DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài và lịch sử nghiên cứu
Việt Nam trong thế kỉ 21 đang trên đà phát triển tồn diện đất nước, một
trong những vấn đề trọng tâm là đẩy mạnh giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta đề ra là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài; cốt lõi của việc đẩy mạnh giáo dục là cải tiến phương pháp,
nâng cao chất lượng dạy và học. Đối với bộ mơn Ngữ Văn, phương pháp giảng
dạy tối ưu xưa nay của người giáo viên vẫn là phương p
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4404 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Khảo sát khả năng và sử dụng từ Hán Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háp dùng lời nĩi để
trình bày tài liệu, tác động đến học sinh. Tuy nhiên, trong khi nĩi lẫn viết, người
giáo viên Ngữ Văn cũng như nhiều bộ mơn khác cũng gặp khơng ít khĩ khăn
trong việc lựa chọn và giải thích từ ngữ, đặc biệt là từ Hán Việt. Điều đĩ làm ảnh
hưởng ít nhiều đến khả năng giảng dạy của giáo viên.
Đối với học sinh, vấn đề sử dụng đúng ngơn ngữ tiếng Việt cũng là một
vấn đề hết sức khĩ khăn. Mặc dù ở mỗi cấp học, bộ mơn tiếng Việt đều được
đưa vào giảng dạy song song với những bộ mơn khác, trong đĩ cĩ một số bài
dạy về từ Hán Việt; song, nhìn chung phần lớn học sinh đều hiểu sai nghĩa của
từ Hán Việt dẫn đến một số trường hợp ngộ nhận đáng tiếc khi đặt câu, ngay cả
những sinh viên đại học chuyên ngành Ngữ văn. Cĩ thể kể ra đây một số lỗi
thường gặp như:
- Dùng từ sai phong cách:
Vd: Ơng ấy bị bệnh đã hy sinh hơm qua (bài làm của học sinh).
Thay vì nĩi: Ơng ấy bị bệnh đã từ trần hơm qua.
- Viết sai chính tả:
Vd: Ơng ấy là một nhà văn lãng mạng (bài làm của học sinh).
Thay vì nĩi: Ơng ấy là một nhà văn lãng mạn.
- Sử dụng từ khơng đúng:
Vd: Nhà văn phải xâm nhập vào hiện thực đời sống để tìm tư liệu (bài làm
của học sinh).
Thay vì nĩi: Nhà văn phải thâm nhập vào hiện thực đời sống để tìm tư
liệu.
1
Những trường hợp trên đây xuất phát từ một thực trạng là học sinh khơng
hiểu được nghĩa cũng như phạm vi sử dụng của từ Hán Việt. Như vậy, muốn
tạo lập văn bản đúng thì người nĩi (viết) cần cĩ một vốn từ vựng Hán Việt phong
phú và phải hiểu được phạm vi sử dụng của từ Hán Việt để sử dụng cho phù
hợp.
Trong tiếng Việt, từ Hán Việt chiếm số lượng tương đối cao - trên 60%.
Lượng từ Hán Việt này đã gĩp phần khơng nhỏ trên bước đường phát triển của
tiếng Việt, đủ khả năng đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu do cuộc sống văn hố - xã
hội đề ra. Tuy nhiên, bản thân nĩ cũng chứa đựng nhiều điều phức tạp, gây khĩ
khăn cho người tiếp nhận và sử dụng, là vấn đề nhạy cảm nhất mà bất cứ
người nào muốn tìm hiểu sâu về tiếng Việt cũng gặp phải.
Qua học tập bộ mơn Hán Nơm trong nhà trường đại học, chúng tơi nhận
thấy từ Hán Việt cĩ rất nhiều điều hay, nĩ đĩng gĩp khơng nhỏ cho việc học tập
bộ mơn Ngữ văn. Do vậy, thiết nghĩ, khi học tập mơn Ngữ văn, học sinh phải cĩ
vốn từ Hán Việt nhất định và cĩ khả năng giải thích từ Hán Việt để tiếp thu các
tác phẩm văn học Việt Nam trung đại, văn học Trung Quốc và nhất là sử dụng
chúng trong giao tiếp cuộc sống.
Trên thực tế, trước nay đã cĩ nhiều cơng trình nghiên cứu, chuyên luận
bàn về từ Hán Việt ở nhiều khía cạnh khác nhau và những cuộc điều tra tình
hình hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh, sinh viên.
Tác giả Đặng Đức Siêu trong quyển “Dạy và học từ Hán Việt ở trường
phổ thơng” đã chú ý nghiên cứu ở khía cạnh nhận diện từ Hán Việt qua cái nhìn
lịch sử để từ đĩ đề ra phương hướng nắm vững vốn từ Hán Việt.
Bên cạnh đĩ, một số tác giả lại nghiên cứu tìm ra mẹo để giải nghĩa từ
Hán Việt như ở quyển “Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả” của tác
giả Phan Ngọc, ...
Tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong quyển “Sự hình thành cách đọc Hán Việt”
lại chú ý ở phương diện cách đọc và xuất xứ của cách đọc Hán Việt.
Ngồi ra, chúng ta cịn thấy bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn
Khang: Tiếng Việt trong trường học đề cập đến phương pháp dạy học từ Hán
Việt hiện nay ở nhà trường phổ thơng, điều đĩ gợi mở cho đề tài của chúng tơi
rất nhiều.
Đặc biệt, phong phú hơn cả là những chuyên luận đăng trên tạp chí Hán
Nơm và tạp chí Ngơn Ngữ, những quyển từ điển tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ,
tự điển Hán Việt của các tác giả Đào Duy Anh, Bửu Kế, ...
Sự quan tâm nghiên cứu về từ Hán Việt tương đối phong phú, đều khắp
các mặt; tuy nhiên, để khảo sát trên một địa bàn cụ thể, tại trường PT ở địa bàn
Tp. Long Xuyên – An Giang thì chưa cĩ cơng trình nào. Tình hình này ở mỗi giai
2
đoạn, mỗi khu vực lại cĩ những đặc điểm khác nhau. Do vậy, đến nay nĩ vẫn là
vấn đề hết sức nĩng bỏng của xã hội.
Thiết nghĩ, là sinh viên chuyên ngành Ngữ văn, người sẽ trực tiếp giảng
dạy trong tương lai, điều chúng tơi nên làm khi đang ngồi trên ghế nhà trường
đại học chính là vận dụng kiến thức đã học nhằm hình thành cho mình phương
pháp giảng dạy tích cực nhất, khắc phục những yếu kém hiện tại của học sinh.
Chính vì vậy, chúng tơi chọn làm đề tài nghiên cứu của mình là: KHẢO
SÁT KHẢ NĂNG HIỂU VÀ SỬ DỤNG TỪ HÁN VIỆT CỦA HỌC SINH KHỐI 10
VÀ 12 TRƯỜNG THPT LONG XUYÊN.
Qua nghiên cứu, tơi sẽ biết được khả năng giải thích và sử dụng từ Hán
Việt của học sinh trung học phổ thơng, những lỗi thơng thường mà phần lớn học
sinh gặp phải. Từ đĩ, đưa ra định hướng cho mình cách dạy tốt mơn Ngữ văn,
với mục tiêu là giúp cho học sinh cĩ hứng thú với bộ mơn
Văn học trung đại nĩi riêng cũng như Văn học Việt Nam nĩi chung - bộ mơn
chưa thực sự được học sinh quan tâm tương xứng với nét đặc sắc của nĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi chọn đề tài này, chúng tơi đã xác định hai mục đích chính của đề tài
như sau:
2.1 Chúng tơi muốn thơng qua khảo sát thực tế ở địa bàn trường THPT
Long Xuyên để cĩ được kết quả cụ thể về khả năng giải thích và sử dụng từ
Hán Việt của học sinh THPT. Việc thống kê phiếu điều tra nhằm phát hiện
những yếu kém và những lỗi thường gặp trong việc hiểu và sử dụng từ Hán
Việt, từ đĩ rút ra một số nhận xét bước đầu.
2.2 Sau khi đã nắm được khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học
sinh hai khối 10 và 12, mục đích cuối cùng của chúng tơi là đề ra một số biện
pháp để khắc phục tình trạng này, tức là sẽ nâng cao khả năng giải thích và sử
dụng từ Hán Việt cho học sinh bằng cách đề ra những biện pháp khắc phục
những lỗi Hán Việt thơng thường, những mẹo luật học từ Hán Việt, phương
pháp mở rộng từ Hán Việt, ... Ngồi ra, đề tài cịn mong muốn đề ra một số kiến
nghị gĩp phần nâng cao kết quả dạy học từ Hán Việt trong nhà trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, chúng tơi xác định nhiệm vụ của đề tài bao
gồm các nội dung cụ thể sau:
3.1 Làm sáng tỏ những lý thuyết về từ Hán Việt.
- Nêu khái niệm từ Hán Việt, cĩ liên hệ với lịch sử hình thành và phân biệt
với các loại từ Việt gốc Hán khác.
3
- Nêu đặc điểm của từ Hán Việt và cách nhận dạng chúng.
- Nêu vị trí của từ Hán Việt trong vốn từ vựng tiếng Việt cả trong quá khứ
và hiện tại, chỉ ra một số vấn đề về dạy và học từ Hán Việt trong trường phổ
thơng.
3.2 Khảo sát khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh khối 10
và 12 trường THPT Long Xuyên qua tổng hợp các phiếu điều tra, trong đĩ bao
gồm thống kê khả năng nhận biết từ Hán Việt của học sinh, phân tích các lỗi
thường gặp trong sử dụng tiếng Việt nĩi chung và từ Hán Việt nĩi riêng cũng
như xem xét khả năng mở rộng từ Hán Việt của học sinh, ...
3.3 Từ kết quả khảo sát thu được, chúng tơi sẽ so sánh khả năng hiểu và
sử dụng từ Hán Việt của học sinh khối 10 và 12, sự chênh lệch về khả năng
hiểu và sử dụng từ Hán Việt giữa hai khối lớp nhằm đề ra biện pháp phù hợp.
3.4 Nêu nguyên nhân của thực trạng hiểu và dùng sai từ Hán Việt, bao
gồm: nguyên nhân khách quan do đặc điểm phức tạp của từ Hán Việt, chương
trình dạy học từ Hán Việt ở trường phổ thơng cịn bất cập, ... cùng với những
nguyên nhân chủ quan từ phía học sinh.
3.5 Qua tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng, đề tài mong muốn đưa ra
những biện pháp khắc phục, đồng thời nâng cao khả năng hiểu và sử dụng từ
Hán Việt của học sinh. Những biện pháp khắc phục được tổng hợp từ những
mẹo luật giải nghĩa từ Hán Việt, mẹo học từ Hán Việt được tiếp thu, thừa hưởng
từ các cơng trình nghiên cứu của một số tác giả đi trước, kết hợp với những ý
tưởng và phương pháp học của bản thân.
3.6 Đề tài cũng nêu một số kiến nghị giúp học sinh trong tương lai sẽ cĩ
hứng thú học tập tiếng Việt nĩi chung và từ Hán Việt nĩi riêng, đồng thời giúp
giáo viên Ngữ văn ý thức được tầm quan trọng của bộ mơn Hán Nơm nhằm
nâng cao khả năng giảng dạy tiếng Việt nĩi chung và từ Hán Việt nĩi riêng của
người giáo viên theo chương trình SGK đổi mới hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, vấn đề dạy và học từ Hán Việt là một vấn đề hết
sức phức tạp, phức tạp ở chỗ năng lực truyền đạt của giáo viên và khả năng
hiểu của học sinh về lớp từ này. Trước nay, vấn đề này vẫn được quan tâm
nhiều ở mặt lí luận mà chưa chú trọng lắm về mặt thực tiễn. Vì vậy, chúng tơi
chọn khảo sát ở địa bàn trường học để cĩ cái nhìn cụ thể hơn về thực trạng
hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT hiện nay ở trường THPT Long
Xuyên. Lẽ ra, đề tài sẽ cĩ giá trị thuyết phục hơn nếu được nghiên cứu ở nhiều
địa bàn trường học khác nhau nhằm đưa ra cái nhìn tồn diện về thực trạng
hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT. Tuy nhiên, do thời gian nghiên
cứu cĩ hạn cũng như đề tài cịn ở trình độ nghiên cứu của một cá nhân sinh
viên, vì vậy, tơi chỉ chọn phạm vi nghiên cứu ở một trường học cụ thể là trường
4
THPT Long Xuyên. Do bản thân là sinh viên năm thứ hai, chưa cĩ điều kiện kiến
tập, thực tập ở trường phổ thơng nên quá trình khảo sát chỉ chủ yếu xoay quanh
việc phát phiếu điều tra ở ba lớp 10 (10A2, 10A11, 10A12) và hai lớp 12 (12A13,
12A14), khơng thể mở rộng nghiên cứu, khảo sát cách sử dụng từ Hán Việt của
học sinh trong tiết học để quan sát đầy đủ hơn về thực trạng hiểu và sử dụng từ
Hán Việt của học sinh THPT.
Sở dĩ đề tài chỉ chọn khối 10 và khối 12 vì đây là khối lớp đầu cấp và cuối
cấp, dễ dàng cĩ sự đánh giá trình độ. Việc chọn lựa hai khối lớp này cũng nhằm
cĩ sự so sánh, đánh giá nhất định về phương pháp dạy và học từ Hán Việt trong
nhà trường THPT để cĩ những cứ liệu xác thực nhằm đề ra những biện pháp
phù hợp với thực tế hơn.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Khả năng hiểu và sử dụng từ Hán
Việt của học sinh khối 10 và khối 12.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài cĩ sử dụng các phương pháp:
- Thu thập tài liệu cĩ liên quan đến đề tài, chọn lọc, ghi chép lại nội dung
cần yếu và tìm cơ sở dữ liệu của đề tài.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Do khơng cĩ điều kiện để dự giờ từng
tiết dạy cụ thể, quan sát quan sát khả năng sử dụng từ Hán Việt của học sinh
trong khi trả lời giáo viên; vì vậy, đề tài chỉ thơng qua một hình thức chủ yếu là
phát phiếu điều tra ở 5 lớp cùng với phỏng vấn ngẫu nhiên 2 học sinh khối 10 về
hứng thú học cũng như khả năng hiểu từ Hán Việt của học sinh.
Do tiến hành điều tra đồng thời ở năm lớp trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm
đầu tuần nên chúng tơi khơng thể theo dõi quá trình trả lời của tất cả các em ở
năm lớp mà nhờ vào sự hỗ trợ của các giáo viên chủ nhiệm của năm lớp hướng
dẫn các em hiểu rõ về nội dung yêu cầu câu hỏi và định hướng trả lời, đồng thời
các giáo viên chủ nhiệm cũng đảm bảo cho tính khách quan của việc điều tra.
- Phương pháp thống kê và xử lý tư liệu: Khi đã thu thập đầy đủ những
phiếu điều tra, chúng tơi đã tiến hành thống kê để xác định về lượng, từ đĩ tổng
hợp hố và phân loại. Cụ thể là ở mỗi câu, chúng tơi sẽ phân số lượng những
câu trả lời, số câu trả lời đúng, số câu trả lời sai và chia chúng theo tỉ lệ phần
trăm; sau đĩ, chúng tơi sẽ tổng hợp những câu trả lời sai để làm ví dụ, dẫn
chứng cụ thể trong nội dung phần khảo sát thực trạng. Trong số những câu trả
lời sai này, chúng tơi sẽ phân loại lỗi sai để làm minh hoạ cho từng nội dung cụ
thể được nêu ra.
5
7. Bố cục đề tài
Đề tài ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục, tài liệu tham khảo
ra, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung
Chương 2: Khảo sát thực trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh
khối 10 và 12 trường THPT Long Xuyên
Chương 3: Những giải pháp khắc phục
6
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1. Quá trình hình thành và phát triển của từ Hán Việt
Theo quan điểm của nhiều người, từ Hán Việt lâu nay vẫn luơn bị xem là
một thứ từ ngoại lai. Việc hạn chế hoặc giả là khơng dùng từ Hán Việt được xem
như biện pháp để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Hiểu như vậy e rằng
khơng thấu đáo.
Do vị trí địa lí và hồn cảnh lịch sử, trong tiếng Việt cĩ một lớp từ ngữ gốc
Hán rất phong phú về số lượng, cĩ giá trị nhiều mặt, thường được gọi dưới cái
tên chung là từ Hán Việt. Lớp từ này thực chất từ lâu đã gĩp phần tích cực vào
tiến trình phát triển của hệ thống từ ngữ tiếng Việt, làm cho tiếng Việt ta ngày
7
thêm giàu cĩ, tinh tế, uyển chuyển hơn, đủ khả năng đáp ứng tốt nhất mọi yêu
cầu do cuộc sống văn hố - xã hội.
Khơng thể phủ nhận từ Hán Việt vốn dĩ ban đầu là thứ từ vay mượn
nhưng đồng thời là sự sáng tạo rất độc đáo của bao thế hệ người Việt và từ lâu
đã hồ nhập vào dịng chảy ngơn ngữ Việt, trở nên gần gũi với chúng ta. Trong
lời ăn tiếng nĩi hằng ngày, chúng ta sử dụng khơng ít từ Hán Việt vào trong phát
ngơn của mình dù dưới sự chỉ đạo của ý thức hay vơ thức.
Thực tế, trong chúng ta khơng ít người cịn khá mơ hồ về cái được gọi là
từ Hán Việt nên mới cĩ những cách hiểu lệch lạc. Khi nĩi đến những từ như: phi
cơ, giáo sư, giang sơn, quốc gia… ta biết ngay là từ Hán Việt. Nhưng khi nĩi:
đầu, học, dân…thì ta cứ ngỡ đĩ là từ thuần Việt. Vì sao vậy ? Đĩ là do từ Hán
Việt là kết quả của cả một quá trình tiếp xúc ngơn ngữ Việt - Hán kéo dài ít nhất
là hai thiên niên kỷ, trong những hồn cảnh lịch sử đặc biệt và những phương
thức đặc biệt với sự tài trí của bao thế hệ người Việt Nam nhằm bảo tồn và phát
triển ngơn ngữ dân tộc. Như vậy, đối với việc đưa ra ý kiến khơng dùng từ Hán
Việt như là một biện pháp để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là khơng cần
thiết vì như thế sẽ làm hạn chế đi vốn từ phong phú của tiếng Việt. Ta cĩ thể
thay “phi cơ” bằng “máy bay”, nhưng đối với những từ như: tinh thần, viện kiểm
sát, phong kiến…khơng thể cĩ một từ nào khác tương đương để thay thế. Cần
chấp nhận vai trị của từ Hán Việt như một bộ phận đã, đang tồn tại và sẽ tiếp
tục phát triển gĩp phần vào sự phát triển chung của tiếng Việt. Điều đĩ địi hỏi
mỗi người Việt phải cĩ một cách hiểu đúng đắn hơn về lớp từ Hán Việt, tìm hiểu
quá trình hình thành và phát triển từ Hán Việt, đi sâu tìm hiểu thực tế những
thành quả ngơn ngữ văn hố của cha ơng đã để lại cho tiếng Việt. Trên cơ sở
đĩ, chúng ta sẽ tìm cách để phát triển từ Hán Việt theo hướng đúng đắn, gĩp
phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Theo tác giả Đặng Đức Siêu trong quyển “Dạy và học từ Hán Việt ở
trường phổ thơng” thì từ Hán Việt là một thực thể vừa quen lại vừa lạ.
Trước hết, quen là bởi vì cái vỏ ngữ âm đã được Việt hố khơng cịn xa
lạ với ngữ cảm, cảm quan thính giác của người Việt. Tác giả cũng đã trích dẫn
bản “Tuyên ngơn độc lập” của Hồ Chủ Tịch để làm rõ cho điều này:
“Tất cả mọi người đều sinh ra cĩ quyền bình đẳng. Tạo hố đã cho họ
những quyền khơng ai cĩ thể xâm phạm được; trong những quyền ấy cĩ quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Từ đĩ tác giả chỉ ra rằng: những từ sinh, quyền, bình đẳng, tạo hố, xâm
phạm, địch, mưu cầu, hạnh phúc mà ta thấy rõ ràng là quen thuộc và cĩ chiều
sâu ý nghĩa hơn nhiều so với các từ mitting, bit-tết, ten-nít…và cịn một số từ
khác xét về cội nguồn cũng là từ gốc Hán nhưng vì chúng đã vào Việt Nam khá
sớm và đã hồ nhập vào tiếng Việt nên khĩ nhận ra lai lịch như: cờ, xe, cơ, cậu,
buồng, vạn, triệu…những từ này cịn gọi là từ Hán Việt Việt hố cịn một số từ
khác dù cĩ nghĩa sâu rộng như: quân vương, quân tử, tiểu nhân, thiên hạ…
8
nhưng gắn bĩ với lịch sử văn hố xã hội Việt Nam ta từ xa xưa nên cũng quen
thuộc trong tâm thức người Việt.
Tiếp đến, cái lạ, theo tác giả chủ yếu do kết cấu ngữ nghĩa của từ Hán
Việt. Những từ cứu cánh, bình sinh, toả chiếu… tuy cũng xuất hiện trong lời nĩi,
văn bản nhưng cĩ mấy ai hiểu hết được ý nghĩa của chúng.
Vì vậy mới xảy ra hiện tượng hiểu sai nghĩa của từ Hán Việt hoặc là hiểu
khơng thấu đáo nghĩa của nĩ, …
Nguyên nhân chủ yếu đưa đến nhưng hiện tượng trên là do từ Hán vào
Việt Nam rất sớm nhưng do nĩ qua nhiều giai đoạn khác nhau và bị chi phối bởi
nhưng hồn cảnh lịch sử xã hội khác nhau nên cĩ sai biệt khơng đồng đều về số
lượng, chất lượng, mức độ Việt hố, …
Những điều lý giải trên đây nhằm đưa đến kết luận rằng: để cĩ thể hiểu
và sử dụng từ Hán Việt một cách chuẩn xác thì nhất thiết phải xem nĩ là một bộ
phận quan trọng gắn bĩ chặt chẽ trong suốt quá trình lịch sử với bản ngữ.
Theo ý kiến của các nhà ngơn ngữ học, từ Hán Việt được giải thích là từ
Việt cĩ nguồn gốc từ tiếng Hán đã nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự
chi phối của các qui luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, cịn gọi
là từ Việt gốc Hán.
Cĩ sự trùng khớp giữa khái niệm từ Hán Việt và từ Việt gốc Hán; tuy
nhiên, cần khẳng định rằng, từ Hán Việt chỉ là một bộ phận của từ Việt gốc Hán
tồn tại bên cạnh từ Tiền Hán Việt, Hán Việt Việt hố v.v... Xem xét quá trình tiếp
xúc ngơn ngữ văn hố Hán - Việt ở nước ta cĩ thể lí giải điều này.
Do đặc điểm địa lý, lịch sử mà hai nước Việt Nam và Trung Hoa cĩ quan
hệ với nhau từ rất sớm. Trong mối quan hệ đĩ cĩ mối quan hệ về ngơn ngữ -
văn hố. Một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận là giữa tiếng Việt và tiếng Hán
cĩ sự tiếp xúc từ rất sớm, vào khoảng 2000 năm về trước. Sự tiếp xúc này để
lại nhiều dấu vết trong tiếng Việt hiện đại. Một số lượng khá lớn từ ngữ Hán
thuộc nhiều nguồn khác nhau (Hán, Tạng, Miến, Ấn) đã du nhập vào tiếng Việt
qua nhiều giai đoạn và với nhiều phương thức khác nhau. Mặc dù, tiếng Hán và
tiếng Việt khơng cùng một nguồn gốc. Tiếng Hán thuộc họ Hán - Tạng, tiếng Việt
nằm trong nhánh Việt - Mường thuộc họ Nam Á. Thế nhưng chúng lại cĩ ưu thế
là cùng loại hình. Đây chính là một điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc và vay
mượn giữa hai ngơn ngữ. Sự du nhập của tiếng Hán vào Việt Nam cĩ lúc diễn
ra chậm chạp nhưng cĩ lúc lại diễn ra hết sức ồ ạt. Cũng cĩ khi nĩ đã vào tiếng
Việt rồi lại được biến đổi đi theo các sự biến đổi ngữ âm của tiếng Việt.
Ngay từ đầu cơng nguyên, từ khi cĩ sự đơ hộ của phong kiến phương
Bắc, tiếng Hán được truyền vào Giao Châu bằng nhiều con đường, chủ yếu là
nhằm đồng hố tiếng nĩi của dân tộc ta. Chúng đã thi hành hàng loạt những
biện pháp từ trắng trợn đến tinh vi nhằm xố bỏ ngơn ngữ, phong tục, tập quán,
9
truyền thống dân tộc ta, ép dân ta hồ đồng vào khối Đại Hán. Song, với tinh
thần yêu nước, dân tộc ta đẩy lùi được sự đồng hố của chúng. Và vì thế, tiếng
Việt đã cĩ cơ sở vững vàng từ trước vẫn tiếp tục tồn tại. Dù vậy, người Việt vẫn
mượn một số từ ngữ Hán để lấp vào những chỗ trống thiếu hụt trong tiếng Việt
như buồng, muộn, đúc,… làm phong phú thêm nhưng khơng làm mất được bản
sắc ngơn ngữ của mình.
Cĩ thể chia quá trình này làm hai giai đoạn: trước thế kỷ X và sau thế kỷ
X.
Các từ Hán du nhập vào tiếng Việt vào thời kì trước được phát âm theo
hệ thống ngữ âm Hán thượng cổ. Các từ này đã Việt hố hồn tồn, như: búa,
buồm, đuổi, muỗi, đục, đũa, vua,… Tiếng Hán lúc này tồn tại với tư cách là một
sinh ngữ.
Vào khoảng thời nhà Đường người Hán đã mở nhiều trường học ở Giao
Châu, các thư tịch Hán thuộc các loại kinh, sử, tử, tập được truyền bá rộng rãi.
Giai đoạn này cĩ thể nĩi là việc du nhập và phổ biến ngơn ngữ văn tự Hán đã
được triển khai thuận lợi hơn nhưng khơng cĩ nghĩa là do người Việt nơ nức
kéo nhau đến các trường học do chính quyền đơ hộ đời Đường mở mà do
nguyên nhân khác. Ta biết rằng, trước đĩ thì một số thiền sư người Ấn Độ và
người Hán cũng sang truyền giáo ở xứ Giao Châu, một số kinh phật cũng được
truyền vào Giao Châu cùng với sự phổ biến các trước tác của Nho gia và Thiền
gia. Lớp từ đơng đảo này đã dần dà làm cho tiếng Việt tách khỏi tiếng Mường
tạo thành hệ thống ngữ âm riêng.
Sang thời tự chủ, thế kỷ X, khi âm Hán Việt đã hình thành thì lớp từ trên
càng cĩ điều kiện chuyển sang tiếng Việt nhiều hơn. Với nền độc lập tự chủ của
mình, tiếng Hán và chữ Hán vẫn được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp tục
sử dụng trong cơ quan hành chánh, trường học, khoa cử cũng như sáng tác văn
chương nhưng lúc này tiếng Hán đã mất đi tính cách là một sinh ngữ. Người
Việt đọc chữ Hán theo cơ chế ngữ âm tiếng Việt đương thời nhưng vì đọc chữ
Hán một cách cĩ hệ thống nên âm đọc là âm phản chiếu của âm Hán đời
Đường và khá sát với âm này. Quá trình này khơi màu từ thế kỉ X nhưng chắc
chắn phải kéo dài hàng thế kỉ mới hồn thiện hệ thống âm đọc Hán Việt. Trong
lúc hệ thống Hán Việt ở Việt Nam vẫn giữ cách phát âm của thời kì nhà Đường
thì ngay ở chính Trung Quốc diện mạo ngữ âm đã thay đổi dần để trở thành âm
Hán hiện đại ngày nay.
Trong số những từ Hán Việt du nhập vào từ đời Đường, một số đã bị Việt
hố về cả ngữ âm và ngữ nghĩa như:
Âm Việt Âm Hán Việt Âm Việt Âm Hán Việt
xe xa giấy chỉ
vuơng phương ván bản
10
thơ thi sức lực
Các từ Hán đã Việt hố là những từ đã mang những đặc điểm ngữ pháp
như đặc điểm ngữ pháp của các từ gốc Việt cùng loại và đã biến đổi ngữ nghĩa
theo hệ thống ngữ nghĩa của tiếng Việt.
Các từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt thời kì sau được Việt hố thì hoặc
cĩ biến đổi ngữ âm theo quy luật hoặc là được giữ nguyên dạng ngữ âm Hán
như phịng, phật, vụ…
Một số từ gốc Hán được Việt hố thời kì đầu cùng với những từ gốc Hán
Việt hố sang kì thứ hai lại trở thành những từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái
như: búa (phủ), bay (phi). Những từ trong thời kì thứ hai, ngồi những từ đã
được Việt hố, đại bộ phận cịn lại vẫn giữ nguyên âm, ý nghĩa cũ (tuy vẫn cĩ
một số từ bị thu hẹp về nghĩa) nhưng do chưa được Việt hố nên cịn mang
đậm màu sắc ngoại lai. Những yếu tố này mới thực sự là những yếu tố Hán
Việt.
Vào những thế kỉ cuối cùng, các nước châu Á bắt đầu chịu ảnh hưởng
của tư tưởng tư sản châu Âu qua cửa ngõ Nhật Bản. người Nhật đã dùng chữ
Hán trong văn tự của họ để phiên dịch các khái niệm của châu Âu, sau đĩ người
Hán lại đọc các từ này theo âm Hán Việt, ví dụ như các từ: cộng hồ, giai cấp,...
Từ đầu thế kỉ XX và đặc biệt là sau cách mạng tháng 8 năm 1945, những từ này
đã ồ ạt vào tiếng Việt cùng với những từ Hán hiện đại như: địa chủ, cố nơng, cải
cách,... theo với đà phát triển của khoa học tự nhiên và xã hội, người Việt cịn
dùng các yếu tố Hán Việt để tạo ra những từ riêng của mình như: đại đội, trung
đồn,...Những từ này cĩ thể gọi là từ Hán Việt mới.
2. Đặc điểm từ Hán Việt
Cho đến bây giờ, cách nhận dạng từ Hán Việt vẫn chỉ là tương đối. Bởi
từ Hán Việt phong phú, đa dạng bao nhiêu thì trong đĩ lại chứa đựng sự phức
tạp bấy nhiêu.
Về vấn đề này, xin lấy ý kiến của tác giả Nguyễn Văn Khang trong quyển
“Tiếng Việt trong trường học, NXB KHXH, Hà Nội, 1995”.
Theo ơng, sự phức tạp của từ Hán Việt thể hiện ở ba mặt: ngữ âm, nội
dung và cấu tạo từ.
Về mặt ngữ âm: các từ Hán thâm nhập vào Tiếng Việt khơng phải từ nào
cũng tuân thủ theo phương thức đồng hố, tức là một vỏ ngữ âm Hán được
thay bằng một vỏ ngữ âm Hán Việt.
- Sự phân biệt giữa từ Hán Việt và từ Tiền Hán Việt khơng phải lúc nào
cũng rạch rịi như từ: nghĩa, địa, bạ…
11
- Cùng tồn tại với từ Hán Việt cũng cĩ những đơn vị từ vựng cĩ quan hệ
tương ứng âm nghĩa với từ Hán Việt, như “lâu - lầu”, “vân - vần”. “lầu, vần” là
Hán Việt Việt hố nhưng kết quả của sự Việt hố từ Hán Việt chẳng phải là Hán
Việt Việt hố đĩ sao? Cái khơng đơn giản chính là nằm ngay ở khái niệm Hán
Việt Việt hố.
- Lại cĩ trường hợp từ Hán Việt lại bị phương ngữ hố về mặt ngữ âm
nên lại hình thành cặp đồng nghĩa giữa từ Hán Việt và biến thể của chúng: “sinh
- sanh”, “chính - chánh”, “trường - tràng”…
- Mặt khác, do những nguyên nhân xã hội khác như cách đọc kiêng, thĩi
quen đọc sai làm cho từ Hán Việt cĩ cách đọc chệch âm Hán Việt nhưng một số
những cách đọc sai đĩ lại trở nên thơng dụng như: bù - phù, chá - trá…Do vậy,
khơng thể xem đĩ là sai được.
Tác giả đã chỉ ra ba đặc điểm nội dung từ Hán Việt như sau:
Thứ nhất: Sự vận hành của hệ thống từ vựng của ngơn ngữ theo thời
gian, những tác động của tiến trình xã hội - lịch sử đã ảnh hưởng làm thay đổi
nghĩa của các từ Hán Việt.
Ví dụ: những từ “truy, điện” trong tiếng Việt hiện đại khác xa so với nghĩa
gốc đến mức hầu như chỉ cịn vỏ ngữ âm Hán Việt mà thơi.
Thứ hai: Cĩ nhiều từ Hán Việt mang nội dung ngữ nghĩa dường như
chẳng cịn quan hệ gì với nghĩa vốn cĩ trong tiếng Hán.
Ví dụ: Từ “đáo để” với nghĩa vốn cĩ là đến đáy, đến cùng lại trở thành
nghĩa quá quắt, khơng ở thế kém bất cứ ai.
Thứ ba: Đa số từ Hán việt là đa nghĩa nhưng khơng phải là lấy tất cả các
nghĩa của từ Hán mà những nghĩa được nhập ngay vào bản thân một từ Hán
Việt khơng được đồng hố như nhau.
Ví dụ: khinh “nhẹ” (yếu tố cấu tạo từ) và khinh “coi thường” (động từ).
Thứ tư: Từ Hán Việt gợi hình ảnh thế giới im lìm bất động.
Thư năm: Từ Hán Việt nghe kêu, vang dội hơn từ thuần Việt.
Về mặt cấu tạo từ: Theo ơng, các từ đa tiết Hán Việt được hình thành từ
hai nguồn: loại mượn nguyên khối từ Tiếng Hán và loại được người Việt tạo ra
từ chất liệu Hán .
+ Loại mượn nguyên khối bao gồm:
Thứ nhất: mượn nguyên cả mơ hình cấu tạo lẫn yếu tố cấu tạo từ như
hồ bình, độc lập.
12
Thứ hai: vẫn giữ nguyên yếu tố cấu tạo từ nhưng trật tự các yếu tố khơng
thay đổi (phĩng thích, náo nhiệt).
Thứ ba: giữ nguyên mơ hình cấu tạo từ trật tự các yếu tố nhưng một
trong hai yếu tố được thay thế (cĩ lý - hữu lý).
Thứ tư là thay đổi trật tự yếu tố và một trong hai yếu tố (lơng hồng - hồng
mao).
+ Loại được tạo ra từ chất liệu Hán (yếu tố cấu tạo từ Hán Việt) và mơ
hình cấu tạo từ Hán bao gồm:
Thứ nhất: mượn mơ hình cấu tạo Hán với 2 yếu tố đều là Hán Việt (trung
đồn) hoặc 1 trong 2 là yếu tố Hán kết hợp theo mơ hình cấu tạo từ Hán (học
trị).
Thứ hai là các yếu tố Hán kết hợp theo mơ hình cấu tạo từ Tiếng Việt
(viện phĩ, trường học).
Ngồi ra cịn 1 loại khác từ những từ đa tiết Hán Việt mượn nguyên khối
từ tiếng Hán và đơn tiết hố chúng: văn, địa, lạc…
Chính những tính đa dạng về sự tồn tại của các từ Hán Việt trong tiếng
Việt hiện đại như đã trình bày ở trên gây khĩ khăn cho người tiếp nhận và sử
dụng khiến họ dễ cĩ sự hiểu sai.
Vì vậy, trước nay đã cĩ khơng ít những học giả đã đưa ra một số cách
để nhận dạng từ Hán Việt. Đến nay cĩ thể khái quát cĩ năm cách nhìn nhận
sau:
a. Một số học giả đã triệt để theo quan điểm lịch sử chỉ chấp nhận từ Hán
Việt cĩ âm đọc đúng với phiên thiết. Quan điểm này như vậy là đã làm hạn chế
vốn từ Hán Việt phong phú.
b. Ở một số tác giả khác thì cơng nhận những từ đọc đúng với phiên thiết
và cả những trường hợp quen dùng được xã hội thừa nhận. Tuy nhiên hướng
giải quyết này vẫn cịn chưa được rõ ràng đầy đủ vì số lượng những trường hợp
từ quen dùng sai cĩ rất nhiều. “Chỉ cĩ những người biên soạn Tự điển Hán Việt
đã thể hiện tương đối rõ quan điểm của mình thơng qua bảng từ biên soạn, như
Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh; Hán Việt thành ngữ của Bửu Cân và đáng
chú ý là cuốn Từ Điển yếu tố Hán Việt thơng dụng (1991) đã chú ý xử lý từng
trường hợp cụ thể (chủ - chúa, chính - chánh, bản - bổn…)” 1
1 Nguyễn Văn Khang: Một số vấn đề dạy và học từ Hán Việt trong trường phổ thông, trong quyển
“Tiếng Việt trong trường học”, NXB KHXH, Hà Nội, 1995
13
c. Theo hướng đồng đại, một số tác giả nhận diện từ Hán Việt thơng qua
tiêu chí đồng hố, tức là chấp nhận những từ Hán Việt cĩ khả năng hoạt động
như từ thuần Việt (tức là chú trọng mức độ Việt hố của từ Hán Việt).
d. “Dùng cảm thức ngơn ngữ để nhận dạng từ Hán Việt. Về phương diện
này, quyển “Mẹo Giải Nghĩa Từ Hán Việt và Chữa lỗi Chính Tả, NXB Thanh
Niên, Hà Nội, 2000” của tác giả Phan Ngọc là đáng chú ý nhất. Trong quyển
này, tác giả đã dựa vào cảm thức của người nĩi, viết xem từ này là thuần Việt,
từ kia là Hán Việt, từ này dễ hiểu, từ kia khĩ hiểu, từ này cĩ vẻ sang trọng, từ
kia quá mộc mạc, từ này nghe kêu, từ kia nghe ít âm hưởng, nghe khơng kêu,
từ này nghe buồn, từ kia nghe vui v.v…Những ấn tượng ấy mơ hồ nhưng cĩ
thật. Từ suy nghĩ đĩ, tác giả cho rằng phải quy được các ấn tượng thành cơng
thức và tạo ra mẹo. Sau khi phân tích, tác giả đã đưa ra 2 loại âm tiết A và B
(trong số 4 loại âm tiết) dành cho từ Hán Việt: “âm tiết A tự do là bá chủ, nĩ quy
định mọi âm tiết Hán Việt”.2 Đối với các từ đa tiết Hán Việt sẽ được coi là dể
hiểu hay khĩ hiểu là nhờ vào vị trí của âm tiết Hán Việt đứng trước là A hay B và
trật tự ngược hay xuơi (tức là mơ hình cấu tạo của từ tiếng Hán và mơ hình cấu
tạo của từ tiếng Việt)”. 3
e. Cũng dựa trên tiêu chí ngữ âm để nhận diện từ Hán Việt, tác giả
Nguyễn Ngọc San trong quyển “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, NXB ĐHSP” đã chỉ
ra các cách nhận diện sau:
- Các tiếng cĩ âm đầu tắc họng, nếu là từ Hán Việt bao giờ cũng cĩ các
thanh bổng (ngang, sắc, hỏi), ví dụ: ẩm, ấm, ơn,…Ngược lại, nếu mang thanh
trầm thì đều là từ thuần Việt.
- Các từ Hán Việt cĩ thanh đầu /gi/ mang các thanh điệu bổng như: gia,
giáng, giảng,… Nếu cĩ thanh điệu trầm là từ thuần Việt.
- Các từ Hán Việt cĩ âm đầu /ch/ luơn mang thanh điệu bổng: chu,
chướng, chí, chúc,…
- Các từ Hán Việt cĩ âm đầu /kh/ luơn mang thanh điệu bổng: khai, khái,
khải, khủng,…
- Các từ Hán Việt cĩ phụ âm vang /m/, /n/, /nh/, /ng/, /l/ đều cĩ thanh điệu
ngang, ngã, nặng.
f. Quyển “Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, Cao Xuân Hạo - NXB Trẻ
2001”, tác giả cho rằng người ta thường dựa vào sự phân biệt với từ thuần Việt
khi xem xét đặc điểm từ Hán Việt. Nĩi như tác giả, người ta đã dựng lên sự
2 Phan Ngọc: Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2000.
3 Nguyễn Văn Khang: Một số vấn đề dạy và học từ Hán Việt trong trường phổ thông, trong quyển
“Tiếng Việt trong trường học”, NXB KHXH, Hà Nội, 1995
14
phân biệt nhân tạo giữa Hán Việt và thuần Việt. Khi đĩ, theo ơng từ Hán Việt cĩ
những đặc điểm sau:
Thứ nhất: các yếu tố Hán Việt khơng được dùng độc lập như yếu tố
Thuần Việt mà chỉ xuất hiện trong những tổ hợp 2 tiếng trở lên.
Chẳng hạn như: nỗ l._.ực, mãnh liệt, xạ thủ…
Khơng thể nĩi “nĩ xạ được 1 con vật” mà phải nĩi “nĩ bắn được 1 con
vật”.
Ta cũng chỉ cĩ thể nĩi “đi chợ” chứ khơng thể nĩi “khứ chợ” được.
Thứ hai: trong tiếng Việt, các từ Hán Việt làm thành một lớp riêng, cĩ
những đặc trưng ngữ pháp và tu từ.
Về ngữ pháp, các từ tổ Hán Việt tuy cũng chứa đựng mối quan hệ cú
pháp (chính phụ, đẳng lập) như các từ tổ thuần Việt như rõ ràng mối quan hệ
này chặt chẽ hơn nhiều so với từ tổ thuần Việt. Giữa cú pháp từ tổ Hán Việt và
từ tổ thuần Việt cĩ sự sai biệt về trật tự trong quan hệ chính phụ. Ở từ tổ Hán
Việt thì yếu tố phụ trước, yếu tố chính sau cịn ở từ tổ thuần Việt thì trật tự này
ngược lại hồn tồn.
Chẳng hạn: phi cơng (Hán Việt) - người lái (thuần Việt)
ngoại quốc (Hán Việt) - nước ngồi (thuần Việt)
Điều này làm cho các từ tổ Hán Việt dễ hiểu đúng hơn, được ưu tiên hơn
trong việc chọn làm thuật ngữ khoa học, kỹ thuật như: ngữ âm, lượng từ, nhân
văn…
Nhờ trật tự này mà từ Hán Việt khơng bao giờ gây mâu thuẫn trong cách hiểu,
trái lại từ thuần Việt dễ gây hiểu lầm.
Ví dụ “xạ thủ Nam”, chỉ cĩ thể hiểu một cách duy nhất cịn “người bắn
Nam” khơng cho biết đĩ là kẻ bắn anh Nam hay người bắn tên là Nam.
Về phương diện ngữ nghĩa, phần lớn từ Hán Việt đều cĩ một sắc thái
ngữ nghĩa giúp ta nhận thức cảm tính được nĩ khác với những từ thuần Việt
dường như đồng nghĩa với nĩ. Từ Hán Việt thường mang sắc thái trang trọng,
hay thi vị, hay cổ kính, bác học hay mờ ảo… Ví dụ: phụ nữ, hội nghị…
Lẽ dĩ nhiên, khơng phải bất cứ từ Hán Việt nào cũng mang sắc thái đĩ
bởi vì trong tiếng Hán sắc thái này khơng hề cĩ. Nếu ta dựa vào những sắc thái
này để khẳng định đây là từ Hán Việt thì chưa hồn tồn đúng. Trong số những
từ ngữ Hán đi vào tiếng Việt, một mặt cĩ những từ “bình dân” do dần được
người bản ngữ đồng hố cĩ dáng dấp ngữ âm riêng và khơng cịn bị người bản
ngữ tri giác như từ ngoại lai nữa. Mặt khác cĩ những từ ngữ Hán đi vào tiếng
15
Việt theo con đường “bác học”, chủ yếu là qua các văn bản hành chính sự vụ,
đĩ là tiền thân của từ Hán Việt sau này. Chính vì cĩ sự phân biệt này dẫn đến
những cách nhận biết cịn mơ hồ về từ Hán Việt.
Chính những sắc thái phong vị riêng của từ Hán Việt đã làm cho nĩ nghe
hay hơn. Bởi thế, trong những việc trang trọng, nghiêm túc thì người ta vẫn
thích dùng từ Hán Việt hơn từ thuần Việt.
Sẽ khơng ai nĩi “đàn bà các nước” mà chỉ nĩi “quốc tế phụ nữ” mặc dù
chúng cĩ nghĩa tương đương.
Tương tự, giữa “tham quan” và “đi xem”, người ta vẫn thích dùng “tham quan”
hơn bởi sắc thái biểu cảm của nĩ.
Trái với từ thuần Việt quy từ loại dễ dàng thì từ Hán Việt rất khĩ xác định
từ loại.
Ví dụ: những từ như “lý tưởng, tiến bộ, thành cơng” cĩ thể làm tính từ hay
danh từ đều được…
Ở đây, chúng tơi nhất trí chọn quan điểm của tác giả Cao Xuân Hạo về
đặc điểm của từ Hán Việt làm cơ sở lí luận cho đề tài.
3. Vị trí từ Hán Việt trong tiếng Việt
Cĩ thể thấy rằng, so với các từ loại gốc Hán khác thì từ Hán Việt hồn
tồn chiếm ưu thế tuyệt đối với một khối lượng từ ngữ rất lớn trong hệ thống từ
vựng tiếng Việt. Theo thống kê của H. Masspero thì chúng chiếm trên 60 %.
Trong phát ngơn hàng ngày, chúng ta vẫn sử dụng từ Hán Việt khá nhiều thậm
chí trong một câu chỉ tồn là từ Hán Việt. Ví dụ: Đài truyền hình Việt Nam nỗ lực
đầu tư trang thiết bị phục vụ tối ưu đồng bào. Hệ thống những từ Hán Việt từ lâu
đã trở nên gần gũi, quen thuộc với người Việt. Từ thế kỉ thứ VIII - XV và ngay cả
đến bây giờ, tiếng Việt đều sử dụng hệ thống âm đọc Hán Việt những từ mượn
Hán hay sáng tạo từ mới trong ngơn ngữ viết. Đặc biệt trong thời đại mới, quá
trình giao lưu hội nhập tồn cầu địi hỏi người Việt Nam phải nắm bắt kịp những
thơng tin, khái niệm mới, cần phải cĩ ngơn ngữ để diễn đạt hoặc dịch ra những
khái niệm này. Khơng ai khác, từ Hán Việt với những sắc thái biểu cảm của nĩ
luơn được chọn để đảm nhận vai trị này.
Ví dụ: “thặng dư”, “tiền tệ”, “hoả tiễn”… là những từ chỉ mới xuất hiện
trong thời mở cửa phát triển đất nước.
Về phương diện tiếp thu văn ngơn Hán, hiện tượng vay mượn các từ Hán
đọc theo âm Hán Việt để tạo ra lớp từ Hán Việt trong tiếng Việt xảy ra trong một
quá trình lâu dài bao quát hàng mấy chục thế kỉ. Vì vậy, tồn bộ sự phát triển
của từ vựng Hán cũng được phản ảnh trong lớp từ Hán Việt.
16
Mặt khác, âm Hán Việt cĩ xuất phát điểm từ âm Hán Trung Cổ, cụ thể là
đời nhà Đường. Về mặt lý thuyết, âm Hán Việt hồn tồn cĩ khả năng đọc được
tất cả kho từ vựng tiếng Hán. Từ đĩ, từ Hán Việt cũng cĩ giá trị quan trọng trong
việc nghiên cứu Hán ngữ thời Trung cổ và những tác phẩm kinh điển của Trung
Quốc.
Một số tác phẩm văn học, triết học Trung Quốc khi truyền vào Việt Nam
mặc dù lúc này tiếng Việt đã gần như đầy đủ từ biểu thị sự vật và những nền
văn minh vật chất nhưng vẫn cĩ một số từ Hán trong văn bản trở thành từ Hán
Việt như quân tử, tiểu nhân, thục nữ trong Kinh Thi; khái niệm “đạo” của Lão
Tử…
Trong suốt quá trình du nhập của ngơn ngữ Hán vào Việt Nam, mặc dù
cĩ sự đẩy lùi khá mạnh của người Việt; song, người Việt Nam cũng nhận thấy
cần vay mượn một số từ ngữ Hán để lấp vào chỗ trống do tiếng Việt cịn thiếu.
Đĩ là nhu cầu và cũng là khả năng của người Việt. Cùng với quá trình đơ hộ và
truyền đạo, các khái niệm trừu tượng của nho, phật, lão… cũng được mượn vào
tiếng Việt như: thần, sắc, khơng, tâm, lễ, trí, nhân…và những từ liên quan đến
văn hố, hành chính như: bút, khoa, trường…Những từ đơn âm tiết này, khi
ghép lại với yếu tố Hán Việt khác sẽ tạo ra gấp bội các từ vựng trong tiếng Việt.
Cĩ thể nĩi: từ Hán Việt đã đĩng gĩp khơng ít trong quá trình hình thành
và phát triển của tiếng Việt hiện đại.
Xét về phương diện lịch sử dân tộc cho thấy, người Việt Nam từ thế hệ
này sang thế hệ khác đã tiếp nối sử dụng chữ Hán như “một cơng cụ văn hố
của dân tộc”4 . Sử sách ghi lại việc nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã sử
dụng chữ Hán như một thứ chữ “quan phương chính thống” liên tiếp trong một
thời gian dài. Chính trong quá trình này, người Việt đã dùng nĩ để ghi chép
những cơng trình sử học, y học…Bên cạnh đĩ, các cụ xưa đã dùng nĩ để sáng
tác văn học ngay cả khi đã xuất hiện chữ Nơm. Kho tàng văn học dân tộc cịn
lưu lại những tác phẩm kinh điển như: “Bình Ngơ Đại Cáo” của Nguyễn Trãi,
“Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn…Tất cả, tất cả những tài sản quý báu đĩ
được các thế hệ sau tìm hiểu, phiên dịch lại thơng qua một phương tiện duy
nhất chính là âm Hán Việt và từ Hán Việt cĩ tác dụng ghi lại những âm đọc đĩ.
Tĩm lại, trong tiếng Việt, từ Hán Việt chiếm một số lượng lớn, cực kì
phong phú nếu khơng nĩi là khá phức tạp, giữ vị trí rất quan trọng cĩ ảnh hưởng
đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sự đa dạng phức tạp đĩ mà dẫn
đến nhiều trường hợp hiểu và sử dụng sai từ Hán Việt. Vì vậy, việc khảo sát khả
năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của người Việt nĩi chung và của thế hệ trẻ
học sinh nĩi riêng là vấn đề quan trọng trong giai đoạn hiện nay nhằm mục đích
duy nhất là hướng tới nâng cao kĩ năng sử dụng ngơn ngữ Việt của người Việt
Nam gĩp phần bảo tồn và phát duy di sản văn hố ngơn ngữ của dân tộc.
4 Đặng Đức Siêu: Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông, NXB GD.
17
4. Điểm qua về chương trình dạy học từ Hán Việt ở trường
phổ thơng
Trong quyển “Tiếng Việt trong trường học, NXB KHXH, Hà NộI, 1995”,
tác giả Nguyễn Văn Khang đã nêu lên hai phương pháp dạy học từ Hán Việt chủ
yếu trong nhà trường phổ thơng hiện nay như sau:
a) Phương pháp “học ít hiểu kĩ”
Trong bài “Dạy và Học từ Hán Việt ở trường phổ thơng” (Tiếng Việt, số
phụ tạp chí ngơn ngữ, 1989), tác giả Trương Chính đã đưa ra nguyên tắc dạy ít,
bày cho các em tìm hiểu chắc chắn, so sánh với những từ đồng âm, đồng nghĩa
và đưa ra cách sử dụng đúng, thích hợp. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ tính
đến phía người truyền thụ kiến thức cịn phía người học cĩ tiếp nhận được hay
khơng lại là chuyện khác. Mặt khác, cũng giới hạn trình độ của các em.
b) Phương pháp “học ít biết nhiều”
“Phương pháp này dạy cho học sinh nắm được các yếu tố và các kiểu
quan hệ ngữ nghĩa trong các đơn vị định danh” (Phan Thiều trong quyển Tiếng
Việt số 1, 1988), tức là nắm từ tố cấu thành rồi mới suy ra ý nghĩa của từ ghép
Hán Việt. Song, sự suy diễn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của cả giáo viên và
học sinh, khơng phải là chuyện đơn giản như biết được nghĩa của từ tố hãnh và
từ tố diện nhưng chưa chắc đã biết được nghĩa của từ hãnh diện.
Cách dạy từ Hán Việt hiện nay ở trường phổ thơng tuy cũng cĩ ưu điểm
nhưng với cách dạy như vậy cĩ một vài hạn chế:
- Chưa trình bày một lúc các nghĩa khác nhau của một yếu tố Hán Việt.
- Chưa giúp học sinh phân biệt được các trường hợp đồng âm.
- Chưa giúp học sinh hệ thống được các yếu tố Hán Việt trái nghĩa.
Chương trình dạy học từ Hán Việt ở trường phổ thơng hiện nay cho thấy
vẫn cịn nhiều điều bất cập địi hỏi những người làm cơng tác giáo dục phải cĩ
sự đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học nhằm nâng cao khả năng hiểu và sử
dụng từ Hán Việt của học sinh.
5. Thế nào là hiểu từ Hán Việt
Ở đây, hiểu từ Hán Việt tức là xét về khả năng học sinh cĩ thể làm rõ
nghĩa của từ Hán Việt bằng từ thuần Việt hoặc những từ đồng nghĩa mà những
từ đồng nghĩa này cĩ mức độ khái quát, trừu tượng thấp hơn, dễ hiểu hơn từ
Hán Việt cần giải thích hay khơng.
Việc hiểu từ Hán Việt bao hàm hai kĩ năng: trình bày nghĩa gốc và trình
bày nghĩa phái sinh.
18
Chẳng hạn: từ “bạc” cĩ nghĩa gốc là “mỏng”, sinh ra các nghĩa phái sinh
là “chi tiết”, “thứ yếu” (tính từ), “xem như” (động từ).
Để hiểu được từ Hán Việt chúng ta cần hiểu giá trị phong cách của
chúng và đặt chúng trong những mối quan hệ thích hợp.
6. Thế nào là sử dụng từ Hán Việt
Sử dụng từ Hán Việt là xét về khả năng học sinh cĩ thể đặt câu với từ
Hán Việt sao cho đúng nghĩa của từ, đúng từ loại, đúng sắc thái ngữ cảm, hợp
với logic ngữ nghĩa của câu
Để sử dụng đúng từ Hán Việt cần phải hiểu nghĩa của từ Hán Việt, xem
xét mối quan hệ giữa nĩ với các từ khác trong câu và logic ngữ nghĩa của cả
câu.
7. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Ngơi trường THPT Long Xuyên gồm ba tầng, toạ lạc ở trung tâm thành
phố Long Xuyên. Trước kia, nơi đây là cơ sở trường trung học tư thục Phụng
Sự. Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phĩng, trường trung học Chưởng Binh
Lễ sáp nhập vào đây và trường lấy tên là trường cấp II, II B Long Xuyên. Sau
đĩ, đổi tên là trường THPT Long Xuyên I rồi đổi thành trường THPT Long Xuyên
và tên đĩ đã gắn chặt với ngơi trường cho đến ngày nay.
Trải qua sau 29 năm phấn đấu của tập thể nhà trường, ngày nay ngơi
trường đã hồn tồn thay đổi, xây dựng thêm nhiều phịng học mới, cảnh quan
sáng sủa, khang trang, cĩ nhiều phịng thí nghiệm thực hành và phịng máy vi
tính giúp ích rất nhiều cho việc học tập, nghiên cứu của giáo viên, học sinh
trường.
Ngày nay, trường THPT Long Xuyên là một trường cấp III lớn của tỉnh cĩ
60 lớp với hơn 2.745 học sinh. Hiệu trưởng là cơ Phan Thị Năm.
Trong những năm qua, trường đã đào tạo nhiều học sinh đạt học sinh giỏi
cấp tỉnh, cấp quốc gia. Số lượng học sinh tốt nghiệp tú tài và cả thi đỗ đại học
mỗi năm đều gia tăng.
Năm 2002, trường đã được chủ tịch nước cơng nhận huân chương lao
động hạng ba - danh hiệu cao quí cho trường học xuất sắc.
Đội ngũ giáo viên Văn của trường bao gồm 15 giáo viên, tổ trưởng là cơ
Cao Thanh Nguyệt.
Đặc biệt, năm 2003 vừa qua, cơ Lê Thị Thuỳ Trang vừa đạt được học vị
thạc sĩ Văn.
* Thành tích đạt được của tổ bộ mơn Văn
19
- Ba năm liền đạt danh hiệu tổ tiên tiến xuất sắc được UBND tỉnh tặng
bằng khen.
- Năm 1999-2000
. HSG cấp tỉnh: 3 học sinh – 1 học sinh giỏi quốc gia.
. Viết thư UPU cấp tỉnh:
1 HS đạt giải I
1 HS đạt giảI III
- Năm 2000-2001
. 1 HSG quốc gia
. 6 HSG cấp tỉnh
. Viết thư UPU
7 HS đạt giải 3 cấp tỉnh
2 HS đạt giải KK cấp tỉnh
- Năm 2001-2002
6 HSG cấp tỉnh
Ngồi ra tổ thường xuyên tổ chức những hoạt động như: viết báo tường,
viết chuyên san, tổ chức câu lạc bộ văn học.
(Theo thống kê từ năm 99-02)
8. Vài nét về đối tượng điều tra
Nằm trong hệ thống các lớp học của trường, cũng như các lớp khác, học
sinh các lớp 10A2, 10A11, 10A12, 12A13, 12A14 cĩ điều kiện học tập tốt bộ
mơn ngữ văn.
Mặt khác, học sinh các lớp cĩ điểm tuyển vào trường tương đối cao. Nhìn
chung, trình độ học sinh trong một lớp và giữa tất cả 5 lớp tương đối cao và
đều. Đây là điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng dạy tiếng Việt
nĩi chung và từ Hán Việt nĩi riêng cũng như những mơn khác.
Sỉ số học sinh 5 lớp đạt 225 học sinh. Trong đĩ, nữ chiếm tỉ lệ 52%, nam
chiếm tỉ lệ 48%, số học sinh nam và nữ là tương đương nhau.
20
Về địa bàn cư trú, phân lớn học sinh đều cĩ hộ khẩu tại khu vực thành
phố Long Xuyên, chỉ một số ít học sinh cĩ hộ khẩu tại các huyện:
- 3 học sinh cĩ hộ khẩu tại Châu Thành
- 2 học sinh cĩ hộ khẩu tại Thoại Sơn
- 2 học sinh cĩ hộ khẩu tại Châu Phú
- 1 học sinh cĩ hộ khẩu tại Tri Tơn
Tỉ lệ học sinh ở huyện chiếm 3.6%
Điều này cho thấy đại đa số các em đều ở tại thành phố Long Xuyên -
trung tâm giáo dục tốt nhất của tỉnh. Do vậy, các em luơn được cĩ cơ hội tiếp
cận khối lượng thơng tin, sách tham khảo, sách nghiên cứu tương đối đầy đủ.
Mặt khác, trong tổng số 225 học sinh, chỉ duy nhất một học sinh của lớp
10A12 là dân tộc Khơme (học sinh này cĩ hộ khẩu tại huyện Thoại Sơn) chiếm tỉ
lệ 0.4%.
Những đặc điểm đồng nhất trên đây của đối tượng điều tra đã tạo điều
kiện cho chúng tơi trong quá trình khảo sát và thống kê, xử lý tư liệu. Tuy nhiên,
những đặc điểm chung về hộ khẩu thường trú, dân tộc, giới tính cũng tạo nên
giới hạn của đề tài. Nếu như trong tổng số đối tượng điều tra, số học sinh thuộc
thành phần dân tộc ít người hoặc cĩ hộ khẩu tại huyện, xa (vùng sâu, vùng xa)
tương đối gần với số học sinh cĩ hộ khẩu thường trú tại thành phố Long Xuyên
thì sẽ giúp đề tài cĩ sự so sánh, đối chiếu về trình độ hiểu và sử dụng tiếng Việt
nĩi chung và từ Hán Việt nĩi riêng giữa các đối tượng này. Như vậy, đề tài sẽ cĩ
thể đi đến một cái nhìn cụ thể và bao quát hơn.
21
Chương 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG HIỂU
VÀ SỬ DỤNG TỪ HÁN VIỆT CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG THPT LONG XUYÊN
Qua phát phiếu điều tra với tổng số 225 học sinh thuộc 5 lớp cả khối 10
và 12 trường THPT Long Xuyên, chúng tơi đã thu được những kết quả về thực
trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh hai khối. Các phiếu điều tra
được phát ra tuy đã cĩ sự hướng dẫn của giáo viên về nội dung câu hỏi để học
sinh cĩ thể định hướng cách trả lời; song, một bộ phận học sinh vẫn mắc phải
lỗi khơng đáng mắc phải đĩ là khơng trả lời đúng yêu cầu câu hỏi hoặc là bỏ
trống phần trả lời, đĩ là chưa kể đến những lỗi mắc phải trong câu trả lời. Khi
xem xét khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh, chúng tơi tập trung
lưu ý và khảo sát những lỗi thường gặp. Cố nhiên, việc bắt lỗi khơng bằng thái
độ cố chấp mà dựa trên cái chuẩn được cả xã hội thừa nhận để đánh giá khả
năng của học sinh. Những từ Hán Việt mà hiện nay đã đọc sai với ngữ âm
nguyên thuỷ hoặc giả là đã chệch nghĩa gốc nhưng đã trở thành thĩi quen ngơn
ngữ thì việc học sinh dùng như vậy cũng khơng bị đánh giá là sai.
1. Khả năng nhận biết từ Hán Việt của học sinh
Đầu tiên, để tạo cơ sở đánh giá khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt
của học sinh khối 10 và 12 trường THPT Long Xuyên, câu hỏi số 1 trong phiếu
điều tra được đưa ra nhằm thăm dị khả năng nhận biết từ Hán Việt của các em.
- Yêu cầu: Hãy viết ra những yếu tố Hán Việt mà em biết.
- Mục đích: kiểm tra vốn từ Hán Việt và khả năng nhận diện từ Hán Việt
của học sinh.
- Trả lời của học sinh:
29,8% học sinh khơng viết được yếu tố nào
47,2% học sinh viết được từ 1Ỉ10 yếu tố.
16,2% học sinh viết được 11Ỉ20 yếu tố.
3,8% học sinh viết được 21Ỉ30 yếu tố.
3% viết được trên 30 yếu tố.
Tổng số yếu tố Hán Việt viết được: 165 yếu tố, chiếm tỉ lệ: 70,2%.
22
Trung bình mỗi học sinh viết được 7 yếu tố đúng, là một con số cao,
thuận lợi cho quá trình khảo sát.
Tối đa: 65 yếu tố đúng
Tối thiểu: 0 yếu tố
Sự chênh lệch khá xa giữa hai con số phản ánh trình độ nhận biết từ Hán
Việt khơng đồng đều giữa các học sinh.
Qua khảo sát cho thấy cĩ đến 52 bài trả lời bằng những từ ghép Hán Việt
trong khi câu hỏi yêu cầu viết yếu tố Hán Việt. Điều đĩ cho thấy: phần lớn các
em chưa phân biệt được thế nào là từ ghép Hán Việt thế nào là yếu tố Hán Việt.
Tuy nhiên, dù là viết yếu tố Hán Việt hay từ ghép Hán Việt cũng cho thấy
các em cĩ khả năng biết được từ Hán Việt, khơng bị nhầm lẫn với từ thuần Việt.
Trong số những yếu tố được kể ra, các yếu tố: quốc, gia, thuỷ, sơn, thiên,
địa là những yếu tố xuất hiện với tần suất cao (89,6%). Hầu như phiếu trả lời
nào cũng xuất hiện những yếu tố này.
Trong đĩ:
Địa: 22,4%
Thiên: 21,8%
Thuỷ: 18,8%
Sơn: 15,1%
Gia: 14,5%
Quốc: 13,3%
Nguyên nhân: Đây là những yếu tố Hán Việt quen thuộc và cũng là
những yếu tố Hán Việt được học trong những bài dạy về từ Hán Việt ngay từ
cấp I.
Câu thứ hai của phiếu điều tra là yêu cầu đặt câu với từ Hán Việt, mục
đích nhằm đánh giá khả năng sử dụng từ Hán Việt của học sinh. Tuy nhiên, qua
kết quả khảo sát thu được cũng cho thấy một vấn đề nổi trội là một số các em
hồn tồn khơng biết được từ Hán Việt.
Ví dụ 1: Lan là một fan hâm mộ bĩng đá cuồng nhiệt (bài của Lương Bảo
Trâm_10A2).
Ví dụ 2: Anh ấy đã phơn cho bạn rồi à ? (bài của Nguyễn Hồng
Thu_10A2).
23
Nhận xét: Những từ fan, phơn là những từ tiếng Anh.
Fan là từ nguyên của tiếng Anh, trong cách sử dụng phổ biến của người
Việt Nam, fan cĩ nghĩa là người hâm mộ (fan trong tiếng Anh cĩ các nghĩa: quạt
máy, cửa sổ bán nguyệt, người hâm mộ)
Như vậy, do khơng hiểu nghĩa của từ fan nên các em này đã sử dụng
thừa fan hâm mộ.
Phơn là cách đọc phiên âm từ tiếng Anh phone của người Việt Nam.
Phone cĩ các nghĩa:
- động từ: gọi điện thoại
- danh từ: (1) điện thoại cơng cộng dùng thẻ; (2) buổi phát thanh cĩ câu
trả lời hoặc phê bình của cơng chúng qua điện thoại được truyền lại trực tiếp.
Phone (tiếng Anh) đã được người Việt Việt hố bằng âm đọc phiên âm
tiếng Việt và lấy nghĩa là gọi điện thoại (động từ), cú điện thoại (danh từ) như:
chờ phơn của ai, phơn cho ai,.v.v…
Như vậy, ta biết rõ fan, phơn là từ tiếng Anh được mượn vào tiếng Việt
dưới dạng thu hẹp nghĩa hoặc Việt hố âm đọc. Dù đã được Việt hố âm đọc;
song, nghe qua ta biết ngay là từ của phương Tây (hoặc Anh, hoặc Pháp). Dù
đã từng học hay chưa học tiếng Anh ta cũng dễ dàng nhận ra chúng khơng phải
là từ Hán Việt, khơng cĩ những đặc điểm của từ Hán Việt (từ Hán Việt khơng
dùng độc lập, mang sắc thái trang trọng, cổ kính, bác học, âm kêu,.v.v…). Do
đặc điểm địa lý, lịch sử, âm Hán Việt đã được người Việt Nam sử dụng qua
nhiều thế hệ, người Việt Nam cĩ ngữ cảm đặc biệt đối với âm Hán Việt. Đối với
những từ nước ngồi được Việt hố âm đọc như: ma-két-tinh, mít-tinh, (xe)
buýt.v.v… người Việt khơng cĩ được ngữ cảm đặc biệt này. Do đĩ, khi nghe khi
nghe một từ ta cĩ thể phân biệt được từ Hán Việt, thuần Việt hay từ nước ngồi
được Việt hố.
Do người sử dụng chưa nắm được đặc điểm từ Hán Việt trong sự so
sánh đối chiếu với từ thuần Việt nên thường xảy ra sự nhầm lẫn giữa từ Hán
Việt và thuần Việt. Tuy nhiên, sự nhầm lẫn giữa từ Hán Việt và từ nước ngồi
được Việt hố âm đọc ít khi xảy ra nếu khơng nĩi là khơng bao giờ xảy ra.
Ở đây, do tiếng Anh đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, phần
lớn học sinh đều đã được học tiếng Anh (bên cạnh một số học sinh học tiếng
Pháp), đặc biệt. ở trường THPT Long Xuyên, con số này là 100% nhưng một số
em lại khơng nhận biết được từ fan (phan), phone (phơn) là tiếng Anh mà nhầm
lẫn với từ Hán Việt là một sai lầm hết sức trầm trọng. Hầu hết các em này đều
sử dụng theo thĩi quen ngơn ngữ hàng ngày (fan, phone là những từ ngoại lai
được sử dụng phổ biến trong xã hội Việt Nam thời mở cửa) và xuất phát từ một
24
nhận thức cho rằng từ Hán Việt là từ ngoại lai nên mới xảy ra những trường hợp
đáng tiếc như vậy.
Ví dụ 3: Đàn ơng đi biển cĩ đơi
Đàn bà đi biển mồ cơi một mình
(bài của Nguyễn Trường Xuân - 12A14)
Ví dụ 4: Tao nĩi với mày như nước đổ lá mơn.
(bài của Nguyễn Nhật Quang - 10A11)
Nhận xét: Hai ví dụ trên đây cho thấy các em hồn tồn khơng biết về từ
Hán Việt. “Đàn ơng”, “đàn bà”, “nước đổ lá mơn” đều là những từ, cụm từ tiếng
Việt, khơng phải là từ, cụm từ Hán Việt.
Từ Hán Việt tương đương với “đàn ơng”: nam giới
Từ Hán Việt tương đương với “đàn bà”: phụ nữ, nữ giới
“Đàn ơng đi biển cĩ đơi
Đàn bà đi biển mồ cơi một mình”
là một câu ca dao Việt Nam.
“Nước đổ lá mơn” là một thành ngữ hồn tồn của Việt Nam, với nghĩa là
ví những lời dạy bảo, khuyên can đều chỉ là hồi cơng, khơng cĩ tác dụng gì.
Cả hai câu đều là thành ngữ, ca dao Việt Nam, là thành quả lao động
sáng tạo ngơn ngữ của người Việt Nam bằng chất liệu ngơn từ Việt và mang âm
hưởng dân gian Việt Nam. Việc các em nhầm những từ, cụm từ “đàn ơng”, “đàn
bà”, “nước đổ lá mơn” với những từ ngữ Hán Việt là một sai lầm đến mức trầm
trọng. Điều này cho thấy, khả năng biết từ Hán Việt của các em rất hạn chế và
khả năng đặt câu cũng cịn yếu khi dẫn nguyên câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ
mà khơng hề cĩ một chút đĩng gĩp, xây dựng nào từ bản thân. Ở ví dụ 4, học
sinh cĩ đặt câu; tuy nhiên, cách sử dụng đại từ xưng hơ là ngơn từ với sắc thái
bình dân chỉ thường dùng trong văn nĩi hoặc trong văn cảnh cần thiết. Vì vậy ở
đây, dùng như vậy là khơng phù hợp.
Nĩi tĩm lại, qua phần phân tích trên đây cho thấy, bên cạnh số học sinh
cĩ thể nêu được yếu tố, từ Hán Việt đúng (69,2%), vẫn tồn tại một phần lớn học
sinh cịn mơ hồ về từ Hán Việt, khơng cĩ khả năng nhận biết được chúng. Trong
đĩ cĩ ba vấn đề nổi trội là:
+ Khơng phân biệt từ ghép Hán Việt và yếu tố Hán Việt
25
+ Khơng phân biệt được từ Hán Việt và từ thuần Việt
+ Khơng phân biệt được từ Hán Việt với từ nước ngồi được Việt hố âm
đọc
Nhận xét chung: Như vậy, phần lớn học sinh khối 10 và 12 cĩ khả năng
biết được từ Hán Việt; tuy nhiên, vốn từ Hán Việt chưa nhiều, trình độ Hán Việt
chưa sâu, chỉ là những hiểu biết về những yếu tố Hán Việt thơng thường. Điều
đĩ ảnh hưởng nhiều đến khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của các em.
2. Khả năng hiểu từ Hán Việt của học sinh
Câu hỏi số 4, 5, 6 được đưa ra với mục đích chủ yếu là khảo sát khả
năng hiểu từ Hán Việt của học sinh.
Câu hỏi 4:
- Yêu cầu: Tìm những từ ngữ thuần Việt tương đương với các từ Hán
Việt. Các từ Hán Việt được đưa ra bao gồm :
1. giang san
2. lão thành
3. từ trần
4. mai táng
- Mục đích: học sinh phải hiểu được nghiã của từ ghép Hán Việt, nghĩa
của các từ tố trong từ ghép và tìm ra từ thuần Việt tương đương.
- Trả lời của học sinh:
1. Giang san:
- 49 % trả lời quốc gia
- 14,1% trả lời sơng nước
- 7,3% khơng cĩ câu trả lời
- 29.6% cĩ câu trả lời khác
Nhận xét: Từ giang san vốn là một từ Hán Việt được sử dụng rộng rãi,
quen thuộc. Tuy nhiên, điều bất ngờ là cĩ tới 70,4% ghi từ thuần Việt tương
đương sai. Phần lớn các em đồng nhất từ giang san với quốc gia, đất nước do
thĩi quen ngơn ngữ. Hễ nĩi đến giang san là các em lại nghĩ ngay đến đất nước
trong khi đất nước, quốc gia chỉ là nghĩa phái sinh, nghĩa ngữ cảnh của giang
26
san. Từ Hán Việt giang san cĩ từ thuần Việt tương đương là núi sơng (giang:
sơng, san: núi)
Mặt khác, khơng thể viết từ thuần Việt tương đương với giang san là
quốc gia được vì quốc gia cũng là một từ Hán Việt. Như vậy, cho thấy một bộ
phận các em cịn chưa phân biệt được giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt.
Một số lớn học sinh cho rằng từ thuần Việt tương đương với giang san là
sơng nước. Như vậy là các em đã lượt mất yếu tố san (núi) do thĩi quen ngơn
ngữ đọc chệch âm sơng núi thành sơng nước nên mới cĩ cách ghi như vậy.
2. Lão thành
- 10,2% trả lời cụ già
- 25,3% trả lời về hưu
- 5% giải thích nghĩa của từ
- 30% trả lời những từ khác.
- 6,2% khơng cĩ câu trả lời
Nhận xét: Phần lớn các em chỉ chú trọng đến yếu tố lão mà khơng chú
trọng nhiều đến yếu tố thành. Các em chưa hiểu được trọn vẹn nghĩa của từ
ghép Hán Việt nên đưa ra những từ thuần Việt tương đương khơng chính xác
như: cụ già, về hưu…
Trong thĩi quen hàng ngày, người ta vẫn thường nĩi những nhà cách
mạng lão thành . Trong thực tế, những người được gọi là lão thành cũng đã về
hưu khiến các em thường nghĩ lão thành là về hưu.
Trong khi nghĩa gốc của lão thành là:
lão: già; thành: nên, lão thành: già, từng trãi, cĩ nhiều kinh nghiệm, đức
hạnh hơn người.
Từ thuần Việt tương đương với lão thành phải là già dặn.
3. Từ trần:
- 13,2% trả lời hy sinh
- 84,3% trả lời chết
- 2,5% khơng cĩ câu trả lời
Nhận xét: từ trần là từ Hán Việt quen thuộc thường gặp. Do vậy các em
dễ dàng hiểu đây là cách nĩi trang trọng của từ thuần Việt là chết . Điều đĩ cho
27
thấy phần lớn các em hồn tồn nhận ra ưu điểm của từ Hán Việt, cĩ đến
84,3% các em chọn từ thuần Việt tương đương là chết.
Song, một số ít các em cho rằng từ thuần Việt tương đương với từ trần là
hy sinh, như vậy là khơng đúng.
Một mặt, hy sinh khơng phảI là từ thuần Việt mà là từ Hán Việt. Điều này
cho thấy khả năng nhận dạng từ Hán Việt của các em này cịn yếu.
Mặt khác, các em khơng hiểu được phong cách sử dụng của từ hy sinh
và từ trần nên mới cĩ những hiểu biết sai lệch, dễ dàng đồng nhất sắc thái ngữ
nghĩa của từ hy sinh và từ trần vì cho rằng hai từ này đều chỉ cái chết mà khơng
chú trọng đến sắc thái ngữ nghĩa của hai từ.
Từ trần với hai yếu tố cấu thành
. từ: rời đi; trần: bụi, chỉ cõi đời
Ưtừ trần: rời khỏi cõi đời, chết (thường nĩi đến những người cĩ tuổi,
đáng kính)
Hy sinh: chỉ cái chết của những người chết vì lợi ích cộng đồng.
Do vậy, cách trả lời từ thuần Việt chết tương đương với từ Hán Việt từ
trần là chính xác nhất.
4. Mai táng:
- 10% trả lời đám ma
- 2% trả lời chơn cất người chết
- 9,2% khơng trả lời
- 3% trả lời những từ khác.
- 75,8% trả lời chơn cất
Nhận xét: Cĩ đến 75,8% học sinh trả lời đúng (từ thuần Việt tương
đương với mai táng là chơn cất). 2% trả lời chơn cất những người chết tuy
khơng đúng với yêu câù câu hỏi nhưng cũng thể hiện là đã hiểu được nghĩa của
từ.
Mai táng: hợp bởi 2 yếu tố
. mai: chơn; táng: chơn người chết
Ưmai táng: chơn người chết
28
Do vậy, từ thuần Việt tương đương với mai táng là chơn cất.
10% trả lời đám ma (danh từ) trong khi mai táng là động từ. Điều này cho
thấy các em chưa phân biệt được từ loại của từ Hán Việt do đặc điểm của từ
Hán Việt là khĩ phân biệt từ loại. Từ mai táng trong tiếng Việt khi trở thành danh
từ thường đi kèm với lễ ở phía trước.
Nhận xét chung: trong 4 từ được đưa ra, số bài trả lời đúng chiếm 51%,
sai là 49%. Như vậy số từ viết đúng tương đương với số từ viết sai. Do đĩ cĩ
thể nĩi: phần đơng các em chưa hiểu rõ về từ Hán Việt mà chỉ giải thích theo
ngữ cảm, thĩi quen. Trong số 4 từ thì từ trần và mai táng cĩ tỉ lệ trả lời đúng cao
do đây là những từ quen thuộc. Giang san chỉ thường thấy qua những tác phẩm
văn học, lịch sử cổ với nghĩa chỉ về đất nước nên học sinh dễ đồng nhất giang
san với đất nước.
Câu hỏi 5:
- Yêu cầu: chọn từ thích hợp cho các nội dung được nêu ra (xem mục
lục)
- Mục tiêu: đánh giá khả năng hiểu nghĩa từ Hán Việt qua việc học sinh
lựa chọn từ Hán Việt cĩ nghĩa phù hợp với nội dung nêu ra.
- Trả lời của học sinh:
1. Đứng giữa hai bên đối lập, khơng theo hoặc khơng phụ thuộc một bên
nào
- 45% trả lời trung lập
- 20,3% trả lời trung gian
- 9,3% khơng cĩ câu trả lời
- 25,4% cĩ những câu trả lời khác.
Ví dụ: . vơ can (Nguyễn Huỳnh Loan-10A12)
. trái (Huỳnh Thu Trang-10A12)
. mâu thuẫn (Nguyễn Thị Kim Ngân-12A13)
Nhận xét: đa phần các em hiểu được nội dung này tương ứng với từ
trung lập (45,4%); tuy nhiên, các em vẫn cịn cĩ sự nhầm lẫn giữa trung lập và
trung gian. Nguyên nhân là do các em hiểu mơ hồ về nghĩa của từ trung lập và
trung gian. Mặt khác, cĩ những trường hợp hiểu sai hồn tồn về nội dung được
nêu ra nên mới xảy ra trường hợp như các ví dụ trên.
29
2. Đã quá tuổi thanh niên, nhưng chưa già
- 90% trả lời trung niên
- 5,3% khơng cĩ câu trả lời
- 4,7% cĩ những câu trả lời khác
Ví dụ: quá lứa, quá xuân (Trần Hữu Mạo -12A13)
Nhận xét: Phần lớn các em hiểu được nghĩa của từ trung niên và điền
vào thích hợp. Cĩ những cách trả lời khơng phù hợp như ví dụ đã nêu. Một mặt,
quá lứa, quá xuân khơng phải là từ Hán Việt. Mặt khác, do khơng hiểu sắc thái
ngữ nghĩa của các từ Hán Việt cĩ nghiã tương đồng nên cĩ sự lựa chọn khơng
đúng.
3. Tầng lớp giữa trong xã hội
- 85% trả lời trung lưu
-15% cĩ những câu trả lời khác
Ví dụ:. trung cấp (Huỳnh Mỹ Tú-10A12)
. nhân dân (Nguyễn Thị Diễm Kiều-10A2)
. thanh niên (Huỳnh Thu Trang-10A12)
. giai cấp (Nguyễn Huỳnh Loan-10A12)
Nhận xét: do khơng hiểu được nghĩa của từ tầng lớp nên cĩ những cách
trả lời khơng đúng như ví dụ đã nêu. Tuy nhiên, đa phần các em vẫn hiểu được
nghĩa cuả nội dung này tương ứng với từ trung lưu.
4. Ở giữa, cĩ tính chất chuyển tiếp hoặc nối liền hai sự vật
- 52% trả lời trung gian
- 105 trả lời và
- 15,3% khơng cĩ câu trả lời
- 16,7% cĩ những câu trả lời khác.
Ví dụ:. liên miên (Nguyễn Thị Diễm Kiều-10A12)
. giao lưu (Nguyễn Thị Kim Ngân-12A13)
. thời kì quá độ (Trương Văn Thái-12A14)
30
Nhận xét: Đa phần các em biết được nội dung nêu ra tương ứng với từ
trung gian. Tuy nhiên, một số học sinh đã trả lời trung gian cho nội dung thứ
nhất, vì vậy đến đây các em tìm từ khác để thay vào. Những từ Hán Việt mà các
em chọn như ở ví dụ cho thấy cho thấy các em chưa hiểu được nghĩa của các
từ ghép này.
5. Tưởng nhớ n._.ính tả cho đúng. Ở một số vùng trong Nam thường lẫn lộn iêm với im, nhưng
nếu ta biết khơng cĩ chữ Hán Việt nào viết với im trừ chữ kim thì ta sẽ viết đúng
nhữg từ hiềm khích, siểm nịnh.v.v… khi biết đĩ là những từ Hán Việt. Nếu ta
biết trong ngơn ngữ của chính tả khơng cĩ chữ Hán Việt với vần âng, âc thì ta
sẽ viết tằng bực chứ khơng viết tầng bậc. Sự lẫn lộn o và ơ, e và ê, ă và e là khá
phổ biến ở nhiều tỉnh phía Nam. Nếu ta biết, chẳng hạn khơng cĩ chữ Hán Việt
nào viết với oe trừ chữ hoè trong cây hịe, khơng cĩ một chữ Hán Việt nào với o
trừ những vần oc (như học, trọc) và ong (như vọng) thì việc chữa lỗi chính tả ở
đây đối với từ Hán Việt khơng cịn là chuyện khĩ nữa.
Ngồi những trường hợp đã nĩi, dưới đây là danh sách kiểm tra về những
vần khơng cĩ trong chữ Hán Việt. Danh sách này khơng phải để nhớ mà chỉ đề
cập một cái nhìn chung, bao quát về mặt hình thức từ Hán Việt mà thơi.
- Với nguyên âm a: oam, oap, oac, oay, uao, ay, au.
- Với nguyên âm ă: ăp, ăm, ăt, oăn, oăm, oăp, oăt.
- Với nguyên âm ê: êm, ên, êp, êt, êch, êu, uên, uêt, uêy.
- Với nguyên âm i: im (trừ chữ kim trong kim cổ, kim khí), ip, it, iu.
- Với nguyên âm ơ: ơm, ơp, ơt.
- Với nguyên âm u: um, up, un, ut, ui.
- Với iê: iêng
- Với ua: ua, uơm, uơn, uơt, uơi.
67
- Với nguyên âm ư: ưt, ưn, ưn, ưa, ươm, ươn, ươu, ươ.” 12
Ngồi những trường hợp nhầm lẫn về vần, người sử dụng từ Hán Việt cịn
thường nhầm lẫn về dấu hỏi, ngã. Các từ Hán Việt cĩ quy luật riêng về dấu hỏi,
dấu ngã. Do đĩ, nếu nắm và sử dụng được luật viết dấu hỏi, dấu ngã trong từ
Hán Việt thì chúng ta đã giải quyết được 2/3 cơng việc về dấu hỏi, dấu ngã. Nội
dung của luật dấu hỏi, dấu ngã khơng khĩ, mặc dù luật này đã được học từ lớp
6 nhưng qua khảo sát cho thấy, số lượt các em mắc lỗi về dấu hỏi, ngã vẫn cịn
khá nhiều. Sở dĩ như vậy theo tơi là do các em chưa được cung cấp một số mẹo
để vận dung những luật đĩ.
“Thanh hỏi và thanh ngã trong từ Hán Việt cĩ quan hệ chặt chẽ với phụ
âm đầu của các tiếng. Quan hệ đĩ cĩ tính chất quy luật: thanh ngã chỉ cĩ quan
hệ với một số phụ âm đầu nhất định, thanh hỏi lại cĩ quan hệ với những âm đầu
khác. Dựa vào mối quan hệ giữa thanh điêụ và âm đầu trong các tiếng của từ
Hán Việt, người ta đã tìm ra luật viết dấu hỏi, dấu ngã đối với các từ Hán Việt.
5.1 Nội dung luật
a) Các tiếng trong từ Hán Việt cĩ âm đầu là các phụ âm: M, N, NH, V,
L, D, NG đều viết bằng dấu ngã (trừ một ngoại lệ duy nhất là ngải trong ngải
cứu). Sau đây là một số ví dụ:
M: mãnh liệt, mỹ lệ, mỹ mãn, minh mẫn, mãn khố, thương mãi,
v.v…
N: nỗ lực, phụ nữ, truy nã. Long não, Nữu Ước, .v.v…
NH: nhẫn nại, truyền nhiễm, hồ nhã, nhũ mẫu, nhãn hiệu, thổ
nhưỡng v.v…
V: vĩ đại, vũ trang, vãng lai, viễn thị, vĩ tuyến, vĩnh viễn, hùng vĩ,
v.v…
L: lễ nghĩa, lãng mạn, lãnh đạo, lãnh tụ, phụ lão, lũng đoạn, lãng
phí, thành luỹ, v.v…
D: diễn viên, hướng dẫn, dã man, dĩ nhiên, dĩ vãng, diễm lệ, sở dĩ,
v.v…
NG: ngơn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngữ, nghĩa trang, nghĩa vụ, ngũ
sắc, Nguyễn Du, v.v…
b) Các tiếng trong từ Hán Việt cĩ âm đầu khơng phải 7 phụ âm nĩi
trên thì viết dấu hỏi. Sau đây là một số ví dụ:
12 Phan Ngọc: Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, NXB Thanh niên, 2000.
68
Khơng cĩ phụ âm: ảo ảnh, ảm đạm, quan ải, ẩn số, v.v…
B: bảo vệ, bản lĩnh, thời khố biểu, v.v…
C: cảnh báo, cẩn thận, tình cảm, chỉnh tề, v.v…
Đ: đả đảo, đả kích, Phật đản, đẳng cấp, v.v…
GI: giảng giải, giải thích, hồ giải v.v…
H: hải cảng, hiểm yếu, hảo hạng, v.v…
K, Kh: kỷ luật, thế kỷ, kỷ niệm, khả năng, v.v…
PH: gia phả, phổ biến, phẩm hàm, v.v…
Q: kết quả, quản lý, quảng trường, quỷ quyệt, v.v…
S: sỉ nhục, liêm sỉ, hộ sản, lịch sử, v.v…
T, TH: vận tải, tư tưởng, phát triển, thủ cơng nghiệp, thẩm vấn,
v.v…
X: cư xử, xảo quyệt, cơ xưởng v.v…
Ngồi ra cĩ khoảng hơn ba mươi trường hợp theo luật phải viết dấu hỏi,
nhưng ngoại lệ phải viết dấu ngã.
Ví dụ:
- bãi khố, hồi bão, bĩ cực.
- cưỡng bức, linh cữu.
- đối đãi, đãng trí, du đãng, hiếu đễ, họ Đỗ.
- hữu hạn, bằng hữu, hung hãn, hãnh diện, kinh hãi, hỗ trợ, hỗn hợp,
hãm hại.
- kỹ thuật, kỹ năng, kỹ lưỡng, kỹ nữ.
- phẫn nộ, giải phẩu.
- quẫn bách, ngân quỹ, quỹ tích.
- bác sĩ, dũng sĩ, thi sĩ.
- tiễn biệt, thực tiễn, tiểu trừ, tĩnh tâm, mâu thuẫn, dự trữ, trẫm, trĩ.
69
- xã hội.
5.2 Cách nhớ luật
Nội dung luật viết dấu hỏi, dấu ngã trong từ Hán Việt như vậy là khá phức
tạp và rắc rối. Do đĩ cần phải biết dùng mẹo để cĩ thể nhớ một cách dễ dàng.
Mẹo 1:
Chỉ cần nhớ những trường hợp viết dấu ngã trong từ Hán Việt (tức là nhớ
7 phụ âm đầu cĩ viết dấu ngã và khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu
ngã). Các trường hợp viết dấu hỏi khơng cần phải nhớ.
Mẹo 2:
Để nhớ 7 phụ âm đầu M, N, NH, V, L, D, NG, các bạn chỉ cần nhớ câu sau
đây: MÌNH NÊN NHỚ VIẾT LÀ DẤU NGÃ (1).
Câu này gồm 7 tiếng tương ứng với 7 phụ âm đầu nĩi trên: Mình (m) nên
(n) nhớ (nh) viết (v) là (l) dấu (d) ngã (ng).
Các trường hợp ngoại lệ, học sinh học thuộc lịng.
5.3 Cách nhớ các trường hợp ngoại lệ
Giáo sư Phan Ngọc trong quyển “Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi
chính tả” đã viết thành một bài thơ truyền thống “Nhất thiên tự” như sau:
“Kỹ tài, bãi bỏ, bĩ đen,
Hữu bạn, phẫu mổ, tĩnh yên, cữu hịm.
Tiễn đưa, tiễu diệt, trẫm vua,
Trĩ tre, trữ cất, huyễn mê, hỗ cùng.
Hỗn loạn, hãm hại, đãng buơng,
Quẫn khốn, hữu cĩ, đãng đường thênh thang.
Xã xã, hỗn chậm, quỹ rương,
Suyễn suyễn, quĩ dấu, tiễn tên, tiễn làm,
Hữu phải, cưỡng ép, trĩ chim,
Tuẫn chết, kỹ hát, đễ em, sĩ trị.”
70
Học thuộc bài thơ này giúp chúng ta viết đúng hỏi ngã cho đến 5000 chữ
Hán Việt.
5.4 Vận dụng luật
Khi gặp một từ cĩ dấu hỏi, dấu ngã nhưng chúng ta cịn băn khoăn
khơng biết đây là từ Hán Việt hay từ thuần Việt để vận dụng cho phù hợp thì ta
phải liên hệ trước tiên đến mẹo nhận biết từ Hán Việt để xác định cho đúng. Sau
khi xác định được từ Hán Việt thì ta phải vận dụng ngay câu: Mình nên nhớ viết
là dấu ngã để viết đúng dấu hỏi, dấu ngã. Đối với những trường hợp khơng bắt
đầu bằng 7 phụ âm trên thì ta sẽ áp dụng bài thơ kiểu “Nhất thiên tự” để xác
định xem nĩ cĩ thuộc trường hợp ngoại lệ hay khơng, nếu khơng thuộc thì
những từ đĩ ắt hẳn là viết dấu hỏi.
6. Một số kiến nghị
Khi khảo sát vấn đề, tơi nhận thấy cần đưa ra những kiến nghị sau đây
giúp cho học sinh trong tương lai sẽ học tốt hơn về từ Hán Việt:
1. Áp dụng phương pháp mới để giúp học sinh cĩ hứng thú trong
học tập tiếng Việt nĩi chung và từ Hán Việt nĩi riêng
Việc đưa ra những mẹo luật, những cách học từ Hán Việt nhằm mục đích
giúp người học hiểu được từ Hán Việt qua đĩ hiểu được ý nghĩa của các câu,
các đoạn trong tác phẩm văn học. Nhưng đĩ chỉ là ý muốn chủ quan của nhà
giáo dục, quá trình giảng dạy từ Hán Việt sẽ được tiến triển thuận lợi hay khơng
và sẽ đạt kết quả như thế nào cịn phụ thuộc một phần lớn ở tính tích cực chủ
động học tập của học sinh. Nếu khơng cĩ nhận thức đúng về từ Hán Việt, khơng
cĩ cái nhìn lạc quan về việc học từ Hán Việt trong trường phổ thơng hiện nay,
học sinh sẽ khơng cĩ được niềm tin, hứng thú học từ Hán Việt cũng như học
tiếng Việt. Trong ba phân mơn của bộ mơn ngữ văn (văn học, tiếng Việt, tập làm
văn) thì cĩ thể nĩi, dưới con mắt của người đi học, tiếng Việt thường bị đánh giá
là mơn học khơ khan nhất và từ Hán Việt cũng bị đồng cảnh đĩ. Bởi vì thực tế,
nếu học riêng một bài về từ Hán Việt thì các em cho là khơ, nhưng nếu giảng từ
Hán Việt thơng qua những tác phẩm văn học thì các em cịn lơ là, khơng chú
trọng. Vậy, làm thế nào để học sinh Trung học Phổ thơng cĩ một cái nhìn đúng
hơn về từ Hán Việt? Việc tìm ra một động lực thúc đẩy tính tích cực học tập từ
Hán Việt nĩi riêng và tiếng Việt nĩi chung là vấn đề mà cả xã hội quan tâm. Do
đĩ, cần phải áp dụng một phương pháp dạy học mới.
Phương pháp 1:
Qua thăm dị kết quả của một số tiết dạy của sinh viên ngữ văn năm I
trường Đại học An Giang thực tập tại trường THPT Long Xuyên vào tháng 3 vừa
qua cho thấy đưa chữ Hán vào giảng dạy những tác phẩm văn học cổ đã được
học sinh rất hoan nghênh. Cụ thể là các sinh viên này khi giảng tác phẩm
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã treo lên bảng một số chữ Hán khi giảng nghĩa
71
những từ Hán Việt cĩ nghĩa tương đương trong tác phẩm này, kết quả là học
sinh cảm thấy rất hứng thú. Tuy nhiên, điều này lại địi hỏi ở người giáo viên
ngữ văn cĩ một trình độ Hán ngữ nhất định.
Phương pháp 2:
Kích thích hứng thú học tập từ Hán Việt của học sinh tức là làm cho từ
Hán Việt trong cảm giác của học sinh khơng cịn là một mơn học khơ khan nữa.
Muốn vậy, giáo viên cần phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Sau khi
giảng xong một tác phẩm văn học cổ (đã cĩ giảng nghĩa và mở rộng từ Hán
Việt), giáo viên nên đưa ra một bài kiểm tra nho nhỏ đánh giá trình độ nhận thức
của học sinh như thế nào. Bài kiểm tra cĩ thể yêu cầu nêu những từ Hán Việt đã
được học trong bài, giải nghĩa và mở rộng, thậm chí là yêu cầu các em đặt câu
với những từ Hán Việt vừa nêu. Bài kiểm tra cĩ tác dụng như sự đánh giá kết
quả hoạt động dạy học đồng thời cũng cĩ tác dụng tích cực giúp học sinh chủ
động mở rộng kiến thức Hán Việt của mình.
Phương pháp 3:
Đặc điểm của học sinh THPT là luơn muốn tìm tịi khám phá để cĩ những
hiểu biết sâu, rộng về bài học. Đối với cách dạy suơng, khơng đi sâu phân tích
nghĩa của từ thì e rằng sẽ khơng phù hợp với các em. Giáo viên cần giảng nghĩa
từ nguyên, nghĩa phái sinh, nghĩa đặc biệt… và cĩ liên hệ những trường hợp
đặc biệt, khá lạ so với các em dể các em cảm thấy đây là cái mới, là cái cần học
vì xưa nay do bị chi phối bởi cái vỏ ngữ âm hán Việt, rong cảm thức ngơn ngữ
của các em thường cho rằng từ Hán Việt là cái quá quen và sinh ra nghĩ rằng nĩ
cũng là cái quá dễ nhưng thực sự thì các em lại chưa biết nhiều về nĩ. Vì vậy,
để cho cái quen thuộc trở thành cái mới mẻ trong mắt các em là điều nên làm.
Mặt khác, một sự đối lập trong tâm lí các em là các em một mặt vừa xem
từ Hán Việt là cái đơn giản, quen thuộc nhưng mặt khác lại cho rằng đĩ là một
thứ từ xa lạ, thứ từ ngoại lai, hoặc cho là thứ từ của thời xưa chẳng hiểu gì (kết
quả thu được sau phỏng vấn hai em học sinh lớp 10 trường THPT Long Xuyên).
Bởi vậy mà mới cĩ trường hợp cĩ em đặt câu với từ Hán Việt mà lại chép
nguyên văn bài “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý thường Kiệt hay viết câu “thiên hạ
đã thái bình, đội ơn thiên tử” và cịn nhiều trường hợp tương tự khác.
Vì vậy, khi dạy từ Hán Việt, giáo viên cần phải gắn với lịch sử từ Hán Việt
và nêu lên tính hiện đại của từ Hán Việt (vị trí của từ Hán Việt trong vốn từ vựng
tiếng Việt) để các em thấy rằng đây là một di sản văn hố ngơn ngữ của dân tộc,
là cái của cha ơng và được đời sau kế thừa. Mục đích là giúp học sinh vừa nhận
thức được tính dân tộc, tính truyền thống của từ Hán Việt lại vừa nhận thức
được cái mới, cái hay của từ Hán Việt. Cĩ như thế, các em mới cĩ hứng thú học
tập từ Hán Việt và kết quả tất yếu mang lại là khả năng hiểu và sử dụng từ Hán
Việt của học sinh được nâng cao.
2. Bồi dưỡng trình độ Hán Nơm cho giáo viên dạy ngữ văn
72
Khơng riêng gì giáo viên dạy ngữ văn, bất kì một giáo viên giảng dạy ở
bất kì một bộ mơn nào cũng địi hỏi phải trau dồi một trình độ kiến thức tiếng
Việt sâu, rộng. Đối với giáo viên ngữ văn, vấn đề này lại càng được đặt ra ở
mức cao hơn. Cĩ một trình độ tiếng Việt nĩi chung và từ Hán Việt nĩi riêng
người giáo viên ngữ văn mới cĩ thể giảng dạy tốt bộ mơn mình phụ trách. Mặc
dù chỉ cần một kién thức cơ bản về từ Hán Việt, người giáo viên cũng đã cĩ thể
truyền đạt cho học sinh và giúp học sinh hiểu về nĩ ở một trình độ nhất định.
Nhưng nếu muốn trình độ từ Hán Việt của học sinh được nâng cao thì trước hết
trình độ của giáo viên phải được nâng cao gấp bội. Muốn vậy, cần cĩ một kế
hoạch bồi dưỡng trình độ Hán Nơm cho giáo viên ngữ văn, lấy đĩ làm cơ sở
thúc đẩy cho cơng tác dạy học từ Hán Việt tốt hơn trong tương lai. Lẽ ra việc
này cần được thực hiện khi cịn là những sinh viên chuyên ngành ngữ văn;
song, đối với những giáo viên chưa từng được đào tạo chuyên mơn về Hán
Nơm đang giảng dạy hiện nay thì qua những đợt đào tạo ngắn hạn, theo chúng
tơi nghĩ điều đĩ cũng giúp nâng cao trình độ rất nhiều. Một khi cĩ trình độ Hán
Nơm cao thì những bài giảng của người giáo viên ngữ văn về từ Hán Việt cũng
như những tác phẩm văn học cổ sẽ trở nên phong phú và sâu sắc hơn nhiều,
khi đĩ học sinh sẽ cảm thấy hứng thú học tập hơn.
73
74
KẾT LUẬN
Nhìn chung, trường THPT Long Xuyên là một mơi trường dạy học rất tốt
với đội ngũ giáo viên trình độ tương đối cao. Học sinh của trường phần lớn đều
thuộc dân tộc Kinh, đồng thời sinh sống tại tp. Long Xuyên, thường xuyên cĩ cơ
hội tiếp cận với sách báo và các phương tiện học tập khác như sách tham khảo,
sách nghiên cứu .v.v… Đĩ là những điều kiện rất tốt giúp học sinh của trường
cĩ thể học tập tốt tất cả các mơn, đặc biệt là bộ mơn Văn. Cĩ thể nĩi, đối tượng
nghiên cứu của đề tài phần đơng là các học sinh cĩ trình độ tương đối cao so
với những học sinh ở vùng sâu, vùng xa. Đĩ là một thuận lợi nhưng cũng là một
khĩ khăn của chúng tơi khi thống kê, đánh giá kết quả khảo sát.
Thuận lợi của đề tài chính là được nghiên cứu một đối tượng khơng quá
phức tạp, là những học sinh cĩ cùng trình độ, cùng địa bàn cư trú, cùng mơi
trường học tập, thành phần dân tộc,...; khâu thống kê tương đối khơng phức tạp
lắm. Tuy nhiên, đĩ cũng là một điều hạn chế của đề tài khi muốn đánh giá một
cách tồn diện thực trạng. Bởi lẽ, dù biết rõ thực trạng hiểu và dùng sai từ Hán
Việt là một thực trạng phổ biến trong hầu hết các trường phổ thơng; song, chúng
ta vẫn khơng thể lấy một đơn vị trường THPT hoặc một vài lớp học, một nhĩm
đối tượng học sinh để đánh giá về mức độ nghiêm trọng, phổ biến hay lẻ tẻ của
thực trạng này ở hầu hết học sinh trong các trường THPT.
Do đĩ, đề tài chỉ nhằm đĩng gĩp một cái nhìn cụ thể ở một địa bàn
trường học về thực trạng này. Mong muốn của những người làm đề tài chúng tơi
là trong tương lai cĩ thể mở rộng đề tài ở một địa bàn tương đối rộng lớn với
nhiều thành phần học sinh khác nhau để cĩ một cái nhìn tồn diện về thực trạng
này ở các trường học thuộc địc bàn tỉnh An Giang.
Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát cũng giúp chúng ta thấy rằng, ở một
trường THPT cĩ điều kiện dạy và học tốt nhất nhỉ ở tỉnh như trường THPT Long
Xuyên mà thực trạng hiểu và dùng sai từ Hán Việt vẫn là phổ biến; vậy nên,
chúng ta cũng nên cĩ một cái nhìn tồn diện về thực trạng này. Đây là một vấn
đề hết sức nĩng bỏng của giáo dục hiện nay trong các trường thuộc trung tâm
thành phố. Vấn đề này sẽ cịn phổ biến hơn nữa với các đối tượng học sinh ở
xa trung tâm thành phố, nơi mà trình độ giáo viên cịn chưa cao, thiết bị và các
ophương tiện thơng tin cịn hạn hẹp.
Đề tài đã được những người thực hiện chúng tơi ấp ủ từ lâu. Thực trạng
hiểu và dùng sai từ hán Việt của học sinh là thực trạng mà chúng tơi đã nhìn
thấy từ những năm cịn ngồi trên ghế nhà trường phổ thơng. Đĩ cũng là điều mà
bản thân tơi luơn trăn trở và cũng là vấn đề mà cả xã hội quan tâm. Tuy nhiên,
trong thời điểm ấy, trình độ tiếng Việt, Hán Nơm, mà cụ thể là về từ Hán Việt của
tơi chỉ dừng lại ở trình độ một học sinh phổ thơng, chưa đủ khả năng để đánh
75
giá thực trạng cũng như tìm ra những giải pháp khắc phục thực trạng. Khi bước
vào giảng đường đại học, qua những tiết Ngơn ngữ, tiếng Việt, tiết học Hán
Nơm với nhiều kiến thức sâu rộng hơn về từ Hán Việt cùng với niềm say mê
nghiên cứu khoa học đã thơi thúc tơi thực hiện đề tài này.
Đề tài đã đạt được một số kết quả nhất định, đã nêu ra được thực trạng,
nguyên nhân và đề ra những giải pháp giúp nâng cao trình độ hiểu và sử dụng
từ Hán Việt của học sinh THPT. Tuy những giải pháp của đề tài chưa được thực
thi ở trường phổ thơng do thời gian nghiên cứu, khảo sát cĩ hạn; mặt khác, bản
thân là sinh viên năm 2 chưa cĩ điều kiện kiến tập hay thực tập giảng dạy; song,
với những ưu điểm của mình, tin rằng những giải pháp đề ra là hồn tồn mang
tính khả thi.
Cĩ thể nĩi, học sinh ngày nay chưa yêu thích tiếng Việt tương xứng với
nét đặc sắc của nĩ. Phần đơng học sinh cịn lơ là với việc học Văn, chỉ một số ít
các em cĩ sự quan tâm yêu thích đặc biệt đối với bộ mơn Văn, ít cĩ được học
sinh nào cĩ niềm say mê học tập, nghiên cứu tiếng Việt, đặc biệt là về từ Hán
Việt. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau: từ sự phức tạp của từ
Hán Việt, tiếng Việt; chương trình dạy học Văn -Tiếng Việt ở trường phổ thơng
cịn bất cập; trình độ Hán Nơm của giáo viên cịn chưa được nâng cao; …và
cũng do nhận thức cịn lệch lạc của các em. Đây là điều đáng buồn đối với
những người làm cơng tác giáo dục. Là một giáo viên Ngữ văn tương lai, tơi
luơn trăn trở một điều là làm thế nào để đẩy mạnh niềm say mê học tập đối với
kho tàng tiếng Việt của học sinh. Nếu như những giải pháp của đề tài được thực
thi thì sẽ là bước đầu thành cơng gĩp phần thực hiện cơng cuộc thúc đẩy hứng
thú và khả năng học tập tiếng Việt của học sinh phổ thơng.
76
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢ NĂNG HIỂU VÀ SỬ DỤNG TỪ HÁN VIỆT TRONG
TRƯỜNG PHỔ THƠNG
(thời gian thực hiện: 45 phút)
1. Tỉnh (Thành phố): ------------------------------------------------------------------------
2. Huyện (Quận): ----------------------------------------------------------------------------
3. Xã (Phường): -----------------------------------------------------------------------------
4. Trường:-------------------------------------------------------------------------------------
5. Lớp:------------------------------------------------------------------------------------------
6. Họ và tên học sinh: ----------------------------------------------------------------------
7. Dân tộc: a. Kinh b. Khmer c. Chăm d. Dân tộc khác
8. Giới tính: a. Nam b. Nữ
9. Cán bộ điều tra: ------------------------------------------------------------------------
10. Cộng tác viên:---------------------------------------------------------------------------
NỘI DUNG
1. Hãy viết ra các yếu tố Hán Việt mà em biết:
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
2. Đặt 3 câu với 3 từ Hán Việt đã học:
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
3. Đặt 3 câu với mỗi từ sau đây: nồng hậu, trung thành, ngoan cường, khán
giả, khẩn cấp.
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
77
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
4. Tìm các từ ngữ thuần Việt tương đương với các từ ngữ Hán Việt trong
các câu sau đây:
- Chao ơi nước mất nhà tan
Hơm nay lại thấy giang san bốn bề (Xuân Thuỷ)
* Từ thuần Việt tương đương với từ giang san là: -----------------------------------
- Cụ là một nhà cách mạng lão thành. Sau khi cụ từ trần, nhân dân địa
phương đã mai táng cụ trên một ngọn đồi.
* Từ thuần Việt tương đương với lão thành là: ---------------------------------------
- Với từ trần là: --------------------------------------------------------------------------
- Với mai táng là: ------------------------------------------------------------------------
5. Chọn từ thích hợp cho nội dung sau:
* Đứng giữa hai bên đối lập, khơng theo hoặc khơng phụ thuộc một bên nào:
----------------------------------------------------------------------------------------------------
* Đã quá tuổi thanh niên, nhưng chưa già:---------------------------------------------
* Tầng lớp giữa trong xã hội: --------------------------------------------------------------
* Ở giữa, cĩ tính chất chuyển tiếp hoặc nối liền hai sự vật: -----------------------
* Tưởng nhớ người đã mất trong tư thế trang nghiêm, lặng lẽ: ------------------
* Thầm nghĩ mình thua kém người và buồn day dứt: -------------------------------
* Đưa vấn đề ra xem xét, giải quyết:-----------------------------------------------------
* Giới thiệu ra lựa chọn và bầu cử: ------------------------------------------------------
6. Từ một loạt các từ sau đây, rút ra ý nghĩa của các yếu tố chung, trung và
phụ.
- Cáo chung, lâm chung, chung thuỷ, chung khảo, chung kết, chung quy,
chung thân: chung cĩ nghĩa là: -----------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
- Trung thành, trung kiên, trung nghĩa, bất trung, tận trung: trung cĩ nghĩa là:
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
- Phụ huynh, phụ mẫu, phụ tử, phụ hệ: phụ cĩ nghĩa là: ---------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
- Phụ lưu, phụ phẩm, phụ thuộc, phụ tùng, phụ giảng: phụ cĩ nghĩa là: -------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
- Chinh phụ, mệnh phụ, thiếu phụ, quả phụ, sản phụ: phụ cĩ nghĩa là: --------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
- Phụ lục, phụ hoạ, phụ bản, phụ cấp: phụ cĩ nghĩa là: ----------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
- Phụ trách, đảm phụ: phụ cĩ nghĩa là: -------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
78
----------------------------------------------------------------------------------------------------
7. Hãy cấu tạo nên những từ ngữ Hán Việt từ những yếu tố hán Việt sau
đây:
* Quốc: ------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
* Nhân: ------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
* Bán: --------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
* Hồng:-----------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
* Thiện: ------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------------
* Bảng số liệu thống kê câu trả lời của học sinh
Câu 1: Viết các yếu tố Hán Việt
Lớp 0 yếu tố 1- 10 yếu
tố
11-20 yếu
tố
21-30 yếu
tố
Trên 30
yếu tố
10A2 6 18 16 4 2
10A11 9 24 9 3 1
10A12 11 33 5 0 1
12A13 10 26 5 1 3
12A14 34 10 3 1 0
Tổng cộng 70 111 38 9 7
Tỉ lệ % 29.8% 47.2% 16.2% 3.8% 3%
79
Những yếu tố cĩ tần số xuất hiện cao trong bài trả lời của học sinh
Lớp Quốc Gia Thuỷ Sơn Thiên Địa
10A2 8 6 6 5 4 5
10A11 3 4 7 2 9 12
10A12 5 5 8 5 8 6
12A13 2 3 6 7 6 8
12A14 4 6 4 6 9 6
Tổng
cộng
22 24 31 25 36 37
Tỉ lệ % 13.3% 14.5% 18.8% 15.1% 21.8% 22.4%
Câu 2: Đặt câu sử dụng từ Hán Việt
Lớp Đúng Sai Khơng cĩ câu trả
lời
10A2 94 34 21
10A11 70 32 27
10A12 80 27 23
12A13 104 25 14
12A14 120 19 15
Tổng cộng 468 137 100
Tỉ lệ % 66.4% 19.4% 14.2%
Câu 3: Đặt 3 câu với mỗI từ: nồng hậu, trung thành, ngoan cường, khán
giả, khẩn cấp
80
Lớp Câu đúng Câu sai
10A2 368 322
10A11 129 516
10A12 287 328
12A13 440 235
12A14 480 240
Tổng cộng 1672 1641
Tỉ lệ % 50.9% 49.1%
Câu 4: Tìm từ thuần Việt tương đương với các từ Hán Việt
- Giang san
Lớp Đúng Sai
10A2 7 39
10A11 5 38
10A12 8 34
12A13 12 33
12A14 14 31
Tổng cộng 46 175
Tỉ lệ % 20.6% 70.4%
- Lão thành
Lớp Đúng Sai
81
10A2 5 41
10A11 12 31
10A12 18 23
12A13 5 38
12A14 12 36
Tổng cộng 52 169
Tỉ lệ % 23.3% 76.7%
- Từ trần
Lớp Đúng Sai
10A2 38 8
10A11 41 5
10A12 34 7
12A13 35 10
12A14 40 8
Tổng cộng 188 38
Tỉ lệ % 84.3% 15.7%
- Mai táng
Lớp Đúng Sai
10A2 24 22
10A11 27 16
82
10A12 32 11
12A13 44 1
12A14 42 6
Tổng cộng 169 56
Tỉ lệ 75.8% 24.2%
Tổng cộng:
Đúng Sai
51% 49%
Câu 5: Chọn từ thích hợp cho các nội dung được nêu ra
Lớp Đúng Sai
10A2 301 173
10A11 92 51
10A12 316 180
12A13 293 112
12A14 352 189
Tổng cộng 1354 705
Tỉ lệ % 75.9% 24.1%
Câu 6: Rút ra ý nghĩa của các yếu tố Hán Việt: chung, trung và phụ
83
Lớp Số câu trả lời Số câu trả lời đúng
10A2 311 93
10A11 181 91
10A12 205 86
12A13 177 67
12A14 332 82
Tổng cộng 1206 419
Tỉ lệ % 80.5% 20.1%
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguy ễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán
Việt, NXB đại học Quốc gia Hà Nội (tái bản, HN, 2000)
2. Phạm Văn Đồng: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tạp chí ngơn
ngữ, số 6-2000
84
3. Cao Xuân Hạo: Tiếng Việt, văn Việt. người Việt, NXB Trẻ, Hà Nội,
2001
4. Bửu Kế: Từ điển Hán Việt từ nguyên, NXB Thuận Hố.
5. Nguyễn Văn Khang: Một số vấn đề dạy và học từ Hán Việt trong
trường phổ thơng, trong quyển “Tiếng Việt trong trường học”, NXB KHXH, Hà
Nội, 1995.
6. Hồ Lê: Lỗi từ vựng và cách khắc phục, NXB KHXH, 2002.
7. Phan Ngọc: Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, NXB
Thanh niên, 2000
8. Hồng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, NXB KHXH, 1988.
9. Đặng Đức Siêu: Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thơng, NXB
GD, 2001.
10. Nguyễn Ngọc San: Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, NXB ĐHSP.
85
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7132.pdf