Khảo sát nuôi cá lóc trong vèo

LỜI CẢM TẠ ---♣--- Xin gởi lời cảm tạ và biết ơn sâu sắc đến:  Quí thầy cô Khoa Nông Nghiệp & Tài Nguyên Thiên Nhiên, Trường Đại Học An Giang đã truyền đạt kiến thức cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập.  Cán bộ hướng dẫn: Cao Quốc Nam và Trương Ngọc Thúy đã tận tình hướng dẫn chúng tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.  Tập thể cán bộ và bà con nông dân xã Tân Trung, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thu thập số liệu trong quá trình thực

pdf70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Khảo sát nuôi cá lóc trong vèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện đề tài.  Cùng các bạn sinh viên lớp ĐH2PN2 đã không ngừng giúp đỡ và động viên chúng tôi trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học An Giang. Chân thành cảm tạ. Long Xuyên, ngày 23 tháng 05 năm 2004 Tô Phước Thủ TÓM LƯỢC Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại xã Tân Trung huyện Phú Tân tỉnh An Giang từ tháng 9 năm 2004 đến tháng 4 năm 2005 nhằm tổng kết và theo dõi mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ. Kết quả điều tra cho thấy nguồn lực lao động trong nông hộ tương đối ít, số người trên nông hộ trung bình nhỏ hơn hoặc bằng 5, chiếm 86,7%, có độ tuổi lao động chính (18-60 tuổi) chiếm 76% và có trình độ học vấn đa phần là thấp (55% là cấp I và 38% là cấp II). Nguồn đất đai của các hộ tương đối ít, 43,33% nông hộ có diện tích đất canh tác lúa, còn lại 56,67% nông hộ chỉ có diện tích đất vừa đủ để ở và nuôi cá. Diện tích ao và thể tích vèo để nuôi cá lóc trung bình là 884 m2/hộ và 89,41m3/hộ, tương ứng. Nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo được tiếp nhận chủ yếu từ các chương trình truyền hình (26%). Số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc trong vèo của người dân trung bình là 5,34 năm. Nguồn vốn để phục vụ cho việc nuôi cá lóc trong vèo đa phần là kết hợp giữa vốn nhà và vốn vay tư nhân (87%)với lãi suất cao. Lý do chủ yếu mà nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ khá đa dạng, trong đó tạo thêm thu nhập chiếm 33%, nguồn nước tốt hơn chiếm 30%, dễ tìm cá mồi chiếm 17% . Giá thành sản xuất ra 1,0 kg cá lóc thịt tương đối cao (18.420 đồng/kg) do hệ số tiêu tốn thức ăn khá cao (4,71) trong khi đó giá bán của cá lóc thịt là 19.370 đồng/kg. Lợi nhuận mà nông dân thu được sau mỗi vụ nuôi là 29.190 đồng/ m³ vèo (tương đương 2,3 triệu /hộ) và tỷ lời/vốn là 0,04, và nếu không kể công lao động gia đình thì thu nhập trung bình/nông hộ đạt 4,57 triệu/hộ (tỷ lệ lời/vốn là 0,09). Sau 2-12 năm nuôi cá lóc trong vèo, 100% nông dân trong cuộc điều tra cho rằng đời sống của họ thay đổi theo chiều hướng tăng do có lợi nhuận cao và thu nhập thường xuyên. Có 3 yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của mô hình là vốn để mua thức ăn cho cá, chiếm 79%, kế đến là thị trường đầu ra, chiếm 17% và còn lại là chất lượng thức ăn, chiếm 4%. i MỤC LỤC -----оOо----- Nội dung Trang LỜI CẢM TẠ.................................................................................................................... i TÓM LƯỢC..................................................................................................................... ii MỤC LỤC.......................................................................................................................iii DANH SÁCH BẢNG.....................................................................................................vii Bảng số.............................................................................................................. vii Tựa bảng............................................................................................................ vii PHỤ CHƯƠNG……………………………………………... ……………....pc-1.....viii DANH SÁCH HÌNH...................................................................................................... ix Chương 1 GIỚI THIỆU.................................................................................................1 Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU............................................................................ 2 2.1. Sự phân loại và phân bố của cá lóc.................................................................... 2 2.1.1. Phân loại........................................................................................................ 2 2.1.2. Sự phân bố của cá lóc................................................................................... 2 2.2. Một số đặc điểm của cá lóc..................................................................................2 2.2.1. Đặc điểm hình thái.........................................................................................2 2.2.2. Đặc điểm dinh dưỡng.....................................................................................3 2.2.3. Đặc điểm sinh trưởng.....................................................................................3 Giai đoạn nhỏ, cá lóc chủ yếu tăng trưởng về chiều dài, cá càng lớn thì sự tăng trọng ngày càng nhanh. Trong tự nhiên, sức lớn của cá không đều, phụ thuộc vào điều kiện thức ăn sẵn có trong thuỷ vực. Trong điều kiện nuôi có thức ăn và chăm sóc tốt cá có thể lớn từ 0,5 đến 0,8 kg/năm, đạt tỷ lệ sống cao và ổn định (Phạm Văn Khánh, 2000). Sau 1 năm tuổi, thân cá lóc dài 38,5-40 cm, nặng 625-1.395 g, cá 3 tuổi thân dài 45-59 cm, nặng 1.467-2.031 g , con đực và con cái chênh lệch lớn về trọng lượng (Minh Dung, 2004). .................................................................................. 3 2.2.4. Đặc điểm sinh sản.......................................................................................... 3 2.3. Phương pháp nuôi cá lóc thịt.............................................................................. 4 2.3.1. Nuôi trong ao đất........................................................................................... 4 2.3.2. Nuôi cá lóc kết hợp trong ruộng lúa.............................................................. 4 Diện tích vuông ruộng nuôi cá lóc từ 0,5-3 ha, phải có mương và bờ bao xung quanh. Chiều dài mương bằng chiều dài bờ bao, rộng 1,5-2m, sâu 0,8-1m. Phải có hệ thống cống bọng cấp thoát nước khi cần thiết. Mật độ thả nuôi là 0,5-1 con/m2 và thời gian nuôi khoảng 6-7 tháng. Trong mô hình này để chủ động được nguồn thức ăn cho cá lóc người ta thường thả nuôi kết hợp một số loài cá khác như: cá mè vinh để nâng cao năng suất của ruộng nuôi. Việc cho cá ăn có thể là nguồn cá tạp tự nhiên trong mùa lũ, hay có thể bổ sung thêm thức ăn chế biến (Dương Tấn Lộc, 2001; Đại học An Giang, 2003). .................................................................................... 4 i 2.3.2. Nuôi cá lóc ở rừng......................................................................................... 5 Hai lâm trường Mùa Xuân, Phương Ninh ở Cần Thơ trước đây có khoảng 1000 đìa nhử cá tự nhiên, nay đưa diện tích rừng vào nuôi cá gần 4000 ha. Rừng U Minh, khu Tràm Chim, các rừng nước ngọt, sông cụt, nước kém lưu thông là nơi nuôi và dưỡng cá lóc tự nhiên. Nơi đây có điều kiện sống thích hợp cho cá lóc, thức ăn tự nhiên rất phong phú có ở tại chỗ. Có thể nuôi cá 2-3 năm, cá đạt vài kg mỗi con (Dương Tấn Lộc, 2001)...................................................................................................5 2.3.4. Nuôi cá lóc trong vèo (mùng lưới).................................................................6 Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................................8 3.1. Vật liệu.................................................................................................................. 8 3.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 8 3.2.1. Thể thức thống kê.......................................................................................... 8 Phỏng vấn điều tra nông hộ và chọn mẫu điều tra theo chủ đích............................ 8 3.2.2 Phương pháp tiến hành................................................................................... 8 3.2.2.1. Theo dõi mô hình nuôi cá lóc trong vèo................................................. 8 3.2.2.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo................................................. 8 3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi.............................................................................................9 3.2.3.1. Theo dõi 3 nông dân đang nuôi cá lóc trong vèo với những chỉ tiêu cụ thể như sau............................................................................................................ 9 3.2.3.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo ............................................. 10 3.3. Phân tích thống kê:........................................................................................... 10 Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN......................................................................11 4.2. Thông tin nông hộ.............................................................................................. 12 4.2.1. Nguồn nhân lực............................................................................................12 4.2.2. Đất đai..........................................................................................................13 Khi phỏng vấn về nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo, thì nông dân ở vùng nghiên cứu cho rằng nguồn thông tin trên thường xuyên được tiếp cận chủ yếu từ các nguồn: chương trình truyền hình (tivi), chiếm tỷ lệ 26%, tiếp theo là đài phát thanh (radio) chiếm tỷ lệ 20% và giữa các nông dân nuôi cá lóc (18%). Ngoài ra, họ còn tiếp nhận những thông tin từ nhiều nguồn khác nữa như: sách báo, bà con thân thuộc, cán bộ kỹ thuật viên của huyện hoặc xã (Bảng 4.3). Điều này cho thấy người dân tại địa bàn nghiên cứu rất quan tâm đến những tiến bộ về kỹ thuật nuôi cá và thông tin phục vụ cho nuôi cá lóc rất đa dạng. Tuy nhiên các nguồn thông tin trên còn mang tính chấp giá, bị động và chưa được sắp xếp, hệ thống hóa hoàn chỉnh. Để phục vụ tốt hơn, thiết nghĩ cần phải có một hình thức tiếp nhận và chuyển giao thông tin giữa người nuôi cá và cơ quan khoa học cũng như thị trường,... dễ dàng hơn như các mô hình câu lạc bộ khuyến nông, hợp tác xã kiểu mới,.................................................................................................................................14 4.3. Hoạt động nuôi cá trong mùa lũ....................................................................... 15 4.3.1. Mùa vụ nuôi cá lóc trong vèo...................................................................... 15 Đa phần những hộ được phỏng vấn thì nuôi cá lóc trong vèo quanh năm. Tận dụng ao sẵn có, họ thường nuôi 3 vụ cá lóc trên một năm: (1) vụ mùa mưa (từ tháng 4 đến i tháng 8 dl), (2) vụ mùa lũ (từ tháng 7-8 đến tháng 11-12 dl) và (3) vụ mùa nghịch (từ tháng 12 đến tháng 4 dl). Trong năm 2004, kết quả điều tra cho thấy phần đông người dân đã chọn thời điểm thả cá sớm vào đầu tháng 6, chiếm tỷ lệ 86,67% (Bảng 4) và cá được thu hoạch sớm vào đầu tháng 10, chiếm tỷ lệ 76,67% do giá cá thịt cao. Các hộ còn lại (23,33%) thì neo lại chờ giá cao hơn. Điều này cũng tương tự như nhận định của Dương Tấn Lộc (2001) theo ông, ở ĐBSCL mùa lũ tràn về từ tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, do đó người dân nuôi cá lóc cần có nguồn giống sớm, bắt đầu nuôi từ tháng 5 đến tháng 8 cá được 100g/con. Giai đoạn này cá ăn mạnh dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn và nước lũ lớn thì hiệu quả nuôi sẽ cao.................................................................................................................................. 15 4.3.2. Lý do nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ........ 16 4.3.4. Kỹ thuật nuôi............................................................................................... 17 4.3.4.1. Phương pháp cải tạo ao.........................................................................17 4.3.4.2. Phương pháp chuẩn bị vèo nuôi ..........................................................19 4.3.4.3. Cách đặt vèo và phương pháp cấp nước............................................... 20 4.3.4.4. Nguồn cá giống, mật độ thả và kích cỡ cá thả nuôi.............................21 4.3.4.5. Nguồn thức ăn .....................................................................................22 Do nguồn thức ăn không ổn định nên muốn dự trữ thức ăn lại cho cá lóc thì 56,67% số người nuôi phải mua thức ăn cho cá ở chợ huyện (Bảng 9). Người nuôi cho rằng khi mua cá mồi ở huyện thì giá tương đối rẻ hơn so với ở xã. Do thiếu phương tiện vận chuyển và dự trữ, 40% nông dân còn lại phải mua thức ăn ở phạm vi xã (chủ yếu là cua, ốc và cá tạp mà người dân trong xã khai thác được và bán lại cho những người nuôi cá lóc ở địa phương). Nhưng lượng thức ăn này giá cả không ổn định và bấp bênh nên chủ yếu là người dân phải mua cá mồi ở huyện nơi đây tập trung nhiều trại vựa cá mồi lớn và ổn định. Nếu so sánh với xã Vĩnh Hội Đông của huyện An Phú thì ngoài việc mua cá mồi ở phạm vi xã hoặc huyện thì người dân còn mua cá ở phạm vi tỉnh nhiều hơn, do phải đi mua cá mồi xa nên làm tăng thêm chi phí vận hành của người nuôi, thậm chí do điều kiện tự nhiên giáp với nước bạn Campuchia nên một số nông dân ở đây còn sang Campuchia để mua cá mồi. Qua điều này cho thấy nguồn cung cấp thức ăn ở xã Tân Trung tương đối thuận lợi hơn so với nơi khác, người dân không phải đi xa để mua cá mồi, góp phần giảm chi phí vận hành và tăng lợi nhuận sau mỗi vụ nuôi cá lóc trong vèo. ................................. 23 4.3.4.6. Phương pháp cho cá lóc ăn của người dân.......................................... 23 4.3.4.8. Quản lý dịch bệnh ................................................................................ 25 4.3.5. Các chỉ tiêu năng suất và sinh khối lúc thu hoạch của cá lóc trong mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004................................................................ 26 4.3.6. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004 ................................................................................................................................ 29 4.4. Đời sống của nông dân sau khi áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo.......33 4.5. Các yếu tố quyết định thành công của mô hình nuôi cá lóc trong vèo màu lũ năm 2004....................................................................................................................35 4.6. Những khó khăn trở ngại của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004....................................................................................................................36 Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ......................................................................... 40 v 5.1. Kết luận...............................................................................................................40 5.2. Đề nghị................................................................................................................ 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................43 PHỤ CHƯƠNG............................................................................................................. 46 v DANH SÁCH BẢNG Bảng số Tựa bảng Trang Phụ chương 1: Phiếu phỏng vấn nông hộ thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004. pc-1....................................................................................... viii Thành viên trong gia đình năm 2004 pc-1.................................................................. viii Thời vụ nuôi cá lóc pc-2...............................................................................................viii Vụ cá lóc trong mùa lũ pc-3.........................................................................................viii Nguồn cá giống. pc-4................................................................................................... viii Thức ăn pc-4.................................................................................................................viii Chi phí đầu tư pc-5.......................................................................................................viii Tỉ lệ sống, năng suất pc-6............................................................................................ viii Sinh khối lúc thu hoạch và thu nhập pc-6.................................................................. viii Tín dụng pc-8................................................................................................................viii Thu nhập từ các loại cây trồng, vật nuôi ………………………………..pc-9........ viii Thu nhập khác trong nông hộ pc-11........................................................................... viii Nguồn thông tin cho hoạt động nuôi cá lóc pc-12........................................................ix Yếu tố quyết định thành công của mô hình. pc-13....................................................... ix Phụ chương 2: Sổ theo dõi……………………………………………….....................ix pc-14................................................................................................................................ ix Bảng 1: Tuổi, trình độ học vấn của chủ hộ và các thành viên trong gia đình tại xã nghiên cứu..................................................................................................................... 13 Bảng 2: Diện tích đất, thể tích vèo nuôi, và số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc trong vèo của nông dân ở xã Tân Trung................................................................................14 Bảng 3: Nguồn thông tin cho hoạt động nuôi cá lóc...................................................15 Bảng 4: Thời gian thả, thời gian thu và những lý do thúc đẩy người dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ...................................................................... 15 Bảng 5: Nguồn vốn để thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong vèo của người dân ở xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang trong mùa lũ năm 2004........................................... 17 Bảng 6: Phương pháp cải tạo ao của nông dân nuôi cá lóc trong vèo tại xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang trong mùa lũ năm 2004................................................... 19 v Bảng 7: Cách thức chuẩn bị vèo trước mỗi vụ nuôi của nông dân tại địa bàn nghiên cứu..................................................................................................................................20 Bảng 9: Nguồn cá giống, loại thức ăn và nguồn thức ăn mà người dân ở xã Tân Trung sử dụng để thực hiện mô hình trong mùa lũ năm 2004...................................22 Bảng 10: Phương pháp quản lý chất lượng nước ao.................................................. 25 Bảng 11: Phương pháp quản lý sức khỏe cá lóc nuôi của người dân tại địa bàn nghiên cứu ................................................................................................................... 26 Bảng 12: Các chỉ tiêu năng suất, sinh khối lúc thu hoạch, hệ số tiêu tốn thức ăn, giá bán và giá thành sản xuất của cá lóc trong mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004............................................................................................................................28 Bảng 13: Hiệu quả kinh tế nuôi cá lóc trong vèo mùa lũ 2004 ..................................29 Bảng 14: So sánh hiệu quả kinh tế giữa hai nhóm hộ có lãi và thua lỗ tại địa bàn nghiên cứu trong mùa lũ năm 2004............................................................................. 32 Bảng 15: Sự thay đổi đời sống của nông dân và yếu tố quyết định sự thành công khi áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo........................................................................ 34 Bảng 16: Những khó khăn trở ngại của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004 tại xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang........................................................38 PHỤ CHƯƠNG……………………………………………...……………....pc-1 Phụ chương 1: Phiếu phỏng vấn nông hộ thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004................................................................. pc-1 Thành viên trong gia đình năm 2004................................................................pc-1 Thời vụ nuôi cá lóc........................................................................................... pc-2 Vụ cá lóc trong mùa lũ......................................................................................pc-3 Nguồn cá giống.................................................................................................pc-4 Thức ăn............................................................................................................. pc-4 Chi phí đầu tư................................................................................................... pc-5 Tỉ lệ sống, năng suất......................................................................................... pc-6 Sinh khối lúc thu hoạch và thu nhập.................................................................pc-6 Tín dụng............................................................................................................pc-8 Thu nhập từ các loại cây trồng, vật nuôi ....... ………………………………..pc-9 Thu nhập khác trong nông hộ......................................................................... pc-11 Nguồn thông tin cho hoạt động nuôi cá lóc....................................................pc-12 Yếu tố quyết định thành công của mô hình.................................................... pc-13 v Phụ chương 2: Sổ theo dõi……………………………………………… pc-14 DANH SÁCH HÌNH Hình số Tựa hình Trang Hình 4.1: Vị trí địa lý của huyện Phú Tân, tỉnh An Giang......................................... 12 Hình 4.2. Mật độ và kích cỡ cá thả nuôi của người dân............................................. 22 i Chương 1 GIỚI THIỆU An Giang là một trong những tỉnh đầu nguồn của Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) hằng năm lượng nước lũ tràn về đây rất sớm và trùng với thời gian thu hoạch xong lúa hè thu. Trong các tháng tiếp theo của mùa lũ, thu nhập và đời sống của người dân không cao và tương đối bấp bênh do chủ yếu dựa vào nghề đánh bắt thủy sản như giăng câu, giăng lưới, bắt ốc... (Trung Liêm, 2004). Trước tình hình đó, Phòng Nông Nghiệp và Xây Dựng huyện Phú Tân, tỉnh An Giang đã khuyến khích phát triển nhiều mô hình sản xuất trong mùa lũ nhằm tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi và diện tích mặt nước để nâng cao thu nhập cho người dân, trong đó có mô hình trồng ấu, rau nhút và nuôi trồng thủy sản (Phòng Xây dựng và Phát triển Nông thôn huyện Phú Tân - tỉnh An Giang, 2003). Tân Trung là một xã có diện tích tự nhiên khoảng 790 ha gồm 2406 hộ, hoạt động chính của người dân trong xã là sản xuất nông nghiệp và đa số có mức sống trung bình. Trong mùa lũ, nuôi cá lóc trong vèo là mô hình sản xuất điển hình của xã từ năm 2002 đến nay và toàn xã có đến 105 hộ nuôi (UBND xã Tân Trung, 2004). Đây là một hình thức nuôi cá khá đơn giản và tận dụng tốt nguồn thức ăn tự nhiên rẻ tiền như: cá tạp, cua, ốc bươu vàng…nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao (Tuấn Khanh, 2004). Tuy nhiên ngoài những thành công trước mắt, mô hình này vẫn còn nhiều hạn chế khi mà mức độ thâm canh ngày càng cao, giá cả thị trường bấp bênh, kỹ thuật nuôi chưa thích hợp, ... (Phòng Xây dựng và Phát triển Nông thôn huyện Phú Tân-tỉnh An Giang, 2003). Do đó để khảo sát hiện trạng nuôi cá lóc trong vèo, tìm hiểu những khó khăn trở ngại của nông dân và đánh giá được hiệu quả kinh tế của hình thức nuôi này, chúng tôi đã tiến hành tổng kết và theo dõi mô hình này trong mùa nước lũ năm 2004 nhằm giúp người dân có thể duy trì và thực hiện mô hình này một cách có hiệu quả hơn mỗi khi lũ về. 1 Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1. Sự phân loại và phân bố của cá lóc 2.1.1. Phân loại Cá lóc thuộc Bộ cá Vược: Perciformes Họ: Ophicephalidae Giống: Ophicephalus Bloch Loài: Ophicephalus striatus Bloch, 1972 2.1.2. Sự phân bố của cá lóc Cá lóc sống ở nước ngọt, có thể sống được ở nước lợ với nồng độ muối nhỏ hơn 15 phần ngàn, chúng sống ở sông suối, ao đìa và đồng ruộng. Vùng phân bố rộng từ Trung Quốc đến Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Philippin (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, ngoài bốn loài cá lóc đã được phát hiện từ lâu là: cá lóc thường (Ophicephalus striatus Bloch, 1972), cá lóc bông (Ophicephalus micropeltes Cuvier và Valenciennes), cá chành dục (Ophicephalus gachua Hanmilton) và cá dày (Ophicephalus lucius Cuvier và Valenciennes) thì còn có cá lóc môi trề (Channa sp), nó được tìm ra ở tỉnh Đồng Tháp và vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long vào năm 1997. Loài cá này có tốc độ tăng trưởng rất nhanh nên người dân rất thích nuôi. Hiện nay cá lóc môi trề được nuôi nhiều hơn cả cá lóc thường và cá lóc bông và có sinh khối lúc thu hoạch nuôi nhiều nhất trong các loài cá lóc. Một số nơi còn nuôi cá lai giữa cá lóc thường và cá lóc môi trề (Phạm Văn Khánh; Lý Thị Thanh Loan, 2004). 2 2.2. Một số đặc điểm của cá lóc 2.2.1. Đặc điểm hình thái Cá lóc có đầu lớn, đỉnh đầu rất rộng, dẹp bằng, mõm ngắn, miệng to, hướng lên, rạch miệng xiên và kéo dài qua đường thẳng đứng kể từ bờ sau của mắt. Răng bén nhọn, cá không có râu, mắt lớn, lỗ mang lớn. Thân dài, hình trụ, tròn ở phần trước và dẹp bên ở phần sau. Vảy lược lớn, phủ khắp thân và đầu. Đường bên hoàn toàn gãy khúc ở hai nơi khoảng vảy 15-20 và thụt xuống 2 hàng vảy, phần sau của đường bên chạy liên tục khoảng giữa thân (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Cũng theo tác giả trên lúc cá sống có màu xanh đen, nâu đen đến đen ở phần lưng và nhạt dần xuống bụng, bụng cá có màu trắng sữa. Ở cá nhỏ hai bên hông có từ 10-14 sọc đen lợt vắt xéo ngang thân, các sọc này lợt dần và mất hẳn ở cá lớn. Vi lưng, vi hậu môn, vi đuôi có các đốm đen vắt ngang qua các tia vi. 2.2.2. Đặc điểm dinh dưỡng Cá lóc là loài cá dữ, phàm ăn (miệng rộng, răng sắc), có tính ăn rộng, cỡ cá dài 3 cm ăn giáp xác, ấu trùng…Cỡ cá dài 3-8 cm ăn ấu trùng côn trùng, tôm non, nòng nọc, các loại cá nhỏ khác, thân dài hơn 20 cm ăn cá tạp, ếch, … (Ngô Trọng Lư; Thái Bá Hồ, 2003). Ngoài ra cá lóc có thể ăn được thức ăn chế biến (Đại học An Giang, 2003; Huỳnh Thu Hòa, 2004). 2.2.3. Đặc điểm sinh trưởng Giai đoạn nhỏ, cá lóc chủ yếu tăng trưởng về chiều dài, cá càng lớn thì sự tăng trọng ngày càng nhanh. Trong tự nhiên, sức lớn của cá không đều, phụ thuộc vào điều kiện thức ăn sẵn có trong thuỷ vực. Trong điều kiện nuôi có thức ăn và chăm sóc tốt cá có thể lớn từ 0,5 đến 0,8 kg/năm, đạt tỷ lệ sống cao và ổn định (Phạm Văn Khánh, 2000). Sau 1 năm tuổi, thân cá lóc dài 38,5-40 cm, nặng 625-1.395 g, cá 3 tuổi thân dài 45-59 cm, nặng 1.467-2.031 g , con đực và con cái chênh lệch lớn về trọng lượng (Minh Dung, 2004). 3 2.2.4. Đặc điểm sinh sản Cá lóc từ 1-2 tuổi bắt đầu sinh sản, có thể đẻ đến 5 lần/năm. Trong tự nhiên cá đẻ ở nơi yên tĩnh, có nhiều cây cỏ thực vật thủy sinh, đẻ vào sáng sớm sau mỗi trận mưa rào 1-2 ngày. Trước lúc đẻ cá làm tổ hình tròn đường kính khoảng 40-50 cm. Ở nhiệt độ 25-30°C sau ba ngày nở thành con (Ngô Trọng Lư, 2003). 2.3. Phương pháp nuôi cá lóc thịt Cá lóc là đối tượng nuôi rất được người dân ưa chuộng, thịt trắng, ngon, có giá trị dinh dưỡng cao đồng thời có giá trị xuất khẩu (Trích trong Nguyễn Văn Triều và ctv, 1999). Ở Việt Nam thì ĐBSCL là nơi nuôi cá lóc nhiều nhất dựa trên nguồn thức ăn tự nhiên phong phú và giá rẻ (Dương Tấn Lộc, 2001). Phương pháp nuôi cá lóc khá là phong phú như nuôi trong lung đìa, rừng, ruộng lúa, ao đất, lồng bè, vèo, ... 2.3.1. Nuôi trong ao đất Ao nuôi có diện tích trung bình từ 400-500 m2, độ sâu nước 2,5-3 m. Bờ ao phải chắc và cao, có cống cấp và thoát nước. Mật độ nuôi dao động từ 15-50 con/m2 (Dương Tấn Lộc, 2001; Phạm Văn Khánh; Lý Thị Thanh Loan, 2004) và có thể thả ghép thêm một số loài cá khác nhằm tận dụng thức ăn dư thừa như trê vàng lai, rô đồng. Thức ăn cho cá là tép, cá tạp, cá biển, cua, ốc, … Trong 4 tháng đầu thức ăn được xay nhuyễn và trộn thêm chất kết dính, vitamin C, và đưa xuống sàng ăn. Từ tháng thứ 5 trở đi cho cá ăn thức ăn được bằm nhỏ. Hằng ngày bơm bổ sung nước mới cho ao, cứ 5-10 ngày thay nước mới một lần từ 1/3-1/2 thể tích ao. Sau thời gian nuôi từ 6-8 tháng, cá có thể đạt kích cỡ trung bình 0,7-0,8 kg/con. Cá được thu hoạch một lần bằng lưới kéo. Năng suất cá lóc nuôi ở ĐBSCL trong các năm 2002-2003 có thể đạt từ 300-400 tấn/ha một vụ nuôi (Phạm Văn Khánh; Lý Thị Thanh Loan, 2004). 4 Tuy nhiên, với phương pháp nuôi cá lóc trong ao đất (cá lóc là đối tượng nuôi chính) thì cá chậm lớn, kích cỡ cá lúc thu hoạch không đồng đều, tốn nhiều công lao động trong khâu thu hoạch và tỷ lệ hao hụt khá cao sau khi thu hoạch do cá bị ngạt sình. Ngoài ra chi phí thay nước khá lớn trong mỗi vụ nuôi. 2.3.2. Nuôi cá lóc kết hợp trong ruộng lúa Diện tích vuông ruộng nuôi cá lóc từ 0,5-3 ha, phải có mương và bờ bao xung quanh. Chiều dài mương bằng chiều dài bờ bao, rộng 1,5-2m, sâu 0,8-1m. Phải có hệ thống cống bọng cấp thoát nước khi cần thiết. Mật độ thả nuôi là 0,5-1 con/m2 và thời gian nuôi khoảng 6-7 tháng. Trong mô hình này để chủ động được nguồn thức ăn cho cá lóc người ta thường thả nuôi kết hợp một số loài cá khác như: cá mè vinh để nâng cao năng suất của ruộng nuôi. Việc cho cá ăn có thể là nguồn cá tạp tự nhiên trong mùa lũ, hay có thể bổ sung thêm thức ăn chế biến (Dương Tấn Lộc, 2001; Đại học An Giang, 2003). Nhìn chung cách nuôi này đòi hỏi phải có diện tích đất ruộng khá lớn, tốn kém chi phí thiết kế vuông ruộng và khâu thu hoạch, khó quản lý và chăm sóc cá nuôi, cá chậm lớn. 2.3.3. Nuôi cá lóc ở rừng Hai lâm trường Mùa Xuân, Phương Ninh ở Cần Thơ trước đây có khoảng 1000 đìa nhử cá tự nhiên, nay đưa diện tích rừng vào nuôi cá gần 4000 ha. Rừng U Minh, khu Tràm Chim, các rừng nước ngọt, sông cụt, nước kém lưu thông là nơi nuôi và dưỡng cá lóc tự nhiên. Nơi đây có điều kiện sống thích hợp cho cá lóc, thức ăn tự nhiên rất phong phú có ở tại chỗ. Có thể nuôi cá 2-3 năm, cá đạt vài kg mỗi con (Dương Tấn Lộc, 2001). Rừng có thể kết hợp nuôi cá lóc là rừng có nhiều lung bào trũng, cây thưa vừa phải hoặc đất có khoảng trống và cây dày đặc, có nơi ngập từ 0,3 m trở lên trong suốt thời gian 5-7 tháng._. hay quanh năm. Diện tích rừng từ 5-500 ha có thể thiết kế cho một vuông nuôi. Cỡ cá giống thả có chiều dài thân từ 8-10 cm và 5 mật độ thả từ 0,5-1 con/m2 măt nước. Nguồn thức ăn của cá lóc chủ yếu có từ tự nhiên như: cá sặc bướm, cá rô đồng, cá nhỏ, tép, ốc, nhái, cào cào, động vật phù du, ấu trùng muỗi…Để tăng sinh khối lúc thu hoạch cá lóc, người nuôi phải nuôi thêm cá sặc bướm, cá rô đồng,… Thu hoạch cá thường dùng lưới chụp đìa và mỗi năm đìa có thể chụp cá 2-3 lần. Nhìn chung với cách nuôi này có thể tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có nhưng thời gian nuôi cá lóc rất dài, tỷ lệ hao hụt cao, năng suất cá không ổn định, diện tích nuôi quá rộng nên gặp nhiều khó khăn trong khâu quản lý, dễ xảy ra nạn trộm cắp và phòng chống rái cá ăn thịt cá lóc nuôi. 2.3.4. Nuôi trong lồng bè Năng suất và khả năng mắc bệnh của cá lóc nuôi trong bè phụ thuộc rất lớn vào vị trí đặt bè. Bè nuôi nên đặt ở những nơi có chất lượng nước tốt, không bị ô nhiễm, có mực nước sâu, giao thông thuận tiện, đồng thời gần nơi tiêu thụ sản phẩm. Kích cỡ bè nuôi dao động từ 4 m x 3,5 m x 2,5 m. Cỡ cá thả từ 10-15 g/con, mật độ thả trung bình là 120-130 con/m3 (Đại học An Giang, 2003). Thức ăn là cá linh băm nhỏ, phế phẩm ở các chợ như đầu cá, ruột cá,… xay nhuyễn đặt lên tấm vĩ bằng tre cho cá lóc ăn. Thường sau 3 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 1,2 kg/con (Ngô Trọng Lư, 2003). Ưu điểm của phương pháp này là cá lớn nhanh nhưng nhược điểm là tốn kém chi phí ban đầu cho việc đóng bè, tốn nhiều dây, cột để neo bè, không an toàn lắm nếu nuôi cá lóc trong mùa lũ, phải chọn lựa vị trí đặt bè thích hợp. Ngoài ra khâu phòng trị bệnh cho cá khó khăn do không quản lý được nguồn nước. 2.3.5. Nuôi cá lóc trong vèo (mùng lưới) Hằng năm khi lũ về với nguồn nước dồi dào nên thức ăn tự nhiên rất đa dạng như các loài phiêu sinh vật, động vật đáy..., thành phần chủng loài tôm, cá, cua, ốc cũng rất phong phú góp phần làm tăng sinh khối lúc thu hoạch khai thác 6 thủy sản nuôi và thủy sản tự nhiên trong vùng (Dương Nhựt Long, 2004). Bên cạnh đó nghề nuôi cá lóc trong vèo cũng phát triển nhanh từ những năm 2002 đến nay ở các huyện đầu nguồn của tỉnh An Giang, Đồng Tháp (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, 2003; Dương Nhựt Long, 2004). Người dân nuôi cá lóc đã nghĩ đến việc dùng lưới thưa để tiện việc quản lý, dễ quan sát khi cho cá ăn và giảm chi phí khi thu hoạch. Mùa nước năm 2003, ở An Giang mô hình này phát triển mạnh với số lượng gần 1500 cái (thể tích nuôi đạt trên 35.000 m3) có 1.182 hộ tham gia, giải quyết việc làm thường xuyên cho 1.421 lao động, lãi thu được trung bình từ 2 triệu-4 triệu đồng/8-10 m2 (Nguyễn Văn Phương, 2003). Vèo nuôi được đặt trong ao là tốt nhất với kích thước vèo là 5 m x 3 m x 2 m, nuôi khoảng 3.000-5.000 con. Mặt dưới của vèo cách đáy ao là 0,5 m. Thức ăn là những loài cá tạp, cua, ốc. Khi cá lớn cho ăn nguyên con hoặc xay nhuyễn. Ngày cho cá ăn 2-3 lần. Việc nuôi cá lóc trong vèo có thể giảm chi phí đầu tư ban đầu và dễ áp dụng cho những nông dân nghèo, ít đất. Ngoài ra vèo nuôi ít bị phụ thuộc bởi mực nước lũ, nước dâng lên đến đâu có thể nâng vèo lên đến đó. Tận dụng khoảng không còn lại trong hầm để thả nuôi các loài cá khác mà không cần cho ăn. Vừa làm giảm ô nhiễm môi trường nước vừa hạn chế được dịch bệnh vừa tăng thu nhập. Nhìn chung đây là một mô hình nuôi tuy mới nhưng đã mang lại không ít điều lợi cho người dân như tạo thu nhập và lợi tức và tận dụng công lao động nhàn rỗi trong mùa lũ. Theo Nguyễn Văn Dính (2004) thì nuôi cá lóc trong mùng lưới là giải pháp xóa đói giảm nghèo nhanh nhất đối với nông dân vì có thể nuôi đến 200 con trong 1m3 nước mà vẫn có lời, không tốn chi phí đào hầm, ít hao hụt. Tuy nhiên hình thức nuôi này rất còn mới nên gặp không ít khó khăn trong khâu quản lý chất lượng nước, kỹ thuật nuôi, nguồn thức ăn và giá cá thịt trên thị trường. Mặt khác, ảnh hưởng của phương pháp nuôi này lên môi trường 7 xung quanh cũng chưa được đánh giá như: chất lượng nước, nguồn lợi tự nhiên… 8 Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Vật liệu - Địa điểm xã Tân Trung huyện Phú Tân. - Thời gian thực hiện từ tháng 9/2004 đến tháng 4/2005. - Dùng xe gắn máy để đi lại. - Phiếu phỏng vấn (phụ chương 1) - Sổ ghi chép (phụ chương 2) 3.2. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1. Thể thức thống kê Phỏng vấn điều tra nông hộ và chọn mẫu điều tra theo chủ đích. 3.2.2 Phương pháp tiến hành - Theo dõi một số hộ nông dân tiêu biểu đang nuôi cá lóc trong mùa lũ. - Phỏng vấn nông hộ: thành phần nông hộ gồm có khá (giàu), trung bình và nghèo đang nuôi cá lóc trong mùa lũ. 3.2.2.1. Theo dõi mô hình nuôi cá lóc trong vèo Chọn 3 nông dân đang nuôi cá lóc trong vèo điển hình của xã (danh sách do cán bộ địa phương cung cấp). Định kỳ theo dõi một tuần/1 lần. 3.2.2.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo - Tiếp xúc trực tiếp với địa phương để thu thập số liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tình hình sản xuất nông nghiệp của xã trong thời gian qua. - Chọn 30 hộ nông dân đang nuôi cá lóc trong vèo để tham gia vào cuộc phỏng vấn theo mẫu soạn sẵn (ở phụ chương 1). - Tổng hợp và xử lý các số liệu đã thu thập được. 9 3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi 3.2.3.1. Theo dõi 3 nông dân đang nuôi cá lóc trong vèo với những chỉ tiêu cụ thể như sau Về kỹ thuật nuôi Thời vụ nuôi, cách thức họ chuẩn bị ao, vèo trước mỗi vụ nuôi, cách chọn vị trí để đặt vèo trong ao, thời gian mà họ thả cá giống, cách quản lý chất lượng nước cũng như phương pháp phát hiện và phòng trị bệnh trên cá lóc nuôi trong vèo của họ. Hiệu quả kinh tế của mô hình - Về chi phí cố định gồm có: đào ao, sên vét ao, vèo cá, vợt, dây, sàng ăn, máy xay thức ăn, hệ thống ống dẫn, máy bơm nước, thùng chứa thức ăn và một số chi phí khác phát sinh trong quá trình nuôi. Kết quả của chi phí cố định được tính toán sau khi trừ ra chi phí khấu hao hằng năm hay vụ (Phụ chương 4). - Về chi phí vận hành gồm có: vôi bột, cá giống, vitamin- premix, thuốc phòng và trị bệnh, thức ăn, xăng, dầu, điện, lao động thuê, lao động gia đình, và một số chi phí khác…. Những khó khăn trở ngại và cách giải quyết khó khăn  Chất lượng nước,  Giá cả thức ăn,  Kỹ thuật nuôi,  Khâu phòng trị bệnh cho cá lóc  Vốn để thực hiện mô hình một cách có hiệu quả. Yếu tố quyết định sự thành công của mô hình Xét trong quá trình thực hiện mô hình này thì trong một số yếu tố mà chúng tôi đã dự kiến như: vốn sản xuất để mua thức ăn và tự sản xuất giống, thị trường đầu ra, chất lượng nước, cá giống tốt, thức ăn tốt, mức lũ, kỹ thuật nuôi, chính sách của chính quyền địa phương thì yếu tố nào quan trọng nhất quyết định sự thành công của mô hình. 1 3.2.3.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo Thông tin định tính - Đặc điểm nông hộ: tìm hiểu về độ tuổi và trình độ học vấn của chủ hộ và các thành viên trong gia đình, kinh nghiệm mà họ thực hiện mô hình. - Các điều kiện cần thiết để thực hiện mô hình có hiệu quả cao - Thị trường tiêu thụ sản phẩm, nơi bán sản phẩm, giá cẩn phẩm,loại người mua sản phẩm của người dân tại địa bàn nghiên cứu. - Khả năng kết hợp với những mô hình canh tác khác: nuôi kết hợp một số loài cá khác ngoài vèo. Thông tin định lượng - Kỹ thuật nuôi tương tự như trên - Các số liệu kinh tế như chi phí đầu vào và đầu ra của sản phẩm - Năng suất (cách tính theo phụ chương 3) 3.3. Phân tích thống kê: - Tổng hợp và phân tích các số liệu đã thu thập được - Dùng phần mềm EXCEL 5.0 để phân tích và xử lý các số liệu đã thu thập. 1 Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đặc điểm vùng nghiên cứu Nằm dọc sông Tiền, hằng năm lượng nước lũ đổ về Phú Tân tương đối lớn. Trong khi Phú Mỹ, Tân Hòa, Phú Hưng là những xã sản xuất lúa nếp nổi tiếng của huyện thì Tân Trung lại có điều kiện tự nhiên khác khá đặc thù. Là một xã mới thành lập được tách ra từ xã Tân Hòa (tháng 12 năm 2003) với lợi thế vùng đất ngập sâu và thời gian ngập nước kéo dài; diện tích tự nhiên khoảng 790 ha gồm 2406 hộ, hoạt động chính của người dân trong xã là sản xuất nông nghiệp. Toàn xã có 5 ấp mỗi ấp đều có thế mạnh riêng của mình: ấp Tân Thành và Trung II trồng màu, ấp Mỹ Hóa trồng lúa một vụ; ấp Vàm Nao trồng lúa 2 vụ. Tận dụng lợi thế đó của mình vào mùa nước nổi nơi đây thực hiện nhiều mô hình nuôi trồng thuỷ sản như: trồng ấu, rau nhút. Đặc biệt là nuôi cá lóc, toàn xã có 158 hộ nuôi trong đó có 105 hộ nuôi cá lóc trong vèo. Hình 4.1: Vị trí địa lý của huyện Phú Tân, tỉnh An Giang 1 4.2. Thông tin nông hộ 4.2.1. Nguồn nhân lực Kết quả phỏng vấn về thông tin nông hộ được trình bày ở bảng 1. Chủ hộ của các mô hình nuôi cá lóc trong vèo có độ tuổi trung bình nằm trong khoảng 18 đến hơn 60 tuổi, trong đó độ tuổi từ 18-60 chiếm tỷ lệ cao nhất (75,86%) và còn lại là trên 60 tuổi (24,13%). Độ tuổi của các thành viên trong gia đình dao động từ nhỏ hơn 18 đến cao hơn 60 tuổi và đa phần (67%) đều nằm trong độ tuổi lao động chính (18-60 tuổi). Ngoài ra, số người trên nông hộ từ nhỏ hơn hoặc bằng 5 chiếm đến 86,7% và từ 6-8 người chiếm 10,3%. Điều này cho thấy tại địa bàn nghiên cứu các hộ nuôi cá lóc trong vèo có số người nằm trong độ tuổi lao động chính nhiều, cho thấy nguồn nhân lực để thực hiện mô hình này rất dồi dào. Đa phần chủ hộ nuôi cá lóc trong vèo có trình độ văn hóa tương đối thấp trong đó 3% mù chữ, 55% học cấp I, 38% học cấp II và 3% học cấp III. Tương tự, các thành viên trong gia đình cũng có trình độ học vấn thấp 64% học cấp I, 30% học cấp II và 6% học cấp III. Kết quả này cho thấy trình độ học vấn thấp của nông dân đã phần nào hạn chế trong việc tiếp nhận các tiến bộ về kỹ thuật nuôi cá. Nông dân chủ yếu nuôi cá lóc theo tập quán, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và vừa học vừa rút kinh nghiệm (Phòng Xây dựng và phát triển nông thôn huyện Phú Tân - tỉnh An Giang, 2003; Phòng Xây dựng và Phát triển nông thôn huyện An Phú, 2004; Phòng Xây dựng và phát triển nông thôn huyện Châu Phú 2003a). 1 Bảng 1: Tuổi, trình độ học vấn của chủ hộ và các thành viên trong gia đình tại xã nghiên cứu 4.2.2. Đất đai Khi phỏng vấn các hộ nuôi cá lóc trong vèo, phần trăm số hộ có đất canh tác lúa là 43,33 %, còn lại là các hộ chỉ có diện tích đất vừa đủ để ở và nuôi cá, chiếm 56,67%. Diện tích đất trung bình của các hộ canh tác lúa là 4.100 m2 và ao nuôi cá là 884 m2 (Bảng 2). Kết quả này cho thấy, mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ đòi hỏi diện tích đất không lớn và rất thích hợp cho các hộ ít đất sản xuất, đặc biệt là các hộ nghèo. 4.2.3. Kinh nghiệm và số thể tích vèo nuôi cá lóc Thể tích vèo nuôi cá ở huyện Phú Tân khá cao, trung bình là 87,03 m3/hộ (Bảng 2). Đa phần người dân trong xã có số năm kinh nghiệm nuôi cá trong vèo tương đối cao, qua tổng số hộ điều tra thì trung bình các hộ đã thực hiện mô hình này khoảng 5,34 năm, người nuôi cá lâu nhất là 12 năm và người nuôi ít nhất cũng được 2 năm. Đây cũng là một trong những thế mạnh của người 1 Diễn giải Chủ hộ Thành viên gia đình Số người Phần trăm (%) Số người Phần trăm (%) Nhóm tuổi 18 Tuổi 18-60 Tuổi >60 Tuổi Trình độ văn hóa Mù chữ Cấp I Cấp II Cấp III 0 22 7 1 16 11 1 0 75,86 24,13 3,45 55,17 37,93 3,45 26 63 5 0 56 26 5 27,66 67,02 5,32 0 64,37 29,89 5,74 dân nuôi cá lóc tại địa bàn nghiên cứu, nếu so với các huyện khác thì số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc trong vèo của nông dân ở Phú Tân nhiều hơn so với ở huyện Châu Phú là 2,17 năm (Cao Quốc Nam và ctv, 2005). Bảng 2: Diện tích đất, thể tích vèo nuôi, và số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc trong vèo của nông dân ở xã Tân Trung Khi phỏng vấn về nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo, thì nông dân ở vùng nghiên cứu cho rằng nguồn thông tin trên thường xuyên được tiếp cận chủ yếu từ các nguồn: chương trình truyền hình (tivi), chiếm tỷ lệ 26%, tiếp theo là đài phát thanh (radio) chiếm tỷ lệ 20% và giữa các nông dân nuôi cá lóc (18%). Ngoài ra, họ còn tiếp nhận những thông tin từ nhiều nguồn khác nữa như: sách báo, bà con thân thuộc, cán bộ kỹ thuật viên của huyện hoặc xã (Bảng 4.3). Điều này cho thấy người dân tại địa bàn nghiên cứu rất quan tâm đến những tiến bộ về kỹ thuật nuôi cá và thông tin phục vụ cho nuôi cá lóc rất đa dạng. Tuy nhiên các nguồn thông tin trên còn mang tính chấp giá, bị động và chưa được sắp xếp, hệ thống hóa hoàn chỉnh. Để phục vụ tốt hơn, thiết nghĩ cần phải có một hình thức tiếp nhận và chuyển giao thông tin giữa người nuôi cá và cơ quan khoa học cũng như thị trường,... dễ dàng hơn như các mô hình câu lạc bộ khuyến nông, hợp tác xã kiểu mới,... 1 Diễn giải Trung bình Thấp nhất Cao nhất Diện tích ruộng (m2) Diện tích ao (m2) Thể tích vèo nuôi (m3/hộ) Số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc trong vèo (năm) 4100 884,03 89,41 5,34 0 100 18 2 20000 4500 270 12 Bảng 3: Nguồn thông tin cho hoạt động nuôi cá lóc 4.3. Hoạt động nuôi cá trong mùa lũ 4.3.1. Mùa vụ nuôi cá lóc trong vèo Đa phần những hộ được phỏng vấn thì nuôi cá lóc trong vèo quanh năm. Tận dụng ao sẵn có, họ thường nuôi 3 vụ cá lóc trên một năm: (1) vụ mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 8 dl), (2) vụ mùa lũ (từ tháng 7-8 đến tháng 11-12 dl) và (3) vụ mùa nghịch (từ tháng 12 đến tháng 4 dl). Trong năm 2004, kết quả điều tra cho thấy phần đông người dân đã chọn thời điểm thả cá sớm vào đầu tháng 6, chiếm tỷ lệ 86,67% (Bảng 4) và cá được thu hoạch sớm vào đầu tháng 10, chiếm tỷ lệ 76,67% do giá cá thịt cao. Các hộ còn lại (23,33%) thì neo lại chờ giá cao hơn. Điều này cũng tương tự như nhận định của Dương Tấn Lộc (2001) theo ông, ở ĐBSCL mùa lũ tràn về từ tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, do đó người dân nuôi cá lóc cần có nguồn giống sớm, bắt đầu nuôi từ tháng 5 đến tháng 8 cá được 100g/con. Giai đoạn này cá ăn mạnh dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn và nước lũ lớn thì hiệu quả nuôi sẽ cao. 1 Nguồn thông tin Tần suất Phần trăm (%) Tivi 27 26 Radio 21 20 Nông dân khác 19 18 Bà con thân thuộc 13 13 Kỹ thuật viên 12 12 Dịch vụ buôn bán 6 6 Sách báo 6 5 Bảng 4: Thời gian thả, thời gian thu và những lý do thúc đẩy người dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ So với các huyện lân cận, điều kiện tự nhiên ở Phú Tân có nhiều thuận lợi cho việc thả và thu cá sớm nên cá nuôi có giá cao. Ở các huyện Châu Phú và An Phú thì vụ nuôi cá lóc trong mùa lũ của người dân thường bắt đầu từ tháng 7 đến tháng 11 hoặc tháng 12 (dl) hằng năm. Thời điểm này có thuận lợi là nguồn thức ăn phong phú và nguồn nước dồi dào nhưng do trong thời gian này người dân khai thác được lượng cá tự nhiên khá cao nên giá cá lóc nuôi sẽ không cao. Chính điều này đã dẫn đến giá cá lóc nuôi ở Châu Phú và An Phú thấp hơn so với giá cá thịt ở Phú Tân (Cao Quốc Nam và ctv, 2005). 4.3.2. Lý do nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ Do đây là vùng đất trũng được hình thành bởi hợp lưu của 2 con sông Tiền và sông Hậu (sông Vàm Nao) nên thông thường hằng năm nước lũ đến và rút trễ hơn gần 1 tháng so với các địa phương khác trong vùng. Dựa vào điều 1 Diễn giải Tần suất Phần trăm (%) 1. Thời gian thả cá - Tháng 6 - Tháng 7 2. Thời gian thu hoạch - Tháng 10 - Tháng 11 3. Lý do nông dân áp dụng mô hình - Tạo thêm thu nhập trong mùa lũ - Nguồn nước tốt hơn - Dễ tìm mồi cho cá - Nhiều công lao động nhàn rỗi - Giá cá mồi thấp 26 4 23 7 10 9 5 4 2 86,67 13,33 76,67 23,33 33,33 30,00 16,67 13,33 6,67 kiện tự nhiên này nên người dân nơi đây đã ý thức được việc khai thác và sản xuất trong mùa lũ. Mô hình nuôi cá lóc trong vèo đã được người dân mạnh dạn áp dụng trong những năm gần đây và đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể (UBND xã Tân Trung, 2003). Kết quả điều tra vào năm 2004 về lý do áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ được trình bày ở bảng 4. Kết quả ở bảng 4 cho thấy lý do để người dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ khá phong phú, có đến 33,33% người dân trả lời rằng tạo thêm nguồn thu nhập, 30% cho rằng vào thời điểm mùa lũ có nguồn nước tốt hơn so với các thời điểm khác trong năm và đây cũng là một trong những lý do được người dân nuôi cá ở cả 3 huyện Châu Phú, An Phú và Phú Tân đề cập đến nhiều nhất (Cao Quốc Nam và ctv, 2005). Phần lớn người dân trong xã thường nuôi cá quanh năm và qua nhiều năm nuôi cá lóc họ nhận thấy rằng mùa lũ thì chất lựợng nước tốt hơn so những thời điểm khác trong năm do nước đổ từ thượng nguồn về. Bên cạnh đó thì 16,67% cho rằng vào mùa lũ thì dễ tìm mồi cho cá và 6,67% nông dân cho rằng giá cá mồi trong mùa lũ thấp hơn so với các thời điểm khác trong năm. Hơn nữa, nguồn cá tự nhiên (cá mồi) cũng rất dồi dào. Theo Dương Nhựt Long (2004) thì hằng năm khi lũ về với nguồn nước dồi dào nên thức ăn tự nhiên rất đa dạng như các loài phiêu sinh vật, động vật đáy..., thành phần chủng loài tôm, cá, cua, ốc cũng rất phong phú góp phần làm tăng sinh khối lúc thu hoạch khai thác thủy sản nuôi và thủy sản tự nhiên trong vùng. Ngoài ra một số ý kiến khác thì cho rằng họ đã có sẵn ao, mùng lưới đầu tư từ những vụ lũ trước, do đó nếu không nuôi thì phí của nên họ đã tiếp tục thực hiện mô hình này. Như đã đề cập ở trên thì vào mùa lũ nông dân trong xã không sản xuất lúa hay trồng màu được, do đó họ có công lao động nhàn rỗi ở địa phương rất lớn và thay vì phải đi làm thuê thì một số nông dân đã nghĩ ra cách lấy công lao động làm lời từ việc nuôi cá lóc trong vèo vào thời gian mùa lũ. 1 4.3.3. Nguồn vốn để sản xuất Nguồn vốn để sản xuất là một trong những yếu tố rất quan trọng, do chi phí nuôi cá lóc rất cao, và mức sống trung bình nên đa phần người dân tại địa bàn nghiên cứu phải vay thêm vốn bên ngoài. Kết quả điều tra cho thấy có đến 26/30 (86,67%) hộ được phỏng vấn vừa dựa vào vốn tự có và vừa phải vay thêm vốn bên ngoài với lãi suất cao. Có 3 hộ dựa vào nguồn vay của nhà nước với lãi suất thấp hơn chiếm 10% số hộ điều tra và chỉ có 1 hộ (3,33%) có khả năng lo đủ nguồn vốn để nuôi cá lóc (Do hộ này nuôi với số lượng ít). Bảng 5: Nguồn vốn để thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong vèo của người dân ở xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang trong mùa lũ năm 2004 4.3.4. Kỹ thuật nuôi 4.3.4.1. Phương pháp cải tạo ao Cải tạo ao là một trong những khâu kỹ thuật rất quan trọng mà bất cứ người nuôi cá nào cũng phải thực hiện trước mỗi vụ nuôi, vì ngay trong đáy ao có thể tồn tại nhiều loại tác nhân gây bệnh khác nhau, đặc biệt các ao vừa kết thúc một vụ nuôi. Do đó việc tẩy dọn ao đìa trước mỗi vụ nuôi là những thao tác kỹ thuật rất quan trọng không chỉ để tiêu diệt hết tác nhân gây bệnh, mà còn có ý nghĩa tạo ra môi trường thích hợp và ổn định. Đây là một công việc rất cần thiết và quan trọng nên khi được phỏng vấn thì có hầu hết nông dân có cách chuẩn bị khá giống nhau: đó là rút cạn nước, vét bùn ở đáy ao và rải vôi hoặc rải muối và sau đó tiến hành phơi đáy ao; chỉ khác nhau ở chỗ có hộ rải vôi chiếm tỷ lệ 53,33%, trong khi đó 46,67% còn lại cho rằng rải vôi và kết hợp với muối thì 1 Nội dung Tần số Phần trăm (%) - Vốn nhà và vốn vay của tư nhân - Vốn vay ngân hàng - Vốn nhà tự có 26 3 1 86,67 10,0 3,33 hiệu quả cải tạo ao sẽ cao hơn (Bảng 6). Điều này cũng dễ hiểu bởi vôi thì có tác dụng nâng cao pH và diệt khuẩn, còn muối thì có tác dụng diệt các vi khuẩn gây bệnh sống trong môi trường nước ngọt. Rút cạn nước ao là thao tác đầu tiên khi tẩy dọn, có thể đào thải ra khỏi ao một lượng tác nhân là vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng rất lớn. Thời gian phơi đáy ao của mỗi nông dân đều khác nhau tùy theo thói quen và kinh nghiệm của họ thấp nhất là 1 ngày và cao nhất là 10 ngày, cách làm này có thể tiêu diệt được một số mầm bệnh nhưng tốt nhất là nên phơi đáy ao từ 1-2 tuần lợi dụng nhiệt độ, độ khô và tác dụng diệt trùng của tia tử ngoại trong ánh sáng mặt trời. Còn việc bón vôi hay muối để sát trùng diệt tạp và nâng cao pH của ao nuôi, góp phần vào việc hạn chế dịch bệnh xảy ra trong quá trình nuôi cá lóc. Cách chuẩn bị ao này cũng được nông dân ở An Phú áp dụng và theo những hộ đã theo dõi và phỏng vấn thì cách làm này mang lại hiệu quả rất cao trong suốt vụ nuôi của họ. Bảng 6: Phương pháp cải tạo ao của nông dân nuôi cá lóc trong vèo tại xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang trong mùa lũ năm 2004 2 Nội dung Tần số Phần trăm (%) Phương pháp - Rút cạn nước,vét bùn ở đáy ao,bón vôi, phơi đáy ao. - Rút cạn nước, vét bùn ớ đáy ao, bón muối, vôi, phơi đáy ao. Tổng 16 14 30 53,33 46,67 100 Thời gian làm 8-10 ngày trước khi thả 4-7 ngày trước khi thả 1-3 ngày trước khi thả Tổng 3 22 5 30 10,35 72,41 17,24 100 4.3.4.2. Phương pháp chuẩn bị vèo nuôi Phương pháp chuẩn bị vèo trước mỗi vụ nuôi có khác nhau giữa các hộ nuôi (Bảng 7), có 33,33% nông dân cho rằng nên ngâm vèo trong nước vôi một ngày trước khi thả cá, 30% nên giặt sạch, phơi nắng và vá lại vèo trước mỗi vụ nuôi, 26,67% nông dân thì ngâm vèo trong thuốc tím và 10% số nông dân còn lại có cách làm khác như ngâm vèo trong thuốc hay nước muối, … Theo nông dân thì những cách làm này có tác dụng tiêu diệt mầm bệnh trên vèo nuôi của các vụ nuôi trước và làm sạch vèo tạo điều kiện trao đổi nước tốt trong quá trình nuôi. Cách giặt sạch và vá vèo được nông dân thực hiện tương đối nhiều, một cái vèo lưới tốt (loại lưới Thái) có thể sử dụng được đến 2 năm do đó sau mỗi vụ nuôi nông dân chỉ cần giặt sạch và thay phần lưới cước phía trên là có thể nuôi được vụ thứ hai. Nhìn chung cách thức chuẩn bị vèo của nông dân ở đây cũng tương tự như một số địa phương khác. Bảng 7: Cách thức chuẩn bị vèo trước mỗi vụ nuôi của nông dân tại địa bàn nghiên cứu Diễn giải Tần số Phần trăm (%) Ngâm vèo trong vôi Ngâm vèo trong thuốc tím Giặt sạch & vá vèo bằng tay Khác Thời gian thực hiện là một ngày trước khi thả cá 10 8 9 3 33,33 26,67 30 10 4.3.4.3. Cách đặt vèo và phương pháp cấp nước Qua kết quả điều tra cho thấy đa số nông dân (60%) thường áp dụng đặt vèo ở góc ao, nơi gần bọng thoát nước ra (Bảng 8). Bởi vì đa phần nông dân ở đây phải dùng máy để cấp nước cho ao nuôi cá (86,67%), với cách làm này thì máy bơm sẽ được đặt ở bọng cấp nước vào, khi cấp nước vào thì một phần nước ao cũ trong ao cùng với những chất cặn bã còn xót lại trong vèo sẽ theo nước thoát ra ngoài. Một bộ phận nông dân khác thì lại chọn cách đặt vèo của mình ở 2 giữa ao, chiếm tỷ lệ 40% vì theo họ ở giữa ao thì nước sâu khi đó cá chúi xuống đáy vèo sẽ không đụng đất bùn và không làm cho nước ao bị bẩn. Do điều kiện đất thấp nên một số hộ cấp nước cho ao mình bằng phương pháp thủy triều chiếm 13,33%, cách này giúp họ giảm được chi phí vận hành và tăng thêm lợi nhuận trong quá trình nuôi cá. Tuy nhiên hình thức này chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ. Bảng 8: Cách thức đặt vèo và phương pháp cấp nước của nông dân Diễn giải Tần số Phần trăm (%) Cách đặt vèo trong ao - Đặt vèo ở góc ao - Đặt vào ở giữa ao Phương pháp cấp nước vào ao - Bơm - Thủy triều 18 12 26 4 60 40 86,67 13,33 4.3.4.4. Nguồn cá giống, mật độ thả và kích cỡ cá thả nuôi Qua nhiều năm kinh nghiệm nông dân nuôi cá lóc cho biết muốn việc nuôi cá đạt hiệu quả cao thì cá giống phải tốt và phải chủ động được nguồn cá giống phục vụ cho việc nuôi cá quanh năm. Theo kết quả điều tra có đến 27/30 hộ được phỏng vấn đã tự sản xuất cá giống chiếm tỷ lệ 90% (Bảng 9), còn lại là 10% phải mua cá giống bên ngoài do chưa tự sản xuất được. Việc tự sản xuất ra cá giống để nuôi có một ý nghĩa rất quan trọng là lựa chọn đựợc giống tốt, kích cỡ đồng đều và khỏe mạnh. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất cá nuôi về sau. Ngoài ra, có thể có thêm nguồn thu nhập từ việc bán cá giống dư thừa. Kết quả điều tra này cũng tương tự như kết quả điều tra ở xã Vĩnh Hội Đông của huyện An Phú đa số người dân ở đây cũng tự sản xuất giống để nuôi. Điều này rất phù hợp với xu hướng nuôi cá hiện nay do xuất phát từ quan niệm phòng bệnh tổng hợp cho động vật thủy sản nên người ta rất chú trọng đến 2 khâu sản xuất con giống, chất lượng con giống tốt khỏe mạnh thì cá sẽ lớn nhanh, kích cỡ đồng đều và ít xảy ra dịch bệnh trong quá trình nuôi. Kích cỡ cá thả ở đây ít biến động, thấp nhất là 40 g/con, cao nhất là 100 g/con và trung bình là 71,03 g/con (Bảng 11). Đối với mật độ thả cá thì biến động rất lớn giữa các hộ nuôi, dao động từ 11,11-152,78 con/m3 vèo nuôi và trung bình là 59,14 con/ m3 vèo nuôi. Mật độ thả này tương đối thấp, bởi theo Nguyễn Văn Dính (2004) thì trên 1m3 vèo có thể thả đến 200 con cá lóc. Ngoài ra theo kết quả điều tra năm 2004, nông dân ở xã Vĩnh Thạnh Trung huyện Châu Phú, An Giang thả với mật độ trung bình là 102 con/m3 vèo. Tuy nhiên theo ý kiến của những nông dân ở địa điểm nghiên cứu này cho biết qua nhiều năm kinh nghiệm nuôi cá thì thả với mật độ từ 50-100 con/m3 vèo thì cá sẽ lớn nhanh, ít bệnh và đạt được kích cỡ thương phẩm đồng đều Hình 4.2. Mật độ và kích cỡ cá thả nuôi của người dân 4.3.4.5. Nguồn thức ăn Tận dụng một số loại thức ăn sẵn có trong mùa lũ như ốc bươu vàng, cá tạp,…là phương châm của việc nuôi cá lóc trong mùa lũ. Nhưng do lũ năm 2004 không lớn, hơn nữa thời tiết xấu hay có mưa bão nên lượng cá tự nhiên đánh bắt được rất thấp và không ổn định nên phần lớn nông dân phải sử dụng thức ăn chủ 2 yếu là cá biển cho cá lóc, chiếm tỷ lệ 83,33%, còn lại là 16,67% người nuôi cho cá lóc ăn cá tạp, cua, ốc (Bảng 9). Bảng 9: Nguồn cá giống, loại thức ăn và nguồn thức ăn mà người dân ở xã Tân Trung sử dụng để thực hiện mô hình trong mùa lũ năm 2004 Diễn giải Tần số Phần trăm (%) Nguồn cá giống - Giống nhà - Giống mua Thức ăn cho cá lóc - Cá biển - Cá đồng, cua, ốc Nguồn thức ăn - Phạm vi xã - Phạm vi huyện - Phạm vi tỉnh 27 3 25 5 12 17 1 90,00 10,00 83,33 16,67 40,00 56,67 3,33 Do nguồn thức ăn không ổn định nên muốn dự trữ thức ăn lại cho cá lóc thì 56,67% số người nuôi phải mua thức ăn cho cá ở chợ huyện (Bảng 9). Người nuôi cho rằng khi mua cá mồi ở huyện thì giá tương đối rẻ hơn so với ở xã. Do thiếu phương tiện vận chuyển và dự trữ, 40% nông dân còn lại phải mua thức ăn ở phạm vi xã (chủ yếu là cua, ốc và cá tạp mà người dân trong xã khai thác được và bán lại cho những người nuôi cá lóc ở địa phương). Nhưng lượng thức ăn này giá cả không ổn định và bấp bênh nên chủ yếu là người dân phải mua cá mồi ở huyện nơi đây tập trung nhiều trại vựa cá mồi lớn và ổn định. Nếu so sánh với xã Vĩnh Hội Đông của huyện An Phú thì ngoài việc mua cá mồi ở phạm vi xã hoặc huyện thì người dân còn mua cá ở phạm vi tỉnh nhiều hơn, do phải đi mua cá mồi xa nên làm tăng thêm chi phí vận hành của người nuôi, thậm chí do điều kiện tự nhiên giáp với nước bạn Campuchia nên một số nông dân ở đây còn sang 2 Campuchia để mua cá mồi. Qua điều này cho thấy nguồn cung cấp thức ăn ở xã Tân Trung tương đối thuận lợi hơn so với nơi khác, người dân không phải đi xa để mua cá mồi, góp phần giảm chi phí vận hành và tăng lợi nhuận sau mỗi vụ nuôi cá lóc trong vèo. 4.3.4.6. Phương pháp cho cá lóc ăn của người dân Cho cá ăn cũng là một khâu kỹ thuật rất quan trọng quyết định đến năng suất và sinh khối lúc thu hoạch cá nuôi. Giai đoạn cá còn nhỏ khoảng 40 g/con thì người nuôi tiến hành cho cá ăn nhiều lần trong ngày có thể là từ 3 đến 4 lần, thức ăn phải được rửa sạch và xay nhuyễn. Đến khi cá lớn hơn khoảng 250 g/con thì tiến hành cho cá ăn 2 lần trong một ngày vào buổi sáng (khoảng 8 hoặc 9 giờ) và buổi chiều (từ 4 đến 5 giờ). Trong một tháng cuối cùng trước khi bán thì đa phần nông dân chỉ cho cá ăn 1 lần trong ngày, theo họ cách cho ăn này cá vẫn tăng trọng bình thường. Tất cả nông dân ở đây đều cho cá lóc ăn bằng cách rải thức ăn lên sàng ăn (sàng ăn có thể làm bằng tre hoặc làm bằng lưới cước). Cách làm này có thể giúp họ quan sát được lượng thức ăn cũng như tình trạng sức khỏe của cá nuôi, giúp họ có thể điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý, nếu không thì dễ dẫn đến tình trạng thức ăn dư thừa vừa mất hiệu quả kinh tế vừa làm ô nhiễm nước trong ao, dẫn đến tình trạng phải thường xuyên thay nước trong ao và làm tăng chi phí vận hành trong suốt vụ nuôi. 2 Hình 4.3. Phương pháp cho cá lóc ăn của người dân 4.3.4.7. Quản lý chất lượng nước ao Việc quản lý chất lượng nước ao cũng là một khâu rất quan trọng. Kết quả điều tra cho thấy nông dân quản lý chất lượng nước ao có chứa vèo cá lóc nuôi bằng các phương pháp như thay nước đinh kỳ (mỗi tuần thay một lần), quan sát màu nước và xử lý bằng hóa chất (Bảng 10). Quản lý chất lượng nước bằng phương pháp thay nước định kỳ chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), kế đến là quan sát màu nước (43,33%) và cuối cùng là xử lý nước ao bằng hóa chất mỗi khi nước ao bị ô nhiễm. Tùy vào kinh nghiệm nuôi, mà mỗi người nuôi có thể áp dụng một phương pháp khác nhau. Bảng 10: Phương pháp quản lý chất lượng nước ao Qua thực tế và kết quả theo dõi 3 hộ nuôi cho thấy, đối với những nông dân áp dụng việc thay nước ao theo định kỳ thì sẽ mang lại kết quả cao nhất, cá ít bị dịch bệnh và tăng trọng bình thường. Nhìn chung cách quản lý chất lượng nước ao của nông dân ở Phú Tân tương đối giống ở trường hợp nông dân ở Vĩnh Hội Đông huyện An Phú, quản lý chất lượng nước ao của mình bằng 3 cách nêu trên. 4.3.4.8. Quản lý dịch bệnh Động vật thủy sản sống trong nước nên quá trình phòng bệnh không giống gia súc trên cạn. Mỗi khi cá trong ao bị bệnh không thể chữa từng con mà phải chữa theo quần đàn. Thuốc dùng phải tính cho tổng số cá sống trong ao nên tốn kém nhiều, các loại thuốc chữa bệnh bên trong cơ thể động vật thủy sản thường phải trộn vào thức ăn, nhưng những con bị bệnh thường không ăn, những 2 Nội dung Tần suất Phần trăm (%) Quan sát màu nước 13 43,33 Thay nước định kỳ 15 50,00 Bằng hóa chất 2 6,67 Tổng 30 100 con khỏe lại ăn nhiều, nên dù có sử dụng loại thuốc đúng nhưng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTP0162.pdf
Tài liệu liên quan