BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------
ĐOÀN DUY LINH
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
ơ
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn khoa
học tận tình, chu đáo của cô Lê Thu Yến, người trực tiếp
hướng dẫn chúng tôi hoàn thành l
132 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2198 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uận văn khoa học này.
Chúng tôi chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể
Thầy, Cô khoa Ngữ văn và Phòng khoa học công nghệ Sau
đại học Trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh,
đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn những đóng
góp quý báu của quý Thầy, Cô trong Hội đồng chấm luận án
đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình hoàn thành luận văn
khoa học.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn quý đồng nghiệp, bạn bè
đã động viên và khích lệ chúng tôi trong quá trình học tập
và viết luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tất cả!
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thơ chữ Hán chiếm phần lớn trong tổng thể sáng tác của Cao Bá Quát. Con số hơn 1267 bài
thơ đủ để khẳng định ông là cây bút sáng tác bằng chữ Hán nhiều nhất trong lịch sử văn học dân tộc,
nhà thơ lớn của văn học trung đại. Việc nghiên cứu, khảo sát bộ phận thơ này là một việc cần thiết
và là niềm vinh hạnh cho người đi sau. Trước nay, qua văn học đã có nhiều công trình nghiên cứu
đề cập đến tư tưởng, quan niệm của Cao Bá Quát ở mảng thơ chữ Hán. Nhìn chung, các công trình
này thường nhằm mục đích giúp minh họa và soi sáng cho cuộc đời Cao Bá Quát hơn là xem thơ
chữ Hán như một đối tượng nghệ thuật cần nghiên cứu. Các tác giả chủ yếu tiếp cận từ góc độ tiểu
sử, hành trạng về tư liệu, về con người và nội dung thơ văn, tập trung ở một số bài quen thuộc. Đến
đây, chúng tôi tiến hành khảo sát 418 bài thơ chữ Hán trong tổng số 1267 bài thơ. Số lượng lớn
những bài thơ này thể hiện những tâm tư – tình cảm, nỗi niềm, khát vọng từ những cảm hứng nghệ
thuật của chính Cao Bá Quát trước cuộc đời.
Mặc khác, việc đi tìm một hệ thống giải mã tương đối hữu hiệu cho thế giới nghệ thuật thơ
chữ Hán Cao Bá Quát nhằm phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy cũng là vấn đề cấp thiết.
Bên cạnh đó, còn có sự ham mê hứng thú của người viết với tác gia này. Những thế giới nghệ
thuật còn nhiều tiềm ẩn từ những câu thơ, hình ảnh, ngôn ngữ… cứ như khêu gợi, thôi thúc người
viết. Mong muốn hiểu biết thì nhiều. Song khả năng lại có hạn. Người viết nghĩ nếu thực hiện tốt đề
tài này sẽ là sự đóng góp, bổ sung hiểu biết về tác gia lớn Cao Bá Quát, giúp việc giảng dạy, học tập
tốt hơn.
Đó là lý do thực hiện đề tài: Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2. Mục đích nghiên cứu:
2.1. Người viết muốn tìm hiểu thấu đáo về con người Cao Bá Quát cũng như thế giới nghệ
thuật trong sáng tác thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2.2. Việc nghiên cứu thơ chữ Hán Cao Bá Quát phục vụ cho việc giảng dạy, học tập của bản
thân.
2.3. Người viết muốn bày tỏ lòng kính trọng trước một nhân cách đáng quý và một tài thơ lỗi
lạc.
3. Lịch sử vấn đề:
Có nhiều công trình nghiên cứu thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tập trung theo ba hướng sau:
Hướng đi vào văn bản: Hướng này có một số bài viết và công trình nghiên cứu:
- Thái Trọng Lai (2004), “Vấn đề chú thích trong việc dịch thơ Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát
– Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
- Mai Quốc Liên chủ biên (2004), Cao Bá Quát toàn tập, Tập I, Nxb. Văn học – Trung tâm
Nghiên cứu Quốc học.
- Nguyễn Ngọc Quận (2004), “Vài nhận xét về tập thơ chữ Hán Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát
- Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dịch gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1984), Nhóm biên soạn gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác,
Nxb. Văn học.
- Trần Đại Vinh (2004), “Văn bản Cao Chu Thần thi tập”, Cao Bá Quát - Tham luận Hội
thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
Các bài viết, công trình nghiên cứu này tập trung tìm kiếm một văn bản tốt nhất, đúng nhất
cho thơ văn Cao Bá Quát nói chung và thơ chữ Hán nói riêng.
Hướng đi vào nội dung: có các bài viết, công trình sau:
- Nguyễn Kim Châu (2004), “Không gian đường đời và sự thể hiện nhận thức con người phi
lí trong thơ Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát – Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học.
- Nguyễn Huệ Chi (1961), “Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, tạp
chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 6.
- Nguyễn Huệ Chi (2003), “Tiếp cận nghệ thuật với hai chủ đề độc đáo trong thơ Cao Bá
Quát”, Tạp chí Văn học, Số 5.
- Đinh Thị Thái Hà (2003), “Lương tâm và khí phách qua thơ chữ Hán Cao Bá Quát”, Luận
văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hồ Sĩ Hiệp (2005), “Thi tiên trong thơ Thánh Quát”, tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2.
- Tố Hữu (2001), “Cao Bá Quát - Một khí phách hào hùng, một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc”,
Văn nghệ, số 17.
- Nguyễn Hữu Sơn (2004), “Cao Bá Quát và những câu hỏi trong thơ”, Văn nghệ, số 35, 36.
- Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Cao Bá Quát và những suy tưởng trong thơ”, tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 2.
- Nguyễn Tài Thư (1980), Cao Bá Quát con người và tư tưởng, Nxb. Khoa học Xã hội, H.
- Phạm Quang Trung (2003), “Bước đầu tìm hiểu quan niệm văn chương của Cao Bá Quát”,
tạp chí Văn học, số 10.
………………
Những công trình này thường đi vào một số bài thơ tiêu biểu cho khí phách, lương tâm, tình
cảm … trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Hướng đi vào từng bài cụ thể: có một số bài viết sau:
- Trịnh Bích Ba (2004), “Đọc bài Dương phụ hành của Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát
- Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
- Lê Bảo (1991), “Bài ca cái roi song”, trong sách Những bài thơ hay, Nxb. Hà Nội.
- Mai Quốc Liên (2005), “Một bài thơ kỳ tuyệt, một số phận khác thường”, Văn nghệ, số 19,
20.
- Nguyễn Thu Phương (2001), “Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát với thi pháp văn học
trung đại qua Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành”, trong sách Những bài làm văn chọn lọc 11,
Nxb. Giáo dục.
- Nguyễn Đức Quyền (2003), “Đề Sát Viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu”, trong sách
Bình giảng, bình luận Văn học, Nxb. Giáo dục.
- Vũ Dương Quỹ (2001), “Mộng vong nữ”, trong sách Giảng văn chọn lọc – Văn học Việt
Nam (Văn học dân gian và văn học cổ, cận đại), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội .
- Trần Thị Băng Thanh (1998), “Dương phụ hành”, trong sách Giảng văn Văn học Việt Nam
(Văn học dân gian và văn học cổ đại, cận đại), in lần thứ 3, Nxb. Giáo dục.
-Trần Thị Băng Thanh (2004), “Một thoáng nhìn của Cao Bá Quát: Giữa đường gặp người
đói”, Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
………………….
Hướng đi này thường bộc lộ cảm hứng riêng đối với một số bài thơ hoặc tranh luận về một
vấn đề chưa nhất trí…
Gần đây là công trình của Nguyễn Ngọc Quận (2005), “Sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến
trình văn học”, Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, một mặt
đã sưu tầm, xử lý và công bố tác phẩm Cao Bá Quát nói chung thơ chữ Hán nói riêng; mặt khác
bước đầu tìm hiểu đặc điểm về nội dung và nghệ thuật thơ văn Cao Bá Quát cũng như bộ phận thơ
chữ Hán.
Nhìn chung, nhiều công trình đề cập đến thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Trong đó, các tác giả
chú ý về mặt tiểu sử, hành trạng, văn bản, về nội dung, tìm hiểu tư tưởng, tình cảm để hiểu về con
người và cuộc đời Cao Bá Quát. Những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát hầu như là
một vấn đề chưa được đề cập đến một cách toàn diện, có hệ thống và chưa được khai thác sâu.
Tiếp thu những công trình trên, người viết đặt vấn đề nghiên cứu những đặc điểm nghệ thuật
thơ chữ Hán Cao Bá Quát trên một số phương diện nổi bật: hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ
thuật…, ở phạm vi rộng hơn: 418 bài thơ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khảo sát toàn bộ 418 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát trong cuốn Cao Bá Quát
toàn tập, tập 1, do Mai Quốc Liên chủ biên, Nhà xuất bản Văn học, 2004.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở những vấn đề liên quan đến văn bản trong một số đặc
điểm nghệ thuật nổi bật được tìm thấy như hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật…
5. Phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh… kết hợp với các thao tác như phân loại, thống kê, phân tích, so sánh đối
chiếu, phân tích tổng hợp… Các phương pháp và thao tác này này được dùng suốt ở các chương.
Đầu tiên là phân loại đối tượng, tiếp theo là thống kê các yếu tố có tính chất lặp đi lặp lại
nhiều lần. Sau đó, ở tùy từng loại, chúng tôi khảo sát theo những phương diện khác nhau, kết hợp
phân tích từng đối tượng, khái quát và rút ra những kết luận, đặc điểm quan trọng.
Trong quá trình khảo sát, nhận xét, đánh giá đối tượng, chúng tôi còn so sánh đối chiếu từng
phương diện với các tác phẩm của các tác giả khác để làm rõ thêm sự khác biệt cũng như những nét
đặc sắc nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
6. Những đóng góp của luận văn:
6.1. Luận văn bước đầu khảo sát những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát ở
phạm vi rộng - 418 bài thơ.
6.2. Luận văn đi sâu vào khảo sát từng phương diện trong thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán
Cao Bá Quát. Qua đó, rút ra được những nét đặc sắc về quan niệm nhân sinh, về sáng tạo nghệ thuật
của tác gia lớn Cao Bá Quát.
6.3. Từ những kết quả đạt được có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy, vào lĩnh vực tiếp nhận
và cảm thụ tác phẩm thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
7. Kết cấu luận văn:
Phần mở đầu.
Chương 1: Thời đại, con người và sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát.
1.1. Thời đại.
1.2. Con người.
1.3. Sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát.
1.3.1. Quan niệm sáng tác thơ văn của Cao Bá Quát.
1.3.2. Tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát.
1.3.3. Nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Chương 2: Hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2.1. Con người trách nhiệm.
2.2. Con người khí phách.
2.3. Con người bi phẫn.
2.4. Con người tình cảm.
2.4. Con người suy tưởng.
Chương 3: Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
3.1. Thời gian nghệ thuật.
3.1.1. Thời gian kiểm nghiệm.
3.1.2. Thời gian tĩnh tại.
3.1.3. Thời gian toan tính.
3.2. Không gian nghệ thuật:
3.2.1. Không gian “tầm cao”.
3.2.2. Không gian nỗi niềm.
Chương 4: Ngôn ngữ nghệ thuật.
4.1. Tiêu đề bài thơ.
4.2. Câu thơ.
4.2.1. Câu trần thuật.
4.2.2. Câu nghi vấn.
4.2.3. Câu cầu khiến.
4.2.4. Câu cảm thán.
4.3. Từ ngữ.
4.3.1. Từ tự xưng.
4.3.2. Từ biểu cảm.
Phần kết luận.
Chương 1:
THỜI ĐẠI, CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA CAO BÁ QUÁT
1.1. Thời đại:
Cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, lịch sử Việt Nam có nhiều biến chuyển lớn lao. Họ Mạc
sụp đổ. Vua Lê lên trị vì, dẫn đến sự phân chia Đàng ngoài, Đàng trong. Ở Đàng ngoài, Chúa Trịnh
lộng quyền dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với vua Lê, nội bộ nhà Chúa lại tranh giành quyền hành lẫn
nhau. Trong Đàng trong, nhà Nguyễn cùng nhân dân khai khẩn đất hoang, đời sống khó khăn, khổ
cực, lầm than. Cuộc khởi nghĩa của anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ như một “trận mưa
nhuần” dẹp yên “thù trong giặc ngoài”, lập nên triều đại Tây Sơn tiến bộ vào bậc nhất trong lịch sử
phong kiến. Thành quả quý báu ấy lại nhanh chóng bị hủy hoại trong tay vị vua trẻ Quang Toản ít
tài lắm tật, tin tưởng nịnh thần.
Năm 1802, nhờ sự viện trợ của nhà Thanh, Nguyễn Ánh đánh đổ nhà Tây Sơn thống nhất
giang sơn, thành lập vương triều Gia Long. Một vương triều nói như Nguyễn Tài Thư “có một
không hai trong lịch sử” cai trị.
Về chính trị, các thế hệ nhà Nguyễn luôn chuyên chế, độc đoán, vị kỷ. Mọi quyền hành đều
tập trung vào nhà vua: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát trong tay. Quy định “bốn
không” cũng được ban hành: không đặt chức tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy đỗ trạng
nguyên, không phong tước vương cho người hoàng hoàng tộc. Không chỉ vậy, pháp luật nhà
Nguyễn còn dã man, bạo tàn với “bộ luật Gia Long” tư thù, phản động và một đội quân khát máu
dùng trong những cuộc đàn áp nông dân.
Đối nội là vậy, còn đối ngoại thì triều Nguyễn trước sau vẫn giữ thái độ “thần phục” nhà
Thành, “bế quan tỏa cảng” với Phương Tây. Nhiều chính sách, thiết chế chính trị, tư tưởng văn hóa
xã hội của nhà Thanh được các vua triều Nguyễn tiếp thu, vận dụng một cách rập khuôn, cứng nhắc,
xem nó như là “khuôn vàng thước ngọc” trong cai trị. Trong khi ấy, triều đình nhà Thanh đã lỗi thời
trước sự phát triển của lịch sử, bản thân đang gặp nhiều khó khăn bởi “thù trong giặc ngoài”. Thần
phục mù quáng nhà Thanh, nhà Nguyễn ra sức ngăn chặn các trào lưu phát triển của thế giới lúc bấy
giờ, cố tình giữ đất nước trong tình trạng cổ hủ và trì trệ. Chính do vậy, tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước ngày một suy sụp và khốn đốn.
Nhà Nguyễn Ánh cũng có ước vọng xây dựng một triều đại vững mạnh, lâu bền như Nghiêu,
Thuấn nên đã thực hiện những cải cách về nông nghiệp, kinh tế cùng với chính sách thu hút nhân tài
nhằm làm đổi mới tình hình, tạo thế mạnh cho đất nước. Song, đó chỉ là những cải cách mang tính
nửa vời, thô sơ và thiếu căn bản chẳng có cách gì bổ trợ thêm cho cơ sở nông nghiệp và đời sống
kham khổ của lê dân, mà chỉ có lợi cho giai cấp thống trị; nên hệ quả của nó là nền kinh tế ngày một
tiêu điều, nông nghiệp mất mùa liên tiếp, tiểu công nghiệp và thương nghiệp đình đốn, bế tắc. Chính
sách văn trị, đề cao khoa cử, trọng vọng nho sĩ, phục hưng Hán học cũng chẳng ích nước lợi dân,
chủ yếu nhằm lôi kéo sự ủng hộ của tầng lớp Nho sĩ đối với vương triều mới.
Về văn hóa – tư tưởng, nhà Nguyễn khôi phục và phát triển mạnh hệ tư tưởng Nho giáo,
nâng nó lên địa vị độc tôn trong hệ tư tưởng Nho, Đạo, Phật. Những giáo lý “tam cương”, “ngũ
thường” và khẩu hiệu “ái quốc”, “trung quân”… được ngợi ca, phổ biến rộng trong nhân dân. Chế
độ học hành, thi cử… được chấn chỉnh. Nhà Nguyễn mong muốn có những con người mang lẽ sống
và tính cách của Nho giáo để có thể trung thành và tận tụy với sự nghiệp của mình. Nhưng dù cố
gắng đến đâu nữa, triều Nguyễn vẫn không thể thực hiện được điều đó. Thế nên, ý thức hệ của Nho
giáo tồn tại từ xưa đến nay ngày một suy đồi, khủng hoảng cuối cùng đã sụp đổ.
Chính trị hà khắc, kinh tế sa sút tồi tệ, xã hội rối ren, văn hóa – tư tưởng suy đồi đã đẩy dân
chúng đến cảnh trăm bề điêu đứng, nghèo xác, đói rét, bệnh tật, tinh thần hoang mang. Cuộc sống
tức thở vô cùng. Nhiều người rơi vào bước đường cùng, đại đa số là nông dân. Họ đấu tranh chống
bắt lính, bắt phu; họ rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực; họ gia nhập phong trào nông dân
ngày càng nhiều… Trong khi ấy vua chúa, quan lại, cường hào lại xa hoa lãng phí, ra sức vơ vét,
bóc lột, hoành hành… Kết quả tất yếu của chế độ hà khắc, của đói nghèo, áp bức, bóc lột là tranh
đấu, khởi nghĩa. Nông dân, giới trí thức bất bình, phẫn nộ và hành động chống trả bằng lời nói, bằng
hành động. Nếu trước kia, nông dân khởi nghĩa vì không chấp nhận sự thống trị của tân triều thì nay
họ đấu tranh chính vì bản chất phản động trong cai trị của triều Nguyễn. Thời Gia Long (1802 -
1819) mới chỉ có khoảng 50 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, nhưng đến Minh Mệnh (1820 – 1840) đã có
trên 200 cuộc, sang Thiệu trị (1841 – 1846) chỉ có 7 năm mà có gần 50 cuộc khởi nghĩa… Giới trí
thức Nho học cũng có những mối bất mãn sâu xa, những nỗi thất vọng chua chát với nhà Nguyễn.
Họ không tha thiết với việc làm quan: Ví như Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (Nam Định) đương chức
sử quan, nhân bàn luận về sử không hợp ý mà cáo quan về; Tiến sĩ Ngô Thế Vinh (Nam Định) vì
can việc trường thi bị cách hết quan chức, trở về lành dạy học, viết sách; Nghè Tân Nguyễn Quý
Tân (Hải Dương) làm Tri phủ nhưng rồi chán việc quan, bỏ đi chơi, phải bãi chức; Nguyễn Văn
Giai (Hà Nội) học rất giỏi mà không thiết gì thi cử đỗ đạt, sống rất phóng túng theo khuynh hướng
lãng mạn, châm biếm, làm cho giới tay mắt ở Hà Nội hồi ấy phải điên đầu về những trò chơi ngông
của ông… Hoặc họ có thái độ bất đồng với đồng liêu, khinh khi những con người bất tài, luồn cúi,
nịnh bợ như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Lạc; hoặc miệt thị cả vua như Phan Văn Trị… Một số
Nho sĩ khác mạnh mẽ hơn, muốn thay đổi nước cờ, tạo dựng cuộc đời đã đứng lên khởi nghĩa như
anh em Đoàn Trưng, Đoàn Hữu Ái, Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Cao Bá
Quát…
Những phong trào khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn đã làm cho tình thế đất nước ngày một
suy yếu. Triều Thiệu Trị, Tự Đức khủng hoảng, suy sụp, nhanh chóng lụi tàn. Phương Tây đang lâm
le dòm ngó. Các Nho sĩ tan vỡ giấc mộng công danh. Họ gửi gắm nỗi niềm thất vọng vào văn thơ.
Những lời than vãn về chí nam nhi, về “hùng tâm, sinh kế” thường thấy trong văn học lúc này.
Không chỉ vậy, các Nho sĩ tiến bộ còn hướng đến tầng lớp bình dân, viết về thân phận con người,
nhất là người phụ nữ và thân phận của họ. Văn học nửa cuối XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX vì vậy mà
đơm hoa kết trái ngọt ngào từ mảnh đất cằn khô sự sống, nói như Mai Quốc Liên, đó là “nền văn
học có tính chất phục hưng với một chủ nghĩa nhân đạo trác tuyệt”; và “lần đầu tiên trong văn học,
con người cá nhân được đặt vào vị trí trung tâm, được soi sáng từ bên trong, từ nội tâm và nhu cầu
hạnh phúc, nhu cầu phát triển nhân cách tài năng được đặt ra”.
Đối tượng của văn học thay đổi. Theo đó, những gì trước đây được coi là quy phạm, tao nhã,
phi ngã cũng bị phá vỡ. Thời kì này xuất hiện nhiều văn hào tên tuổi Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị
Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Những nhân vật tiếng tăm
này họ đã sống và chứng kiến những biến đổi thăng trầm của thời đại. Đặc biệt, các sáng tác của họ
cùng với tiếng nói đồng cảm, chia sẻ, trân trọng, thách thức, ngất ngưởng, tự do đã thật sự xoa dịu
nỗi đau và mở ra một chân trời mới cho con người. Vấn đề quyền làm người, quyền được tự do, con
người cá nhân… rất được xem trọng. Chất nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo được xem là những tư
tưởng tiến bộ, mở đường… Những khát vọng, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống tự do
được chấp cánh từ văn học…
Trong bối cảnh thời đại có nhiều biến động lớn lao ấy, Cao Bá Quát xuất hiện như một hiện
tượng lạ. Là một Nho sĩ, lý ra Cao Bá Quát phải luôn lấy chữ “trung quân ái quốc” làm đầu. Thế
nhưng, ông lại vùng lên chống trả quyết liệt chế độ phong kiến. Hành động này xuất phát từ sự ý
thức về bản nhất bạo tàn của triều Nguyễn, về xu thế tất yếu của lịch sử, nhất là từ lương tâm và khí
phách của ông. Có thể nói, những hoạt động thực tiễn của Cao Bá Quát cũng như những tư tưởng và
nguyện vọng của ông đã làm rõ xu thế đi tới tất yếu của thời đại, đồng thời cũng góp phần đẩy
nhanh quá trình phát triển của xu thế đó.
1.2. Con người:
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên, người làng Phú Thị,
tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Chu Thần sinh năm nào không rõ. Ông Chu Thiên
căn cứ vào một bài thơ của Cao Bá Quát nhan đề “Cảm tác” trong Mẫn Hiên thi tập, có những câu:
“Tự Đức tứ niên, thư ký lạp/ Nguyên tiêu tứ ngũ, biệt kinh đô” (Năm Tự Đức thứ tư vào tháng chạp
gửi thư đi/ Ngày rằm tháng giêng, từ biệt kinh đô, đã 45 tuổi), dự đoán ông sinh năm 1908. Ông Tảo
Trang rồi Vũ Khiêu căn cứ vào bài “Thiên cư thuyết” có đoạn viết: “Dữ di niên phủ nhị kỷ nhi sơn
hà thành quách chi cựu, tam duyện kỳ biến cải…” (Với cái tuổi của ta, mới hai kỷ mà núi sông
thành quách cũ đã thay đổi đến ba lần), phía cuối bài có ghi: “Nhâm thìn mạnh thu Chu Thần thị
thuyết” (Năm Nhâm thìn, tháng mạnh thu, Chu Thần viết bài thuyết), tính ra Cao Bá Quát sinh năm
1809. Căn cứ vào một số giai thoại về tuổi trẻ, việc đi thi và về cái chết của Cao Bá Quát để tính
năm sinh của ông, cũng thấy ông sinh vào quãng này.
Xuất thân trong một dòng dõi khoa bảng nhưng cha chỉ là một ông đồ hay chữ. Ngay từ nhỏ,
Cao Bá Quát đã được bố cho theo nghiệp nghiên bút, với mong muốn sẽ đỗ đạt, sống có ích cho đời.
Cao thông minh, học giỏi, lại sớm có ý thức về tài văn chương của mình. Câu chuyện về ba bồ chữ
mà người ta thường truyền tụng, tuy có cái kiêu căng tự phụ đáng chê trách nhưng cốt lõi là nói lên
một phần sự thật tài năng và cá tính của ông. Thêm nữa, lời khen của ông vua Tự Đức hay chữ
“Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”; sự suy tôn của người đời
“Thánh Quát”; sự giao du thân thiện của hai ông hoàng Tuy, Tùng trong nhóm thi xã Mặc Vân và
sự ngưỡng mộ, ngâm phục của bạn bè trong giới kẻ sĩ càng khẳng định thêm cái tài hơn người của
họ Cao. Không những có tài, Cao Bá Quát còn là một con người có hoài bão, khát vọng lớn. Nối chí
của thân phụ, ông ôm ấp canh cánh một nỗi niềm thờ vua giúp nước. Cái tâm lớn ấy cùng với bản
lĩnh của một nhà nho tràn đầy khí phách luôn háo hức trên con đường đi tìm vẻ đẹp đời mình.
Cao Bá Quát còn là một người năng động, phóng khoáng, thích tự do. Bởi vậy, ông ưa làm
theo ý mình, ít khi chịu theo khuôn phép. Nết ấy, ngay từ nhỏ, ông thân sinh của Cao Bá Quát đã
nhận thấy trong lời văn của con: “…Văn của Bá Quát hơn về tài tứ nhưng kém về khuôn phép”. Sau
này, nó biểu lộ trong mọi hành động của ông: đi thi làm bài thì cứ lấy ý riêng của mình mà suy luận,
đi chấm thi thì muốn vượt qua những nguyên tắc của trường thi. Cao Bá Quát gặp nhiều trắc trở
trong việc thi cử và trên con đường hoạn lộ cũng bởi do tính cách này.
Chuộng tự do, cởi mở nên Cao Bá Quát hay quan sát, tìm tòi, khám phá cuộc sống xung
quanh mình. Ông đi nhiều nơi, trải qua những cảnh sóng gió trên quê hương mình, nước ngoài.
Những dịp này đã giúp Cao Bá Quát có cái nhìn sâu sắc hơn về đời sống của nhân dân mình, về
những giá trị tinh thần của dân tộc đồng thời cũng nới rộng một tầm nhìn, một cách nghĩ trước
những cái lạ mắt. Những cái mới tiến bộ ở nước ngoài đã tác động và ngấm ngầm lay chuyển ý
nghĩ, tình cảm, thái độ trong Cao Bá Quát. Ông nhận thấy những mối nguy cơ đe dọa từ phương
Tây. Ông hưởng ứng những cái tiến bộ, sẵn sàng cởi bỏ những ràng buộc có hại… Ở Cao Bá Quát
có sự phá vỡ cách sống, cách nghĩ của một tri thức Nho gia. Chính lẽ đó, về sau, ông dám đứng lên
đấu tranh, hi sinh vì dân, vì nước.
Cuộc đời không như ý nguyện nhưng Cao Bá Quát vẫn cứ lạc quan trước mọi hoàn cảnh dù
khi thất chí, khi nghèo đói, khi bị tù đày, tra trấn. Bản lĩnh của con người giàu nghị lực, có lý tưởng
sống cao đẹp đâu chịu khuất phục trước mọi hoàn cảnh, lúc nào cũng phấn đấu vươn lên, lúc nào
cũng canh cánh tâm sự lo đời thái bình, người người no ấm. Với Cao Bá Quát, vào đời ví như “thân
ngựa ngàn dặm” vậy. Và tinh thần xem sách như “ngọn đèn muôn năm”. Quả đúng là tâm niệm
đáng ca ngợi của một nhân cách cao quý hết lòng vì mọi người. Tuy nhiên, Cao Bá Quát có lúc bất
mãn sinh ra kiêu ngạo vì chí nguyện không thành nhưng đó chỉ là ngững ý nghĩ thoáng qua. Nguyễn
Tài Thư đã rất tinh tế khi nhìn nhận khía cạnh này.
Đi đôi với một tinh thần giàu nghị lực, lạc quan, một lý tưởng sống có ích là một nhân thanh
cao, một phí phách hào hùng. Cao Bá Quát muốn có danh để thi thố tài năng, cống hiến cho đời
nhưng không vì thế mà ông khom lưng, cúi đầu nịnh nọt. Mến kẻ có tài có đức, Cao Bá Quát ghét
bọn nịnh nọt, luồn cúi, tham lam, hống hách. Sự việc dùng muội đèn chữa bài thí sinh tại trường thi
Thừa Thiên năm 1841, và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương về sau đã làm rõ nhân cách, bản lĩnh đó.
Cao Bá Quát sống trong cảnh bần hàn ngay từ thuở nhỏ nên ông biết quý trọng những tình
cảm thân thuộc từ phía gia đình, bạn bè, quê hương. Đó cũng chính là cái nôi để nuôi dưỡng ở ông
những tình cảm tốt đẹp sau này đối với những đồng bào cùng khổ, những ai bị áp bức và bất hạnh
trên đời. Quả thật, Cao Bá Quát có những phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho con người Việt Nam: vì
dân vì nước, trung dũng, kiên cường giàu nghị lực mà vẫn đậm tình người, tình đồng loại. Con
người ngoài đời và con người trong văn chương Cao Bá Quát luôn nhất quán trong ý nghĩ và hành
động, trước sau như một: Tất cả vì cơm no áo ấm, vì hạnh phúc của nhân dân.
Có thể nói, suốt cuộc đời Cao Bá Quát là một cuộc hành trình không nghỉ, không ngừng, lúc
náo nức phấn khởi tràn đầy hi vọng, khi chán nản ê chề, nhưng kết quả cuối cùng là tìm được đường
đi đúng đắn cho mình để thực hiện khát vọng suốt một đời người. Dẫu kết quả là thất bại nhưng đó
chính là tất yếu của một Cao Bá Quát, của một thời đại nửa đầu thế kỉ XIX. Một con người từng
biết: “Thẹn mình là một nhà nho mà lại tầm thường đến thế” (Độc dạ) đã không đi theo lối mòn của
đại đa số sĩ phu để ẩn dật mà đã vùng lên khởi nghĩa. Cao Bá Quát hi sinh. Cả cuộc đời ông đã hiến
dâng cho lẽ sống của thời đại đang tới.
1. 3. Sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát:
1.3.1. Quan niệm sáng tác thơ văn của Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát là một cây bút lớn của văn học trung đại, một tài danh của đất Bắc “giỏi thơ văn
hay chữ”. Bản lĩnh văn chương của ông không chỉ dừng lại ở số lượng tác phẩm mà còn thể hiện ở
chất lượng tư tưởng bên trong. Cởi mở, phóng khoáng, nhạy bén cùng với một tinh thần chủ động
canh tân của thời đại đã hình thành nên một phong cách độc đáo, có thể nói là “phun châu nhả
ngọc” để lại những tác phẩm bất hủ cho đời, như Trúc Khê từng nói: “Cao Chu Thần là người có
một thiên tài. Điều đó, không ai còn chối cãi nữa rồi. Cái thiên tài ấy đã biểu lộ ra ở phương diện
văn chương, để lại cho văn học giới chúng ta ngày nay một tập thi ca vừa Hán văn, vừa Việt văn;
nhất là Hán văn, ta phải nhìn nhận là một áng văn kiệt xuất”.
Từng xem văn chương là “vật báu lớn” (lời của Cao Bá Quát) vô giá nên trong suốt cuộc
hành trình của đời mình, Cao Bá Quát luôn tìm thấy ở nó những ý nghĩa sự sống thật sự cần cho
mình và cho đời.
Quan niệm về thơ, Cao Bá Quát viết: “Bàn về thơ, tuy có phải trọng về quy cách, nhưng làm
thơ thì phải gốc ở tính tình”. Điều đó có nghĩa là: thơ phải gắn với “tính linh”, thơ là kết quả của
“tâm chí” được đúc thành, tức là thơ phải nói lên cái gì sâu xa nhất của tâm hồn, của chí hướng
người làm thơ trước thời thế, trước vận mệnh của đất nước. Xem “tính tình” là gốc của thơ, Cao Bá
Quát đã đề cập đến một vấn đề cơ bản của sáng tạo nghệ thuật. Đó là sự rung cảm của nghệ sĩ. Nghệ
sĩ có rung cảm thật sự thì tác phẩm mới có hồn, mới có khả năng truyền cảm và mới có tính chất
độc đáo. Trong Thiên cư thuyết, Cao Bá Quát viết: “Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tùy từng nơi, khổ
hay vui là tùy từng cảnh, song trông thấy vật mà cảm đến việc, rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã
qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên như thế!”. Do vậy, đối với Hoa tiên và truyện Kiều, ông có sự
đồng càm sâu xa. Ví như, đọc Hoa tiên, Cao Bá Quát viết: “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì
bằng chữ tình, mà cái khó của đời không gì bằng sự gặp gỡ. Đem cái đó mà giải thích ra, theo loại
mà suy rộng ra, thì cái lí trong thiên hạ cũng đã biết quá nửa rồi. Ta đối với truyện Hoa tiên có một
mối cảm là vì thế”.
Coi trọng chữ “tình” trong văn chương, Cao Bá Quát nhấn mạnh yếu tố “chân” trong sáng
tác. Phải chân thật, phải xúc động thì hãy làm thơ, không nên gượng ép, giả tạo - Văn tất kỷ xuất
(Văn phải từ mình mà ra). Trong bài Vị mính tiểu kệ đồng Phan Sinh tọa đàm, Cao Bá Quát mượn
chuyện chọn bạn tâm giao: “Kén bạn không nên chuộng khí, chuông khí sẽ không thấy đức tính của
người”, chuyện uống chè: “Uống chè không nên ướp hoa, ướp hoa sẽ mất chân vị của chè” để nói
chuyện văn chương. Ông coi trọng cái thực, không muốn để các mùi thơm khác làm mất bản chất
đích thực của chè, không vì “một nắm của hiếm mà bắt mũi mình xem mãi những thứ không thực”.
Từ đó, Cao Bá Quát đi đến một kết luận trở nên nhất quán trong suy nghĩ về văn chương của đời
mình: “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rờm rà làm mất thể thơ Đại nhã”.
Thơ phải có hình thức đẹp và được sáng tác dưới sự chỉ đạo của một quan niệm đẹp. Nhưng
Cao Bá Quát phản đối chủ nghĩa hình thức trong sáng tác, phản đối lối sáng tác cầu kì, kiểu cách,
chỉ biết chạy theo câu chữ mới lạ và âm điệu khác thường, bởi vì: “Nếu tấm lòng cầu kỳ như Mạnh
Đông Dã/ Sẽ khiến cho ngòi bút của bác chỗ nào cũng hoang mang bất định (Phục dụng tiền vận
họa Di Xuân); “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rờm rà làm mất thể thơ
Đại nhã” (Vị mính tiểu kệ đồng Phan sinh dạ tọa). Chủ trương của ông là sáng tác phải bình dị, mộc
mạc như Tô Đông Pha và Hoàng Đình Kiên vậy: “Khí phách như Tô, Hoàng bác đừng cười/ Phong
cách bình dị, mộc mạc tưởng cũng không hại gì!” (Phục dụng tiểu vận họa Di Xuân).
Cao Bá Quát phê phán lối văn chương khoa cử, ủy mị, yếu ớt, mô phỏng đề cao tính “sáng
tạo” trong thơ. Trong lời đề bạt cuối tập thơ Rừng chuối, ông viết: “Cái bản chất của cây chuối luôn
luôn làm cho bẹ mới, nõn mới. Có cái mới mà làm cho nó mới lên, đó là nghĩa vậy”. Chu Thần cho
rằng cái học của khoa cử đã xâm nhập vào lĩnh vực văn thơ nên “Tiếng vang của phong nhã hầu
như đã tắt hẳn”. Dẫn một câu của Tô Thức “không học là hơn” cũng như một câu của Khổng Tây
Minh: “Người say thơ của các nhà không biết sáng tạo thì chẳng khác gì ăn món ăn của cổ nhân mà
không tiêu hóa được”. Ông muốn nói rằng đọc thơ văn người trước là cần, nhưng người làm thơ tự
mình phải sáng tạo, phải tìm ra cái mới. Chính do vậy đối với di sản văn học dân tộc, ông luôn tỏ
thái độ kính trọng, biết ơn: “Ôi! Người xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để
chấp lòng nối cánh cho văn chương của ta, mà lại coi thường được sao?” Từ đó, ông phê phán ba
loại người thơ: một là “người kém thì khổ về nỗi nhân tuần, dễ dãi”; hai là “người có hào khí thì
mắc vào bệnh nuốt sống, ăn tươi”; còn những người có sức học gọi là dồi dào, hí hửng tự đắc, thì
chỉ muốn vơ vét trăm nhà, thâu tóm mọi thể, thành ra mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao,
tô điểm có khéo, nhưng tinh thần còn thấp. Ba loại người này làm hỏng thơ.
Cao Bá Quát không chỉ yêu cầu tính sáng tạo của cá nhân mà còn yêu cầu nhà thơ phải là
người sống nhiều, từng trải, phải đọc nhiều, nghĩa là phải bắt nguồn từ thực tế với những cảm xúc
thành thật nhất. Được vậy, nhà thơ mới có cái ._.nhìn mở rộng, không rơi vào tình cảnh: “lải nhải nhai
lại từng câu từng chữ” như “con sâu đo muốn đo cả đất trời” (Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh
ngữ khúc hậu), như “nhìn con báo chỉ thấy một vằn” (Nhị thập nhị nhật đắc phong, hí trình chư
hữu). Thến nên, trong thơ, ông hay nói về sự trải đời của bản thân: “Đời ta sống không bở trải đời
mà than thở” (Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng Kim chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự), “Tuổi tuy
còn ít, song rõ ràng là đường đời đã biết qua bờ bến” (Hí tặng Phan Sinh).
Bàn về cái hay của văn chương, Cao Bá Quát cho rằng cái hay của văn chương là do chủ thể
quyết định. Do vậy, ông không bằng lòng với cách nghĩ bao lâu nay: “Người cùng thơ mới hay”.
Ông nghi vấn: “Ôi! Đúng như vậy chăng! Cũng đâu hết thảy đều hay. Đạt chưa thường là dở”. Ở
đây, Cao Bá Quát không hoàn toàn phủ nhận quan niệm “Thơ cùng rồi sau mới hay”. Trong một bài
thơ làm ở quê nhà sau thời gian xuất dương hiệu lực, Cao Bá Quát từng viết: “Văn chương là đạo
nhỏ, nhưng lại nhờ lúc cùng mà nâng cao” (Đắc Hà Thành cố nhân thư thoại cập gia tình kiêm vấn
cận tác). Ông yêu cầu xem xét tận cùng cho thấu nhẽ, để vừa biết cái hay dễ thấy của cùng, lại vừa
biết cái khó thấy của đạt, nhằm tự định đoạt cho khéo với mong mỏi thuyết phục người đời. Chủ thể
quyết định cái hay của văn chương. Bởi thế, ông viết: “Xem người thì có thể biết thơ. Cúc được họ
Đào để mắt tới nên cúc trở thành ẩn sĩ trong hoa, Sen được họ Chu để mắt tới, nên Sen trở thành
bậc quân tử của Hoa, Chuối đươc họ Hủ để mắt tới nên chuối trở thành rừng của thơ….”. Nói thì
dễ nhưng nhận thức cho sâu, hành động cho thấu lại lại không hề đơn giản. Cao Bá Quát nhắc nhở
người đời một lẽ thường không phải ai cũng rút ra được, lại càng không ai cũng có điều kiện thấm
nhuần rằng: “Nghĩ lại, người ta sống ở trên đời, dài ngắn có hạn, mà tính chất sự việc thì có lâu có
chóng, có đi có lại, cứ nối tiếp không cùng; đem cái có hạn ứng phó với cái không cùng, lòng với
cảnh gặp nhau, tình cảm tự nhiên vấn vít”. Con người dẫu là thiên tài, cũng nhỏ nhoi, là hữu hạn so
với cái lớn lao của đất trời, cái vô tận của vũ trụ. Người khôn ngoan chính là người biết tận dụng cái
mà đời cho anh, bồi đắp cái vốn có của mình, đừng so đo, tính toán hơn thiệt, để làm cho nó lớn lên,
giúp cho nó thành chất thành hình, thế là đã đạt rồi. Người làm văn chương cũng vậy.
Bàn tới cái hữu hạn có thể có của người cầm bút, Cao Bá Quát nói tới ba điều kiện. Một là đi
nhiều, vết chân đã in trên khắp non sông muôn dặm, cũng có nghĩa là trải đời để “Kim cổ sự đa tu
thức định” (Việc kim cổ có nhiều, cần phải nhận định vững chắc). Hai là, đọc nhiều, trong bụng
chứa đầy sách vở, cũng có nghĩa là biết thâu thái, chắt lọc để giúp cho sức nghĩ của bản thân: “Khán
thư song nhãn vạn niên đăng” (Xem sách, đôi mắt như ngọn đèn muôn năm). Ba là, biết sáng tạo
theo đặc trưng của nghệ thuật, lời nói bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như
bụi bặm, cám bã mà đem hun đúc thành gạch ngói. Và bốn là rất cần sự cảm thông, chia sẻ của
người sáng tạo. Cao Bá Quát biểu lộ điều này trong bài thơ nổi tiếng lấy tên là từ một câu trong
Kinh Dịch: “Đồng tâm chi ngôn kỳ khứu như lan” (Lời nói đồng tâm thơm tựa hoa lan). Mở đầu bài
thơ Cao Bá Quát viết: “Ngã đắc đồng nhân đạo/ Bằng lai dự hạp trâm” (Ta được đạo của kẻ đồng
nhân/ Bạn đến vui vầy há chẳng khuyên bảo).
Theo Cao Bá Quát, thơ có một chức năng xã hội riêng, có một sứ mệnh riêng. Thực hiện
chức năng và sứ mệnh đó là nhà thơ. Nhà thơ phải có trách nhiệm trước sự phát triển của lịch sử.
Điều đó ngụ ý rằng: Văn chương có ý nghĩa lớn đối với đời. Trước đó, Lê Quý Đôn từng nói: “Văn
chương là việc lớn để sửa đời”. Thánh Quát cũng có cách nghĩ như vậy. Ông viết: “Thi tửu phá
nhàn sầu” (Thơ và rượu đánh tan nỗi buồn vẩn vơ). Tác dụng của văn chương là góp phần nâng con
người dậy, hướng con người về phía trước. Trong bài thơ Đông Pha Xích Bích du ông có viết:
“Ngâm lưu khởi sa châu” (Tiếng ngâm thơ còn lại làm bãi cát nhổm dậy). Ngụ ý thơ hay vượt biên
giới, nó làm cho “đá cứng gật gù”1, như “nói pháp củ cải cũng nghe”2. Tác dụng của thơ nói chung
không chỉ đối với ngoại cảnh mà con đối với con người là vậy. Tác dụng kì lạ ấy được Cao Bá Quát
diễn tả qua chính sự trải nghiệm của bản thân khi ông đọc Khúc Yên Đài anh ngữ của ông Đô sát
Bùi Ngọc Quỹ: “Rồi bỗng đang ốm, ngồi nhỏm dậy, đứng phắt lên/ Nhắm hai mắt lại, bịt hai tai lại/
Tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng, lặng lẽ cho tâm hồn giong ruổi/ Tưởng như chính mình
bước chân đến tận nơi ấy” (Đề sát viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu)… Cao Bá Quát đề
cập đến chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ của thơ ca, nhấn mạnh và đề cao tính tích cực
1 Truyện cổ Phật giáo Ngoan thạch điểm đầu
2 Câu nói dân gian
của chủ thể sáng tạo. Điều đó cho thấy sự gắn bó giữa Cao Bá Quát và thơ văn rất bền chặt, sâu
nặng.
Quan niệm về văn chương của Cao Bá Quát nói chung, về thơ nói riêng có thể nói thật toàn
diện và nhất quán. Nó gần với quan điểm sáng tác những nhà văn, nhà thơ hiện đại sau này.
3.1.2. Tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, có tài. Số lượng tác phẩm để lại đồ sộ. Nhưng sau vụ khởi
nghĩa Mỹ Lương, thơ văn ông bị triều Nguyễn cấm đoán và thủ tiêu. Số lượng tác phẩm thất thoát
nhiều, giờ còn lại chỉ là những bản thảo chép tay. Nhưng đó là di sản đáng quý của một tài thơ trác
tuyệt. Sau khi tập hợp, sưu tầm lại, Thư viện Khoa học Trung Ương còn giữ được 12 tập thơ, 11 bài
văn xuôi viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ.
Để giới thiệu với bạn đọc và tìm hiểu về con người tài hoa khí phách này, nhóm tác giả Vũ
Khiêu đã tiến hành lựa chọn, loại trừ và tổng kết di sản của Cao Bá Quát gồm 1353 bài thơ và 21
bài văn chữ Hán. Năm 1970, nhóm Vũ Khiêu lại sàng lọc, chọn dịch ra 161 bài, tập hợp trong cuốn
Tuyển dịch thơ ca chữ Hán Cao Bá Quát để giới thiệu với bạn đọc. Tuy số lượng không đầy đủ
nhưng nó cũng góp phần quan trọng trong quá trình nghiên cứu Cao Bá Quát một cách toàn diện
hơn.
Năm 2004 đánh dấu cho bước đường nghiên cứu, thẩm định và dịch thuật tác phẩm Cao Bá
Quát. Cuốn Cao Bá Quát toàn tập được ra đời do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học tiến hành nghiên
cứu công phu trong 5 năm, với sự góp sức của đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật hàng đầu
nhiều thế hệ. Công trình khoa học này đã xác định: thơ văn Cao Bá Quát còn lại 1327 bài trong 27
bộ sách tay đã được sưu tầm, đối chiếu, giám định thật giả. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học cũng
đã cho xuất bản cuốn Cao Bá Quát toàn tập (tập 1) với 23 tác phẩm chữ Nôm (tồn nghi là 8 bài) và
418 bài thơ chữ Hán có phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và chú thích.
Năm 2005, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Quận tiếp tục khảo sát, thẩm định tác phẩm
Cao Bá Quát. Theo tác giả luận án, tác phẩm của Cao Bá Quát (phần viết bằng chữ Hán) không chỉ
dừng lại ở 12 quyển theo công bố của Nhóm Vũ Khiêu khi biên soạn Thơ chữ Hán Cao Bá Quát mà
con số lên đến 33 đầu sách. Sau khi khảo sát và thẩm định lại thì số lượng tác phẩm của Cao Bá
Quát được xác định cụ thể như sau: Về chữ Nôm có 1 bài phú, 10 bài hát nói; về chữ Hán có 2 bài
phú, 14 câu đối, 11 truyện ký, 18 bài kinh nghĩa, 4 bài ký, 5 bài tự, 1 bài văn tế, 1 bài thuyết, 2 bài
văn, 1267 bài thơ.
Nhìn chung, tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát đến nay có thể nói là khá đầy đủ.
Chúng tôi xin mượn lời của Giám đốc tâm Nghiên cứu Quốc học – Giáo sư. Tiến sĩ. Mai Quốc Liên
chốt lại phần này:“Qua toàn bộ văn bản đã sưu tầm, dịch thuật ấy, chúng ta ngày nay có thể ôm
trọn trong tay mình cái di sản vĩ đại của một nhà thơ kỳ tuyệt. Nó làm hiện lên, tuy dường như đã
quen mà bất ngờ, cái tầm vóc sừng sững, ít người sánh kịp, dường như cô đơn giữa rừng tác giả thơ
hàng ngàn năm của chúng ta”.
3.1.3. Nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát sáng tác bằng chữ Nôm lẫn chữ Hán, với số lượng lớn, thể loại phong phú.
Nhưng đáng lưu ý là ở thể loại thơ, nhất là thơ chữ Hán với số lượng 1267 bài.
Trước đây, qua mảng sáng tác chữ Nôm, nhiều người có cái nhìn lệch lạc về con người Cao
Bá Quát. Những vần thơ Nôm của ông thường hài hước, chua chát, đắng cay. Mảng sáng tác chữ
Hán, nhất là thơ chữ Hán mạnh mẽ và hùng tráng, phản ánh bản chất con người Cao Bá Quát với
khí phách và lương tâm cao cả, nói như Giáo sư. Tiến sĩ. Mai Quốc Liên: “Trong hàng ngàn bài còn
lại ấy, hiện lên chân dung, tính cách một nhà thơ vĩ đại”. Sau đây, chúng tôi xin điểm qua những
nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác thơ chữ Hán của Cao Bá Quát.
Về nội dung: Thơ Cao Bá Quát phong phú nội dung cảm hứng. Trước hết, văn thơ của ông là
tiếng nói của một cá nhân trước cuộc đời, trước thời đại. Một cá nhân ý thức về mình, có trách
nhiệm với đời, lòng tràn ngập tư tưởng nhập thế tích cực với khát vọng cống hiến tài năng cho đất
nước. Một cá nhân muốn vươn mình lên trong cuộc sống, lạc quan, kiên trì, giàu nghị lực trong mọi
hoàn cảnh. Cá nhân đó còn là một con người có tinh thần tự do, khí phách. Thơ văn ông còn bộc lộ
tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt tiếp nhận những hương vị, những màu sắc xa lạ với
cái nhìn truyền thống. Không chỉ vậy, trong thơ Cao Bá Quát còn cho thấy tình cảm tha thiết gắn bó
với quê hương xứ sở, với gia đình, bạn bè và những con người cùng khổ; niềm tự hào với quá khứ
lịch sử dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ triều chính đương thời.
Cao Bá Quát đã tỏ rõ khí phách hiên ngang, tư thế hào hùng vượt hoàn cảnh trong không khí
thơ ca của nhiều người nặng mang màu sắc bi quan, mang nặng tinh thần chán nản và uể oải, do sự
thống trị nặng nề của tư tưởng thần quyền và thế quyền. Ngoài những bài thơ thể hiện tâm sự cá
nhân của mình, Cao Bá Quát viết nhiều bài thơ về thiên nhiên, thể hiện tình yêu, tình cảm gắn bó
với nét trữ tình sâu lắng, mạnh mẽ, hào hùng.
Về nghệ thuật: Một điều dễ thấy ở thơ văn Cao Bá Quát là dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán,
thể loại nào thì “ý tứ” rất phong phú, rất lãng mạn nhất là thể Hát nói và thơ chữ Hán. Điều này cho
thấy cảm xúc của ông dạt dào, những khuôn khổ hình thức cứng nhắc không thể bó buộc cá tính và
bản lĩnh của ông. Một phần đóng góp không nhỏ cũng là nét đặc sắc trong văn thơ của Cao Bá Quát
chính là ngôn ngữ thơ. Nếu như ngôn ngữ trong thơ Nôm giàu sắc thái dân tộc, phong phú uyển
chuyển, giàu nhạc điệu thì ngôn ngữ trong thơ chữ Hán chắc nịch, mạnh mẽ, linh hoạt, giàu sắc thái
biểu cảm và mang đậm tính cá nhân, bản lĩnh của ông. Giọng điệu trong thơ văn ông, nhất là thơ
chữ Hán cũng có nhiều sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu như thơ Nôm giọng điệu mới mẻ, trào tiếu thì
trong thơ chữ Hán sục sôi, hào sảng, trầm lắng, suy tư…. Chất tự sự trong văn thơ Cao Bá Quát
cũng là một điều đáng nói. Nó hòa quyện trong mạch trữ tình sâu lắng, làm bật nên tình và cảnh, số
phận và tâm trạng, hiện thực và mong ước… Thủ pháp nghệ thuật cũng được sử dụng phong phú,
nhất là hình thức liên tưởng với nhiều cấp độ; biện pháp nhân hóa được sử dụng một cách độc đáo,
có hiệu quả nghệ thuật cao.
Nhìn chung, thế giới hiện thực trong thơ Cao Bá Quát, nhất là thơ chữ Hán hiện lên rất sinh
động, đa dạng, nhiều sắc thái, nhiều cung bậc, mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời. Quyết
định sự thành công này chính là do bản lĩnh cá nhân, sự sáng tạo nghệ thuật miệt mài và tâm hồn
nhạy bén mẫn cảm trước cuộc đời. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã làm rõ “một tài thơ hiếm thấy” với
vẻ đẹp lương tâm và khí phách sáng ngời.
Chương 2:
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù quan trọng của thi pháp học. Nó hướng
ta nhìn về đối tượng chủ yếu của văn học, trung tâm quan niệm thẩm mỹ của nghệ sỹ. Hình tượng
nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính quan niệm của tác giả. Quan niệm nghệ
thuật gắn liền với thế giới quan, với quan niệm chính trị, triết học nhưng nó có sự chuyển hóa từ
quan niệm triết học, chính trị sang quan niệm nghệ thuật. Và quan niệm nghệ thuật này được thể
hiện ở sự lặp đi lặp lại nhiều lần, một cách tiếp cận, cách lí giải đối với con người.
Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát chính là tìm
hiểu quan niệm của tác giả thông qua hình tượng con người, nhân vật có mặt trong tác phẩm. Vì là
hình tượng con người, nhân vật trong thơ trữ tình nên chúng ta có thể xem xét ở nhiều góc độ: cái
tôi đối với bản thân, cái tôi đối với người khác, cái tôi đối với tự nhiên bên ngoài. Hình tượng nghệ
thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát phong phú và khá phức tạp khó mà tìm hiểu cặn
kẽ. Chất chứa qua lời thơ là những khát vọng, hoài bão lớn lao; những suy tư, trăn trở, dằn vặt;
những tình cảm, những trách nhiệm… của một cá nhân lỗi lạc “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Có thể nói đó là hình tượng con người có tầm cao rộng, thoáng đạt muốn chiếm lĩnh và thống trị thế
giới trước những thực tại với những bất công, đói nghèo, lạc hậu, những ước nguyện không thành
để rồi trăn trở, day dứt và hành động quyết liệt. Có lẽ bao trùm lên tất cả là cái tôi tự ý thức của cá
nhân, sự nhạy bén, mẫn cảm trước cuộc đời, thời cuộc. Sự tự ý thức, mẫn cảm ấy đã chi phối hình
tượng nghệ thuật con người trong tác phẩm. Giải mã hình tượng nghệ thuật phức tạp này chúng ta
cần thâm nhập vào thế giới trữ tình của tác giả.
2.1. Con người trách nhiệm:
Cao Bá Quát luôn sống có trách nhiệm với chính mình, gia đình và xã hội. Bởi vậy, thơ chữ
Hán của ông tràn ngập hình tượng con người trách nhiệm. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ
tiến hành khảo sát con người trách nhiệm đối với bản thân và xã hội.
Chu Thần sống có trách nhiệm với chính bản thân mình. Đó là lẽ dĩ nhiên. Bởi con người
không biết quan tâm đến mình, không chăm lo tu bổ công danh tài đức cho bản thân mình thì làm gì
nói đến việc giúp ích cho người, lo cho đời. Trong thơ, Cao Bá Quát luôn có tinh thần tiến thân
công danh bằng con đường văn chương khoa cử; lại luôn rèn luyện bản lĩnh cá nhân, trao dồi đạo
đức lối sống ở đời. Cao Bá Quát sớm mong đỗ đạt làm quan, thực hiện chức trách kẻ sĩ. Ông coi
"Chuyện chữ nghĩa là mưu tính của tuổi trẻ" (Mộ ý) và nhận thấy "Vào đời chỉ có con đường khoa
mục" (Nhập Vĩnh Lợi kiều). Sau này vào kinh ứng thí, Cao Bá Quát cũng từng nói "Trốn danh thì
còn ham muốn gì?" (Phó Nam Cung xuất giao môn chư biệt đệ tử). Nhưng văn chương là đất cay
đắng khổ ải, như cô gái đẹp trên nhà quá kiêu hoa (Ngũ nguyệt thập nhị nhật quan huyện thí). Lại
thêm chốn quan trường nhiều đố kị. Do vậy, Cao Bá Quát nhiều lần lận đận. Không cam chịu số
phận, ông luôn vượt qua bao khó khăn, rèn luyện thử thách. Cao Bá Quát đã 7 lần thể hiện thái độ
kiên nhẫn trên con đường công danh. Tinh thần này được thể hiện ở những bài Hoành Sơn vọng hải
ca, Chí nhật đồng Chí Đình tiểu ẩm tẩu bút thứ vận, Tạp hứng, Ký Lê Hy Vĩnh, Vũ hậu tẩu bút ký
viên cư nhị hữu, Phục tặng... Cao Bá Quát quyết tâm có công danh dù đã thất bại “mười năm đi thi
Hội”.
Trượng phu tam thập bất thành danh,
Đạp biến thiên nhai khí vị bình…
Ngâm bãi thất ca cánh hồi thủ
Mang mang thân thế độc du hành (Du Đằng Giang dữ hữu nhân đàng
Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
(Trượng phu ba mươi tuổi chẳng nên danh gì!
Dạo khắp ven trời, khí bất bình chưa dịu!..
Ngâm xong bảy bài ca, ngoảnh đầu nhìn lại.
Thấn thế mịt mờ, chỉ đáng trừng mắt trong đời)
Cao Bá Quát tin tưởng ở chính mình. Ông “há chịu mặc cái áo tơ bám bụi” (Trần Ngộ Hiên
nhục hữu sở thị tẩu bút họa chi), tin vào một ngày kia đỗ đạt công danh (Phục tặng). Sau này khi
bước chân vào đời, tinh thần Cao Bá Quát vẫn vậy. Có đến 4 lần ông đọ sức cùng gian nan. Ông
xem khó khăn là chuyện thường tình nên thản nhiên với cảnh ngộ (Mộ phạn bất cấp hí bút ký sự).
Ông thân ốm vẫn cứ ngược xuôi (Đáp Trần Ngộ Hiên), lại muốn đọ sức với đường dài để xem ai
khỏe hơn (Thuyền hồi quá bắc dữ, dư bão bệnh sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên
độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần Ngộ Hiên), rồi cười xòa trước gian nan, hát vang khúc
“Hành lộ nan” (Ẩm tửu đắc chư hữu gia tác tức phục tẩu bút thư nhị). Lúc ở tù, Cao Bá Quát cũng
tỏ rõ trách nhiệm với chính mình. Ông không buông xuôi mà cố vượt lên, tin rằng “Tạo vật nặn ra
mình hẳn là có ý” (Tội định – kỳ nhất), nên thay vì đau buồn đã lăn mình cùng cảnh tù đày “Đem
chí bên trong kìm giữ khí bên ngoà/ Không để cho những sự lo nghĩ nhỏ nhen nó kích thích” (Chinh
nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm), lại tổ chức mừng “sinh nhật” một năm
tù (Cửu nhật chiêu khách tính tự). Cao Bá Quát thật cứng cỏi, nguy hiểm không sợ, khó khăn không
chùng bước, trong hiểm nguy vẫn vươn tới. Quả đúng là “tinh thần thép” như Thương Sơn từng
nhận xét: “Vốn có tính của cây Tùng Bách/ Không trái với tư thế hiên ngang trong buổi trời đông
giá lạnh”3. Và sau này, ông cũng có lần ví mình như cây Tùng, cây Bách, với tư thế hiên ngang giữa
trời rét mướt (Bài ca cái roi song).
3 Bài Đề Cúc đường thi hậu
Rõ thật, kẻ sĩ Cao Bá Quát, về khía cạnh công danh sự nghiệp, sống đúng với tinh thần Nho
giáo đầy trách nhiệm. Công danh không phải là ước mơ tầm thường về “mũ cao áo dài” để “vinh
thân phì gia” mà là trách nhiệm, bổn phận của người trai với chính mình, như Nguyễn Công Trứ
từng quan niệm “Phải có danh gì với núi sông” (Chí nam nhi – Nguyễn Công Trứ). Ý thức được
điều này, Cao Bá Quát không hề buông xuôi mà lúc nào cũng phấn đấu vươn lên, sống có trách
nhiệm.
Cao Bá Quát có trách nhiệm với bản thân mình. Bởi vậy, ông luôn hướng đến lẽ sống chính
thiện, thanh cao, trong sạch không chịu cúi luồn, quỳ lụy, không hám lợi; luôn phải tranh đấu với sự
sống thường nhật để bảo vệ lý tưởng sống của bản thân.
Khi bước vào đời, Cao Bá Quát đã kiên quyết nói lên thái độ, quan điểm sống rạch ròi của
bản thân “Đạo không thể bẻ cong được, thà rằng chịu vụng về” (Họa Thận Tư sổ bộ Phương Đình
nguyên tác); “Trải gió chẳng vì thu đông mà biến đổi” (Vịnh tiên phát thảo)… Cao Bá Quát biết
mình nghèo (Tán sầu), nghèo hơn cả Đào Nguyên Lương (Tân ngụ hí bút, thị đồng xá Dương Lục
Lang) lại hay bị những cơn đói hoành hành (Mộ phạn bất cấp hí bút kí sự) nhưng ông không bao
giờ vì miếng ăn mà đánh mất nhân phẩm. Ông giống như Đông Phương Sóc, lòng không sợ đói
(Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác). Ông từ chối sự giúp đỡ của người đời, tự thấy mình chỉ là
“quả bầu treo không” (Mộ phạn bất cấp hí bút kí sự). Ngẫm lại câu nói “Người ta đói đến đâu cũng
không thể chết, nhưng no một bữa là đủ chết”4 mới thấy cái lí của Cao Bá Quát khi khước từ miếng
ăn. Vượt qua những thử thách của đời sống thường nhật, Cao Bá Quát càng có ý thức hơn giá trị
làm người của mình trên con đường hoạn lộ. Ông ngẩng cao đầu, ngất ngưởng, bước một cách hiên
ngang, ngay thẳng trên con đường công danh.
Đạp hướng danh đồ bất điệu đầu (Trường giang thiên – kỳ tam)
(Bước lên con đường “danh” đầu vẫn ngay thẳng)
Mang trong lòng tâm chí to lớn, trong sáng, Cao Bá Quát hiên ngang ngay thẳng bước trên
con đường công danh với tinh thần đầy “hạo khí”5 (tinh thần chính đại cương trực). Trong khi phần
đông những kẻ sĩ vì lợi lộc, vì háo danh mà trở nên dung tục, tầm thường. Họ thật sự đã say mềm vì
thứ rượu ngon này (Sa hành đoản ca). “Đường làm quan (như giấc mơ) ít ai tỉnh sớm”6, mấy ai đọc
câu thơ có mấy chữ “toại sơ y”7. Cao Bá Quát trong số ít những người tỉnh táo giữ được “nhất sinh
tâm”8 trước danh lợi, không để “hình hài sai khiến lòng dạ của mình”9. Thậm chí, khinh thường cái
4 Truyện ngắn Một bữa no của Nam Cao
5 Bài Thứ vận Phương Đình, Hoán Phủ, Thận Tư phân vận ngũ thủ - kỳ tam)
6 Hoạn đồ tối thị tiên tinh thiểu (Bài Ký Nguyễn cố hữu hồi tịch)
7 Câu thơ của Lý Bạch trong bài Tống Hạ Giám qui Tứ Minh ứng chế
8 Do hạnh nhất sinh tâm (Cũng may còn giữ được tấm lòng bản sinh) (Bài Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện biệt
phụng ký – kỳ nhị)
9 Tri phi hình dịch giả (Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình – kỳ ngũ)
“giàm danh” – danh lợi tầm thường, xem nó chẳng khác nào như trận mưa buổi sáng sớm tan biến
vào hư không (Đêm xuân đọc sách). Cao Bát Quát có lúc tự nghĩ: “Đời thịnh đang chuộng văn
chương”10, “Đời thịnh đâu có bỏ phí tài năng?11”, cớ sao mình lại long đong lận đận? Hay mình “vì
lơ đãng, vụng về, tự rước lấy lỗi”12. Chắc có lẽ Cao Bá Quát vụng về, lơ đãng vì không thích làm
theo “ý trời”, không biết vào luồn ra cúi. Và nếu vậy, Cao Bá Quát quả là con người thanh cao,
trong sáng như “con hạc nội khó thuần dưỡng”13. Trong thơ, Cao Bá Quát 4 lần ví mình như “chén
thủy tinh rạng rỡ”14, như “cây lan thơm”15 như “chim hạc”16, trong hoàn cảnh tù ngục mà đêm đêm
lấp lánh như thanh gươm qúy chôn vùi ở Phong Thành (Cấm sở cảm thụ, túng bút ngẫu thư). Ý thức
về nhân cách, Cao Bá Quát luôn khinh bỉ bọn vô tài, bọn vào luồn ra cúi, hứa với lòng không thể
sống như con nhà họ Mạnh dâng rượu nho để cầu quan (Bài Ngụ sở cảm sự mạn bút thư hoài),
không như Ung Xỉ hạ mình để được phong hầu (Đông vũ ngâm), càng không bao giờ thèm lấy cái
vinh của người đời bạc bẽo trên con đường tiến thân (Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình
Vận - thập thất thủ). Cao Bá Quát đã 8 lần gọi bọn quan lại xu phụ, luồn cúi, mưu lợi cầu danh với
những cái tên miệt thị, khinh khi, nào là “mặt trời u ám”17, “đám mây đen” 18, “bọn gà vịt”19 chỉ biết
mưu thóc gạo quanh quẩn kiếm ăn, là “đàn quạ xúm đậu nơi vườn tốt tươi”20, là “chim sáo đem thân
nhốt trong lồng son, cứ thui thủi trong đám phong trần”21, cay độc hơn nữa chúng là những “con
rận ăn bám chuyên hút máu người dân vô tội”22. Cao Bá Quát khinh ghét và cự tuyệt không thể
dung hòa cùng bọn chúng. Từ ý nghĩ đến lời nói, từ cử chỉ đến hành động, Cao Bá Quát luôn tỏ ra
đường hoàng thư thái. Hành động “cúi đầu”, “chui đầu”, “cúi ngửa” theo chúng không thể nào chấp
nhận được. Cao Bá Quát có đến 4 lần tỏ rõ phẩm chất và khí phách của mình.
Đê đầu ải ốc khí bất xương (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường
Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế)
(Cúi đầu, luồn mái nhà thấp, nhục cả khí phách)
Đê đầu cửu yếm đạo lương mưu (Di Xuân dĩ tu trúc sinh hoa thi kiến
thị, tức tịch tẩu bút cơ dĩ đáp chi)
(Cúi đầu, đã chán ghét từ lâu cái thói mưu thóc gạo)
An năng đê đầu ải ốc, phủ ngưỡng tùy tha nhân? (Đông vũ ngâm)
10 Minh thời phương hiếu văn (Bài Tân mông hồi bộ)
11 Kinh phong hốt hà tòng (Bài Đắc gia thư, thị nhật tác)
12 Sơ chuyết tự chiêu đắc (Bài Đắc gia thư, thị nhật tác)
13 Bài Ký Lê Hy Vĩnh – kỳ nhị.
14 Hoàng hoàng thủy tinh trản/ Chiếu kiến thốn tâm minh (Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận)
15 Cô lan ám kỳ hinh (Bài Độc thi)
16 Cố ưng cô hạc đồng thê địa (Bài Đoàn Tính lâm hanh bả tửu vi biệt, tẩu bút chi hữu)
17 Bài Đằng tiên ca.
18 Bài Trung dạ thập tứ vận.
19 Bài Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi biệt, tẩu bút chi; bài Di Xuân dĩ tu trúc sinh hoa thi kiến thị, tức tịch tẩu bút ca dĩ đáp chi.
20 Bài Bệnh trung
21 Bài Vịnh chim sáo
22 Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ vận Phương Đình vận
(Có lẽ đâu chui đầu vào mái nhà thấp, cúi ngửa theo ý người khác!)
Trượng phu lập thế thủ ý khí,
Ải ốc đê nhan ngô sở sĩ (Tống Lê Dũng Hòa bị mệnh về kinh)
(Kẻ trượng phu ở đời cốt giữ lấy ý khí,
Ra vào lòn cúi là điều bọn ta lấy làm xấu hổ)
Cao Bá Quát không thể cúi ngửa, lòn cúi theo người. Ông chính là kẻ trượng phu cốt giữ “ý
khí” làm trọng. Cách sống đó khác gì cách sống của Nguyễn Công Trứ tự do, “ngất ngưởng” trước
đó. Sau này, Cao Bá Quát nhiều lần bị thi rớt, bị quan trên đè nén là vậy. Ông chẳng khác nào như
“Ngọc bích trắng xưa nay thường bị sứt mẻ/ Gái mài ngài dễ bị chê bai”23. Con người ấy mâu
thuẫn với đại bộ phận giai cấp phong kiến, những kẻ bóc lột bề trên nhưng lại thân thiện với đồng
bào cùng khổ và những thân phận bị áp bức.
Rõ thật, cách sống của Cao Bá Quát là cách sống của bậc đại nho, cốt cách của Cao Bá Quát
là cốt cách của bậc quân tử. Ông luôn sống có trách nhiệm với chính mình. Theo thời gian, tinh thần
trách nhiệm ấy cùng với tấm lòng nhân hậu đã sản sinh những tình cảm, trách nhiệm lớn với xã hội,
đất nước.
Cao Bá Quát vào đời đúng với tinh thần của một nhà Nho truyền thống, mẫu mực. Niềm
mong mỏi có công danh không chỉ để vinh hiển bản thân, gia đình mà cốt yếu thực hiện hoài bão
giúp vua trị vì, giúp dân lạc nghiệp. Một vị trí cần có trong xã hội phong kiến khoa bảng là bức
thiết. Điều đó lí giải vì sao Cao Bá Quát vất vả lắm mới thi đỗ Cử nhân lại tiếp tục dự thi Tiến sĩ
nhiều lần thất bại vẫn không nản chí.
Từng quan niệm kẻ làm trai cái chí lớn phải ở muôn dặm (Thanh Trì phiếm chu Nam hạ), lẫn
trách nhiệm với đời phải làm được việc phơi gan bẻ gãy chấn song, giữ vững cương thường, truyền
hịch định bốn phương (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế) nên
Cao Bá Quát vào đời với tinh thần trách nhiệm cao. Ông khao khát góp sức mình cho xã hội. Ông
dốc lòng mưu sự vì đạo (Tống Sơn Tây học chính Nguyễn Đài chi lỵ), gây dựng lễ trong nhân dân
(Tu lễ dĩ canh) với mong muốn mọi người sống tốt, sống có ích cho xã hội. Cao Bá Quát còn muốn
trồng một rừng mai để tạo một quang cảnh đẹp mắt cho mọi người ngắm xem (Tài mai), muốn cứu
rỗi nhân tài cho quốc gia để sớm đưa nước nhà trên con đường vương đạo (Tuân vương chi lộ) nên
“chữa bài thi” cho những thí sinh có tài. Những ý nghĩ và việc làm đó cho thấy ông có ý thức trách
nhiệm đối với xã hội. Cao Bá Quát từng nghĩ rằng: “Khi thuận đường hãy noi gương các bậc hào
tuấn”24. Bởi vậy, ông đã 14 lần ca ngợi những con người vì nghĩa, những vị công thần vì dân vì
nước, những bạn bè có cách sống cao cả như Đỗ Trọng Liên (Lỗ Trọng Liên nghĩa bất đế Tần), Chu
Vân (Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác ), như Văn Cử, Tử Chiêm (Mông đắc hồi bổ Hàn lâm, lâm
23 Bạch bích tòng đa khuyết/ Nga mi động kiến vưu (Bài Thuật hoài)
24 Bài Đắc bổ Hàn lâm sung biên tập vận học hỉ nhi thành phú
hành chư đệ tử tương tiễn, nhân thứ tiền vận vi biệt), Vũ Hầu – Gia Cát Lượng (Vũ Hầu xuất sư
biểu), Quí Trát (Bài hành thượng lưu điền), Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Vương (Vịnh
Hưng Đạo vương, Vịnh Chu Văn An, Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thường Tín kiêm trí Lê Hy
Vĩnh lão khế), người bạn họ Phạm hào kiệt (Phạm công tái nhục kiến quỹ tức tiền đề tẩu bút phụng
đáp)... Cao Bá Quát ca ngợi cuộc đời hoạt động sôi nổi của họ, sự cống hiến cho dân cho nước chứ
không chỉ tìm nơi chốn an nhàn mà hưởng thụ.
Là một kẻ sĩ, Cao Bá Quát luôn nhắc nhở mình ba điều trâm qui nơi chốn quan trường:
thanh, thận, cần (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế), “Làm
quan hãy nghĩ đến sự thanh bạch nơi công đường”25, học theo gương người xưa hết lòng ghé vai
gánh vác trách nhiệm của kẻ sĩ, trước công đường tự biểu lộ lòng chí thành (Chiết hạm tinh trực
thần), hết sức tha thiết vì dân cho dân, mỗi khi dân có việc lấy cái đạo lý ở đời làm cốt (Vĩnh Tường
thành đồng Trần Cung Trọng dạ túc)... Từ việc ý thức về mình, thấy rõ trách nhiệm với đời, Cao Bá
Quát đã rút ra cho bản thân mình nhiều bài học sống bổ ích. Không chỉ vậy, ông còn khuyên con
người ta: “Sống với nhau không nên giữ cái tình theo thói tục”26 mà phải thật lòng đối xử với nhau
bằng cái tình, lại khuyên người đời cũng như chính mình hằng ngày khi dỗ giấc phải thật lòng tự xét
mình “chân tỉnh sự”27 (thật lòng xét việc) để sống tốt, sống có ích hơn, không nên sống như người
anh trong bài hành “Thượng lưu điền”28.
Cao Bá Quát lo cho đời có cuộc sống yên vui, thanh bình như mong mỏi nước sông Hà trong.
Trách nhiệm ấy cứ vương vấn mãi như một nỗi ám ảnh day dứt kẻ sĩ.
Tấc lòng lo đời trọc loạn,
Con mắt già chỉ mong sông Hà nước trong (Đêm trăng ở nông thôn)
Phía tây bắc tiếng xe như sấm kêu suốt đêm
Mùa xuân này không thấy nước Nhị hà trong (Cảm tác khi nghe tiếng
đập lúa)
Cao Bá Quát muốn gánh vác trách nhiệm ở đời, muốn lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (Lại
gửi cho Phương Đình). Tấm lòng “tiên ưu hậu lạc” ấy day dứt mãi bên ngọn đèn lẻ loi trong suốt
mười năm (Độc dạ thư hoài). Bởi vậy, Cao Bá Quát luôn “Ước ao không phụ tấm lòng xưa”29.
Nhưng dù “thành tâm” cống hiến cho đời, ông vẫn không có cơ may thực hiện chí nguyện của mình.
Con người trong thơ trăn trở về trách nhiệm của kẻ sĩ - nhà nho không gặp thời “Không có một sách
lược gì làm cho đời thái bình/ Thẹn cho mình là nhà nho mà tầm thường thế”30. Bởi vậy, Cao Bá
25 Bài Đắc bổ Hàn lâm sung biên tập vận học hỉ nhi thành phú
26 Sinh nhân vô dĩ tục tình lưu (Bài Lưu vận họa Hoán Phủ)
27 Nhất sàng chân tỉnh sự (Bài Ký Lê Hy Vĩnh –kỳ nhất)
28 Bài hành này nói: cha mẹ mất sớm mà anh không nuôi em mồ côi để bây giờ như sao hôm, sao mai; mỗi người một phương
trời; thua cả “cây giao nhượng” (cây nhường nhau) ở núi Kim sơn bên đông bên tây lần lượt thay nhau tươi, héo...
29 Tố tâm kỳ bất phụ Bài Tương đáo cố hương
30 Bài Độc dạ
Quát nghĩ bấy lâu nay “Gom góp tri thức chỉ uổng phí” 31. Một chức quan Hành tẩu bộ lễ lại càng
thêm mỉa mai. Chu Thần có lúc lại cho rằng mình không đủ tài để đền đáp công ơn đức Thánh minh
(Đắc bổ Hàn lâm sung biên tập vận học hỉ nhi thành phú); chẳng tài năng gì nhìn sách vở mà thẹn
(Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác) nên đâm lo buồn, tự trách mình. Ông thấy mình như vô vị,
chẳng làm gì cho dân cho nước. Cao Bá Quát đã 4 lần nói lên tâm sự này qua các bài thơ Tặng Trà
Lũ cử nhân, Thập nguyệt thập nhất nhật thừa lễ Bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – Kỳ nhị,
Thập nguyệt thập nhất nhật thừa lễ Bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – kỳ tứ, Độc dạ…
Cao Bá Quát sống có trách nhiệm cao nên ông thấy thẹn với lương tâm mình, sinh bệnh,
thậm chí tâm trạng điên cuồng. Ông đã 3 lần tự thẹn, 1 lần bệnh, 2 lần điên cuồng. Cao Bá Quát
thẹn khi nhìn sách vở (Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác), khi nhìn trăng vàng (Trung thu kiến
nguyệt), vì mình là một._.ng)
(Sáu bức bình phong vẽ chàng Mẫn Hiên trên biển)
Sương tuyết ưng liên cúc độc khai (Tức tịch thứ vận)
(Đáng thương hoa cúc nở một mình trong sương tuyết)
Dùng các hình ảnh có liên hệ mật thiết với quê hương để chỉ cá nhân.
Linh qui khởi trùng vật
Sinh trưởng biệt Gia Lâm (Qui)
(Rùa thiên há phải vật côn trùng,
Lớn lên đi khỏi Gia Lâm)
Đức Giang chi dương,
Nguyệt hằng chi cương.
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu nhi tương vương (vọng) (Đằng tiên ca)
(Ở phía nam sông Đức Giang,
Ở đỉnh núi Nguyệt Hằng.
Trên có cây tùng, cây bách chết một nửa,
Nhưng vẫn cùng nhau đứng trơ trơ giữa trời rét mướt)
Điều này làm cho Cao Bá Quát khác với những thế hệ nhà thơ trước ông, cùng thời và cả sau
này nữa. Lớp từ tự xưng cho thấy cá tính Cao Bá Quát mạnh mẽ, sự ý thức cá nhân cao độ. Cao
giống những nhà thơ trước ông, cùng thời ông bởi lớp từ du nhân, du khách, tráng sĩ, anh hùng và
gần với nhà thơ hiện đại bởi cái nét phóng khoáng, lãng mạn của một khách giang hồ, tấm thân
chìm nổi của con người thế sự, … Ở mỗi trường hợp, Cao dùng từ tự xưng cho thích hợp. Ví như
khi đến nơi cổ kính trang nghiêm hoặc hướng về người xưa thì cái bản ngã của Cao là tráng sĩ, anh
hùng, du khách; để bộc bạch nỗi niềm thế sự thì Cao dùng ngã, ngô; để nhấn mạnh cái cá nhân thì
Cao dùng tên họ, tự, biệt hiệu; để hướng về quê hương với nỗi niềm thì Cao dùng tên đất, tên làng
để chỉ mình.
Lớp từ tự xưng còn thể hiện rõ con người cá nhân qua những lời đối thoại mang tính tự sự,
những lời độc thoại nội tâm. Điều này rất gần cái tôi cá nhân của con người hiện đại trong thơ văn
sau này. Cao Bá Quát đã độc thoại với chính mình trong nỗi cô đơn, lo toan, ngẫm nghĩ; Cao cũng
đã đối thoại với con người trong niềm cảm thông, chia sẻ… Chúng ta có thể điểm qua một số bài
thơ thể hiện cái cá nhân mạnh mẽ, phong phú; các phương thức biểu hiện cái cá nhân tự sự, như bài
Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu, Phụ tương tử, Cái tử, Phúc lâm lão, Trà giang thu
nguyệt ca, …
Như vậy, chúng ta thấy Cao Bá Quát rất có ý thức trong việc khẳng định mình và bộc lộc cái
tôi cá nhân. Cái bản ngã của ông được thể hiện phong phú, đa dạng, nhiều chiều. Điều này làm cho
cảm xúc thơ ông mạnh mẽ hơn. Thơ Cao Bá Quát gần với thơ hiện đại là vậy.
4.3.2. Từ biểu cảm:
Cao Bá Quát từng nói cái gốc của thơ là ở tính tình, tức là từ rung động, cảm với đối tượng
mà có thơ. Cảm xúc đó có thể là vui, buồn, giận, hờn, ghen, ham muốn, phẫn nộ, phê phán… Ở mỗi
nhà thơ, lại có những cảm xúc chủ đạo riêng, hướng về một đối tượng nào đó. Ví như Nguyễn Công
Trứ thiên về lối ngất ngưởng, ngạo đời; Nguyễn Du thiên về số phận con người cá nhân với những
lo toan trong cuộc đời. Riêng Cao Bá Quát, đó chính là cảm hứng, khát vọng thay đổi xã hội qua
những phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và hành động cụ thể. Tất cả đều xuất phát phát từ cội nguồn
của cái tâm cái tình mà ra cả.
Từ ngữ diễn đạt cảm xúc trong thơ Cao Bá Quát rất nhiều, cả những từ thiên về cảm hứng
trước vũ trụ lẫn những từ thể hiện xúc cảm trước cuộc đời, trước những thực tế mắt thấy tai nghe và
cả những nỗi niềm của bản thân riêng chung. Có thể thấy sự xuất hiện của các từ trù trướng, liên,
hoài, ức, cảm, oán, than, khổ, sĩ (xấu hổ), thương, hận, tiếu, sầu, thảm thê… Cao Bát dùng những
từ này biểu thị cảm xúc của bản thân trước cuộc đời. Đó là những suy nghĩ, nhận xét, đánh giá,
thương cảm… Cao Bá Quát không chỉ thương cho bản thân mà thương cho cả cuộc đời này. Thế
nên, ông trăn trở, oán giận những gì làm cho đời mình, cuộc sống này trở nên vô nghĩa, tù túng, khổ
sở; lại khát khao, hi vọng một ngày mai tương sáng cho đời mình, cho cuộc sống. Tất cả, những
cảm xúc ấy đều hiện diện qua câu chữ. Một niềm thương cảm ở Cao Bá Quát thật mênh mông!
Cao Bá Quát thương mình vì thân phận mỏng manh, trôi nổi, nhiều rủi ro;
Bán sinh mệnh bạc thương kê lặc (Thập nguyệt thập nhất nhật thừa lễ
Bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – kỳ nhị)
(Nửa đời người thân phận mỏng manh nghĩ chuyện gân gà mà thương)
Đỉnh đỉnh bách niên bi ngạnh phiếm (Trường giang thiên – kỳ nhị)
(Trăm năm đằng đẵng, thương cho chiếc thân như cành cây trôi)
Mỗi liên xỉ thiệt thường tao ngã (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu
nhân)
(Thương cho ta mỗi lần gặp cái vạ miệng lưỡi)
vì con cái ly biệt;
Ngã hà thảm thê (Thất tử)
(Sao tôi thảm thiết)
Lữ hồn túy tỉnh lưỡng kham liên (Khốc tử)
(Hồn lữ khách tỉnh say đều đáng thương)
vì đường đời trắc trở mà đôi chân thì quá ngắn;
Tự liên song đoản cước (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện
biệt phụng kí – kỳ nhị)
(Thương cho mình hai chân quá ngắn)
Cao Bá Quát lại thương cho người,
Nhất bộ nhất hồi thán (Phụ tương tử)
(Mỗi bước đi lại ngập ngừng than thở)
Khách tử lệ giao lạc (Sa hành đoản ca)
(Khách trên đường nước mắt lã chã rơi)
Khả liên dị cảnh diệc huề phù! (Quan chuẩn)
(Người ở nơi khác bồng bế nhau đến, tình cảnh đáng thương!)
thương cho người trong đó có mình.
Chính thị văn chương tân khổ địa (Ngũ nguyệt thập nhị nhật quan
huyện thí)
(Đúng thật văn chương là đất cay đắng khổ ải)
Kiến thời liên ngã canh liên quân (Biệt Phạm Đôn Nhân)
(Gặp nhau, ta thương ta lại thương cả cho bạn)
Lại thương cho cả cảnh vật nảy nở đơn độc hay không giữ trọn sắc xuân.
Sương tuyết ưng liên cúc độc khai (Tức tịch thứ vận)
(Đáng thương hoa cúc một mình nở trong sương tuyết)
Xuân sắc khả liên lưu bất trúc (Lạc hoa)
(Đáng thương là không giữ được màu xuân)
Nhất dạ thương xuân yểm ức trường (Du mỗ cố trạch dạ thính đàn tranh)
(Một tối thương xuân càng ấm ức hoài)
Cảm xúc ngậm ngùi cũng thường thấy trong tâm trạng của Cao Bá Quát. Cao Bá Quát ngậm
ngùi vì xa cách, vì để thói đời cứ cuốn trôi mãi.
Hạo hạo kiền khôn tích tạm phân (Biệt Phạm Đôn Nhân)
(Trời đất man mác, ngậm ngùi lúc chia tay)
Tự thán du du ủng tục tình! (Đăng Hoành Sơn)
(Ngậm ngùi cho mình cứ để thói đời lôi cuốn mãi)
Lại có một nỗi buồn, bồi hồi từ sự ngậm ngùi ấy.
Tân kính sương mao sầu tự đối (Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng
nhị tri kỷ)
(Buồn bã nhìn tóc bạc mình trong gương mới)
Tư lượng vãng sự thiêm trù trướng (Khách lộ cảm hoài)
(Đắn đo suy nghĩ việc đã qua thêm buồn)
Tôn tử bồi hồi đối tuyết mai (Đăng sơn hữu hoài)
Ngồi ngắm tuyết mai, nâng chén rượu bần thần mãi)
Buồn để rồi xót xa, cười nhạo chính mình.
Như hà cửu tọa linh tâm toán! (Kim nhật hành)
(Sao cứ ngồi mãi đây cho lòng xót xa!)
Thử khách sầu trung chỉ tự trào (Thù hữu nhân úy vấn)
(Cái lão ấy, hễ buồn là chỉ tự nhạo mình mà thôi!)
Nỗi buồn có khi là tiếng dế, một tiếng ngâm, một ngọn gió hoặc chỉ là những ưu tư phiền
muộn không giải tỏa được.
Dạ cùng thê thiết khủng triêm khâm (Thương Sơn công tịch thượng
nghĩ đông dạ quan vưu hối am minh sử nhạc phủ đồng hữu nhân phân phú)
(Tiếng dế đêm thê thiết e ướt vạt áo)
Điệu nhập tây phong oán khởi tri (Thâm dạ văn lân ông tụng thi)
(Tiếng ngâm vẳng qua cửa bắc buồn não nuột)
Trù trướng tây phong giang thượng khách (Cửu nhật Di Xuân kiến ký
thứ vận)
(Gió tây thổi, lòng khách trên sông buồn não nề)
Tục tình nan tự khiển (Độc dạ)
(Tình thế tục khó bề tự khuây khỏa)
Có khi, Cao Bá Quát đau lòng vì chính mình.
Chính khan nhân tự nhất bi thu (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu
nhân)
(Hãy nhìn thẳng tôi từ mùa thu đau lòng này)
Cao Bá Quát đau lòng để rồi thở than, phàn nàn.
Ngô chi sinh dã vô nhai, duyệt thế thâm nhi ngộ thán (Du Đằng Giang dữ hữu nhân
đăng Kim Chung tự, túy hậu lưu đề , tính tự)
(Đời ta sống không bờ, trải đời mà than thở)
Đồng du mạn thán tương phùng lãn (Đồng Bùi Nhị Minh Trọng Trà giang dạ bạc)
(Bạn đồng du, những than hoài là gặp nhau đã muộn)
Thán tức hà nhân ủng tuy khan! (Dạ quan Thanh nhân diễn kịch trường)
(Đáng phàn nàn cho ai đó cứ nghếch mỗi ngồi xem!)
để rồi căm hờn
Mang mang thân thế độc du hành (Du Đằng Giang dữ hữu nhân đăng Kim Chung tự,
túy hậu lưu đề, tính tự)
(Thân thế mịt mùng, chỉ đáng trừng măt trông đời)
để rồi oán hận
Ngã do di hận mãn đinh châu (Họa Thận Tư xuân nhật đồng chư hữu
đăng lâu quán vọng hồ kiến ký thứ vận)
(Ta còn nhiều mối hận chất đầy nơi còn bãi)
Trường hận thường giao luân cẩm tự? (Tiếp nội thư tính ký hàn y bút
điều sổ sự)
(Mối hận vô cùng, ai xui mình bàn việc dệt chữ gấm)
Na thức cổ lai trùng cửu hận (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu nhân)
(Ai mà biết cái hận trùng cửu từ cổ lai đến giờ)
Nhưng ông không nỡ đem nỗi oán hờn mà đề khắp giang thành! (Ký hận – kỳ nhị). Thế nên,
cái cảm xúc uất ức dồn nén thành nỗi ưu phiền bệnh tật, cảm xúc ấy đến độ điên, cuồng.
Đạo ngã hữu tại, bất tử duy mệnh cuồng (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất
lụy Thường Tín kiêm trí Lê Huy Vĩnh lão khế)
(Rằng, tôi còn khỏe, không chết, chỉ mắc chứng điên thôi)
Bạch dã chính dương cuồng (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành, khuyết vi
diện biệt phụng ký)
(Rằng: Lý Bạch lúc này đang giả điên)
Có khi là cảm xúc lạc quan với tinh thần tiến thủ lấy cái cười lấn át những khó khăn thử
thách, làm động lực tinh thần ở mỗi bước tiến. Cao Bá Quát đã cười trước bước đường vô định, gian
khó, cười trong ngục tù với khát khao tự do.
Thanh bào như thảo du vô xứ,
Độc bả suy nhan tiếu hướng thiên (Bài Viên cư trị vũ)
(Áo xanh màu cỏ không biết đi đâu,
Chỉ ngửa khuôn mặt gầy gò lên trời mà cười)
Nhất tiếu vọng sơn đầu,
Trường ca “Hành lộ nan” (Trấn An lệnh Lê Tử Chi nhiệm, đặc lai
tương phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ dữ chi)
(Cười xòa một tiếng nhìn lên đỉnh núi,
Hát vang lên khúc “Hành lộ nan”)
Hà đương giá tác vân thê khứ,
Nhất tiếu thừa phong ổn sán hưu (Trường giang thiên – kỳ tam)
(Ước gì đem gông này bắc làm cái thang mây,
Cười xòa một tiếng, cưỡi gió mà lên cho rãnh)
Cười cả khi buồn, cười để nhạo mình, cười để tự mình biết mình vậy.
Thử khách sầu trung chỉ tự trào (Thù hữu nhân úy vấn)
(Cái lão ấy, hễ buồn là chỉ tự nhạo mình mà thôi!)
Thủ bả liên hoa tiếu tự tri (Vãn du Sài Sơn vũ hậu đăng sơn đầu bề
bích – kỳ nhị)
(Tay cầm bông hoa sen, mỉm cười, mình tự biết mình)
Có thể thấy, Cao Bá Quát sử dụng từ biểu cảm rất linh hoạt và phong phú. Ví như để diễn tả
ý xót thương, Cao Bá Quát không chỉ dùng từ thương mà còn sử dụng cả từ liên, từ bi; diễn tả ý
buồn Cao Bá Quát có thể dùng từ trù trướng, sầu, du du, ưu; để diễn tả nỗi nhớ dùng ông dùng từ
ức, hoài, tư... Điều này làm cho việc phối hợp vần điệu của câu thơ, bài thơ dễ dàng hơn...
Tóm lại, Cao Bá Quát rất có ý thức khi sử dụng vốn từ biểu cảm để bày tỏ cảm xúc của lòng
mình. Điều đó làm cho cảm xúc trong thơ của ông mãnh liệt hơn, lôi cuốn người đọc hơn. Một kẻ sĩ
có trách nhiệm với đời hẳn không thể thiếu những cảm xúc, xúc cảm chân thành trong thơ. Lớp từ
biểu cảm đã cho chúng ta thấy và hiểu rõ hơn một Cao Bá Quát có tấm lòng “lo trước thiên hạ vui
sau thiên hạ” trong cuộc hành trình đi tìm chân lí sống của đời mình.
PHẦN KẾT LUẬN
Thơ chữ Hán là di sản quý giá nhất trong toàn bộ sáng tác của Cao Bá Quát. 1267 bài thơ chữ
Hán đã làm bật lên vẻ đẹp khí phách và lương tâm của một tài thơ trác tuyệt Cao Bá Quát nửa đầu
thế kỉ XIX. Thế giới nghệ thuật trong thơ ông vừa mới lạ vừa độc đáo. Nó được hun đúc và tạo ra
bởi bàn tay và khối óc của Thánh Quát trên cái nền thời đại nhiều biến động.
Khảo sát 418 bài thơ, luận văn đã hệ thống lí giải và nêu được một số vấn đề sau:
1. Khái quát được bối cảnh thời đại, con người Cao Bá Quát và đặc biệt là quan niệm sáng
tác thơ văn Cao Bá Quát. Điều này, giúp cho chúng ta có cái nhìn đúng về Cao Bá Quát, con người
trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2. Luận văn đã đi sâu vào thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát phát hiện hình tượng
con người nghệ thuật với nhìn tích cực, tiến bộ về cuộc đời, thế giới và bản thân. Con người trách
nhiệm hiện lên với vẻ đẹp của kẻ sĩ đối với chính mình và xã hội. Từ việc ý thức trách nhiệm này,
con người đã tỏ rõ khí phách, bản lĩnh, khát vọng, phẫn uất, trăn trở, suy tư… trước cuộc đời. Con
người khí phách luôn nêu cao tinh thần tự do, hành động phản kháng dám nghĩ, dám làm. Con
người bi phẫn với những thất vọng, niềm đau và sự phẫn nộ quyết liệt trước cuộc đời. Đó chính là
động lực để Cao Bá Quát đứng lên khởi nghĩa sau này. Con người tình cảm được khắc sâu với tấm
lòng tha thiết với quê hương, gia đình, bạn bè và cả những ai bất hạnh trên đời. Tấm lòng ấy rất
chân thật, xuất phát từ trái tim rung động. Nó là nguồn sống mà cũng là động lực giúp Cao Bá Quát
luôn vươn lên, hành động mạnh mẽ. Con người suy tưởng với những chất vấn, băn khoăn, trăn trở
và kiếm tìm đến day dứt đau lòng. Và kết quả là đã định hình những bước đi đầu tiên.
3. Thời gian, không gian cũng là một nét thể hiện tư duy trong sáng tạo nghệ thuật của Cao
Bá Quát. Thời gian và không gian trong thơ có tính chất bức phá mạnh mẽ thể hiện chí khí, tâm tư
và bản lĩnh của cá nhân. Thời gian kiểm nghiệm thể hiện sự đánh giá của bản thân về quá khứ, về
những việc đã xảy ra. Thời gian tĩnh tại diễn tả sự trì trệ, ngưng đọng, chậm chạp. Thời gian toan
tính thể hiện những khát khao, mong ước và hành động. Không gian nghệ thuật cũng khắc sâu tâm
tư của con người. Không gian “tầm cao” thể hiện chí khí, khát vọng mạnh mẽ. Không gian nỗi niềm
làm rõ những tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của con người.
4. Ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện cá tính, bản chất con người. Tiêu đề bài thơ làm rõ tính tự sự
trong quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát. Nó còn cho thấy con người luôn quan tâm đến hiện thực
cuộc sống xung quanh mình. Ở câu thơ, sự xuất hiện nhiều hay ít các dạng câu có thể lý giải tầm
nhìn, cách nghĩ hay những khúc mắc mà con người quan tâm. Ở từ ngữ, từ tự xưng biểu hiện con
người cá nhân rõ nét, từ biểu cảm cho thấy cảm xúc của con người trước cuộc sống, cuộc đời và thế
giới xung quanh…
Với những kết quả trên, dù chưa toàn diện và hoàn thiện, luận văn cũng có một số đóng góp:
Về mặt cảm thụ: Việc tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát giúp
người đọc thấy được cái hay cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật; hiểu, yêu, kính trọng một tài thơ lỗi
lạc, một nhân cách đáng quý Cao Bá Quát.
Về mặt giảng dạy: Luận văn tiếp cận các tác phẩm ở góc độ nghệ thuật, khám phá và khai
thác tác phẩm sâu hơn ở các phương diện hình tượng nghệ thuật về con người, bước đầu tìm hiểu
thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật…
Về mặt nghiên cứu văn học: Luận văn đã khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán
Cao Bá Quát ở phạm vi rộng 418 bài thơ, gồm phương diện: hình tượng nghệ thuật về con người,
thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật … góp phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá thơ
văn Cao Bá Quát nói chung, thơ chữ Hán Cao Bá Quát nói riêng.
THƯ MỤC THAM KHẢO
I. Sách:
1. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
2. Hà Như Chi (1967), Việt Nam thi văn giảng luận, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
3. Trương Chính (1983), Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb. Văn học.
4. Trương Chính (1997), “Cao Bá Quát (1808-1855)”, in trong Tuyển tập Trương Chính, tập 2, Nxb.
Văn học, Hà Nội, tr. 86-121.
5. Nguyễn Duy Diễn (1957), Luận đề Cao Bá Quát, Nxb. Thăng Long, Sài Gòn.
6. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.144-148.
7. Hồ Việt Điểu (1958), Luận đề Cao Bá Quát, Tủ sách giáo khoa Bạn Trẻ xuất bản, Sài Gòn.
8. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1984), Cơ sở lý luận văn học, Nxb. Đại học và Trung học chuyên
nghiệp.
9. Lam Giang (1959), Giảng luận về Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
10. Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận Án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ năm
2001 tại Trường Đại học KHXN và NV, TP. HCM
11. Bảo Định Giang-Bùi Hữu Nghĩa (1998), Con người và tác phẩm, Nxb. TP. HCM.
12. Lam Giang (1994), Khảo luận về thơ, Nxb. Đồng Nai.
13. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục-Trung tâm Học liệu, in lần
thứ 10, Sài Gòn.
14. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam thi văn hợp tuyển, Bộ Giáo dục-Trung tâm Học liệu, in
lần thứ 9, Sài Gòn.
15. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb. Thuận Hóa.
16. Chu Trọng Hiếu (1996), Nguyễn Công Trứ - Thơ và đời, Nxb. Văn học, Hà Nội.
17.Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb. Văn hóa – Thông
tin.
18. Tố Hữu (2002), “Cao Bá Quát một khí phách hào hùng, một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc”, in
trong Bản sắc dân tộc trong văn hóa văn nghệ, in lần thứ 2, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học.
19. Trúc Khê (1952), Cao Bá Quát danh nhân truyện ký, Thư xã xuất bản, Hà Nội.
20. Vũ Khiêu (1970), “Lời giới thiệu” trong sách Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tuyển dịch, in lần thứ
nhất năm 1970, Nxb. Văn học, Hà Nội.
21. Đặng Thanh Lê và các tác giả khác (1990), Lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII-nửa
đầu thế kỉ XIX, Nxb. Giáo dục.
22. Mai Quốc Liên chủ biên (2004), Cao Bá Quát toàn tập, tập I, Nxb. Văn học-Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học.
23. Mai Quốc Liên (2004), “Cao Bá Quát – Một thiên tài kỳ vĩ của văn học Việt Nam”, in trong
Cao Bá Quát toàn tập, tập I, Nxb. Văn học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, tr. 7-39.
24. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, tập II, Nxb.
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
25. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, tập I, Nxb.
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tái bản.
26. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb.
Giáo dục.
27. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb. Giáo dục.
28. Phương Lưu (1985), Về quan niệm văn chương cổ điển Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
29. Nguyễn Phong Nam (chủ biên) (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb.
Giáo dục.
30. Nguyễn Nghiệp (1982), Cao Bá Quát, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
31. Nhiều tác giả (1997), Nguyễn Công Trứ-Cao Bá Quát, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
32. Nhiều tác giả (1988), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
33. Nhiều tác giả (2004), Cao Bá Quát-Tham luận Hội thảo (có 22 ý kiến tham luận), Nxb. Văn
học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
34. Nguyễn Ngọc Quận (2005), Sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân tộc, Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ năm 2005 tại Trường Đại học KHXH và NV, TP. HCM.
35. Vĩnh Sính (2004), “Thử tìm hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”, in
trong Hồn Việt (tập 2), Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb. Văn học, tr.61-80.
36. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Cao Bá Quát - Một đời thơ suy tưởng, Nxb. Trẻ - Hội Nghiên cứu và
Giảng dạy văn học Tp. HCM.
37. Nguyễn Hữu Sơn- Trần Đình Sử- Huyền Giang- Trần Ngọc Vượng- Trần Nho Thìn- Đoàn Thị
Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
38. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb. Tác phẩm mới và Hội nhà văn Việt Nam.
39. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nxb. Hội nhà Văn Hà Nội.
40. Trần Đình sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
41. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
42. Trần Đình sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb. Văn học.
43. Doãn Quốc Sĩ – Việt Tử (1959), Khảo luận về Cao Bá Quát, Nhà in Nam Sơn, Sài Gòn.
44. Lê Tâm (1952), Thân thế và sự nghiệp Cao Bá Quát, Nxb. Cây Thông, in lần thứ hai, Hà Nội.
45. Chu Thiên (1963), “Cao Bá Quát và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương”, in trong Thông báo khoa học,
tập I- Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 67-82.
46. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb. Trẻ.
47. Lê Ngọc Trà, Phùng Quý Nhâm (1997), Giáo trình lý luận văn học, trường ĐHSP. TP. HCM.
48. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb. Văn học.
49. Vi Chí Thông (1990), Cá nhân dưới ảnh hưởng tư tưởng Nho gia, Nxb. Nhân dân, Hà Nội.
50. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dich gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác, in lần
thứ nhất (có kèm theo nguyên văn chữ Hán và bản chụp bút tích Cao Bá Quát), Nxb. Văn học,
Hà Nội.
51. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dich gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác, in lần
thứ ba có bổ sung, sửa chữa (có thêm phần thơ Nôm do Nguyễn Bỉnh Khôi biên soạn, và bỏ bớt
5 bài thơ chữ Hán được xác định lại là của người khác), Nxb. Văn học, (in lần đầu và lần thứ hai
lấy tên: Thơ chữ Hán Cao Bá Quát).
52. Nguyễn Tài Thư (1980), Cao Bá Quát con người và tư tưởng, Nxb. KHXH, Hà Nội.
53. Nguyễn Đức Tiếu (1962), “Thơ khẩu khí”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập XI, số 70, tháng 5,
tr. 433-458.
54. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
55. Lê Trí Viễn (1978), “Chương III: Cao Bá Quát (?-1855)” trong Lịch sử văn học Việt Nam tập
III, Văn học viết (viết chung với Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam),
Nxb. Giáo dục, tr.336-362.
56. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử Văn học Việt Nam (Văn học viết thời quốc gia phong kiến độc lập –
thế kỉ X – giữa thế kỉ XIX), Trường Đại học Sư phạm TP. HCM, lưu hành nội bộ.
57. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại, Nxb. KHXH, Hà Nội.
58. Lê Trí Viễn (chủ biên) (1997), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, trường ĐHSP. TP.HCM.
59. Trần Ngọc Vượng (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
60. Hoàng Hữu Yên (1999), “Chương IX: Nguyễn Công Trứ” và “Chương X: Cao Bá Quát” trong
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (của nhóm soạn giả Đặng Thanh Lê –
Hoàng Hữu Yên – Phạm Luận) – Sách Đại học Sư phạm, Nxb. Giáo dục, tr. 209-252.
61. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Thanh niên.
62. Lê Thu Yến (2000), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb. Giáo dục.
II.TẠP CHÍ:
63. Lương An (1980), “Đề sau thơ Cúc Đường, một nhận xét đúng đắn và dũng cảm của Miên
Thẩm đối với Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 116-117.
64. Nguyễn Anh (1972), “Cao Bá Quát, kẻ bất đắc chí, con người nổi loạn hay nhà cách mạng?”,
Tạp chí Văn học, Sài Gòn, tháng 12, tr. 31-41.
65. Thái Bạch (1965), “Một nhà thơ cần phải xét lại – Cao Bá Quát”, Phổ thông tạp chí, Sài Gòn, số
155, tr. 57-65, và số 156, tr. 53-61.
66. Nguyễn Văn Bách (1994), “Bài thơ Phạm Sĩ Ái nhớ Cao Bá Quát”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr.
63-64.
67. Hoa Bằng (1969), “Cao Bá Quát với cuộc khởi nghĩa chống triều Nguyễn (1854-1856)”, tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội, số 121, tháng 4, tr. 27-40.
68. Hoa Bằng (1972), “Một vài tìm tòi về câu đối tương truyền là của Cao Bá Quát và về bài thơ
“Thú Hương Sơn’, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 2, tháng 3 và 4, tr. 61-64.
69. Nguyễn Huệ Chi (1961), “Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, tạp chí
Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 6, tr.21-36.
70. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo trong thơ chữ Hán
Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, số 8, tr.13-22.
71. Phan Thu Chi (1961), “Đặt lại vấn đề Thánh Quát có phải họ Cao không?”, Thời nay bán
nguyệt, Sài Gòn, số 38, tr. 81-85.
72. Văn Chung (1958), “Bạn đồng điệu của Cao Bá Quát: Thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh”, Văn hóa
nguyệt san, Sài Gòn, số 35, tháng 10, tr. 1148-1161.
73. Nguyễn Duy Diễn (1958), “Cao Bá Quát, một chiến sĩ cách mạng?”, Tạp chí Sáng tạo, Sài Gòn,
số 22, tháng 7, tr. 71-75.
74. Xuân Diệu (1971), “Cao Bá Quát”, tạp chí Tác phẩm mới, Hà Nội, số 11, tháng 1-2, tr. 82-92.
75. Thế Dương (1960), “Thánh Quát chính là họ Cao”, Thời nay bán nguyệt san, Sài Gòn, số 20, tr.
130-131.
76. Kiêm Đạt (1958), “Mấy trường hợp Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát”, tạp chí Giáo dục phổ
thông, Sài Gòn, số 28, tr. 31-34.
77. Kiêm Đạt (1960), “Những bài thơ tuyệt mệnh của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Phan
Thanh Giản, Nguyễn Khuyến, Trương Vĩnh Ký, Phan Bội Châu…”, tạp chí Giáo dục phổ
thông, Sài Gòn, số 61, tr. 14-23.
78. Mạc Phương Đình (1960), “Thánh Quát không phải họ Cao?’, Tạp chí Thời nay, Sài Gòn, số 18,
tr. 24-27.
79. Hồng Liên Lê Xuân Giáo (1964), “Giai thoại về văn học lịch sử của Chu Thần Cao Bá Quát tiên
sinh”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập XIII, quyển 8, tháng 8, tr. 925-935.
80. Lữ Hồ (1958), “Bài ca của một cuồng sĩ”, tạp chí Sáng tạo, Sài Gòn, số 18, tháng 3, tr. 51-60.
81. Vũ Thu Lợi (1960), “Chung quanh một câu đối của Cao Bá Quát”, Thời nay bán nguyệt san, Sài
Gòn, số 28, tr. 75-77.
82. Tô Hà (1991), Khoảng cách im lặng của những câu thơ, Tạp chí Văn học, số 2.
83. Tương Huyền (1972), “Cao Bá Quát, kẻ phá đám trước cuộc đời”, Tạp chí Văn học, Sài Gòn,
tháng 12, tr. 42-55.
84. Hoàng Thị Mai Hương (2000), “Một nhân cách nho sĩ, một tài thơ qua Đường Trung Phạm Đôn
Nhân nguyên thảo”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr. 45-53.
85. Đỗ Văn Hỷ dịch (1978), “Viết ở cuối tập thơ Rừng chuối của Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học,
số 5, tr. 154-155.
86. Vũ Khiêu (1969), “Đọc Cao Bá Quát nhân 160 năm ngày sinh của nhà thơ”, Tạp chí Tác phẩm
mới, Hà Nội, số 4, tháng 10-11-12,tr.74-80.
87. Phan Kim (1972), “Thân thế và thi nghiệp nhà thơ Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, Sài Gòn,
tháng 12, tr. 3-8, 68-69.
88. Châu Hải Kỳ (1958), “Cao Bá Quát đã làm sống họ Cao vì tư tưởng Cách mạng Xã hội?”, Tạp
chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 22, ngày 1.9, tr. 5-6.
89. Châu Hải Kỳ (1957), “Phải chăng Cao Bá Quát là tác giả các câu đối dưới đây?”, Tạp chí Giáo
dục phổ thông, Sài Gòn, số 4, tr 4-5.
90. Châu Hải Kỳ (1958), “Cao Bá Quát đã làm sống họ Cao vì tư tưởng Cách mạng xã hội?”, Tạp
chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 22, tr. 5-6.
91. Châu Hải Kỳ (1958), “Có quả thật Cao Bá Quát đã khinh miệt dân chúng?”, Tạp chí Giáo dục
phổ thông, Sài Gòn, số 20, ngày 1.8, tr.8-9. và 29.
92. Châu Hải Kỳ (1959), “Lược luận về các tác giả trong Chương trình Trung học đệ cấp nhất cấp”,
tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 37, tr. 41-50.
93. Châu Hải Kỳ (1963), “Trong cuộc biến động Mỹ Lương, Cao Bá Quát đã dựa vào lực lượng nào
để chống Triều đình Tự Đức”, tuần báo Văn đàn, Sài Gòn, số 22, tr. 14-15.
94. Nguyễn Minh và K. X. T (1959), “Cao Bá Quát (?-1854)”, tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn,
số 34, tr. 41-48 và 63.
95. Nguyễn Nghĩa (1980), Tìm hiểu ngôn ngữ thơ, Tạp chí Văn học.
96. Nguyễn Nghiệp (1962), Những nhân tố gì đã tạo nên mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Công
Trứ, Tạp chí Văn học, số 5.
97. Điền Nguyên (1958), “Nhân cuộc thi tú tài Việt vừa qua, bàn về Cao Bá Quát”, tập san Nhân
Loại, Sài Gòn, số 2, tr. 5-8, 21.
98. Nguyễn Tường Phượng (1934), “Một nhân vật tỉnh Bắc Ninh, ông Cao Bá Quát”, Nam phong
tạp chí, tập 35, số 209, tr. 259-266.
99. Nguyên Sa (1957), “Cái chết của người thi sĩ’, tạp chí Sáng tạo, Sài Gòn, số 4, tháng giêng, tr.
24-28.
100. Claudine Salamon và Tạ Trọng Hiệp (1996), “Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức
của ông qua chuyến đi công cán “Vùng Hạ Châu” (bản dịch từ tiếng Pháp của Nguyễn Văn
Kiệm), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr. 49-55.
101. Claudine Salamon và Tạ Trọng Hiệp (1996), “Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức
của ông qua chuyến đi công cán “Vùng Hạ Châu” (bản dịch từ tiếng Pháp của Nguyễn Văn
Kiệm) (tiếp theo), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr. 11-27.
102. Trần Lê Sáng (1973), Thử tìm hiểu quan niệm “thi ngôn chí” của nhà nho, Tạp chí Văn học.
103. Hồ Sen (1959), “Thái độ hưởng nhàn qua vài thi nhân (Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tản
Đà)”, tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 31-32, Xuân Kỷ hợi, tr. 13-20.
104. Vĩnh Sính (2004), “Thử tìm hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”, in
trong Hồn Việt (tập 2), Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb. Văn học, tr.61-80.
105. Nguyễn Trường Sơn (1958), “Bài học lịch sử trong vụ án bay đầu Cao Bá Quát”, tạp chí Giáo
dục phổ thông, Sài Gòn, số 15, tr. 11-13.
106. Phạm Văn Sơn (1966), “Tìm hiểu thêm về Cao Chu Thần”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập
XV, số 4 và 5, tháng 11 và 12, tr. 430-438.
107. Phạm Trọng Tâm (1959), “Lòng hiếu sinh của Cao Bá Nhạ, nỗi ngán đời của Cao Bá Quát”,
tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 38, ngày 15.5, tr.15-23.
108. Bùi Duy Tân (1979), ‘Bài thơ Trào chiết tí Phật không phải của Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn
học, số 1, tr. 142-143.
109. Đỗ Lai Thúy (2000), “Trần Đình Hượu và những khái niệm công cụ trong nghiên cứu Nho
giáo”, Văn hóa Nghệ thuật, số 192, tr. 80-84.
110. Thái Vị Thủy (1965), “Thiên nhiên với nhà thơ Cao Bá Quát”, tạp chí Vạn Hạnh, Sài Gòn, số
3, tr. 89-96.
111. Chu Thiên (1963), “Cao Bá Quát và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương”, in trong Thông báo khoa
học, tập I- Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 67-82.
112. Chu Thiên (1964), “Một bài thơ nói về việc Cao Bá Quát tử trận”, (mục Sưu tầm), Tạp chí Văn
học, Hà Nội, số 12, tr. 93-94.
113. Nguyễn Đức Tiếu (1962), “Thơ khẩu khí”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập XI, số 70, tháng
5, tr. 433-458.
114. Nguyễn Đức Tiếu (1962), “Xung quanh cái chết của danh sĩ số 1 triều Nguyễn. Sự lập chí của
Cao Bá Quát”, tạp chí Bách khoa thời đại, Sài Gòn, số 143, ngày 15.12, tr. 11-18.
115. Nguyễn Đức Tiếu (1992), Sự lập chí của Cao Bá Quát, Tạp chí Bách Khoa, số 143.
116. Tảo Trang (1963), “Một số tài liệu về thơ văn Cao Bá Quát’ (mục Đính chính thơ văn cổ), tạp
chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 2, tr. 102-104.
117. Tảo Trang (1963), “Góp thêm tài liệu về năm sinh và chỗ ở của Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn
học, Hà nội, số 5, tháng 11, tr.65-70.
118. Mai Trân (1964), Hai bài thơ của Miên Thẩm nói về Cao Bá Quát, Tạp chí Văn học, số 6.
119. Phương Tri (1971), “Kỉ niệm lần thứ 160 ngày sinh Cao Bá Quát và lần thứ 100 ngày sinh
Trần Tế Xương” (mục Sinh hoạt văn học), Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1, tr.139-140.
120. Hoàng Trinh (1984), Những truyền thống nhân đạo chủ nghĩa trong thơ Việt Nam, Tạp chí Văn
học, số 2.
121. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Quan niệm về con người trong thơ Thiền Lý-Trần, Tạp chí Văn
học, số 4.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5135.pdf