003) ghi nhận có khoảng 280 loài côn trùng hiện diện trên các ruộng lúa tại Sri Lanka. Theo Lã Phạm Lân và ctv. (1995) thì nhóm sâu hại chiếm 20 %, nhóm ăn mồi chiếm khoảng 20 - 30 %, và nhóm khác chiếm 2 - 50 % có vai trò chủ yếu là cầu dinh dưỡng. 3.1. Sự đa dạng và phong phú về côn trùng gây hại trên ruộng lúa Theo M. D. Pathak & Z. R. Khan (1994), có trên 800 loài côn trùng gây hại trên cây lúa, mặc dù phần lớn các loài này gây hại không đáng kể trên cây lúa. Số lượng loài côn trùng gây hại trên cây lúa biến động từ 20 đến 30 loài (W. H. Riessig và ctv., 1986). Tại Việt Nam, theo Nguyễn Văn Huỳnh (2004), trên cây lúa có rất nhiều loài côn trùng và nhện gây hại như: ruồi đục lá, sâu phao, sâu phao mới đục bẹ, bù lạch, muỗi hành, sâu keo, cào cào xanh, sâu cuốn lá nhỏ, các loài sâu đục thân: sâu màu vàng, sâu sọc nâu đầu đen, sâu sọc nâu đầu nâu, sâu màu hồng, bọ xít đen, bọ gai, sâu sừng, sâu cuốn lá lớn, rầy nâu, rầy lưng trắng, các loại rầy xanh, rầy zigzag, bọ xít hôi, nhện gié. 10 3.2. Sự đa dạng và phong phú về côn trùng thiên địch trên ruộng lúa K. L. Heong và ctv. (1991) ghi nhận có 46 loài ăn mồi thuộc nhóm bọ xít và nhện, 14 loài ong ký sinh các loài rầy gây hại trên ruộng lúa tại Philippines. Theo A. T. Barion và J. A. Litsinger (1995), có trên 342 loài nhện đã được phát hiện trên các ruộng lúa tại Philippines và các nước khác ờ vùng Đông Nam Châu Á. Phạm Văn Lầm (2000) phát hiện 415 loài thiên địch trên lúa ở Việt Nam thuộc 14 bộ, 58 họ, 241 giống của các lớp côn trùng, nhện, nấm và tuyến trùng. Về diễn biến hệ sinh thái trong ruộng lúa Lã Phạm Lân và ctv. (1995) ghi nhận: Nhóm ăn mồi phát triển quần thể khá ổn định, nhóm ký sinh hiện diện tương đối thấp, có chiều biến thiên cùng chiều với sự xâm nhập của sâu hại. Phạm Văn Lầm (2000) phát hiện 415 loài thiên địch trên lúa ở Việt Nam thuộc 14 bộ, 58 họ, 241 giống của các lớp côn trùng, nhện, nấm và tuyến trùng. Số lượng loài phát hiện thuộc các bộ Cánh màng, Cánh cứng, Cánh nửa cứng, nhện lớn lần lượt là: 165 (39,7 %), 95 (22,8 %), 70 (16,8 %) và 49 (11,8 %). Có khoảng 85 loài hiện diện thường xuyên trong ruộng lúa, chiếm 20,4 % trong tổng số loài đã phát hiện được. Theo Phạm Bình Quyền (2002), “thành phần thiên địch trong hệ sinh thái ruộng lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long khá phong phú, có 29 loài ký sinh, 186 loài côn trùng và nhện ăn thịt đã được thu thập”. Tổng số 273 loài nhện và côn trùng đã được giám định và phân loại thuộc 12 bộ, 93 loài nhện và côn trùng. Một số lớn các loài được tìm thấy phổ biến ở cỏ dại nhiều hơn là ruộng lúa. Ở những bờ cỏ quanh ruộng lúa là nơi cư trú thường xuyên của hai loài dế đen Metioche vitaticollis và dế vàng Anaxipha sp., hai loài này ăn trứng và sâu non của sâu cuốn lá và ấu trùng rầy nâu (Nguyễn Thị Lộc và ctv., 1997). Một số loài ký sinh thiên địch phổ biến trong cỏ dại quanh ruộng lúa như Tagosdes pusanus, Aragrus sp. (X. Yu và ctv., 1996). Dế Anaxipha longipennis và Metioche vitaticollis ăn trứng sâu cuốn lá. Nhóm ký sinh trứng: Altaptus spp., Gonatocerus spp., Erythmelus sp., Paracentrobia spp., Oligosiat sp. cư trú rất đông trong bờ cỏ hơn là trong ruộng lúa. Các loài Collembolans cư trú đều cả trên ruộng lúa và bờ cỏ dại; nhện họ Lycosidae, Therididae và Theridiosomatidae đều cư trú cả trong ruộng và bờ cỏ dại (Lã Phạm Lân và ctv., 1996). Vai trò của các nơi cư trú quanh ruộng lúa (các loài ăn mồi) liên hệ mật thiết với qui luật phòng 11 trừ sinh học tự nhiên ở mức độ cộng đồng các nhóm sinh vật trong hệ sinh thái ruộng lúa (K. L. Heong và ctv.,1994). 4. Các nhóm thiên địch trong ruộng lúa 4.1. Nhóm côn trùng ăn mồi Trong nhóm ăn mồi, côn trùng thiên địch giữ một vai trò rất quan trọng. Côn trùng thiên địch gần như hiện diện trong rất nhiều bộ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các loài quan trọng được tập trung vào các bộ Coleoptera (Cánh cứng) với ba họ chủ yếu Cocinellidae, Carabidae và Cicindellidae; bộ Diptera (Hai cánh) với hai họ Syrphidae và Asilidae, bộ Hemiptera (Cánh nửa cứng) có họ Reduviidae và bộ Orthoptera có họ Mantidae. Khác với nhóm ký sinh, sinh vật ăn mồi thường có khả năng tấn công trên nhiều con mồi khác nhau. Nhóm ăn mồi thường rất năng động trong việc tìm kiếm mồi, chúng có thể sử dụng miệng nhai gậm để cắn và nhai con mồi (như bọ rùa, bọ ngựa, chuồn chuồn, bọ chân chạy) hoặc sử dụng miệng chích hút dịch cơ thể của con mồi (bọ xít bắt mồi, ruồi ăn mồi) (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2002). - Bọ rùa (Coccinellidae) Bọ rùa thuộc họ Coccinellidae, bộ cánh cứng Coleoptera. Gồm những loài có kích thước nhỏ, bầu dục hoặc tròn, tùy loài mặt lưng của cơ thể thường vồng lên hình bán cầu, mặt bụng thì bằng, đa số có màu sắc tươi sáng và có nhiều đốm, hoa văn (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Hầu hết các loài bọ rùa thuộc nhóm có lợi, tấn công chủ yếu các loại rầy mềm, nhện gây hại, rầy phấn trắng, rệp sáp và các loại côn trùng có kích thước nhỏ và trứng của một số loại côn trùng khác. Cả thành trùng và ấu trùng đều ăn mồi. Thành trùng ăn cùng một loại thức ăn như ấu trùng, chỉ một thời gian ngắn sau khi vũ hóa, thành trùng đã có khả năng bắt cặp, số lượng trứng đẻ tùy thuộc vào lượng thức ăn được tiêu thụ (Kalshoven, 1981). Các loài bọ rùa ăn thịt phổ biến gồm có: Coccinella septempunctata (bọ rùa bảy chấm), Verania discolor (bọ rùa vàng), Harmonoia octomacullata (bọ rùa tám chấm), Micraspis sp. (bọ rùa đỏ), Micrapis crocea Rodolia cardinalis (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Theo S. C. Chiu (1979) thì các loài Harmonoia octomacullata, Micraspis sp., Micrapis crocea là những tác nhân gây chết tự nhiên quan trọng của các loài rầy hại lúa. 12 - Bọ xít mù xanh (Miridae) Bọ xít mù xanh có tên khoa học là Cyrtorhinus lividipennis thuộc họ Miridae, bộ Hemiptera. Kích thước cơ thể nhỏ hoặc trung bình (dài khoảng 3 - 4 mm), màu xanh và đen, râu đầu có bốn đốt, không có mắt đơn. Phần màng có 1 - 2 buồng cánh, còn mạch cánh khác đều tiêu biến. Cùng một loài thường có dạng cánh lớn, cánh ngắn và không có cánh. Bàn chân có ba đốt (Nguyễn Viết Tùng, 2006). Đây là một loài bắt mồi rất quan trọng của rầy nâu, rầy lưng trắng và các loài rầy xanh hại lúa. Bọ xít mù xanh chiếm ưu thế khá lớn trong tập hợp các loài bắt mồi ăn thịt của rầy nâu. Trưởng thành và sâu non có thể xuất hiện nhiều trên ruộng có rầy phá hại, cả trên ruộng nước lẫn ruộng khô. Trưởng thành cái đẻ trứng vào mô cây, sau 2 - 3 tuần sẽ trở thành trưởng thành và có thể sinh sản 10 - 20 con non. Mỗi thiên địch một ngày ăn hết 7 - 10 trứng hoặc 1 - 5 bọ rầy (B. M. Shepard và ctv., 1987). Trên đồng ruộng, quần thể của bọ xít mù xanh tăng dần từ đầu vụ lúa đến cuối vụ lúa. Mật độ quần thể của nó tăng theo sự gia tăng mật độ quần thể của rầy nâu. Như vậy, bọ xít mù xanh có phản ứng số lượng thuận đối với sự thay đổi mật độ quần thể của rầy nâu. Những thiên địch có phản ứng số lượng thuận đối với sự thay đổi mật độ quần thể của con mồi/vật chủ thì thường là những thiên địch rất quan trọng trong kìm hãm số lượng vật chủ/con mồi (Phạm Văn Lầm, 1995). - Bọ chân chạy (Carabidae) Cả thành trùng và ấu trùng đều ăn mồi, tấn công trên ấu trùng, nhộng, trứng và thành trùng của các loại côn trùng có thân mềm khác hiện diện trong đất. Có rất nhiều loại có kích thước khác nhau, từ rất nhỏ (khoảng 3 mm) đến rất lớn. Phần lớn có màu đen, bóng, mắt to, râu dài. Thành trùng sinh sống chủ yếu trên mặt đất, ban ngày thường ẩn nấp dưới lá, các chất dư thừa thực vật, hoạt động chủ yếu vào ban đêm. Thành trùng rất hoạt động, chạy rất nhanh khi bị khuấy động hoặc săn mồi (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2000). - Bọ xít bắt mồi (Reduviidae) Nhóm này gồm nhiều loại bọ xít có hình dạng rất dễ phân biệt với những loại bọ xít gây hại trên cây trồng do bọ xít bắt mồi có đầu hẹp dài, phần sau mắt kéo dài như một cái cổ, vòi chích hút có ba đốt, thường cong và mạnh. Bụng thường rộng ở phần giữa, rìa bụng lồi ra bên ngoài cánh. Thường có màu đỏ đen, rất dễ nhận diện. Nhóm này có nhiều khă năng tấn công trên nhiều loại côn trùng khác nhau như sâu ăn lá, rầy mềm, rầy bông, ấu trùng các loại bọ xít khác. 13 Nhóm này cũng hiện diện rất phổ biến trên các vùng đất trồng trọt, nhóm hoạt động ban ngày thường có màu sắc tươi sáng, và nhóm hoạt động ban đêm thường có màu sắc tối. Ấu trùng có thể sống rất lâu trong điều kiện thiếu thức ăn, chu kỳ phát triển thường dài, khả năng sinh sản cao. Tại Mã Lai, trên 500 loài đã được phát hiện trên bốn quần đảo Sarawak, Sumatra, Kalimamtan và Java (L. G. E. Kalshoven, 1981). - Bọ xít râu 5 đốt (Pentatomidae) Đa số có cơ thể rắn chắc, phiến mai ở đầu ngực phát triển, râu đầu có năm đốt. Cả thành trùng lẫn ấu trùng đều ăn mồi, ký chủ ưa thích là các loài sâu thuộc bộ cánh vẩy. Hầu hết các loại bọ xít râu năm đốt thuộc phân họ Asopinae đều thuộc nhóm ăn mồi, chuyên tấn công các loại côn trùng khác. Chúng rất thích những côn trùng có cơ thể mềm như ấu trùng bộ cánh vẩy và ấu trùng bộ cánh cứng. Trứng thường được đẻ thành từng đám, ấu trùng thường có màu sắc tươi sáng (L. G. E. Kalshoven, 1981). - Bọ đuôi kìm (Dermaptera) Đặc điểm của họ này đuôi có dạng hình cái kìm, dùng để tự vệ nhiều hơn là để bắt mồi. Giống Euborellia màu đen bóng, giữa các đốt bụng có các khoang trắng và có điểm trắng đầu đỉnh râu. Chúng thường sống trên các ruộng khô và làm tổ dưới đất ở những gốc cây trồng. Con cái chăm sóc trứng khi đẻ ra, mỗi con đẻ khoảng 200 - 350 trứng. Con trưởng thành sống từ 3 - 5 tháng và hoạt động chủ yếu vào ban đêm. Loài này chui vào các rãnh trên thân lúa do sâu đục thân đã đục để tìm sâu non. Đôi khi chúng trèo lên trên lá để tìm con mồi. Mỗi ngày một con bọ đuôi kìm có thể ăn từ 20 - 30 con mồi (B. M. Shepard và ctv., 1987). Đa số có cơ thể dẹp, màu nâu hoặc đen, hiện diện trên nhiều loại sinh cảnh khác nhau, tuy nhiên đa số thích sống trong điều kiện có độ ẩm cao hơn là trong điều kiện khô hạn. Tại Ấn Độ, đã có trên 130 loài được mô tả (L. G. E. Kalshoven, 1981). - Ruồi ăn rầy (Syrphidae) Gồm rất nhiều loài, chỉ riêng tại Bắc Mỹ đã ghi nhận được khoảng 950 loài (Donald. J. Borror và ctv., 1976). Ở Việt Nam theo kết quả điều tra sơ bộ bước đầu của Nguyễn Thị Thu Cúc, 2006 đã ghi nhận trên 40 loài khác nhau hiện diện tại 14 ĐBSCL. Họ ruồi Syrphidae thường có màu sắc tươi sáng chủ yếu gồm màu vàng và đen xen kẽ nhau ở phần bụng, một số loài khác hoàn toàn có màu nâu hoặc đen. Theo Nguyễn Thị Thu Cúc (2006), thành trùng sinh sống trên phấn hoa và thường thấy trên hoa của nhiều loài thực vật. Thành trùng đực và cái bị hấp dẫn bởi các loài hoa, tìm đến nhau để bắt cặp. Sau đó thành trùng cái đẻ trứng, riêng rẻ trên lá hoặc thân cây (Nguyễn Thị Thu Cúc và Phạm Hoàng Oanh, 2002). Con cái có thể đẻ hàng trăm trứng, sau 2 - 3 ngày trứng nở. Tập quán sinh sống của ấu trùng rất phức tạp. Rất nhiều loại thuộc nhóm ăn mồi, một số loài sống trong tổ của các loại côn trùng sống thành xã hội như kiến, mối hoặc ong, một số ít loài khác tấn công trên thực vật hoặc ăn chất hữu cơ mục nát hay ăn phân động vật (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2003). - Kiến (Formicidae) Nhóm này rất phổ biến, gồm nhiều loài, phân bố hầu như khắp nơi với số lượng nói chung rất cao, có tập quán và hành vi rất tiến hóa, sống thành một xã hội. Trong tổ kiến ghi nhận có kiến chúa, kiến đực và kiến thợ. Kiến chúa có kích thước lớn hơn các nhóm khác, thường có cánh và thường biến mất sau khi giao phối, kiến đực có cánh và thường nhỏ hơn kiến chúa, đời sống ngắn, thường chết sau khi bắt cặp, kiến đực thuộc nhóm bất thụ không cánh chiếm số lượng lớn cá thể trong tổ (Donald. J. Borror và ctv., 1981). Tập quán sinh hoạt rất thay đổi. Nhiều loài ăn mồi chuyên tấn công những động vật nhỏ như kiến lửa Solenopsis geminate Fabricius, kiến vàng Oecophylla smaragdina, kiến hôi Dolichodorus thoracicus,… Theo B. M. Shepard và ctv. (1987) thì loài kiến Solelopsis geminate thường hiện diện trên các bờ ruộng lúa hoặc những nơi khô ráo và đây là loài kiến có màu nâu đỏ, làm tổ ở những nơi khô hoặc bờ ruộng ướt. Chúng thường tìm mồi cách tổ vài mét, nhiều loài côn trùng và động vật nhỏ là con mồi của loài kiến này. Một số loài kiến khác sinh sống trên nấm, sáp phấn hoa, mật hoặc nhiều chất tương tự và một số loài khác tấn công trên thực vật. Do thích chất mật ngọt nên trong tự nhiên nhiều loài kiến thường sống cộng sinh với các loại côn trùng thuộc nhóm chích hút như rầy mềm, rệp sáp, rầy bông….Kiến xây những tổ bằng mùn chung quanh các quần thể rệp sáp nhằm bảo vệ loài này tránh khỏi sự tấn công của các loài thiên địch cũng như những điều kiện bất lợi của môi trường khô hạn,…, ngược lại kiến sẽ sử dụng mật ngọt do rệp 15 sáp tiết ra. Do bảo vệ các nhóm chích hút (gây hại cho cây trồng), nên nhiều loại kiến thường được xếp vào nhóm gây hại. 4.2. Nhóm côn trùng ký sinh * Ong ký sinh kén nhỏ (Braconidae) Nhóm này rất phổ biến trong tự nhiên, có kích thước từ rất nhỏ đến nhỏ. Có thể sống nội hoặc ngoại ký sinh. Đa số thuộc nhóm ký sinh cấp một, ký sinh chủ yếu trên ấu trùng bộ cánh vẩy, rầy mềm và ấu trùng của một số loài thuộc bộ Cánh cứng. Các loài Braconids thuộc giống nội ký sinh trên rầy mềm. Một số loại hóa nhộng bên trong cơ thể (đã chết) của rầy mềm, sau khi vũ hóa, ong sẽ cắt một lỗ tròn trên cơ thể ký chủ để chui ra. Một số loại khác lại hóa nhộng bên ngoài cơ thể, kéo kén làm nhộng bên dưới cơ thể (đã chết) của ký chủ. Giống như ong cự Ichneumonidae, ong Braconidae có râu dài và cong (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2002). Rất nhiều ong ký sinh họ Braconidae tấn công trên những sâu gây hại bên trong cây như sâu cuốn lá, sâu đục thân. Bộ phận đẻ trứng thường rất phát triển, đặc biệt ở các loại thuộc giống Tenobracon và Macrocentrus (L. G. E. Kalshoven, 1981). Giống Apanteles gồm những loài có kích thước rất nhỏ (1,5 - 3 mm), màu đen, ống đẻ trứng ngắn. Nội ký sinh trong cơ thể ấu trùng bộ cánh vẩy, nhiều loài thuộc giống Apanteles chỉ đẻ một trứng trong cơ thể ký chủ. Giai đoạn ấu trùng sống hoàn toàn trong cơ thể ký chủ, một số loài khác đẻ rất nhiều trứng trong một ký chủ, sau khi phát triển đầy đủ, ấu trùng chui ra ngoài cơ thể ký chủ, kéo kén hóa nhộng bên xác ký chủ (L. G. E. Kalshoven, 1981). * Ong cự (Ichneumonidae) Ong ký sinh họ Ichneumonidae thường có kích thước lớn, dài so với ong kén nhỏ (Braconidae), màu sắc cũng tươi sáng. Râu dài, cong, có từ 16 đến trên 16 đốt. Con cái thường có ống đẻ trứng nhọn, dài, thường đẻ trứng xuyên vào cành non. Đa số ký sinh trên ấu trùng bộ cánh vẩy, ruồi và cả côn trùng đục gỗ. Một số loài ký sinh bậc hai trên các loại ong và ruồi ký sinh (L. G. E. Kalshoven, 1981). Sau khi ăn phá bên trong cơ thể ký chủ, ong chui ra ngoài để làm nhộng trong một cái kén rất đặc biệt với vỏ kén có hoa văn và kén được treo gần vị trí sâu ký sinh với sợi tơ (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2002). 16 * Ong ký sinh (Chalcididae) Gồm nhiều loài có kích thước lớn (có thể dài đến 12 mm). Trong họ này, có giống Brachymeria hiện diện rất phổ biến, các loại ong thuộc giống Brachymeria thường có hình dạng giống như các loại ong mật nhỏ, tuy nhiên gân cánh thì hoàn toàn khác hẳn, gồm nhiều loài ký sinh bậc một và bậc hai trên ấu trùng bộ Cánh vẩy. Loài Brachymeria euploeae là loài ký sinh phổ biến tại vùng Đông Nam Châu Á, phổ ký chủ của loài này rất rộng. Tại Java, loài này được ghi nhận ký sinh trên sâu họ Hesperidae (Hidari, Erionota), Noctuidae (Plusia, Pygaela), Limacodidae (Parasa) và Pyralidae (L. G. E. Kalshoven, 1982). * Ong ký sinh (Encyrtidae) Nhóm này gồm rất nhiều loài khác nhau, giữ một vai trò rất quan trọng trong công tác phòng trừ sinh học. Thành trùng có kích thước rất nhỏ, râu đầu thường gấp khúc rất rõ ràng. Rất nhiều loài thuộc nhóm này sống nội ký sinh trên rệp dính và rầy bông, tuy nhiên nhiều loài khác trong nhóm này có khả năng tấn công cả ấu trùng của bộ Cánh vẩy và ấu trùng bộ Cánh cứng. Một số loại khác lại ký sinh trên trứng. Trong nhóm này cũng có một số loài thuộc nhóm ký sinh bậc hai (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2002). * Ong ký sinh trứng (Scelionidae) Có kích thước rất nhỏ, thường ký sinh trên trứng của nhiều loại côn trùng và nhện. Trong tự nhiên trứng của các loại bọ xít thường bị các loại ong ký sinh Trissolcus tấn công trái lại giống Telomus chủ yếu tấn công trên trứng bộ Cánh vẩy (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2002). * Ong Bethilidae Ong Bethilidae có kích thước nhỏ đến trung bình, thường có màu sắc đậm, ký sinh trên ấu trùng bộ Lepidoptera và Coleoptera, một vài loài tấn công bướm, một vài loài chích người (Donald. J. Borror và ctv., 1981). * Ruồi ký sinh (Tachinidae) Gồm rất nhiều loài chuyên tấn công trên các loại côn trùng khác. Ký sinh trên nhiều nhóm ký chủ khác nhau như ấu trùng bộ cánh vẩy, ấu trùng các loại ong ăn lá, bọ xít và cả bộ cánh cứng. Thành trùng ruồi ký sinh thường có kích thước trung bình, cơ thể phủ đầy lông, nhìn rất giống ruồi nhà. Rất nhiều loài đẻ trứng trên cơ thể ký chủ hoặc gần chỗ ký chủ sống. Ấu trùng mới nở sẽ chui vào cơ thể 17 ký chủ và sống nội ký sinh bên trong cơ thể của ký chủ. Sau khi hoàn thành giai đoạn ấu trùng, ruồi ký sinh thường hoá nhộng bên ngoài cơ thể của ký chủ (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2002). Thành trùng thường hiện diện dưới ánh sáng mặt trời, trên bông, loài lớn nhất dài khoảng 15 mm, loài nhỏ nhất dài khoảng 3 mm. Ruồi ký sinh thường ít chuyên biệt như các loài ong ký sinh (L. G. E. Kalshoven, 1981). 4.3. Nhóm vi sinh vật ký sinh Bao gồm các loại nấm, vi khuẩn, siêu vi khuẩn, nguyên sinh động vật và truyến trùng. Vi sinh vật gây bệnh có thể gây chết, làm giảm khả năng sinh sản hoặc làm chậm quá trình phát triển của ký chủ. Trong một số trường hợp như khi ẩm độ môi trường cao, nhiều loại nấm có thể gây bộc phát gây dịch bệnh trên các quần thể ký chủ từ đó làm hạn chế sự bộc phát của dịch hại. Vì những lý do đó mà nhiều nhóm vi sinh vật đã được xem như là thiên địch của côn trùng (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2002). 4.3.1. Virus gây bệnh côn trùng Virus gây bệnh côn trùng là một tác nhân sinh học có nhiều triển vọng trong phòng chống côn trùng gây hại cây trồng (Phạm Văn Lầm, 1995). Virus gây bệnh cho côn trùng chỉ có khả năng sống và sinh sản trong các mô, tế bào sống, không thể nuôi cấy trên môi trường dinh dưỡng nhân tạo. Các nhóm virus gây bệnh côn trùng được sử dụng chủ yếu: * Nhóm NPV (Nuclear Polyheadrossis Virus): thường xuất hiện ở sâu keo và sâu khoang. Sâu non bị bệnh do ăn lá bị nhiễm virus. Khi virus đã lan ra trong cơ thể sâu non, ký chủ trở nên chậm chạp và ngừng ăn. Sau đó sâu non chuyển thành màu trắng rồi màu đen, treo ở lá, chỉ còn các chân dính lá. Đến cuối kỷ 20 đã ghi nhận được bệnh do NPV ở côn trùng thuộc 7 bộ côn trùng như Coleoptera, Diptera, Hymenoptera, Lepidoptera, Neuroptera, Orthoptera và Hemiptera. (B. M. Shepard và ctv., 1987). * Nhóm GV (Grannulosis Virus): gây bệnh ở bướm đêm và bướm ngày. Sâu non ăn lá bị nhiễm bệnh sẽ bò chậm, sau đó bỏ ăn, chậm lớn, cơ thể phân đốt rõ ràng. Sâu bị bệnh chuyển sang màu vàng, hồng và đen mềm nhũng (B. M. Shepard và ctv., 1987). Đến cuối thế kỷ 20 mới ghi nhận được GV chỉ gây bệnh cho côn trùng bộ cánh vẩy Lepidoptera, chưa thấy côn trùng thuộc các bộ khác bị bệnh do GV (Nguyễn Văn Đĩnh và ctv., 2007). 18 * Nhóm CPV (Cytoplasmis Polyheadrossis Virus): gây bệnh ở các loài côn trùng thuộc các bộ như Coleoptera, Diptera, Hymenoptera, Lepidoptera, Neuroptera. Sâu bị bệnh thường có biểu hiện chậm lớn, đôi khi đầu to hơn so với cơ thể. Màu sắc cơ thể sâu bị bệnh trở nên có màu sáng giống như phấn. Sâu bị bệnh thường tạo khối u trên cơ thể (Nguyễn Văn Đĩnh và ctv., 2007). 4.3.2. Nấm ký sinh côn trùng Nấm ký sinh cũng là một nhân tố quan trọng trong việc khống chế tác hại của số lượng rầy trên ruộng lúa. Theo Phạm Thị Thùy (2004), đã thu thập và xác định được một số loài nấm ký sinh sâu hại cây trồng trong hệ thống sinh thái đồng ruộng ở nhiều vùng sinh thái nông nghiệp của nước ta như: nấm bạch cương Beauveria bassiana, nấm lục cương Metarhizum anisopliae, Metarhizum flavoviride, nấm bột Nomuraea sp., nấm tua Hisutella citriformic, Paeccilomyces sp.. Theo B. M. Shepard và ctv. (1987), một số loài nấm ký sinh phổ biến trên rầy nâu: * Nấm bạch cương Beauveria bassiana: nấm trắng gây bệnh cho rầy nâu, bọ xít, sâu cuốn lá,... Chúng có tất cả ở các môi trường trồng lúa. Cũng giống như các loài nấm khác, chúng đòi hỏi phải có ẩm độ cao, kéo dài để các bào tử lây lan nhờ gió và nước nẩy mầm. Nấm hủy hoại mô mềm và dịch cơ thể của ký chủ, và khi chuẩn bị hình thành bào tử phát tán, chúng phát triển ra bên ngoài cơ thể ký chủ. * Nấm lục cương Metarhizum anisopliae, Metarhizum flavoviride: gây hại bọ rầy, bọ xít, bọ rùa. Bào tử nấm rơi trên cơ thể côn trùng, khi ẩm độ cao kéo dài, bào tử nấm nẩy mầm và mọc vào trong cơ thể côn trùng. Nấm phát triển bên trong cơ thể ký chủ và ăn chất bổ của cơ thể ký chủ. Khi côn trùng chết, nấm xuất hiện lúc đầu là một lớp phấn trắng ở những chỗ nối giữa các đốt của cơ thể côn trùng. Khi hình thành bào tử chúng chuyển sang màu xanh lục đậm (Metarhizum anisopliae) hoặc nhạt (Metarhizum flavoviride). Bào tử xuất hiện từ ký chủ đã chết sẽ lây lan sang ký chủ mới qua gió hoặc nước. * Nấm tua Hisutella citriformic: gây bệnh trên tất cả các loại rầy. Sau khi nấm xâm nhập vào cơ thể ký chủ và tiêu thụ các mô bên trong, chúng mọc ra ngoài tạo thành những sợi dài, lúc đầu mùa trắng bẩn, rồi chuyển sang màu ghi. Những sợi nấm này sản xuất ra các bào tử phát tán gây bệnh. 19 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1 Phương tiện thí nghiệm 1.1 Thời gian và địa điểm thí nghiệm - Địa điểm khảo sát điều tra: Chọn ra 5 xã có diện tích trồng lúa nhiều nhất ở huyện bao gồm các xã như: xã Cần Đăng, xã Vĩnh Hanh, xã Vĩnh Bình, xã Vĩnh An, xã Vĩnh Nhuận, thuộc huyện Châu Thành - An Giang. - Thí nghiệm được thực hiện tại phòng thí nghiệm thuộc Bộ môn Khoa Học Cây Trồng - Khoa Nông Nghiệp - TNTN, Trường ĐHAG vụ Hè thu 2009 từ tháng 3/2009 đến tháng 9/2009. 1.2 Vật liệu thí nghiệm - Vợt có cán dài 100 cm, đường kính miệng vợt 50 cm, độ sâu vợt 70 cm để tiện cho việc thu thành trùng của nhóm ăn mồi (bọ xít mù xanh, bọ rùa, ruồi ăn rầy, bọ ba khoang, bọ xít), ong ký sinh. Hoặc bắt bằng tay để thu trứng, ấu trùng, nhộng và các vi sinh vật khác. - Tuýp nhựa để đựng mẫu, dán nhãn ghi ngày và địa điểm thu mẫu. - Hóa chất CCl4 để giết thành trùng khi cần thiết để giữ mẫu. - Các vật liệu cần thiết trong phòng thí nghiệm để định danh như kim mũi giáo, thước, viết lông, kính hiển vi quang học. - Máy ảnh để chụp lại hình thành trùng, nhộng, ấu trùng, trứng. - Sử dụng chậu sành có đường kính 30 x 40 cm để trồng cây lúa trong nhà lưới để nuôi rầy nâu làm nguồn thức ăn và thu hút các thiên địch trong tự nhiên. - Bông gòn, giấy thấm, nước cất: để khảo sát khả năng ăn mồi của thiên địch. - Hộp nhựa có kích thước 10 x 15 cm để đựng mẫu và khay 50 x 60 cm để đựng nước và giữ nước trong quá trình khảo sát quá trình ăn rầy và vòng đời của thiên địch. - Nhiệt kế đo nhiệt độ và ẩm độ để ghi nhận điều kiện phòng thí nghiệm trong quá trình làm thí nghiệm. - Phân bón Urê, N - P - K chăm sóc cho cây để nuôi rầy nâu làm nguồn thức ăn cho thiên địch. 20 2. Phương pháp thí nghiệm 2.1. Phương pháp điều tra ngoài đồng 2.1.1. Điều tra hiện trạng canh tác cây lúa - Phương pháp điều tra: Khi điều tra, trực tiếp trao đổi với chủ ruộng và hỏi theo “phiếu câu hỏi” đã được soạn sẵn (xem phụ lục). - Ở mỗi xã điều tra 10 phiếu, các ruộng điều tra có diện tích trồng lúa tối thiểu 1.000m2. - Nội dung điều tra: + Điều tra về kỹ thuật canh tác có liên quan đến công tác bảo vệ thực vật. + Sự hiểu biết của nông dân về dịch hại, thiên địch, các biện pháp quản lý dịch hại. 2.1.2. Quan sát trực tiếp ngoài ruộng - Phương pháp thí nghiệm: + Qua điều tra nông dân, sau đó ra quan sát trực tiếp ngoài ruộng, ở mỗi xã chọn ra 3 ruộng tiêu biểu (ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật như không sử dụng thuốc 40 NSS, phun thuốc theo phương pháp bốn đúng) để khảo sát về thành phần và mức độ phong phú của thiên địch. + Mỗi ruộng quan sát theo 5 điểm đường chéo góc, tại mỗi điểm quan sát 1 m2 (từ 2 - 5 vợt): để miệng vợt dọc theo thân lúa từ ngọn đến thân quay 1800. Côn trùng thu được ở mỗi điểm cho vào lọ giết côn trùng, sau đó cho vào bọc nylon đem về nhà đếm mật số. Trường hợp mật số thấp thì có thể đếm ngay ở ruộng mà không cần cho vào lọ giết côn trùng. + Thời gian lấy chỉ tiêu: định kỳ 5 - 7 ngày/đợt/ruộng. Bắt đầu từ 7 ngày sau khi sạ. - Mục đích: Thu thiên địch của rầy về phòng thí nghiệm để nuôi, khảo sát sự phát triển, thử khả năng ăn rầy và định danh. Điều tra bổ sung theo tuyến khảo sát 15 ruộng: Để có thể phát hiện đầy đủ hơn về thành phần thiên địch của rầy nâu, ngoài việc điều tra thường xuyên, còn tiến hành điều tra bổ sung ở các địa điểm khác nhau theo giai đoạn sinh trưởng của cây như giai đoạn cây lúa đẻ nhánh, làm đòng và trổ bông (Trần Huy Thọ, 1999). 21 2.2. Phương pháp nghiên cứu trong điều kiện lồng lưới - Tiến hành trồng các cây lúa trong lồng lưới với điều kiện thuận lợi nhất để cây phát triển mạnh, ra nhiều lá, để thu hút và nuôi rầy nâu phát triển. - Cách bắt rầy nâu: dùng khay nhựa hứng dưới gốc lúa, lấy tay đập nhẹ vào sao cho rầy nâu rớt xuống, đem vào phòng thí nghiệm đếm số lượng rầy nâu cho vào từng nghiệm thức. - Chỉ tiêu theo dõi: ghi nhận số rầy nâu bị ăn ở các nghiệm thức ở các thời điểm 24, 48, 72 giờ sau khi thả thiên địch. - Mục đích: + Thu hút thiên địch của rầy nâu trong điều kiện tự nhiên. + Tạo nguồn thức ăn để thử khả năng ăn mồi của một số loài thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm. 2.3. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 2.3.1. Khảo sát một số đặc điểm hình thái, sinh học của một số loài thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm 2.3.1.1. Đặc điểm hình thái của một số loài côn trùng thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm. Các chỉ tiêu theo dõi: ♦ Ấu trùng: ghi nhận ngày lột xác, hình dạng, màu sắc, kích thước cơ thể. ♦ Nhộng: đo kích thước, màu sắc, thời gian làm nhộng, thời gian vũ hoá. ♦ Trứng: quan sát hình dạng, màu sắc, kích thước, vị trí đẻ trên cây, thời gian nở trứng. ♦ Thành trùng: kích thước thân, màu sắc, tập quán đẻ trứng. 2.3.1.2. Đặc điểm sinh học của một số loài côn trùng thiên địch trong điều kiện phòng thí nghiệm ♦ Vòng đời - Phương pháp: tiến hành thu mẫu trên các ruộng đã điều tra. Sau đó cho từng cặp thành trùng đực và cái của cùng một loài vào trong hộp nhựa đã lót giấy thấm và thức ăn là rầy nâu hoặc mật ong 10 % và bông cúc dại, quỳ dại, vạn thọ (nhằm cung cấp thức ăn là phấn hoa). Sau khi thành trùng bắt cặp và đẻ trứng, thì tách lấy 22 trứng chuyển sang hộp nhựa khác để quan sát, theo dõi từ giai đoạn trứng đến giai đoạn thành trùng của từng loài. Với mỗi loài quan sát 10 - 30 cặp thành trùng. - Chỉ tiêu theo dõi: Ghi nhận được các giai đoạn phát triển (trứng, ấu trùng, nhộng và thành trùng) của các loài thiên địch phổ biến do thí nghiệm tìm ra. ♦ Khả năng đẻ trứng và tuổi thọ thành trùng Khả năng đẻ trứng - Ấu trùng tuổi cuối được nuôi trong hộp nhựa đã được lót giấy thấm và cho thức ăn là rầy nâu cho đến khi thành trùng (đồng nhất về tuổi). - Thành trùng tách ra từng cặp đực/cái cho vào hộp nhựa được lót giấy thấm với thức ăn là rầy nâu hoặc mật ong 10% và bông cúc dại, quỳ dại, vạn thọ. Để cho thành trùng bắt cặp và đẻ trứng. - Đếm số trứng. * Chỉ tiêu ghi nhận: Ghi nhận được khả năng đẻ trứng (số lượng trứng được đẻ trong mỗi lần đẻ → tổng số trứng được đẻ) trong suốt chu kỳ sống. Tuổi thọ thành trùng - Ấu trùng tuổi cuối được nuôi trong hộp nhựa đã được lót giấy thấm và cho thức ăn là rầy nâu cho đến khi thành thành trùng (đồng nhất về tuổi). - Thành trùng: Tách riêng thành trùng đực và cái cho vào hộp nhựa đã được lót giấy thấm với thức ăn là rầy nâu hoặc (và) mật ong 10% và bông cúc dại, quỳ dại, vạn thọ. * Chỉ tiêu ghi nhận: ghi nhận được tuổi thọ của thành trùng của các loài thiên địch phổ biến do thí nghiệm tìm ra. ♦ Tỷ lệ trứng nở Quan sát 10-30 cặp thành trùng, đếm số lượng trứng nở trên tổng số lượng trứng một thành trùng cái đẻ → tính tỷ lệ trứng nở. Số lượng trứng nở %Trứng nở = Số lượng trứng một thành trùng cái đẻ x 100 23 2.3.1.3. Khảo sát khả năng ăn mồi của một số loài thiên địch phổ biến Thí nghiệm 1: Khảo sát khả năng ăn mồi (rầy nâu: tuổi 2 và tuổi 3) của Bọ rùa thiên địch Micraspis discolor Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD), gồm thức ăn là rầy nâu (tuổi 2 và tuổi 3). Khả năng ăn mồi được quan sát trên 3 giai đoạn phát triển của bọ rùa (T3, T4 và thành trùng, đực và cái). Thí nghiệm được thực hiện với 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức có 5 lần lập lại. Tất cả nghiệm thức đều có đối chứng không thả bọ rùa nhằm kiểm tra số rầy bị ăn trong thời điểm theo dõi. Các nghiệm thức bao gồm: Nghiệm thức 1: Rầy nâu + 1 bọ rùa trưởng thành cái. Nghiệm thức 2: Rầy nâu + 1 bọ rùa trưởng thành đực. Nghiệm thức 3: Rầy nâu + Ấu trùng tuổi 4 Nghiệm thức 4: Rầy nâu + Ấu trùng tuổi 3 NT3 NT3 NT2 NT3 NT3 NT1 NT3 NT1 NT4 NT2 NT2 NT4 NT1 NT1 NT4 NT2 NT4 NT4 NT1 NT2 Hình 1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm Bọ rùa khảo sát trong phòng thí nghiệm gồm những loại bắt ngoài đồng và nuôi trong phòng thí nghiệm. Mồi được lấy trực tiếp ngoài đồng trên các ruộng lúa hoặc nuôi trong các lồng lưới. Thí nghiệm được tiến hành trên các hộp, nhựa tròn (đường kính nắp: 8 cm, cao: 4 cm, đường kính mặt đáy: 6 cm). Bọ rùa cho nhịn đói 24 giờ trước khi tiến hành thí nghiệm. Chỉ tiêu ghi nhận: Lượng mồi tiêu thụ trong một thời gian sau 24, 48 và 72 giờ sau khi thả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7692.pdf