Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỖ NGỌC THƯ
KHẢO SÁT CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ
“MÙA XUÂN” VÀ “TRÁI TIM ” TRONG THƠ XUÂN DIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ
THÁI NGUYÊN- 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỖ NGỌC THƯ
KHẢO SÁT CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ
“MÙA XUÂN” VÀ “TRÁI TIM ” TRONG THƠ XUÂN DIỆU
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 602201
LUẬN VĂN
138 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1916 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ ’Mùa xuân’ và ’Trái tim’ trong thơ Xuân Diệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS NGUYỄN ĐỨC TỒN
THÁI NGUYÊN- 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đối với PGS .TS Nguyễn Đức Tồn đã
nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hƣớng dẫn em thực hiện luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sau đại học, khoa
Ngữ Văn Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên, Viện Ngôn ngữ học cùng các
thầy cô giáo đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học.
Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, các em sinh viên và
những ngƣời thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Tác giả
Đỗ Ngọc Thư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
TH: Tín hiệu
THTM: Tín hiệu thẩm mĩ
THHT: Tín hiệu hằng thể
THTMHT: Tín hiệu thẩm mĩ hằng thể
BTTV: Biến thể từ vựng
BTQH: Biến thể quan hệ
BTKH:Biến thể kết hợp
YNTM: Ý nghĩa thẩm mĩ
CÁC KÍ HIỆU CỦA CÁC TẬP THƠ
Thơ thơ: T1
Gửi hƣơng cho gió:T2
Ngọn quốc kì:T3
Riêng chung: T4
Mũi Cà Mau: T5
Cầm tay: T6
Một khối hồng: T7
Hai đợt sóng: T8
Tôi giàu đôi mắt: T9
Hồn tôi đôi cánh: T10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
I.Lý do chọn đề tài................................................................................................1
II.Lịch sử vấn đề....................................................................................................2
III.Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu...................................................................3
IV.Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................4
V.Phƣơng pháp nghiên cứu...................................................................................4
VI. Những dự kiến đóng góp.................................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ
1.1.Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ........................................................................6
1.1.1. Mối quan hệ của bộ ba: Tín hiệu-Tín hiệu ngôn ngữ- Tín hiệu thẩm Mĩ ...6
1.1.1.1.Tín hiệu......................................................................................................7
1.1.1.2.Tín hiệu ngôn ngữ...................................................................................10
1.1.1.3.Tín hiệu thẩm mĩ.....................................................................................13
1.2. Những đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ...........................................................17
1.2.1 Tính đẳng cấu......................................................................................... ..17
1.2.2. Tính cấp độ................................................................................................19
1.2.3. Đặc tính tác động......................................................................................20
1.2.4.Tính biểu hiện.............................................................................................21
1.2.5. Tính biểu cảm............................................................................................23
1.2.6. Tính biểu trƣng..........................................................................................24
1.2.7. Tính truyền thống và cách tân...................................................................25
1.2.8. Tính hệ thống.............................................................................................26
1.2.9. Tính trừu tƣợng và cụ thể..........................................................................28
1.3. Tín hiệu thẩm mĩ và ngôn ngữ văn học........................................................30
1.4. Tín hiệu thẩm mĩ văn chƣơng.......................................................................32
1.5. Tiểu kết chƣơng I.........................................................................................34
CHƢƠNG 2: TÍN HIỆU THẨM MĨ “MÙA XUÂN” TRONG THƠ XUÂN
DIỆU
2.1. Dẫn nhập.......................................................................................................37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.2.Kết quả khảo sát............................................................................................39
2.3.Tín hiệu hằng thể “Xuân”.............................................................................41
2.4.Các biến thể của tín hiệu hằng thể “Xuân”...................................................48
2.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Xuân”.........................................................48
2.4.2.Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Xuân”..........................................51
2.4.3.Biến thể quan hệ của tín hiệu thẩm mĩ “Xuân”..........................................57
2.4.3.1.Các tín hiệu BTQH là danh từ, cụm danh từ...........................................57
2.4.3.2. Các tín hiệu BTQH là động từ /cụm động từ.........................................70
2.5. Tiểu kết chƣơng 2.........................................................................................72
CHƢƠNG 3: TÍN HIỆU THẨM MĨ “TRÁI TIM” TRONG THƠ XUÂN DIỆU
3.1.Dẫn nhập........................................................................................................76
3.2.Kết quả khảo sát............................................................................................80
3.3. THTM hằng thể “Tim/Trái tim”..................................................................80
3.4.Biến thể của tín hiệu hằng thể “Trái tim”.....................................................81
3.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Trái tim”.....................................................82
3.4.2. Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Trái tim”....................................85
3.4.2.1. Ý nghĩa thẩm mĩ “tình yêu" của BTKH “trái tim”.................................86
3.4.2.2.Ý nghĩa thẩm mĩ “trái tim công dân”của BTKH“Trái tim”....................89
3.4.3. Biến thể quan hệ của các tín hiệu thẩm mĩ chỉ trái tim.............................98
3.4.3.1.Những THBTQH là những động từ hoặc cụm động từ...........................99
3.4.3.2. Những tín hiệu biến thể quan hệ là những tính từ hoặc cụm tính
từ.....102
3.4.3.3.THBTQH là danh từ chỉ thời gian,không gian của THTM Trái tim trong
thơ Xuân Diệu...................................................................................................104
3.5.Tiểu kết chƣơng 3.......................................................................................105
KẾT LUẬN…………………………………………………………..…...….109
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………….…………………………113
PHỤ LỤC………………………………………………...…………...………118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Nói đến tín hiệu thẩm mỹ là nói đến vấn đề có liên quan đến nhiều chuyên
ngành, bởi vậy nó được xem xét dưới nhiều góc độ, đặc biệt là những tín hiệu ngôn
ngữ thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương. Một tín hiệu ngôn ngữ thông thường khi
đi vào thế giới thơ ca thì đã được chuyển hóa thành một tín hiệu nghệ thuật, tín
hiệu thẩm mĩ - ngôn ngữ hay còn gọi là tín hiệu văn chương. Tín hiệu văn chương
nói riêng và tín hiệu thẩm mĩ nói chung có thể được hiểu là tín hiệu thuộc hệ thống
các phương tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật bao gồm toàn bộ những yếu tố
của hiện thực, tâm trạng, cảm xúc... Những yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn
chương; như các yếu tố của chất liệu mằu sắc với hội họa; âm thanh, tiết tấu với âm
nhạc... được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục đích thẩm mĩ.
Như vậy, một tín hiệu thẩm mĩ phải hội tụ đủ các nhân tố sau: 1) cái biểu
hiện, đây là hình thức vật chất nghệ thuật. 2) Cái được biểu hiện là các giá trị ý
nghĩa thẩm mĩ. 3) Chủ thể sáng tạo( thế giới phát ngôn và tiếp nhận). 4) Thuộc một
hệ thống tín hiệu thẩm mĩ nhất định.
Chính vì vậy khi xem xét cấu trúc của tín hiểu thẩm mĩ cần thấy tính hệ
thống của nó được biểu hiện ở bình diện trừu tượng và cụ thể. Thuộc bình diện trừu
tượng là những hằng thể “ nguyên mẫu” có tính cố định, bất biến. Thuộc bình diện
cụ thể là những biến thể của tín hiệu thẩm mĩ trong mỗi lần xuất hiện nó mang tính
hiện hữu cụ thể sinh động.
Thực tế cho thấy nghiên cứu giá trị của tín hiệu thẩm mĩ là nghiên cứu những
biến thể của nó qua mỗi lần xuất hiện và việc nghiên cứu hệ thống tín hiệu thẩm mĩ
cũng chính là nghiên cứu cấu trúc hình tượng mang tính cụ thể hiện hữu của tác
phẩm nghệ thuật. Tìm hiểu các tín hiệu văn chương là phải tìm hiểu các yếu tố
ngôn ngữ giúp biểu hiện nó. Khi phân tích một tín hiệu văn chương, chúng ta phải
bám sát vào tổ hợp ngôn ngữ biểu hiện nó để phân tích.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
Chính vì vậy, để hiểu và đánh giá đúng đắn và có cơ sở khoa học một tác
phẩm văn học rất cần sự khảo sát, đánh giá hệ thống các tín hiệu thẩm mĩ trong tác
phẩm. Do đó gần đây vấn đề Tín hiệu thẩm mĩ đã được nhiều học giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên ở Việt Nam công việc nghiên cứu
THTM văn chương cũng mới chỉ là bắt đầu.
2. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung và Thơ Mới nói riêng,
Xuân Diệu nổi lên như một hiện tượng văn học hết sức rực rỡ. Đặc biệt trong lĩnh
vực thơ tình yêu thì có lẽ cho đến nay vẫn chưa có ai xứng đáng hơn Xuân Diệu với
danh hiệu: Nhà thơ tình lớn nhất trong văn học Việt Nam hiện đại - như nhiều nhà
phê bình văn học trong và ngoài nước nghiên cứu Xuân Diệu đã đánh giá: Thế Lữ,
Hà Minh Đức, Hoài Thanh- Hoài Chân, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng
Mạnh, Nguyễn Bùi Vợi, Alêchxây Vaxiliep, Mirây Găngxen, Blaga Đimitrôva...
Nhưng trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng này, hầu như còn ít có người
quan tâm tới tài năng của Xuân Diệu trong lĩnh vực ngôn ngữ. Ở đây chúng tôi
muốn bàn về “Mùa xuân- Trái tim” trong thơ tình Xuân Diệu dưới góc độ là những
tín hiệu thẩm mĩ nhằm góp phần khẳng định một cách tiếp cận mới các hình tượng
văn học từ góc độ lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ để góp thêm tiếng nói ca ngợi tài
năng xuất chúng của nhà thơ, đồng thời phục vụ cho việc giảng dạy các tác phẩm
văn học trong nhà trường hiện nay, và ở mức độ nhất định góp phần nâng cao năng
lực cảm thụ thẩm mĩ các thi phẩm của Xuân Diệu nói riêng, các tác phẩm thơ ca
nói chung.
II. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương có rất nhiều hướng đi,
song những năm gần đây, nhiều vấn đề của văn học đang được soi rọi dưới cái nhìn
của ngôn ngữ học hiện đại; trong đó vấn đề lí thuyết về tín hiệu tỏ ra rất có ưu thế.
Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và tín hiệu thẩm mĩ đã được các tác giả như Hoàng Tuệ,
Hoàng Trinh, Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh... quan tâm nghiên cứu nhiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
Nhiều luận án triển khai theo hướng nghiên cứu này cũng đã khẳng định được ý
nghĩa thực tiễn của hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học; đồng thời
đã có những đóng góp bổ sung quan trọng vào lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ. Có thể
kể đến các luận án của tác giả Trương Thị Nhàn “ Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của
THTM- không gian trong ca dao”, Phạm Thị Kim Anh “Tín hiệu thuộc trường
nghĩa cây trong thơ Việt Nam”, Bùi Thị Hồng “Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ Huy Cận”, Lê Thị Tuyết Hạnh “Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Xuân
Quỳnh” ... Nhiều luận văn và các bài viết khác cũng góp phần khẳng định thế mạnh
của hướng nghiên cứu này.
Các nhà nghiên cứu Xuân Diệu mới tập trung vào tìm hiểu các tác phẩm của
ông từ góc độ văn học. Những công trình nghiên cứu các tác phẩm của nhà thơ từ
góc độ ngôn ngữ học còn chưa nhiều. Riêng việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu từ lí
thuyết Tín hiệu thẩm mĩ nói chung, đặc biệt tín hiệu Tín hiệu thẩm mĩ Mùa
xuân/Trái tim trong thơ ông hầu như cho đến nay vẫn chưa thấy có công trình
chuyên khảo nào. Đây chính là lí do chính để đề tài luận văn của chúng tôi dành
cho vấn đề còn bỏ ngỏ này.
III. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu
1. Mục đích : Dựa trên những cơ sở lý thuyết về tín hiệu thẩm mĩ, chúng tôi
mong muốn tiếp tục thể nghiệm phương pháp nghiên cứu văn học dưới cái nhìn của
tín hiệu học nói chung, ngôn ngữ học nói riêng, đồng thời đóng góp tiếng nói
khẳng định thêm những thành công của thơ Xuân Diệu nói riêng và dòng thơ ca
lãng mạn nói chung, qua đó khắc họa phong cách ngôn ngữ của thi sĩ này.
2. Đối tượng nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ có ý nghĩa quan trọng trong phong
cách thơ tình Xuân Diệu nói riêng và trong dòng văn học lãng mạn nói chung là các
tín hiệu “Mùa xuân” và “trái tim” vốn đã trở thành những biểu tượng quen thuộc,
thân thiết không chỉ đối với người Việt Nam mà cả nhân loại, đồng thời chúng đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
đi vào văn chương và trở thành những tín hiệu thẩm mĩ, những hình tượng nghệ
thuật đặc sắc.
IV. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát của đề tài là các tập thơ: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió,
Ngọn quốc kỳ, Riêng chung, Mũi Cà Mau, Cầm tay, Một khối hồng, Hai đợt sóng,
Tôi giàu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh. Đây là những tác phẩm của Xuân Diệu viết
trước và sau CMT8
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng các phương
pháp, thủ pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp nghiên cứu thống kê, phân loại:
Luận văn tiến hành thống kê tần số xuất hiện của các tín hiệu thẩm mĩ chỉ
“Mùa xuân”-“Trái tim” trong mọi hoàn cảnh xuất hiện của chúng - dưới dạng
hằng thể , biến thể và các yếu tố ngôn ngữ khác cùng xuất hiện với các tín hiệu
thẩm mĩ này.
2. Phương pháp phân tích diễn ngôn và ngữ dụng học tức phân tích nghĩa của
từ theo ngữ cảnh sử dụng: Phương pháp này được áp dụng khi khảo sát sự xuất
hiện của các từ ngữ chỉ “mùa xuân” và “trái tim” cùng với các từ ngữ khác xuất
hiện kèm theo ở những ngữ cảnh khác nhau trong thơ Xuân Diệu với tư cách là
những tín hiệu thẩm mĩ văn chương, phân tích ý nghĩa của các từ ngữ đó trong từng
hoàn cảnh sử dụng, đối tượng sử dụng.
3. Phương pháp xác lập ngữ cảnh trống để tìm sự khác biệt ngữ nghĩa giữa
các từ đồng nghĩa: Các từ ngữ cùng chỉ về “mùa xuân” hoặc “trái tim” tuy là
đồng nghĩa nhưng ở mỗi ngữ cảnh sử dụng từ chúng lại có sự khác nhau về ý
nghĩa, về sắc thái biểu cảm - đánh giá và phạm vi sử dụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
VI. Những dự kiến đóng góp
Thực hiện đề tài “Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ “Mùa xuân” và “trái tim”
trong thơ Xuân Diệu”, chúng tôi mong muốn có được những đóng góp nhất định
đối với sự phát triển chuyên ngành Việt ngữ học trong lĩnh vực tín hiệu thẩm mĩ
văn chương vốn còn chưa được nghiên cứu nhiều ở nước ta. Đồng thời luận văn
cũng mong muốn góp thêm cứ liệu làm rõ cơ chế hình thành - giải mã tín hiệu thẩm
mĩ văn chương gắn với cấu trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và phong cách tác giả.
Chúng tôi hi vọng rằng những kết quả đạt được của luận văn này sẽ có những bổ
sung đối với bộ môn phong cách học và giúp ích thiết thực cho việc giảng dạy tác
phẩm của Xuân Diệu trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MỸ
Tín hiệu thẩm mĩ (THTM) có liên quan đến nhiều chuyên ngành, bởi vậy
nó phải được xem xét dưới nhiều góc độ, đặc biệt là những tín hiệu ngôn ngữ trong
tác phẩm văn học. Đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn về tín hiệu thẩm mĩ
trong các tác phẩm văn học, chẳng hạn như: M.B.Khrapchencô, Iu.A.Philipiep, Đỗ
Hữu Châu, Trần Đình Sử, Hoàng Trinh, Nguyễn Lai…
Vận dụng các cơ sở lí thuyết ngôn ngữ học như: các lí thuyết về tín hiệu,
hoạt động giao tiếp, về hệ thống, trường nghĩa, về ngôn ngữ liên hội để xem xét các
tín hiệu thẩm mỹ, các luận án tiến sĩ của Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim Anh và
một số tác giả khác đã có những đóng góp nhất định vừa bổ sung vào lí thuyết về
THTM vừa khẳng định ưu thế của hướng nghiên cứu này. Luận văn của chúng tôi
cũng dựa vào những thành tựu của các nhà khoa học nói trên để xây dựng cơ sở lí
luận cho việc nghiên cứu một số tín hiệu thẩm mỹ đặc trưng trong thơ Xuân Diệu,
đồng thời chỉ ra cơ chế hình thành-giải mã tín hiệu thẩm mỹ văn học gắn với cấu
trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và phong cách tác giả. Hi vọng rằng những nỗ lực
của luận văn này sẽ có những bổ sung nhất định vào việc nghiên cứu THTM trong
tác phẩm văn học.
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ
Như chính tên gọi của khái niệm đã chỉ ra một cách hiển minh, Tín hiệu thẩm
mĩ trước hết về mặt bản chất cũng là một loại tín hiệu, bởi vậy để nghiên cứu
THTM phải xem xét nó trong phạm trù chung - tức phạm trù tín hiệu. Đồng thời
các THTM còn cần phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với hệ thống tín
hiệu ngôn ngữ được sử dụng làm phương tiện thể hiện trong tác phẩm văn học.
1.1.1 Mối quan hệ của bộ ba: Tín hiệu-Tín hiệu ngôn ngữ-Tín hiệu thẩm mĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
1.1.1.1. Tín hiệu
Trước hết, như đã nói trên,THTM vốn là một loại tín hiệu cho nên nó cũng
mang những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Vậy TH là gì?
Theo P. Guiraud: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ
thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác (Dẫn theo ĐHC [ 7 ]). Theo cách
hiểu như vậy thì bất kì hình thức vật chất nào mà có khả năng gợi ra trong kí ức
của con người một hình ảnh nào đó thì đều được coi là TH cả, không phân biệt
nguồn gốc của nó là tự nhiên hay nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay không v.v .
Chẳng hạn, một bầu trời đầy sao có khả năng gợi ra hình ảnh về một ngày hôm sau
sẽ nắng đẹp trong nhận thức của con người; một hồi kẻng được đánh lên để báo
hiệu khi có hội họp hoặc giờ ra chơi đã tới theo quy ước giữa những người nào đó;
một câu hỏi nhưng chính là một lời tỏ tình trong câu ca dao:
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Vườn hồng đã có lối vào hay chưa?”
Và câu trả lời nhưng cũng có thể là “ bật đèn xanh” cho lời tỏ tình đó:
“Chàng hỏi thì thiếp xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào”
Các nhà nghiên cứu về lí thuyết thông tin gọi đó là những yếu tố mang tin
(thông tin), còn các nhà nghiên cứu nghĩa học gọi đó là những yếu tố mang nghĩa..
Kế thừa thành quả của những người đi trước, Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra những
đặc tính như là dấu hiệu nhận biết của một tín hiệu, gồm các nhân tố sau:
- Nó phải có một hình thức cảm tính: tức là TH phải cho phép con người cảm
nhận được bằng giác quan;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
- Nó phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó (phải mang
một nội dung ý nghĩa), " một tín hiệu là một khái niệm về quan hệ giữa cái biểu đạt
và cái được biểu đạt(ý nghĩa)”;
- TH phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó;
- TH phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định.
Các nhà nghiên cứu Tín hiệu học đã phân các tín hiệu thành những phạm trù
(hay loại) khác nhau. Ch.S.Pierce phân chia tín hiệu thành ba loại chính: Hình hiệu
(icones), dấu hiệu hay dấu vết (indexes) và biểu trưng (symboles). Ch. W. Morris
dựa vào mối quan hệ giữa tín hiệu với các loại sự vật mà chúng biểu thị để chia tín
hiệu thành hai loại:các chỉ hiệu (single indexes) và định hiệu (singnes
caracterisant). Tiếp theo ông lại phân chia các định hiệu ra thành hình hiệu và biểu
trưng (symbole).
P.Guiraud lại dựa trên mối quan hệ giữa thực tế với nhận thức của con
người, trong đó tác giả quan tâm tới những tín hiệu biểu hiện.Những tín hiệu biểu
hiện về bản chất là các hình hiệu và chức năng của chúng không phải là công cụ
giao tiếp mà là công cụ để phản ánh, miêu tả thực tế khách quan, ví dụ như bức
ảnh, bản nhạc, v.v . P. Guiraud tiếp tục phân chia tín hiệu thành tín hiệu tự nhiên
(là đối tượng của khoa học tư nhiên ) và tín hiệu nhân tạo; trong tín hiệu nhân tạo
ông lại chia thành tín hiệu không giao tiếp và tín hiệu giao tiếp. Ông còn dựa theo
đặc tính thể chất của TH mà phân chia các TH thành TH thị giác, TH thính giác,
TH xúc giác.Theo đặc tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, ông chia các TH thành
TH thứ cấp (còn gọi là kí hiệu) và TH sơ cấp...Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn
nhau của các loại tín hiệu.
Đỗ Hữu Châu cũng đã đưa ra bảng phân loại tín hiệu theo quan điểm riêng
của mình.Theo ông, tín hiệu là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các phương
diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau.Mỗi lần vận dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
một tiêu chí phân loại là có một kết quả phân loại. Những tiêu chí phân loại mà Đỗ
Hữu Châu đưa ra là:
1/Dựa vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện;
2/ Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu;
3/ Dựa vào mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện;
4/ Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu.
Dựa vào mặt thể chất của tín hiệu có thể phân chia ra được các loại tín hiệu
như: tín hiệu màu sắc, tín hiệu âm thanh v.v, trong đó tín hiệu ngôn ngữ được coi
là một loại tín hiệu đặc biệt.
Ch.S. Pierce đề ra quan niệm tam diện về tín hiệu, nhưng phải đến khi Ch.
W. Morris hệ thống hóa và xây dựng một lí thuyết tổng quát về tín hiệu thì ba chiều
của tín hiệu mới thực sự có ý nghĩa trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học và
đặc biệt với ngành tín hiệu học. Ch. W. Morris cũng như Ch.S. Pierce chia ra ba
chiều của tín hiệu:
Thứ nhất là chiều kết học;
Thứ hai là chiều nghĩa học;
Thứ ba là chiều dụng học.
Nhưng Ch. W. Morris còn cho rằng có thể tách ra trong quá trình tín hiệu
hóa ba cặp nhị diện cũng là ba cặp quan hệ nhị diện như sau:
* Chiều kết học: là chiều của quan hệ hình thức giữa các tín hiệu với nhau.
* Chiều quan hệ giữa tín hiệu và sự vật: đó là chiều nghĩa học của tín hiệu
học.
* Chiều quan hệ giữa tín hiệu và người lí giải: đây là chiều dụng học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
Như vậy, TH ngôn ngữ sẽ nằm trong loại TH nhân tạo, thuộc loại TH âm
thanh, là TH giao tiếp. Vậy TH ngôn ngữ là gì?
1.1.1.2. Tín hiệu ngôn ngữ
Trên cơ sở lí thuyết Tín hiệu học, mỗi TH gồm có hai mặt là cái biểu hiện
(cbh) ( tức hình thức vật chất cảm tính) và cái được biểu hiện(cđbh)( tức nội dung ý
nghĩa), F. de Saussure xác định tín hiệu ngôn ngữ như sau: “Tín hiệu ngôn ngữ kết
liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một
hình ảnh âm thanh," hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này là
có cái kia.Trong đó khái niệm được gọi là cái được biểu hiện(cđbh) và hình ảnh âm
thanh được gọi là cái biểu hiện(cbh). [31; 84 ]
Dựa trên tính nhị diện của tín hiệu ngôn ngữ, F. de Saussure cũng nói tới hai
loại tín hiệu ngôn ngữ : Tín hiệu võ đoán và tín hiệu có lí do tương đối.
Theo quan niệm của Ch.S. Pierce qua cách phân loại đã nêu ở trên, đại đa
số tín hiệu ngôn ngữ thuộc loại ước hiệu, loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa cái
biểu đạt và cái được biểu đạt là hoàn toàn võ đoán, không giải thích được nguyên
do. Loại tín hiệu này sẽ mất tư cách là tín hiệu nếu không có cái lí giải.
Theo Ch.W. Morris, tất cả các tín hiệu đều nằm trong quan hệ với các tín
hiệu khác và quy định lẫn nhau. Do đó các tín hiệu luôn nằm trong một hệ thống
nhất định. Ngôn ngữ là một loại tín hiệu đặc biệt nên nó cũng lập thành một hệ
thống. Chính F. de Saussure cũng đã khẳng định điều này và cho rằng giá trị của
mỗi yếu tố là do các yếu tố khác trong hệ thống quy định. Tuy nhiên, Đỗ Hữu Châu
đã chỉ rõ : Mặc dù F. de Saussure có khẳng định vai trò của hệ thống đối với tín
hiệu ngôn ngữ nhưng do xác định một cách riêng rẽ từng tín hiệu tách rời một nên
ông chỉ thấy có hai mặt ( cbđ, cđbđ ) quy định lẫn nhau. [7, tập 1, 695 ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
Trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng [7] , Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ
là hệ thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật
chất, đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm của con người làm ra. Ông xác
định TH ngôn ngữ là loại TH thính giác, TH giao tiếp, TH nhân tạo, ước hiệu (võ
đoán) v.v… Đỗ Hữu Châu đặc biệt lưu ý vấn đề chức năng và đặc tính đa chức
năng của các TH ngôn ngữ so với các hệ thống TH nói chung và TH mang chức
năng giao tiếp nói riêng. Đó là: Ngôn ngữ không chỉ thuần tuý mang chức năng
giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tư duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự
sống của con người và còn mang chức năng thi pháp v.v… Vì vậy, TH ngôn ngữ
vừa là TH giao tiếp, vừa có thể là TH nhận thức, TH biểu hiện v.v… riêng đối với
chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các chức năng khác nhau có liên quan
đến các nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp: chức năng miêu tả, chức năng
dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học.
Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý
nghĩa tín hiệu của chúng trên tất cả những đơn vị mang nghĩa ( tức các đơn vị có
hai mặt): từ, cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản. Một từ, ngữ hay một câu nói nào đó
có thể vừa mang những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ
những đặc điểm về địa phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lí của người nói
v.v…Chẳng hạn, nghe câu thơ Trám bùi để rụng, măng mai để già ( Tố Hữu) ta
biết ngay nhà thơ đang nói về một số đặc sản của vùng núi rừng Việt Bắc. Hoặc khi
nghe lời đối thoại sau:
“ Vải hôm nay bán được mấy xu hả dì?
-Kém hôm qua năm xu?
-Hàng họ thế này thì ăn bằng gì?
(Chí Phèo-Nam Cao)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
Chúng ta có thể nhận ra các nhân vật làm nghề dệt vải hoặc buôn bán vải
vóc.
Ở bất kì cấp độ nào, mỗi TH ngôn ngữ cũng đều phải bao hàm một hình thức
ngữ âm(cbh) tương ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cđbh), và giá trị của TH ngôn
ngữ cũng do những mối quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định. Vậy những
mối quan hệ hệ thống của TH ngôn ngữ là những quan hệ nào?
F.de Saussure đã nêu hai loại quan hệ chung nhất. Đó là :
1) Quan hệ đồng nhất - đối lập và quan hệ khác biệt;
2) Quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến {Saussure F.D: 1973 “Giáo
trình ngôn ngữ học đại cương].
Trong ngôn ngữ học hiện đại, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến các loại
quan hệ khác như: quan hệ tôn ti (giữa các cấp độ của ngôn ngữ) và quan hệ hiện
thực hoá ( giữa bình diện trừu tượng và bình diện cụ thể, giữa điển dạng và hiện
dạng)
Chính các nguyên tắc đồng nhất và đối lập, kết hợp (hay tuyến tính) và liên
tưởng(hay trực tuyến), điển dạng ( hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến thể) trong
hệ thống ngôn ngữ sẽ là những cơ sở lí thuyết quan trọng giúp chúng ta lí giải về
các TH ngôn ngữ trong quá trình hoạt động thực hiện các chức năng của ngôn ngữ
trong giao tiếp, trong đó có giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp của văn học) có liên
quan đến những nhiệm vụ mà đề tài luận văn này cần giải quyết.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ đã được Đỗ
Hữu Châu đặt trong chức năng xã hội của ngôn ngữ. Sự hiện thực hóa chức năng
xã hội của ngôn ngữ được biểu hiện trong hoạt động của toàn bộ hệ thống; qua
những mối quan hệ ngang ( tuyến tính, ngữ đoạn , tiếp đoạn cú đoạn:khả năng kết
hợp của các yếu tố ngôn ngữ với nhau để tạo thành một đơn vị cao hơn ) và mối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
quan hệ giữa các cấp độ của hệ thống ngôn ngữ.Trong các kết hợp cụ thể, mối
quan hệ giữa hình thức ngôn ngữ (cbđ) và ý nghĩa (cđbđ) rất khác nhau.Ví dụ :
tín hiệu bến trong những kết hợp sau là rất khác nhau về đối tượng được nó biểu
trưng:
(1) Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(ca dao)
(2) Để lòng anh hóa bến
Nghe thuyền em ra đi.
(Chế Lan Viên)
1.1.1.3 Tín hiệu thẩm mĩ (THTM)
Khái niệm THTM xuất hiện cùng với khuynh hướng cấu trúc trong nghiên
cứu mĩ học và nghệ thuật từ những năm giữa thế kỉ XX và được tiếp nhận vào Việt
Nam từ những năm 70 qua những bản dịch các công trình khoa học xuất hiện trong
các bài viết của Đỗ Hữu Châu(Lý thuyết hệ thống trong ngôn ngữ học dưới ánh
sáng của phương pháp luận khoa học của Mác), Nguyễn Lai(Từ một số luận điểm
của Mác suy nghĩ về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ), Hoàng Trinh(Từ kí hiệu học
đến thi pháp học) ,Trương Thị Nhàn (Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm
mĩ không gian trong ca dao)
Trong công trình của mình, các nhà nghiên cứu tuy chưa đưa ra một định
nghĩa hoàn chỉnh, thống nhất về tín hiệu thẩm mỹ, song họ đều thừa nhận THTM là
yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là những phương
tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm mĩ, được chúng ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
tiếp nhận như là những tín hiệu đặc biệt, có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới
tinh thần của chúng ta (Dẫn theo [30, 17]).
Những phương tiện này đã được M.B. Khrapchenco nêu cụ thể : nhân hoá,
ẩn dụ cố định, phúng dụ, tượng trưng, những hình tượng nghệ thuật đã được mài
mòn và cố định hoá về mặt ý nghĩa mà theo tác giả phù hợp với điều kiện hoạt
động chức năng quan trọng của kí hiệu là phải có một cách hiểu thường xuyên
được nhiều người biết đến Theo Hoàng Trinh, đó có thể là một bức hoạ, một vở
múa, một hình ảnh ẩn dụ, một figure ( hình thể từ ngữ ) là ẩn dụ, hoán dụ trong văn
học mang đặc tính của biểu trưng với cái biểu trưng và cái được biểu trưng của nó.
Các nhà phong cách học có thể giới hạn khái niệm THTM trong phạm vi hẹp hơn là
những tín hiệu nghệ thuật chìa khoá có giá trị tổ chức để biểu hiện tư tưởng tình
cảm của bài văn (Đái Xuân Ninh, dẫn theo Nhàn,số 93), hay những “ thần cú”,
những “nhãn tự”, những TH ngôn ngữ mang phẩm chất thẩm mĩ: những đối thoại
có tính thẩm mĩ trong văn học {4._.8}v.v
Khi vào thế giới nghệ thuật, các TH thông thường sẽ chuyển hoá thành
THTM, mang những nét đặc thù của nghệ thuật. Có thể hiểu một cách chung nhất ,
THTM là yếu tố thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Nói đến
phương tiện nghệ thuật là nói đến hai mặt thể chất và tinh thần. Mặt thể chất chính
là những hình thức vật chất được sử dụng trong mỗi ngành nghệ thuật ( như: đường
nét, màu sắc trong hội họa, hình khối trong kiến trúc, âm thanh, tiết tấu trong âm
nhạc, ngôn ngữ trong văn học). Mặt tinh thần bao gồm nhiều loại nội dung ý nghĩ ,
nhiều tầng khái quát hoá, trừu tượng hoá có tính thẩm mĩ [8, 755]. Philipiep cũng
khẳng định rằng từ một hình thức vật chất cụ thể thì mặt tinh thần, mặt nội dung ý
nghĩa có thể đồ sộ hơn rất nhiều so với ý nghĩa của bản thân thực tế, cuộc sống
(Dẫn theo [30,18])
Ở đây có sự phân biệt khá rạch ròi giữa phương tiện và chất liệu khi ta nhìn
nhận tín hiệu trong chức năng của chúng. Nếu như trong các loại hình nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
khác, chất liệu có thể được cảm nhận một cách trực tiếp bằng các giác quan, thì đối
với văn học chất liệu là ngôn ngữ. Không thể xác định tín hiệu thẩm mỹ chỉ dựa
trên chất liệu cũng như trong văn học, không thể đồng nhất tín hiệu ngôn ngữ thông
thường được dùng làm chất liệu trong tác phẩm văn học với phương tiện của nghệ
thuật là tín hiệu thẩm mỹ . Chính vì vậy, Lotman đã viết: “Văn học nói bằng một
thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ được xây chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên
với tư cách là một hệ thống cấp hai . ( Dẫn theo M.B. Khrapchenco, Những vấn đề
lí luận và phương pháp luận nghiên cứu,VH.,H.,2002,tr.64). Hoặc có thể nói theo
Đinh Trọng Lạc là TH ngôn ngữ - văn học ấy đóng vai trò là hệ thống TH thứ nhất
làm cơ sở cho hệ thống TH thứ hai THTM
Như vậy có sự chuyển hóa các kí hiệu ngôn ngữ phổ thông thành các yếu tố
của tín hiệu nghệ thuật, hay nói khác đi, tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật được xây
dựng trên cơ sở ngôn ngữ tự nhiên.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, tác giả Đỗ
Hữu Châu đã giải thích cụ thể hơn về THTM ngôn ngữ như sau. THTM là phương
tiện sơ cấp của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú
pháp THTM. TH ngôn ngữ tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức CBH của
THTM [ 8,576 ]. Để trả lời cho câu hỏi: Thế nào là một THTM?”, Đỗ Hữu Châu
chủ trương căn cứ vào sự tương ứng của THTM với các vật quy chiếu thuộc thế
giới hiện thực: THTM phải tương ứng với một vật quy chiếu nào đấy trong thế
giới hiện thực. Chẳng hạn như một con thuyền, một dòng sông, hay một nỗi
buồn nào đó [ 8, 576 ].
Từ đó có thể hiểu THTM chính là toàn bộ những yếu tố hiện thực, những chi
tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm vì mục đích
biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
Đỗ Việt Hùng cũng có ý kiến tương tự: “nếu coi ngôn ngữ tự nhiên là hệ
thống tín hiệu nguyên cấp (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì ngôn ngữ nghệ thuật là hệ
thống tín hiệu thứ cấp (hệ thống tín hiệu thứ hai). Cái biểu hiện của ngôn ngữ nghệ
thuật bao gồm cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa sự vật - lôgíc của ngôn ngữ tự
nhiên. Cái được biểu hiện là các lớp ý nghĩa hình tượng. Đây chính là trường hợp
mà hệ thống thứ nhất sẽ được dùng làm bình diện thể hiện hoặc làm cái biểu đạt
cho hệ thống thứ hai” [Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học ]
Từ những điều đã được trình bày trên đây, để hiểu rõ mối quan hệ giữa TH
ngôn ngữ và THTM, có thể hình dung theo sơ đồ sau:
cbh:âm thanh ngôn ngữ
cbh:tín hiệu ngôn ngữ---------------------------------------
Cđbh:ý nghĩa ngôn ngữ
THTM : -------------------------------------------------------
Cđbh: ý nghĩa thẩm mỹ
(Dẫn theo Luận án PTS của Nhàn, tr.28)
Từ sơ đồ này, có thể thấy rằng cả cái hợp thể CBH và CĐBH tạo thành TH
ngôn ngữ đã trở thành CBH cho một CĐBH mới là ý nghĩa thẩm mĩ của THTM
trong tác phẩm văn học. Chính vì thế, trong văn học không được đồng nhất phương
tiện văn học THTM với TH ngôn ngữ thông thường được sử dụng làm chất liệu
của tác phẩm văn học. Chính sự khác biệt có tính vượt cấp này là do vai trò quyết
định của chủ thể sáng tạo. Điều đó khiến cho, nói theo Ch. bally, giữa cách dùng
ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ của nhà văn có một vực thẳm không vượt qua
được [22, 9].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
Điều đáng lưu ý ở đây là nếu mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được
biểu hiện trong ngôn ngữ tự nhiên có thể là võ đoán thì mối quan hệ giữa cái biểu
hiện và cái được biểu hiện trong tín hiệu thẩm mỹ lại là luôn có lí do và là lí do liên
hội. Tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên muốn trở thành tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm
nghệ thuật thì phải trải qua một quá trình khái quát hóa nghệ thuật mang tính biểu
trưng để đạt đến ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.
Trong Luận văn này, để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi chấp nhận cách
hiểu về THTM như sau: “THTM là TH thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện
của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố của hiện thực, của tâm
trạng (những chi tiết, những sự vật, hiện tượng, những cảm xúc thuộc đời sống hiện
thực và tâm trạng), những yếu tố của chất liệu (các yếu tố của chất liệu ngôn ngữ
với văn chương; các yếu tố của chất liệu mầu sắc với hội họa; âm thanh có nhịp
điệu với âm nhạc) được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục
đích thẩm mỹ [ 1, 23], [30, 26] .
Trong các tác phẩm nghệ thuật , THTM được biểu hiện rất đa dạng đối với
từng ngành nghệ thuật, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ; điều cần thiết là phải xem
xét nhìn nhận THTM qua những đặc trưng cụ thể.
1.2 NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA TÍN HIỆU THẨM MĨ
1.2.1 Tính đẳng cấu
Đẳng cấu là sự giống nhau về quan hệ, về nội dung nhưng khác nhau về hình
thức biểu hiện. Iu.A. Philipiep đã rất chú ý tới đặc tính về sự đẳng cấu thông tin của
THTM: Những biểu hiện vật lí của TH có thể khác nhau nhưng ý nghĩa của TH
vẫn chỉ là một ([ Dẫn theo [30, 17]).
Đỗ Hữu Châu cũng đã khẳng định: “ Rất nhiều THTM được sử dụng trong
văn học, trong hội họa, trong điện ảnh, trong âm nhạc như những tín hiệu đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
nghĩa (có thể là đồng cảm xúc), chỉ khác nhau ở sự thể hiện bằng các chất liệu
riêng của từng ngành. [ 8, 572] . Chẳng hạn, các từ thuyền và bến là cái biểu hiện
bằng ngôn ngữ của hai tín hiệu thuyền , bến. Hai tín hiệu này xuất hiện trong một
bức vẽ, trong một cuốn phim và trong các bài hát: con thuyền không bến , con
thuyền xa bến ,…bằng hình vẽ, bằng hình ảnh hay bằng chuỗi âm thanh có nhạc
tính,…Như vậy, một tín hiệu thẩm mỹ của một nền văn hóa có thể chuyển hóa vào
nhiều ngành nghệ thuật qua chất liệu, phương tiện đặc trưng của từng ngành này.
Tính đẳng cấu của THTM không chỉ biểu hiện qua các ngành nghệ thuật
khác nhau mà còn qua từng hệ thống, từng kết cấu, từng lần xuất hiện khác nhau
của các TH trong hệ thống. Theo Phạm Thị Kim Anh: “ Nghĩa của từng tín hiệu là
khác nhau, quan hệ nghĩa giữa các tín hiệu trong từng cặp cũng khác nhau, song
nếu cùng đặt vào trong một hệ thống nào đó, chúng lại có quan hệ, ý nghĩa, cảm
xúc giống nhau. ”[ 1, 20 ]
Điều này cho phép chúng ta đặt các tín hiệu trong quan hệ với các yếu tố cấu
thành tác phẩm, ở phương diện trực tuyến, lại có thể xem xét trên trục đồng đại hay
lịch đại. Đó cũng là cơ sở cho quan hệ lựa chọn và quan hệ kết hợp.
Có thể nhấn mạnh thêm rằng tính đẳng cấu của THTM còn được thể hiện
trong tương quan giữa các hệ thống hoạt động của THTM. Tham gia vào một hệ
thống, tức là tham gia vào một kết cấu, một mạng quan hệ không giống với trong
các hệ thống khác THTM có thể đồng nghĩa trong những hình thức kết cấu khác
nhau của các hệ thống.
Chẳng hạn, các THTM được thể hiện qua một loạt những câu ca dao sau đều
có ý nghĩa chung nói về thân phận thụ động, không tự quyết định được số phận của
người phụ nữ: Thân em như hạt mưa sa.../ Thân em như hạt mưa rào.... / Thân em
như tấm lụa đào…/ Em như giếng nước giữa đàng... Chúng đều nói về thân phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
của người phụ nữ trong xã hội xưa: bị phụ thuộc vào kẻ khác, bất lực và không tự
định đoạt được số phận của mình.
Giữa chất liệu hiện thực và tín hiệu thẩm mĩ cũng có quan hệ đẳng cấu. Hãy
xét ví dụ: nước, non trong bài Thề non nước của Tản Đà: Hiện tượng tự nhiên
“ non ” với đặc tính cố định, ở trên cao, thích hợp để có thể biểu trưng cho người
con gái đợi chờ, ngóng trông; đó là cơ sở để nhà thơ xây dựng hình tượng “ non ”
trong bài thơ. Còn “ nước ” là thứ chất lỏng có đặc tính trôi chảy, lưu động, giống
như người con trai “lãng du” nay đây mai đó nên thích hợp đối với việc xây dựng
hình tượng “non” trong bài thơ. “ non, nƣớc ” cũng là những tín hiệu mang tính
biểu trưng để nói về tình yêu quê hương, đất nước. Người ta thường tìm ra các lớp
nghĩa khác nhau trong tác phẩm dựa trên tính đẳng cấu này. Những hình ảnh tượng
trưng, ước lệ cũng phần nào được lí giải trên cơ sở tính đẳng cấu giữa chất liệu hiện
thực và tín hiệu thẩm mĩ
Như các ví dụ đã dẫn trên đây cho thấy, các tín hiệu thẩm mĩ thường đi với
nhau thành từng cặp, bởi vậy cũng có sự đẳng cấu giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ
với nhau.Tuy nhiên giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ có khi diễn ra sự đổi chiều; khi
đó ý nghĩa thẩm mĩ cũng có sự thay đổi tương thích(sự thay đổi nghĩa của chính
từng tín hiệu thẩm mĩ và của cặp tín hiệu thẩm mĩ ) , như hình ảnh tấm lụa đào
trong kết hợp sau:
Thân em như tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai
(ca dao)
Ý nghĩa của hình ảnh tấm lụa đào trong câu ca dao trên nói về vẻ đẹp, cái
thanh cao cần phải được gìn giữ, chứ không phải là thân phận người phụ nữ bị phụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
thuộc, không tự quyết định được hoàn cảnh, số phận của mình như trong câu ca dao
đã dẫn trước.
Tóm lại, đẳng cấu là đặc tính quan trọng của THTM, nó giúp ta nhìn nhận
TH trong nhiều quan hệ khác nhau (quan hệ cấp độ, quan hệ đồng nhất và đối lập,
quan hệ dọc, quan hệ ngang).
1.2.2 Tính cấp độ
Các nhà nghiên cứu có quan điểm về phân chia cấp độ THTM khác nhau. Có
quan điểm phân biệt THTM với hình tượng thẩm mĩ, khi đó THTM là các yếu tố
tạo nên hình tượng thẩm mĩ. Mở rộng khái niệm THTM thì toàn bộ hệ thống thẩm
mĩ cũng là một tín hiệu thẩm mĩ.
Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai cấp độ cơ bản sau :
a) Cấp cơ sở: THTM ứng với một chi tiết, một sự vật, hiện tượng thuộc thế
giới khách quan, ví dụ: Mặt trời, Con thuyền, Nỗi nhớ v.v đó là những tín hiệu
thẩm mĩ đơn hay THTM cơ sở có chức năng tham gia cấu tạo nên những THTM ở
cấp độ cao hơn trong tác phẩm . Tín hiệu thẩm mĩ đơn được tạo nên bằng các từ
hay cụm từ, có thể là những từ ngữ, thành ngữ, điển cố hay những hình ảnh đơn lẻ
, mang ý nghĩa thẩm mỹ. Đỗ Hữu Châu viết: “ Phương tiện sơ cấp của văn học là
các tín hiệu thẩm mỹ. Rồi cái THTM đó mới được thể hiện bằng các tín hiệu ngôn
ngữ thông thường…” [8, 564]
b) Cấp độ xây dựng (TH phức ):THTM ứng với nhiều sự vật, hiện tượng ..
được xây dựng từ những tín hiệu đơn nhưng ý nghĩa không phải là kết quả của
phép cộng đơn giản những tín hiệu thẩm mĩ đơn. Loại tín hiệu phức được tạo ra để
biểu hiện những ý nghĩa thẩm mĩ mới trong tác phẩm văn chương.
F. de Saussure đã chỉ ra rằng: “ Thường chúng ta không nói bằng những tín
hiệu riêng lẻ mà bằng nhóm những tín hiệu, bằng khối có tổ chức cũng là tín hiệu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
[31, 153]. Nói cụ thể hơn,THTM phức là tổ hợp của nhiều tín hiệu đơn (mang ý
nghĩa thẩm mĩ); đó có thể là những hình tượng văn học, hình tượng nhân vật trong
tác phẩm kể cả một tác phẩm đồ sộ.
Ví dụ: Thành ngữ kiến bò miệng chén và câu Kiều sau đây: “lo gì việc ấy mà
lo/ Kiến trong miệng chén có bò đi đâu... Nếu như thành ngữ: Kiến bò miệng chén
chỉ nói về cái quẩn quanh của sự vật, không đi đến đâu, thì trong câu nói của
Hoạn Thư, Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ này bằng cách: đặt câu thành ngữ
trong lời nói của Hoạn Thư mà ý nghĩa mang lại là làm toát lên cái đáo để của mụ.
Như vậy, nếu thành ngữ trên được coi là THTM đơn thì câu thơ trên của Nguyễn
Du là THTM phức. Theo đó, tín hiệu ngôn ngữ được mở rộng và biến đổi không
ngừng, làm phong phú cho ngôn ngữ đời sống cũng như trong văn học .
1.2.3 Đặc tính tác động
Đặc tính này có cơ sở từ bản chất của tín hiệu như ý kiến của P.Guiraud mà
chúng tôi đã từng dẫn lại ở trên: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó
đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác”. Hiệu quả tác động của
THTM trước hết là hình thành nên những hình tượng nghệ thuật. Như vậy có thể
hiểu, hình tượng nghệ thuật, đó là sản phẩm của thế giới tinh thần được THTM làm
dấy lên trong thế giới chủ thể tiếp nhận. Tuy nhiên việc đòi hỏi tín hiệu thẩm mĩ
trong tác phẩm phải có một khả năng tác động như nhau đến toàn thể công chúng
là một điều khó có thể xảy ra. Chẳng hạn, một người nông dân bình thường không
thể cảm nhận được ý nghĩa thẩm mĩ khi đọc một bài thơ như các nhà thơ, và càng
không thể bằng một nhà nghiên cứu phê bình văn học.
Đặc tính tác động của THTM còn được thể hiện ở chức năng giao tiếp nghệ
thuật mang tính đối thoại đặc thù của nó. Khi đó THTM là TH đặc biệt có khả năng
kích thích mạnh mẽ thế giới, tư tưởng của chúng ta, do đó nó trở thành yếu tố kích
thích của sự điều chỉnh sống động những tâm trạng xã hội khác nhau [Dẫn theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
[30, 17]). Cũng theo Đái Xuân Ninh, hiệu quả tác động của xung động tín hiệu
mang lại là gây nên một tình huống mới trong nhận thức và hành động của chủ thể
tiếp nhận theo hướng mà người phát mong muốn, làm mới, làm phong phú, làm
thay đổi nhận thức thẩm mĩ và có thể điều chỉnh cả hành vi con người. ở đây chúng
ta có thể nhận thấy nổi lên vai trò của chủ thể tiếp nhận - đối tượng tác động của
THTM. Nhờ có chủ thể tiếp nhận thì THTM mới có thể phát huy được hiệu quả sức
kích thích của nó, và mới có thể xác định được nội dung (hình tượng ) và tính tư
tưởng, tính cảm xúc của THTM trong tác phẩm. Khi đó tính hai mặt không thể tách
rời của tín hiệu cùng với hiệu lực thông báo mới trở thành hiện thực. Đó là lí do có
thể giải thích vì sao ở từng thời đại khác nhau, ở từng đối tượng tác động(tức chủ
thể tiếp nhận) khác nhau mà ý kiến khen chê về cùng một bài thơ cũng rất khác
nhau; đó là chưa kể đến những liên tưởng nghịch hướng, phi thẩm mĩ từ phía người
tiếp nhận có thể làm phương hại đến giá trị thẩm mĩ của tác phẩm.
1.2.4 Tính biểu hiện
Đây là đặc tính quan trọng lên quan đến sự thực hiện chức năng chung của
nghệ thuật - đó là chức năng phản ánh hiện thực. THTM phải mang nội dung hiện
thực nhất định, phải gắn với hiện thực. Điều này có nghĩa là mỗi tín hiệu thẩm mĩ
ứng với một sự vật, hiện tượng thuộc thế giới vật chất hay tinh thần.
Vấn đề nói trên có cơ sở từ đặc tính của TH nói chung. Theo F. de Saussure,
“... tín hiệu là một thực thể có hai mặt nội dung và hình thức không tách rời nhau;
trong đó dấu hiệu vật thể có vai trò rất quan trọng đối với người tiếp nhận. Nếu
không có nội dung thì không có gì để truyền đạt; và nếu có nội dung nhưng không
qua lời nói, chữ viết thì người tiếp nhận cũng không thể biết được nội dung mà
người nói muốn truyền đạt.” [ 31, 105 ]
Nguyễn Lai cũng đã khẳng định: “...tín hiệu bao giờ cũng mang một nội
dung thông báo đến một đối tượng nào đó. Nếu không mang một nội dung thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
báo tín hiệu không còn là tín hiệu” [22, 34]. Cũng theo tác giả, sự xuất hiện một tín
hiệu phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
1/Thông báo một nội dung nào đó;
2/Cho ai đó;
3/Thông qua một dấu hiệu vật thể nào đó;
Hay nói cách khác, một tín hiệu không có giá trị thông báo thì không thể trở
thành tín hiệu. Và mặt khác, một tín hiệu khi muốn có một giá trị thông báo thì
trong tính hiện thực của nó không thể không hướng tới một đối tượng tiếp nhận.
Như vậy, điều đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây là: chỉ có qua đối tượng tiếp nhận ,
tính hai mặt không thể tách rời của tín hiệu cùng với hiệu lực thông báo mới trở
thành hiện thực. [22, 34]
Như vậy, chủ thể tiệp nhận có hoạt động rất năng động. Chính hoạt động này
một phần làm nên tính đa nghĩa cho tín hiệu thẩm mỹ.
M.B.Khrapchenco cho rằng: “THTM phải có chức năng thay thế ( thay thế
những hiện tượng trong thực tế )” ( Dẫn theo [ 8, 572]). Theo Đỗ Hữu châu, THTM
phải ứng với một sự vật, hiện tượng nào đó trong thế giới hiện thực, phải có vật
quy chiếu trong thế giới hiện thực... Sự biểu hiện (hay tái hiện) hiện thực của
THTM trong những ngành nghệ thuật khác nhau nói chung đều dựa trên năng lực
miêu tả, thay thế, tái hiện, dẫn các sự vật, hiện tượng, các phạm vi khác nhau của
đời sống vào trong tác phẩm, vào những phương tiện vật chất được sử dụng.Trong
hội họa đó là những đường nét, màu sắc.., trong âm nhạc, đó là những âm thanh,
nhịp điệu, tiết tấu có khả năng khơi gợi những hiện thực của đời sống, của tâm
hồn.Trong văn học, đó là những từ ngữ, kết cấu mang nội dung biểu vật, biểu niệm
nhất định, gắn với hiện thực v.v... phản ánh trình độ nhận thức, năng lực cảm xúc
của con người. Mặt khác, sự biểu hiện của THTM còn liên quan đến quá trình liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
tưởng ở chủ thể tiếp nhận, bởi vậy lượng thông tin biểu hiện trong THTM cũng
không phải nhất thành bất biến...(lý thuyết hệ thống trong ngôn ngữ học dưới ánh
sáng của phiương pháp luận khoa học của Mác)
1.2.5 Tính biểu cảm (tính bộc lộ)
Đặc tính này thể hiện chức năng thông báo của THTM trong mối quan hệ
của nó với nhân tố người viết (hay tác giả). Để đạt đến một giá trị thẩm mĩ nhất
định,THTM không thể chỉ dừng ở nội dung đơ thuần tái tạo hiện thực. Ngoài
những thông tin về hiện thực, THTM còn thông tin về những cảm xúc, tâm trạng
nhất định của người nghệ sĩ với bạn đọc. Chính vì vậy, nằm trong cấu trúc của
THTM, tính biểu cảm là một đặc tính quan trọng, mang dấu ấn chủ quan của người
sáng tác. M.B.Khrapchenco đã chỉ ra rằng “có một hệ số cảm xúc nhất định, một
cơ cấu cảm xúc thuộc cấu trúc THTM”. Theo tác giả , “cảm xúc vừa là cái để
truyền đạt trong THTM vừa là cái xác định gián tiếp các đối tượng và hiện thực
làm cơ sở cho việc hiểu một THTM”(dẫn theo [30,23 ]). Chẳng hạn, trong những
câu thơ sau của Tố Hữu, chúng ta thấy không chỉ có cát, nắng, gió của xứ Thanh
mà còn có cả niềm cảm xúc dâng trào của nhà thơ khi ông trở lại vùng quê xưa, nơi
có những người mẹ đã từng che chở, nuôi dưỡng mình trong những năm kháng
chiến:
Tôi trở về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát...
(Tố Hữu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
Trong THTM, cảm xúc - vốn là tình cảm chủ quan của chủ thể sáng tạo, đã
được khách quan hoá thành một thành phần quan trọng trong cơ cấu nghĩa của tín
hiệu.
Cùng một nội dung hiện thực nhưng nếu với ý nghĩa biểu cảm khác nhau thì
sẽ tạo nên cái mới, cái sinh động, cụ thể và riêng biệt cho THTM trong mỗi lần
xuất hiện.
1.2.6 Tính biểu trƣng
Tính biểu trưng là đặc tính của THTM khi xét trong mối quan hệ giữa cái
biểu hiện và cái được biểu hiện. Đây là mối quan hệ có lý do, liên quan đến năng
lực biểu trưng hóa của các yếu tố, các chi tiết, các sự vật, hiện tượng được đưa vào
làm THTM trong tác phẩm. Theo Từ điển tu từ phong cách học Tiếng Việt của
Nguyễn Thái Hoà [T103] “tính biểu trưng là khả năng gợi ra một đối tượng khác
ngoài sự thể hiện cụ thể của dấu hiệu đó và được cộng đồng chấp nhận”.
Ch.S. Pierce cho rằng: “Biểu trưng có quan hệ với đối tượng của nó chỉ qua
một nghĩa có tính chất ước lệ mà người ta gán cho nó trong một hoàn cảnh nào
đó... Nghĩa đó là do con người trong cộng đồng đặt ra mà thôi” (dẫn theo [tr.186]).
Biểu trưng, một mặt có tính hình tượng cụ thể, cái biểu hiện nó là một đối tượng
nào đó được quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, đó là ý nghĩa xã hội nào đó được cả
cộng đồng chấp nhận. Tính chất ước lệ chung cho cái biểu hiện này chính là tính
có lý do trong THTM nói chung. Đặc tính này còn cho thấy lối tư duy, quan niệm
xã hội ... gắn với một cộng đồng nào đấy, từ đó hình thành ý nghĩa xã hội nào đó,
được cả cộng đồng chấp nhận như vừa được nói tới. Ví dụ : Hình ảnh con cò trong
ca dao Việt Nam thường gắn với thân phận thấp bé (Con cò mà đi ăn đêm / Đậu
phải cành mềm lộn cổ xuống ao.), đức tính chịu thương chịu khó (Cái cò lặn lội bờ
sông / Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non), có khi lại được hiểu là thân phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
người phụ nữ trong xã hội xưa vất vả, lam lũ một nắng hai sương lo cho chồng cho
con...
Cũng do tính biểu trưng mà hiệu lực, giá trị của tín hiệu thẩm mỹ phụ thuộc
vào cách tri nhận, cách giải thích theo một thiên hướng nào đấy, một quy ước nào
đấy của cả cộng đồng mà có khi lại trái ngược với cộng đồng khác. Chẳng hạn, đối
với cộng đồng ấn Độ giáo, Phật giáo như Nhật Bản, Việt Nam, biểu trưng hoa sen
được hiểu theo ý nghĩa đạo đức trong trắng, tiết độ, cứng rắn, một hình ảnh đức
hạnh, biểu hiện của người hiền nhưng với cộng đồng từ Địa Trung Hải đến ấn Độ
và Trung Hoa thì hoa sen trước hết là bộ phận sinh dục, là âm hộ mẫu gốc, bảo
đảm cho các cuộc sinh thành và tái sinh truyền lưu mãi mãi.
Điều này cũng liên quan đến tính truyền thống và cách tân trong việc lựa
chọn chất liệu (cái biểu hiện) cấu tạo nên THTM .
1.2.7 Tính truyền thống và cách tân
Tính truyền thống và cách tân của THTM liên quan đến vấn đề cái mới của
nó. Theo Đỗ Hữu Châu:“Truyền thống và cách tân là hai phương diện biện chứng
của THTM”. [8, 559] Nói đến tính truyền thống là nói đến tính cố định, tính lặp lại,
tính kế thừa, có sẵn của THTM trong kho tàng nghệ thuật của một dân tộc. Nói
đến cách tân là nói đến sự đổi mới, sự sáng tạo trong việc sử dụng THTM của mỗi
tác giả, thậm chí là trong từng tác phẩm. Nếu không có sự cách tân thì tín hiệu thẩm
mỹ sẽ trở nên bị mài mòn, bị mất đi giá trị gợi hình tượng, gợi cảm xúc. Trái lại,
nếu không có truyền thống thì THTM sẽ bị mất đi những điều kiện nhất định về
mặt liên tưởng giúp ích cho việc lĩnh hội THTM trong tác phẩm.
Phải bắt nguồn từ ca dao thì những câu thơ sau của Nguyễn Du mới có sức
lay động lòng người đến như vậy: Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc, nửa
soi dặm trường. Nếu theo truyền thống thì ca dao chỉ diễn tả được quy luật như một
lẽ thường, đó là cảnh chia lìa xuôi ngược. Song Nguyễn Du đã cách tân ở chỗ dùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
lẽ thường ở đời đó mà khơi sâu được bi kịch tình yêu, hết sức nghiệt ngã giữa Thuý
Kiều và Thúc Sinh, khi hai người chia tay nhau để chàng Thúc về quê thưa chuyện
với Hoạn Thư mong được lấy nàng Kiều. Đây cũng là cuộc chia tay chưa biết ngày
gặp lại, chưa biết sự thể sẽ thế nào nên nó thấm đẫm một mầu sắc tâm trạng.
Những yếu tố truyền thống mang tính cố định, ổn định như điển cố, những
ước lệ, tượng trưng khi được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ sẽ có sức khơi gợi thẩm
mĩ lớn lao.
Cái mới trong cách sử dụng tín hiệu thẩm mĩ của các tác giả có thể được thể
hiện ở việc xây dựng một THTM hoàn toàn mới, nhưng chủ yếu vẫn là ở sự cách
tân các THTM, ở việc đổi mới các THTM có sẵn trong truyền thống, mang lại cho
chúng những ý nghĩa thẩm mỹ mới. Điều này chỉ có được thông qua sự sáng tạo
của người nghệ sĩ.
1.2.8 Tính hệ thống
Tín hiệu nói chung và tín hiệu thẩm mĩ nói riêng bao giờ cũng thuộc về một
hệ thống nhất định, bởi vậy nó chịu sự chi phối của những yếu tố khác trong cùng
hệ thống thông qua những quan hệ nhất định.
F. de Saussre đã chỉ ra rằng: “Thường người ta không nói bằng tín hiệu riêng
lẻ, mà bằng từng nhóm tín hiệu, từng khối có tổ chức vốn cũng là tín hiệu”.
[31,107].Và khi nói đến vấn đề tính có tổ chức ở lĩnh vực này, ta không thể không
nói đến tính hệ thống - một đặc tính làm nên bản chất tín hiệu của ngôn ngữ .
Theo Nguyễn Lai, khi nói đến tính hệ thống của ngôn ngữ, bên cạnh cách nhìn
theo hướng lịch đại dĩ nhiên ta còn phải nhìn nó theo hướng đồng đại. Đối lập trong
bản thân nó và đối lập với cái xung quanh nó,..[22, 35-36].
Trong ngôn ngữ, đó chính là tính hình tuyến của tín hiệu. Chẳng hạn, trong
ngôn ngữ toàn dân, khéo đối lập với thô vụng, nhưng trong cách nói của Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
Du thì lại thể hiện một sắc thái mỉa mai hết sức tinh tế: “ Trăm năm trong cõi người
ta/Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.” Như vậy, do áp lực của các nhân tố xung
quanh ( tính hình tuyến) mà nghĩa của TH có thể có những biến đổi nhất định. Hay
ví dụ:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
(Lưu Trọng Lư)
Từ nghe vốn là để nói về một hoạt động tiếp nhận âm thanh bằng thính giác,
nhưng ở đây nó lại được dùng để nói về những rung động sâu lắng trong hồn người
trước vẻ đẹp quyến rũ của mùa thu. Nghĩa của từ nghe có sự biến đổi so với ngữ
nghĩa thông thường là do tác giả đã sáng tạo đặt nó trong kết hợp với mùa thu . Nếu
thay thế mùa thu bằng loại sự vật, hiện tượng như: nhạc, tiếng mưa… thì không thể
có cách hiểu như trên.Thực chất là nghĩa của từ đã chịu sự chi phối của những yếu
tố trong hệ thống. Có thể suy ra là nghĩa cụ thể của ngôn ngữ chỉ có thể được xác
định thông qua một tập hợp nhiều từ. Điều đó đòi hỏi không chỉ đối với người sử
dụng ngôn ngữ như là tín hiệu mà ngay cả với người tiếp nhận thì cũng đòi hỏi phải
nhận ra tập hợp có tính hệ thống trên. Trong Truyện Kiều Nguyễn Du viết: Lửa tâm
càng dập càng nồng. Thông thường không ai nói dập cơn ghen nhưng khi kết hợp
với lửa thì rõ ràng là phải có dập. Chính tính hệ thống là cơ sở của tính sáng tạo
trong sử dụng ngôn ngữ, tạo ra được sự cộng hưởng ngữ nghĩa giữa các yếu tố
ngôn ngữ, mang lại những giá trị mới cho tín hiệu ngôn ngữ.
Tính hệ thống của THTM được xem xét từ hai khía cạnh: Khía cạnh nội tại (cấu
trúc), với những quy luật thuộc cấu trúc tác phẩm. Khía cạnh ngoại tại (chức năng) với
những quy luật về sự hoạt động thực hiện các chức năng giao tiếp của sáng tạo nghệ
thuật .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
Riêng với khía cạnh cấu trúc tác phẩm, cần phân biệt hai bình diện : bình
diện trừu tượng và bình diện cụ thể của hệ thống.Thuộc bình diện trừu tượng là
những điển dạng (hằng thể) của THTM cùng những mối quan hệ giữa các điển
dạng làm nên cấu trúc bề sâu, bất biến của tác phẩm. Thuộc bình diện cụ thể là
những hiển dạng (hay biến thể) của THTM cùng những mối quan hệ giữa các hiện
dạng làm nên cấu trúc bề mặt, mang tính cụ thể biểu kiến của tác phẩm. Nghiên
cứu THTM thực chất là nghiên cứu những biến thể của nó qua mỗi lần xuất hiện.
Chính vì vậy, thực chất của việc nghiên cứu hệ thống THTM là nghiên cứu cấu trúc
hình thức, mang tính cụ thể, biểu kiến của tác phẩm nghệ thuật. Đây cũng là vấn đề
hằng thể và biến thể sẽ được bàn tiếp ở mục sau.
1.2.9 Tính trừu tƣợng và cụ thể
Đây cũng chính là vấn đề hằng thể và biến thể của THTM.
Trong Tín hiệu học, người ta phân biệt điển dạng (hay hằng thể) và hiện
dạng (hay biến thể) của mỗi tín hiệu. Điển dạng là TH trong tính trừu tượng bất
biến của nó, còn gọi là hằng thể của TH. Hiện dạng là TH trong tính cụ thể, khả
biến của nó, còn gọi là các biến thể của TH. Trên thực tế, người ta chỉ gặp các hiện
dạng hay biến thể của TH với những biểu hiện không hoàn toàn giống nhau trong
những lần xuất hiện.
Đối với THTM cũng vậy. Nghiên cứu các THTM trên thực tế chính là
nghiên cứu các biến thể của chúng. Như vậy, có thể hiểu biến thể của THTM là
THTM trong các lần xuất hiện của nó. ở mỗi lần xuất hiện, THTM được biểu đạt
bằng một hình thức CBH - biến thể, mang một nội dung CĐBH - biến thể, đồng
thời có những mối quan hệ mới với những yếu tố cùng xuất hiện trong hệ thống
mà THTM tham gia, và được cảm nhận với cảm xúc mới v.v…
Ngoài ra, có thể xác định mối quan hệ hằng thể - biến thể giữa các THTM -
sự vật, hiện tượng mang tính khái quát, chung, với các THTM - sự vật, hiện tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
mang tính cụ thể, riêng so với các TH TM khái quát, chung ấy. Chẳng hạn, Núi
với tư cách THTM khái quát, chung hay hằng thể, có thể được biểu hiện qua những
biến thể - bộ phận của núi: đèo, dốc, đá, hang… nhằm diễn đạt ý nghĩa về sự khó
khăn hay thử thách. Thuyền có thể được biểu hiện qua những biến thể - bộ phận
của nó: mái chèo, cánh buồm… nhằm diễn đạt ý nghĩa người đi.
Biến thể của TH nói chung, THTM nói riêng được thể hiện ở hai dạng sau:
*Biến thể từ vựng: Đây là tập hợp những từ ngữ gần nghĩa hoặc cùng trường
nghĩa có thể thay thế cho nhau. Đây là cơ sở cho sự lựa chọn của các nhà văn, nhà
thơ.
Ví dụ:
Tổ quốc ta như một con tàu
Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
(Xuân Diệu)
* Biến thể kết hợp: Cùng một tín hiệu nhưng có sự biến đổi ít nhiều do kết
hợp với những tín hiệu khác nhau ở trước và sau nó. Trong ngôn ngữ, đây là kết
quả của tính hình tuyến; khi trở thành THTM thì từ ngữ cũng biến đổi ít nhiều
trong quan hệ với từ ngữ đi trước và đi sau. Có thể nói, biến thể kết hợp là biến thể
của các tín hiệu cùng hiện diện trong lời nói. Khi xuất hiện trong những tổ hợp
khác nhau TH ít nhiều biến đổi để tạo nên những tình cảm, cảm xúc khác nhau. Ví
dụ:
- Gió hiu hiu thổi một vài bông lau...
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Gió cho ta cảm xúc về một khung cảnh yên tĩnh, buồn vắng. Còn trong câu
thơ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
Ngôi nhà không mặc kệ gió lung lay..
(Chính Hữu - Đồng chí)
Gió lại trở thành một tín hiệu cho một trạng thái mạnh mẽ, có sức tàn phá ._.h thần đấu
tranh không ngừng nghỉ với bè lũ xâm lăng để bảo vệ Tổ quốc.
Qua cứ liệu điều tra, có thể phân các BTQH của THTM trái tim xuất hiện
trong các bài thơ của Xuân Diệu ra hai loại theo tính chất từ loại: NhữngTHBTQH
là những vị từ (bao gồm động từ hoặc cụm động từ và những tính từ hoặc cụm tính
từ) và các danh từ hoặc cụm danh từ.
Trong thơ Xuân Diệu, những vị từ (gồm động từ, tính từ) thường làm vị ngữ
cho các THTM- danh từ chỉ trái tim, và chúng cũng thường đóng vai trò chỉ các
hoạt động liên quan đến trái tim. Có khi chúng có sự chuyển nghĩa để chỉ các cung
bậc cảm xúc khác nhau của trái tim. Những kết hợp này làm trái tim trở thành hình
tượng sinh động, như: trái tim đập, trái tim than thở, trái tim ngừng, trái tim lạc
đường, trái tim mở hé, trái tim lưu lạc, trái tim buồn, trái tim đau... Trong các kết
cấu tín hiệu thẩm mĩ này, các từ đi kèm vừa có chức năng định tố vừa có chức
năng vị ngữ để tạo thành kết cấu chủ- vị. Các vị ngữ đi kèm với danh từ trái tim rất
phong phú đã cho thấy khả năng dùng từ rất linh hoạt của Xuân Diệu.
Với các BTQH chỉ thời gian và không gian của THTM trái tim trong thơ
Xuân Diệu, chúng ta thấy tình cảm nói chung trong thơ Xuân Diệu luôn gắn bó với
cách mạng, còn tình yêu của nhà thơ là tình yêu muôn đời và thuỷ chung như nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113
KẾT LUẬN
1. Các Tín hiệu thẩm mĩ Mùa xuân/ Trái tim trong thơ Xuân Diệu mang
đậm thi pháp của nhà thơ. Chúng tôi chọn đề tài này nhằm vận dụng lý thuyết về
tín hiệu thẩm mĩ để chứng minh cho một quan niệm: Ngôn ngữ nghệ thuật là thứ
ngôn ngữ đặc biệt. Nó chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên. Tín hiệu thẩm mĩ chính là
Ngôn ngữ nghệ thuật như vậy. Khi ngôn ngữ tự nhiên trở thành tín hiệu ngôn ngữ
nghệ thuật hay tín hiệu văn chương thì nó là phương thức diễn đạt nội dung nghệ
thuật của tác phẩm ngôn từ. Như vậy, văn học là nghệ thuật ngôn từ. Ngoài ra, đề
tài này cũng nhằm cung cấp một số ngữ liệu biểu hiện sự hành chức nghệ thuật của
hai THTM nói trên để góp thêm cách giải mã nghệ thuật ngôn từ trong thơ Xuân
Diệu.
2. Trên cơ sở khảo sát hai THTM Mùa xuân/Trái tim trong thơ Xuân Diệu,
luận văn đã thu được một số kết quả.
Về tần số xuất hiện, tín hiệu mùa xuân xét trên bình diện với tư cách là hằng
thể và biến thể từ vựng xuất hiện 268 lần, còn TH trái tim xuất hiện 139 lần. Các
tín hiệu Mùa Xuân/Trái tim được Xuân Diệu sử dụng với những sắc thái ý nghĩa
và cung bậc tình cảm khác nhau trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Do đó
mỗi lần tín hiệu Mùa xuân hay Trái tim xuất hiện trong thơ Xuân Diệu là một lần
tươi mới. Do đó, có thể khẳng định mỗi TH Mùa xuân hay Trái tim dường như là
một từ khoá hay một nhãn tự mà Xuân Diệu đặc biệt ưu ái.
3. Kết quả khảo sát cho thấy: THTM Xuân xuất hiện 125 lần chiếm 46,64%
và TH Mùa Xuân xuất hiện 38 lần chiếm 14,2%. Ngoài ra còn có một số tín hiệu
thẩm mĩ khác có tư cách là BTTV của THTM này.
THHT Xuân vốn có ý nghĩa chỉ mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết
ấm dần lên thường được coi là mùa bắt đầu trong năm, mùa này có thời tiết tốt và
có điều kiện lý tưởng cho sự sinh sôi nẩy nở vạn vật. Với ý nghĩa này, Xuân còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114
được cụ thể hoá hơn bằng BTTV Mùa Xuân. Các ý nghĩa thẩm mĩ của THTM
Xuân/Mùa Xuân trong thơ Xuân Diệu đã được phát triển trên cơ sở các nét nghĩa
cơ bản này của ý nghĩa gốc.
Các BTQH của THTM HT Mùa Xuân được phân thành hai nhóm: Nhóm
TH danh từ hoặc cụm danh từ và nhóm TH là những động từ hay cụm động từ có
tác dụng cụ thể hoá hoặc làm rõ nghĩa cho các THTM chỉ Mùa Xuân (bao gồm
THHT và THBTTV).
Các BTQH của THTM Mùa Xuân là danh từ-cụm danh từ có thể là các TH
chỉ không gian và thời gian. Thời gian trong thơ Xuân Diệu có thể là thời gian cụ
thể hay thời gian trừu tượng. Dù trừu tượng hay cụ thể, nhà thơ vẫn luôn nhận thấy
sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian vô tận của vũ trụ và thời gian ngắn ngủi của
một đời người. Trong thơ Xuân Diệu, ông luôn lo sợ mùa Xuân qua đi tuổi trẻ sẽ
không còn và mình sẽ không còn. Nên Xuân Diệu luôn vội vàng giục giã phải sống
gấp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó Mùa Xuân trong thơ Xuân Diệu còn đánh dấu những
mốc thời gian Mùa Xuân gắn với những sự kiện trọng đại cụ thể của đất nước.
Các BTQH nói về không gian của THTM Mùa Xuân trong thơ Xuân Diệu
là không gian của trần thế, là không gian Mùa Xuân thấm đấm màu sắc thắm tươi,
hương hoa rực ngát như ở chốn thiên đường.
Các BTQH là động từ/cụm động từ trong thơ Xuân Diệu thường làm vị ngữ
cho các THTM chỉ Mùa Xuân có ý nghĩa chỉ các hoạt động trạng thái diễn ra khi
Mùa Xuân đến, cũng có khi chúng có sự chuyển nghĩa để chỉ sức sống tràn đầy của
Mùa Xuân
4. Xuân Diệu chịu ảnh hưởng rất lớn của nền thơ ca thế giới. Ông cũng thường
dùng biểu trưng trái tim để chỉ tình yêu. Trong các tác phẩm của nhà thơ Xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115
Diệu, trái tim đã trở thành tín hiệu thảm mĩ đắc dụng biểu hiện các cung bậc tình
cảm, tình yêu với mọi sắc thái đa dạng của nó. Cũng như THTM Mùa xuân ,
THTM trái tim đã thể hiện tư tưởng nghệ thuật và thi pháp riêng của Xuân Diệu.
Đó là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần tục. Ông là nhà thơ Việt
Nam đầu tiên đưa vào thơ ca tình yêu đích thực, tình yêu giao cảm tuyệt đối từ
nhục dục đến tâm hồn. Xuân Diệu cho mọi cảm nhận của thơ tình là vấn đề của trái
tim. Người đọc thơ Xuân Diệu từ vô thức đã biến mình thành người có thị hiếu
thẩm mĩ.
“Trái tim” trong thơ Xuân Diệu không những biểu thị ý nghĩa lớn hơn một
TH ngôn ngữ, ý nghĩa của một hình ảnh ẩn dụ-tượng trưng đa định hình, mà còn
thực tại hóa một số nét nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi này, khiến
những nét nghĩa đó trở thành một biểu trưng nghệ thuật mang sắc thái riêng cá
nhân của nhà thơ tài hoa. Và đó chính là nơi nhà thơ thể hiện sự “tự cảm thấy” của
mình , thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của mình, góp phần xác định giọng
điệu riêng của nhà thơ Xuân Diệu.
Luận văn cũng đã xem xét ý nghĩa thẩm mĩ của từng dạng biến thể của
THTM trái tim trong thơ Xuân Diệu, chỉ ra cụ thể những đơn vị từ ngữ đôi khi
được Xuân Diệu sử dụng trong thơ như THTM đồng nghĩa ngữ cảnh, đồng sở chỉ
cùng gọi trái tim với tư cách là biến thể từ vựng của THTM này.
Các BTKH của THTM trái tim trong thơ Xuân Diệu mang những ý nghĩa
biểu trưng, hay YNTM, độc đáo khác nhau. Đó là trái tim – biểu tượng của tình
yêu nam nữ. Với YNTM này, nhà thơ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn tất cả trái tim
mình cho người yêu. Và đó là trái tim công dân – biểu tượng tình cảm nói chung
của một con người hết lòng yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hi sinh thân mình
cho Tổ quốc. Trái tim đó cũng biểu trưng cho tinh thần đấu tranh không ngừng
nghỉ với bè lũ xâm lược để bảo vệ giang sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116
Các BTQH của THTM trái tim xuất hiện trong các bài thơ của Xuân Diệu
gồm hai loại : NhữngTHBTQH là những vị từ (bao gồm động từ hoặc cụm động từ
và những tính từ hoặc cụm tính từ) và các danh từ hoặc cụm danh từ.
Trong thơ Xuân Diệu, những vị từ thường làm vị ngữ cho THTM trái tim,
và chúng cũng thường chỉ các hoạt động liên quan đến trái tim. Có khi chúng có sự
chuyển nghĩa để chỉ các cung bậc cảm xúc khác nhau của tình cảm con người.
Những kết hợp này làm cho trái tim trở thành hình tượng sinh động, như: trái tim
than thở, trái tim lạc đường, trái tim mở hé, trái tim lưu lạc, trái tim buồn, trái tim
đau... Trong những kết cấu tín hiệu thẩm mĩ này, các BTQH đã cho thấy khả năng
dùng từ rất linh hoạt và sáng tạo của nhà thơ Xuân Diệu.
Với các BTQH chỉ thời gian và không gian của THTM trái tim trong thơ
Xuân Diệu, chúng ta thấy tình cảm nói chung trong thơ Xuân Diệu luôn gắn bó với
cách mạng. Nói riêng về tình yêu thì với Xuân Diệu tình yêu là muôn đời và thuỷ
chung son sắt.
Do vậy, trái tim trong Xuân Diệu là một tín hiệu thẩm mĩ đa thanh, đa nghĩa.
Nó làm thành nhánh nhỏ trong trường yêu lớn.
5. Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn, luận văn không tránh khỏi nhiều
thiếu sót, vì đây là công trình khoa học đầu tiên áp dụng lí thuyết về THTM để
nghiên cứu phong cách một nhà thơ lớn như Xuân Diệu, nên hẳn quá trình nghiên
cứu còn chưa sâu, chưa đủ. Em kính mong thầy cô và các bạn đồng nghiệp chia sẻ,
đóng góp để luận văn có thể hoàn thiện hơn nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. NGHIÊN CỨU, LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH.
1. Phạm Thị Kim Anh (1999): “ Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ
có nguồn gốc thực vật trong thơ mới, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP HN.
2. Phạm Thị Kim Anh: Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ tín hiệu thẩm mĩ “Lúa” trong
“thơ Mới”, Tạp chí Ngôn ngữ số 6- 2000
3. Phạm Thị Kim Anh(2005): “ Từ ngữ thuộc trường ngữ nghĩa thực vật trong
thơ Việt Nam, Luận án tiến sĩ, ĐHSP HN.
4. Nguyễn Phan Cảnh ( 2006): Ngôn ngữ thơ, NXB Văn học, H.
5. Hoàng Cát(1970): “Xuân Diệu với cách mạng tháng Tám”, báo Văn nghệ,số
373.
6. Huy Cận (1987) : “ Thơ tình của Xuân Diệu”, sách Xuân Diệu con người và
tác phẩm, NXB Tác phẩm mới, H.
7. Đỗ Hữu Châu (1987) : Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB ĐH & THCN, H.
8. Đỗ Hữu Châu (2005 ): Tuyển tập, tập một, NXBGD, H.
9. Đỗ Hữu Châu (1983):Lý thuyết hệ thống trong ngôn ngữ học dưới ánh sáng
của phương pháp luận khoa học của Mác , Tạp chí Ngôn ngữ , số 1.
10. Phạm Minh Diệu(1985): Tìm hiểu một số phương pháp phân tích ngôn ngữ tác
phẩm văn học, Luận văn thạc sĩ.
11. Lê Đạt (2001): “ Mấy ý kiến ngắn về thơ, (Tạp chí Ngôn ngữ, số 3)
12. Hà Minh Đức( 1974): Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB
Khoa học xã hội, H.
13. Hà Minh Đức (1975): “ Xuân Diệu và những chặng đường thơ cách mạng” ,
Tạp chí Văn học ,số 2.
14. Lê thị Tuyết Hạnh(1990): Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ của Xuân
Quỳnh, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP HN.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118
15. Lê Anh Hiền( 1973): “ Tìm hiểu nghĩa ẩn của từ hoa trong thơ ca,Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2.
16. Nguyễn Thị Ngân Hoa( 2005):“ Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang
phục trong ngôn ngữ thơ ca, Luận án tiến sĩ , ĐHSP HN.
17. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2000): Phân tích phong cách ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học, NXB Đại học Sư phạm, H.
18. Lê Quang Hƣng (1994): “Tinh thần phục hưng trong lý tưởng thẩm mĩ của
Xuân Diệu thời trước 1945”, Tạp chí Văn học,số 7.
19. Lê Quang Hƣng : Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước 1945,NXB giáo
dục Đại học quốc gia Hà Nội
20. Đoàn Thị Đặng Hƣơng (1992): “Xuân Diệu, hoàng tử của thi ca Việt Nam
hiện đại”, Tạp chí Tác phẩm mới, số 3.
21. Nguyễn Lai (1999 ) : Những bài giảng văn ở Đại học, tập 1, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
22. Nguyễn Lai(1983): “ Từ một số luận điểm của Mác suy nghĩ về bản chất tín
hiệu của ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
23. Nguyễn Lai (1996): “ Tìm hiểu sự chuyển hóa từ mã ngôn ngữ sang mã hình
tượng (Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
24. Phong Lê (2007) : “ Thơ và văn xuôi trong lịch sử nhìn từ đặc trưng và thể loại
(Tạp chí thơ )
25. Phong Lê(1999): “Xuân Diệu-mùa xuân và tình yêu” , sách Văn, chuyện Văn
và Người, NXB Văn hoá thông tin, H.
26. Lotmam : “ Cấu trúc văn bản nghệ thuật (dịch- Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy ).
27. Nguyễn Đăng Mạnh (1985): “Xuân Diệu và niềm khát khao giao cảm với
đời”, báo Văn nghệ , số 29.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119
28. “ Nghệ thuật nhƣ là thủ pháp- Lí thuyết chủ nghĩa hình thức Nga (Bản dịch
của Trương Đăng Dung, Huyền Trang, Nguyễn Văn Quảng, Phạm Nguyên
Phẩm, Đỗ Lai Thúy, Ngân Xuyên)
29. Vũ Quần Phƣơng (1995): “Thơ tình Xuân Diệu nồng và trẻ”, Tạp chí Văn
học,số 12.
30. Trƣơng Thị Nhàn ( 1995): Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ-
không gian trong ca dao, Luận án tiến sĩ, ĐHSP HN.
31. Saussure F .D. (1973): Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Tổ ngôn ngữ khoa
Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp dịch, NXB khoa học xã hội, H.
32. Trần Đình Sử (1996 ) :“ Lí luận và phê bình văn học, NXB Văn học, H.
33. Trần Đình Sử(1995): “Tính mơ hồ, đa nghĩa của Văn học”, Tạp chí Văn học,
số 1.
34. Chu Văn Sơn (2003): Ba đỉnh cao thơ Mới, NXB Giáo dục,H.
35. Hoài Thanh, Hoài Chân (1993): Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, H.
36. Lý Hoài Thu(2003): Thơ Xuân Diệu trước cách mạng Tháng Tám (Thơ thơ và
gửi hương cho gió), NXBGD, H.
37. Đỗ Lai Thúy (1992): Con mắt thơ, NXB Lao động, Hà Nội.
38. Đỗ lai Thúy (1999): Từ cái nhìn văn hóa,NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
39. Đỗ Lai Thúy (dịch)( 2001): “ Nghệ thuật như là thủ pháp,NXB Hội nhà văn,
H.
40. Lƣu Khánh Thơ (tuyển chọn và giới thiệu)(2001): Xuân Diệu - tác gia tác
phẩm, NXB Giáo dục,H.
41. Nguyễn Đức Tồn (1996): Phương pháp xác lập và cấu trúc dãy đồng nghĩa
trong biên soạn từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4 .
42. Nguyễn Đức Tồn (1997): Phương pháp giải thích và tìm sự khu biệt ngữ nghĩa
các từ đồng nghĩa, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
43. Nguyễn Đức Tồn(1997): Từ đặc trưng dân tộc của định danh nhìn lại nguyên lí
võ đoán của kí hiệu ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 120
44. Nguyễn Đức Tồn ( 2008 ): Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy, NXB KHXH, Hà Nội.
45. Thơ tình Xuân Diệu , NXBVH, H., 2006.
46. Hoàng Trinh: ( 1991 )“ Thi pháp học và thế giới vĩ mô của văn học.Tạp chí
văn học số 5.
47. Hoàng Trinh: (1992 )“ Từ kí hiệu học đến thi pháp học .NXB Khoa học xã hội
,H.
48. Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, NXBGD, H., 2001.
49. Xuân Diệu thơ và đời, NXBVH, H., 2004.
II. TÁC PHẨM VĂN HỌC
50.Tuyển tập Nguyễn Bính NXBVH, 1986
51.Tuyển tập Huy Cận, Tập 1. NXBVH, 1986
52.Tuyển tập thơ Xuân Quỳnh-Tự hát
53.Xuân Diệu. Thơ thơ, NXB Đời nay, 1938
54.Xuân Diệu. Riêng chung, NXBVH, 1960
55.Xuân Diệu. Mũi Cà Mau-Cầm tay, NXBVH, 1962
56.Xuân Diệu. Một khối hồng, NXBVH, 1964
57.Xuân Diệu. Gửi hương cho gió, NXB Hoa Tiên, Sài Gòn, 1967 (Tái bản)
58.Xuân Diệu. Hai đợt sóng, NXBVH, 1967
59.Xuân Diệu. Tôi giàu đôi mắt, NXBVH, 1970
60.Xuân Diệu. Hồn tôi đôi cánh, NXBVH, 1976
61.Xuân Diệu. Tuyển tập Xuân Diệu, Tập 1, NXBVH, 1986
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 121
PHỤ LỤC
STT
Câu thơ chứa từ “xuân” và
“mùa xuân”
Bài thơ
Tập
thơ
1 Sao buổi đầu xuân êm ái thế Nụ cười xuân T1 T
2 Chưa từng hẹn đến giữa xuân tươi Nụ cười xuân T1 T
3 Xuân của đất trời nay mới đến Nguyên đán T1 T
4 Trong tôi xuân đã đến lâu rồi Nguyên đán T1 T
5 Phải mặn nồng cho mãi mãi đem
xuân
Phải nói T1
6 Tôi không chờ nắng hạ mới hoài
xuân
Vội vàng T1 T
7 Xuân đang tới nghĩa là xuân đang
qua
Vội vàng T1 T
8 Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Vội vàng T1 T
9 Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Vội vàng T1 T
10 Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào
ngươi
Vội vàng T1 T
11 Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân Với bàn tay ấy T1 T
12 Làm êm ấm đôi ngày xuân trống trải Mời yêu T1 T
13 Thế là xuân tôi không hỏi chi nhiều Xuân không mùa T1 T
14 Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng Xuân không mùa T1 T
15 Xuân không chỉ ở mùa xuân ba
tháng
Xuân không mùa T1 T
16 Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ Xuân không mùa T1 T
17 Xuân là lúc gió về không định trước Xuân không mùa T1
18 Thế là xuân.Ngày chỉ ấm hơi hơi Xuân không mùa T1
19 Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé Xuân không mùa T1
20 Là xuân đó.Tôi đợi chờ chi nữa? Xuân không mùa T1
21 Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta Xuân không mùa T1
22 Thế là xuân.Hà tất đủ chim hoa? Xuân không mùa T1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 122
23 Tình không tuổi và xuân không ngày
tháng
Xuân không mùa T1
24 Đem lòng tôi ràng rịt với xuân tươi Đa tình T1
25 Xuân như đàn,đông cũng quyện
dường tơ
Tình mai sau T1
26 Gió xa quá,trời xuân êm bát ngát Bóng đêm biếc T1
27 Anh như cây cối chờ xuân biếc Thơ bát cú T1
28 Thu đi đông lại,bồi hồi sắp xuân Hỏi T1
29 Trước sức xuân sang chợt nở đều Vui T1
30 Cho tôi lại thấy mặt ngày xuân Hiểu T1
31 Có con chim biếc nào đem xuân về Tìm T1
32 Em nhỉ,mấy xuân đằm thắm lạ Chầm chậm đừng quên T1
33 Uổng cho áo mới mừng xuân rộn Rạo rực T2
34 Xuân đầu mùa trong sạch vẻ đơn sơ Tình thứ nhất T2
35 Sẵn kho xuân quên cả túi không tiền Đêm thứ nhất T2
36 Trên gác về trống lạnh cả lòng xuân Đêm thứ nhất T2
37 Hãy làm dáng điệu xuân ôm ấp Dâng T2
38 Để sáng xuân đen đỏ lẫn cùng vàng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Năm thứ nhất
T3
39 Bốn xuân no ấm mãi hòa bình Lí tưởng T4
40 Mà thu sướng, nhuộm màu xuân mát
mát
Nhớ mùa thu tháng tám T4
41 Đỏ rất xuân, thơm rực máu bông
hường
Đẻ một hành tinh T4
42 Xuân thế gian, Người đã sẻ cho trời Đẻ một hành tinh T4
43 Trăng đã làm thao thức biết bao
xuân
Xuân T4
44 Buổi đầu xuân- đi giữa buổi đầu tiên Xuân T4
45 Xuân đậm hồng như một nụ cười Hoa T4
46 Như hoa bên suối xuân Cụ Muỗi T4
47 Thân làm giá súng, thân làm cành Mộ Bế Văn Đàn T4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 123
xuân
48 Sức xuân vùn vụt đang lên Tội ác phá rừng T5
49 Ba xuân màu biếc xanh hương rợp
đời
Tội ác phá rừng T5
50 Ngày xuân hái lộc cùng hoa trong
này
Đề từ T6
51 Xuân đầy mặt đất thu ngang bức rèm Anh nhớ thương ai-1961 T6
52 Ánh xuân mỗi sớm hồng tươi mượt Thơ tình mùa xuân T6
53 Màu tươi từ lúc xuân thì Aragông và Enxa T6
54 Đất trụi trần thành những dặm đường
xuân
Ông cụ Trồng cây T7
55 Những cánh chim xuân vỗ khắp trời Anh lính trẻ mới vào quân giải
phóng
T7
56 Gió xuân về huyện Cẩm Khê Xã thanh Nga T7
57 Đã mang quả tơ xuân Mẹ con T7
58 Như con chim chuyền cành xuân
nhảy nhót
Em nhỏ hát bài (giải phóng Miền
Nam)
T7
59 Hây hây mười chín xuân hồng Đánh lên đầu Mỹ T7
60 Mưa sau cơn hạn, mượt mà cỏ xuân Mùa xuân T7
61 Một thiên thần tuổi trẻ lúc xuân sang Khúc hát tình yêu và đất nước T7
62 Hỡi người thợ điệu thắm thiết đời
xuân
(Nguyễn Văn Trỗi) T8
63 Lửa xuân ấy là xuân hậu bị Em nhỏ Hương Khê T8
64 Nhớ em xuân đã sang hè hai năm Hiểu em Nhơn T8
65 Việt Nam dân chủ cộng hòa, sức
xuân
Cây số hai mươi T8
66 Trách chi xuân cũng gọi rằng xoan Xoan Ngọc Long T8
67 Thăm cảnh vật hồi xuân Bản đồ huyện ý Yên T8
68 Sang xuân trắng một rừng hoa sở Nhớ xã Thanh Nga T8
69 Trời nước thấy xuân đến Cây trông đứng trước biển T8
70 Ngày xuân thăm Hà Bắc Bác Hồ về thăm một làng Hà Bắc T9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 124
71 áo anh trắng, trẻ như tuổi anh xuân ánh sáng trên cửa biển Hải Phòng T9
72 Mầm xuân vẫn giữ bền Bài thơ tre Bạch Dương-1965 T9
73 Sáu xuân, sáu hè, sáu đông Xem bảng 67 T9
74 Đất Thái Bình cuối xuân 67 Một cái ao ở Thái Bình T9
75 Như con mắt thanh xuân Đôi đũa mun T9
76 Xuân mười tám tuổi nguyện hy sinh Nguyễn Thị Non- Liệt sĩ T9
77 Tuổi xuân em mới quá trăng tròn Nguyễn Thị Non- Liệt sĩ T9
78 Xuân còn hè đã thoảng bay Chớm sang vị hè T10
79 Ý xuân trong lúc chứa chan Chớm sang vị hè T10
80 Mỗi tế bào của tạo vật đều xuân (Tạo thần tiên) 1962-1963 T10
81 Bên cạnh Hồ Tây gió thổi xuân Xuân bên Hồ Tây T10
82 Gió đưa xuân sắc cảnh thanh tân Xuân bên Hồ Tây T10
83 Sang xuân hoa cải gió đua rập rờn Lá lúa xuân 1968 T10
84 Thấy xuân thêm sức, muốn bừng lên Lá lúa xuân 1968 T10
85 Gió xuân thổi tới tận miền Nam Lá lúa xuân 1968 T10
86 Vũ thắng trăm phần cấy lúa xuân Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
87 Sang vụ đông xuân năm 70 Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
88 Lúa xuân mang hẳn mùa xuân lại Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
89 Trăm phần trăm ấy lúa xuân reo Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
90 Gặt thóc xuân hai tạ một sào Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
91 Lúa xuân khi mới về Lúa xuân xã Nam Bình T10
92 Ô! Cái lúa xuân này Chè suối Giàng 1970 T10
93 Lúa xuân là chị lúa xanh Chè suối Giàng 1970 T10
94 Khi gió xuân thơm mới thổi về Chè suối Giàng 1970 T10
95 Sang xuân đất nước sang đà Mùa xuân trong rừng Cúc
Phương
T10
96 Sắc xuân ai dệt ai làm Cành hoa mận T10
97 Gió xuân động khẽ cành trên Cành hoa mận T10
98 Mang những lá tơ xuân Cây liễu trẻ T10
99 Một sớm mai xuân em ở bên Một sớm mai xuân T10
100 áng hương tuổi trẻ hôm xuân ấy Một sớm mai xuân T10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 125
101 Mối tình vương vấn lúc xuân sang Một sớm mai xuân T10
102 Và cả trái đất hào hùng như một
người hít thở gió xuân
Năm mươi năm liên bang Xô
Viết
T10
103 Mùa xuân chín ửng trên đôi má Nụ cười xuân T1
104 Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm Mời yêu T1
105 Xuân không chỉ ở mùa xuân ba
tháng
Xuân không mùa T1
106 Mùa xuân khó chịu quá đi thôi Đơn sơ T1
107 Mùa xuân tôi chưa hề có hoa tươi Dối trá T1
108 Là cả mùa xuân em tặng anh Vui T1
109 Chỉ còn lại của mùa xuân quá vãng Hè T2
110 Máu mùa xuân chưa nở hết bông
hoa
Tình thứ nhất T2
111 Một buổi chiều mùa xuân lồng lộng Một buổi chiều T2
112 Ào ạt tới như mùa xuân đổ suối Lệ T4
113 Thu Việt Nam có nghĩa một mùa
xuân
Nhớ mùa tháng Tám T4
114 Từ trong ruộng đất, đợi chút mùa
xuân
Con sáo sang sông T4
115 Đem lại mùa xuân trên mặt đất liền
quê
Lời thề T5
116 Anh như đất ủ muốn thành mùa
xuân
Qủa trứng và lòng đỏ T6
117 Mùa xuân về trong tiếng ca chim Thơ tình mùa xuân T6
118 Một suối nào tuôn mãi nước mùa
xuân
Aragông và Enxa T6
119 Mùa xuân một lứa trẻ băng khôi Anh lính trẻ mới vào quân giải
phóng
T7
120 Cuối mùa xuân nở hoa vàng anh Trong rừng Qùy Châu T7
121 Ma không bối rối với mùa xuân Một khối hồng T7
122 Ngày làm nắng ấm rực mùa xuân Một khối hồng T7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 126
123 Đã mọc cỏ mùa xuân Viên đá trên sông Đà T7
124 Nhìn xa đất nước đang làm mùa
xuân
Đứng trên đồi dẻ Nhã Nam T7
125 Mùa xuân đến cũng thêm hoa đón Chị Tạ Thị Kiều thăm vườn hoa
Thống Nhất
T8
126 Anh là tác giả của mùa xuân Một chân trời hửng sáng T9
127 Có lẽ mùa xuân líu lưỡi tôi Trên bãi sông Hồng T9
128 Là CNXH,mùa xuân chiến thắng
đời đời
Đứng bên chân Bác T10
129 Tất cả Bác Hồ từ khi tuổi trẻ đến 79
mùa xuân
Xem triển lãm “Nhân dân thế giới
thương tiếc Bác Hồ”
T10
130 Mùa xuân đã về hương đẫm ướt Xuân bên Hồ Tây T10
131 Tất cả mùa xuân đẹp lắm rồi Xuân bên Hồ Tây T10
132 Lúa xuân mang hẳn mùa xuân lại Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
133 Mùa xuân lông tuyết búp non thêu Chè suối Giàng T10
134 Mùa xuân:dưa chuột,cà chua,cam
vàng thơm dậy
Bài thơ những đồ hộp hoa quả T10
135 Mùa xuân trong rừng Cúc Phương Mùa xuân trong rừng Cúc
Phương
T10
136 Xây dựng mùa xuân xã hội Mùa xuân trong rừng Cúc
Phương
T10
137 Chưa có con người nhưng tạo vật đã
có mùa xuân
Anh địa chất và những triệu năm T10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 127
STT Câu thơ có chứa từ trái tim Tên bài thơ
Tập
thơ
1 Hạnh phúc ngừng giữa đôi trái tim đau Biệt li êm ái T1
2 Ghì trước trái tim ghì trước ngực Bài thơ tuổi nhỏ T1
3 Trái tim buồn như một bãi tha ma Dối trá T1
4 Mà trái tim đã ghê dáng hững hờ Dối trá T1
5 Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc Muộn màng T1
6 Trái tim em thức đập Trái tim em thức đập T1
7 Anh gìn giữ trái tim Trái tim em thức đập T1
8 Trái tim em lạc đường Trái tim em thức đập T1
9 Anh là trái tim thương Trái tim em thức đập T1
10 Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim Huyền diệu T1
11 Nghìn trái tim mang trong một trái tim Cảm xúc T1
12 Máu vu vơ theo giữa trái tim đời Tình mai sau T1
13 Trái tim chiều than thở giữa lau cao Tình mai sau T1
14 Ngôi nhà, cánh cổng, trái tim Đời anh em đã đi qua T1
15 Vô tình chôn giữa trái tim thơ Ngẩn ngơ T1
16 Kể từ khi có trái tim Tình yêu muốn hóa vô biên T1
17 Có trái tim đựng tràn trề nhựa đất Một buổi chiều TT1
18 Kẻ đựng trái tim trìu máu đất Hư vô T1
19 Con chim hồng, trái tim nhỏ chủ tôi Giục giã T2
20 Không cần nói trái tim dường mở hé Kỉ niệm T2
21 Trái tim ngừng trong một lúc vô biên Kỉ niệm T2
22 Trên cành hồng và những trái tim Mới yêu T2
23 Đổi trái tim có được không Cầu an T4
24 Trái tim tôi nó thường đau khổ Cầu an T4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 128
25 Trái tim tôi nhoi nhói một bên Cầu an T4
26 Đổi cho tôi một trái tim như thế Cầu an T4
27 Một bàn tay, một trái tim Đẻ một hành tinh T4
28 Nhanh như chớp,trái tim con đầy uất Chặt cái bùi ngùi T4
29 Qua những trái tim đời vẫn lên đường Đi với dòng người T4
30 Ồ,trái tim ta vững! Cao T4
31 Trong đời lũ trái tim ngoài ngực Đấu tranh T4
32 Sao tôi chỉ có trái tim này Căm giận T5
33 Một quả lựu đạn trái tim tôi Căm giận T5
34 Ta yêu mình đến nỗi trái tim ta xé vỡ Lời thề T5
35 Ta muốn nói với mình:- Hỡi trái tim ta Lời thề T5
36 Anh chị vào đây hẹn trái tim Vườn hoa Thống Nhất T5
37 Từ xa tiếng đập trái tim Từ xa bờ cỏ đường quê T6
38 Bóng hình còn giữa trái tim vọng hoài Anh nhớ thương ai T6
39 Trong trái tim mang em đọng lại Bá Nha, Trương Chi T6
40 Trong trái tim nhưng vẫn còn tìm Bá Nha, Trương Chi T6
41 Kể từ khi có trái tim Tình yêu muốn hóa vô biên T6
42 Mang đi một trái tim ngời Con người bay vào vũ trụ T6
43 Ôi trái tim tuổi nhỏ,trái tim sắp sửa
thiếu niên
Em nhỏ hát bài “Giải phóng
miền Nam”
T7
44 Anh mượn cả trái tim em máu mới Khúc hát tình yêu và đất nước T7
45 Đặt trái tim trong đá Viên đá trên sông Đà T7
46 Mang một trái tim vàng Trên bãi biển Trà Cổ T7
47 Có sức diệu kì lay động trái tim Nghe tiếng gọi Bác Hồ toàn dân
đánh thắng giặc Mĩ
T8
48 Chỉ là một trái tim ta muôn thủa Những chùm chiến thắng T8
49 Chính là lúc trái tim càng sáng rực Những đêm hành quân T8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 129
50 Ôi trái tim nhỏ xíu Đi thăm con T8
51 Trái tim tôi chứa cả thành một đại
dương
Đi theo miền Nam từ Hà Nội
vào tới Vĩnh Linh
T9
52 Đôi ta mang đẹp trái tim tháng Mười Lên tới sao Kim T9
53 Như thủa tình yêu gọi trái tim Đêm ở Thái Bình T9
54 Trái tim anh chỉ một Sao mọc T9
55 Trái tim ta chuyện thầm thì cùng nhau Anh về ấm Thượng T9
56 Theo nhịp trái tim tôi,tôi lại bước ra
ngoài
Đi đến thăm nhà đồng chí Lê
Nin
T9
57 Khi mẹ trở lại thăm nhà mẹ vẫn cứ
mang trái tim vĩ đại
Sự sống chẳng bao giờ chán nản TT9
58 Trái tim chúng ta là một đá nam châm
cực mạnh!
Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
59 Trái tim đập giữa cuộc đời,như chiếu
lên trời tỏa ánh
Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
60 Trái tim dũng mãnh đập hộ cho cả thế
gian
Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
61 Trái tim con người vẫn làm chủ Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
62 Tiền tuyến của ta kia,trái tim ta ở đó Từ Cao Lạng tới Vĩnh Linh T9
63 Ánh sáng của trái tim mà lại chinh
phục được toàn thế giới!
ánh sáng trên cửa biển Hải
Phòng
T9
64 Bác Hồ nằm trong trái tim thế giới
Xem triển lãm “nhân dân thế
giới thương tiếc Bác Hồ”
T10
65 Trái tim xưởng thợ, dặm trường đồng
quê
Lê Nin, vầng trán tôi yêu T10
66 Trái tim này tôi đã thấy mòn đâu Nhân dân đáng yêu T10
67 Trái tim nhân dân gửi vào ngực của tôi Nhân dân đáng yêu T10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 130
68 Nhân dân đáng yêu,trái tim là cả bầu
trời
Nhân dân đáng yêu T10
69 Trái tim chúng ta hiến máu cho cả
cuộc đời
Nhân dân đáng yêu T10
70 Hai mươi bảy năm trong trái tim tôi
mỗi mùa lại nở
Nhân dân đáng yêu T10
71 Hiện nay trái bom duy nhất của tôi là
trái tim tôi
Nguyễn Thái Bình T10
72 Trái tim này có thể nổ vì đại nghĩa Nguyễn Thái Bình T10
73 Hãy dừng lại đây hỡi trái tim ta Cái ngày không quên ở Điện
Biên Phủ
T10
74 Hãy dừng lại ở phút này hỡi trái tim ta Cái ngày không quên ở Điện
Biên Phủ
T10
75 Con đường đi tới trái tim em Anh đã giết em
76 Anh đã giết em, anh chôn em vào trái
tim anh
Anh đã giết em
77 Nghìn trái tim mang trong một trái tim Cảm xúc
78 Những câu thơ chứa từ Tim
79 Tim ấp mộng những hồn sầu rã mục Đa tình T1
80 Thấy máu chảy thấy tim ngừng kính
cẩn
Việt Nam dân chủ cộng hòa
năm thứ nhất
T3
81 Đã vào làm cốt lõi của tim tôi Đấu tranh T4
82 Trong tim, trong mắt ngọc vô hình Ngọc tặng T4
83 Tim xoay cả cửa nhà Ốm T4
84 Mạch tim đau, xưởng thợ vẫn không
dừng
Ốm T4
85 Gĩư lấy tim gan không chịu rụng rời Thép cứng nhất là thép người T4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 131
86 Dòng sông Bến Hải chảy qua tim Chị Vân T5
87 Uất từ lòng chị đến tim ta Chị Vân T5
88 Đạn nhắm tim tôi bắn thẳng mà Em ứng T5
89 Đôi tim gắn với dài lâu triệu người Tình yêu muốn hóa vô biên T6
90 Ngăn sao máu đỏ vọt từ tim ra Sao máu đỏ đánh lên đầu Mĩ T6
91 Yếu tim, mắt kém, đương sao nổi Mã pí lèng T7
92 Một khối hồng đau đáu trong tim Một khối hồng T7
93 Đỏ rừng rực máu trong tim chảy Người thợ rèn nghe chuyện
miền Nam
T7
94 Ngăn sao máu đỏ vọt từ tim ta Đánh lên đầu Mĩ T7
95 Ta hẹn thề dành lại nửa tim ta Khúc hát tình yêu và đất nước T7
96 Nay càng thêm tha thiết với tim ta Hỡi hùng khí nước Việt Nam
muôn thuở...
T8
97 Cửu long gầm dồn dã ở trong tim Hỡi hùng khí nước Việt Nam
muôn thuở
T8
98 Lo từng tim đập chậm hay mau Các cháu đi sơ tán T8
99 Mà ngún trong tim rực lửa đào Hiểu em Nhơn T8
100 Lòng của ruộng hay tim gan của núi Đi theo Bác Hồ T8
101 Là tim ngay thẳng như trời thanh cao Tôi giàu đôi mắt T9
102 Tháng ngày càng khắc Bác vào tim con Bác ơi T9
103 Máu của tim mình đã gửi vào Nam Tôi lắng nghe những phố hè
trong ấy
T9
104 Ngực anh thở hai hơi, tim anh hòa đôi
máu
Sức mạnh những người tuyệt
thực
T10
105 Đóa hoa hồng đỏ bên tim khẽ cài Tạo thần tiên T10
106 Có lẽ trong tim Trên bờ hắc hải T10
107 Cũng làm bằng tinh hoa trời đất hòa Những đóa hoa hồng T10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 132
với máu nóng tim người
108 Ta đã cất dưới đá núi Tây Nguyên một
mảnh tim ta đỏ rực
Những ngày tháng tư năm 1972 T10
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9123.pdf