Khai thác và xuất khẩu dầu khí ở Việt Nam: thực trạng và các giải pháp phát triển

Lời cảm ơn Để hoàn thành được khoá luận tốt nghiệp này, trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại Thương, Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội đặc biệt là thầy giáo, Thạc sỹ Nguyễn Quang Minh, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt thời gian làm khóa luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bác, các cô, các chị làm ở thư viện, những người đã giúp đỡ em tìm tài liệu cần thiết để hoàn thành bài khoá luận này. Cuối cùng, em xin g

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Khai thác và xuất khẩu dầu khí ở Việt Nam: thực trạng và các giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ửi tới gia đình và bạn bè những lời biết ơn chân thành vì sự giúp đỡ về tinh thần cũng như vật chất để em có thể yên tâm tập trung hoàn thành công trình đầu đời này của mình. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên Bùi Thị Anh Nguyên Mục lục Lời mở đầu Dầu khí là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Nó là nguồn cung cấp năng lượng vô cùng quan trọng phục vụ cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Đối với những quốc gia được thiên nhiên ưu đãi về nguồn dầu khí thì việc phát triển ngành công nghiệp dầu khí là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Bởi công nghiệp dầu khí ngày nay là một ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, đi đầu trong việc áp dụng những công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất của thế giới. Việt Nam là một trong những nước may mắn được thiên nhiên ưu đãi về nguồn tài nguyên này. Nhìn chung, tiềm năng dầu khí Việt Nam là khá lớn. Từ những ngày đầu thành lập cho đến nay, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã không ngừng phát triển, vươn lên thành một ngành công nghiệp đầu tàu của đất nước. Những thành tựu mà các hoạt động khai thác, xuất khẩu dầu khí mang lại cho nền kinh tế nước ta ngày một to lớn và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, quy mô và chất lượng ngành dầu khí Việt nam chưa thực sự tương xứng với tiềm năng dầu khí của đất nước. Chúng ta cần phải chú trọng đầu tư phát triển ngành dầu khí hơn nữa để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với lý do đó, người viết quyết định chọn đề tài “ Khai thác và xuất khẩu dầu khí ở Việt Nam: Thực trạng và các giải pháp phát triển”. Trong phạm vi khoá luận này, người viết đề cập đến các hoạt động khai thác, xuất khẩu dầu khí ở Việt Nam đồng thời đưa ra các giải pháp phát triển ngành dầu khí nước ta trong thời gian tới. Kết cấu của khoá luận gồm ba chương: Chương I: “Khái quát về ngành dầu khí Việt Nam” giới thiệu một cách tổng quát về tiềm năng dầu khí Việt Nam, quá trình hình thành và phát triển của ngành dầu khí Việt Nam. Chương II: “Thực trạng khai thác và xuất khẩu dầu khí ở Việt Nam” cho thấy cụ thể các hoạt động khai thác và xuất khẩu dầu khí của nước ta trong thời gian vừa qua, đồng thời đề cập tới các hoạt động lọc, hoá dầu và hoạt động đầu tư trong ngành dầu khí Việt Nam. Chương III: “ Các giải pháp phát triển ngành dầu khí Việt Nam trong thời gian tới”. Từ việc phân tích thực trạng ngành dầu khí Việt Nam, đồng thời trên cơ sở định hướng phát triển của ngành, những thuận lợi và khó khăn, người viết đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm phát triển ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam trong thời gian tới. Chương I: Khái quát về ngành dầu khí Việt Nam I. Tiềm năng khai thác và xuất khẩu dầu khí Việt Nam 1. Điều kiện tự nhiên Nước Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào và Campuchia, phía đông và phía nam giáp biển Đông và vịnh Thái Lan. Việt Nam cũng nằm ở trung tâm vùng Đông Nam á rộng lớn và giàu có. Giáp với Miến Điện, Thái Lan, Lào và Campuchia ở phía Tây, Malaysia, Indonesia và Philipin ở phía Nam và Đông, Việt Nam có ưu thế rõ rệt là cầu nối liền phần lục địa của Đông Nam á với các quần đảo bọc quanh Biển Đông. Lãnh thổ của Việt Nam ngoài phần đất liền trên lục địa, còn bao gồm nhiều đảo và quần đảo như quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, các đảo Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Phú Quốc... Với vị trí như vậy, Việt Nam là nơi mà các dòng sông và các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam từ trung tâm lục địa đổ ra và chấm dứt trên biển cả. Đó cũng là hướng di cư của các luồng thực vật cổ xưa, hoặc là từ phiá Tây Bắc xuống, hoặc là từ phía Đông Nam lên. Bờ biển của Việt Nam dài 3260km, như vậy là dài gần ngang với biên giới trên đất liền và tương đối phát triển so với một nước có diện tích 329.666km2. Đặc điểm này làm cho Việt Nam mang tính chất của một bán đảo. Tính trung bình, cứ khoảng 100 km2 ta lại có 1km bờ biển. Đáng chú ý là vùng kinh tế biển rộng 200 hải lý thường tương đương với chiều rộng của thềm lục địa ở đáy biển. Thềm lục địa này với nối dài bờ biển ra ngoài khơi đến độ sâu 200m. Thềm lục địa là nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản quý. Giá trị của thềm lục địa của nước ta rất lớn vì nó giàu các sa khoáng biển gồm các mỏ kim loại hiếm như thiếc, ti tan ... cũng như dầu lửa. Phần thềm lục địa ở miền Bắc cũng như ở miền Nam có những túi dầu với trữ lượng lớn. 1.1. Cấu trúc địa chất và lịch sử phát triển đồng bằng sông Hồng Những năm sau miền Bắc được giải phóng, chính phủ Việt Nam đã có chủ trương nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở miền Bắc Việt Nam. Theo một hiện tượng có quy luật, các nhà khoa học trên thế giới phát hiện ra rằng dầu mỏ có xu hướng định cư tập trung ở các vùng ven biển, trước cửa sông và các châu tam giác của những dòng sông lớn. Chính vì vậy, trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm của mình, các chuyên gia địa chất dầu khí Liên Xô cũ đã đề nghị với chính phủ Việt Nam sớm triển khai công tác tìm kiếm nguồn tài nguyên quý giá này. Công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí được tiến hành tại miền Bắc Việt Nam, chủ yếu là đồng bằng châu thổ sông Hồng Đồng bằng Bắc Bộ là miền đất được giành dật từ biển do sự bồi đắp cần cù và nhẫn nại của sông Hồng qua hàng triệu năm, được con người chinh phục cách đây hàng nghìn năm, từ khi nó đang còn ngổn ngang những đầm lầy và lòng sông cũ. Bây giờ nó đã trở thành một châu thổ hình tam giác cân rộng rãi và đường bệ. Đỉnh của châu thổ nằm ở Việt Trì, đáy kéo dài từ Quảng Yên xuống Ninh Bình, được giới hạn ở phía Bắc và phía Nam bởi những dãy đồi đá phiến chạy lúp xúp những dãy đá vôi cao ngất. Vậy, châu thổ là gì? Châu thổ là do sông bồi đắp nên ở vụng biển, một thành tạo thể khảm gồm những lớp trầm tích phù sa mịn và bở, chủ yếu là sét và cát, thường ngậm nước. Bản chất không ổn định nhưng ngày càng hướng tới sự ổn định nhờ tác dụng của thực vật châu thổ được chia làm hai phần: Phần nối liền trên mặt nước và phần chìm. Phần chìm được gọi là “ tiền châu thổ”. Chính trên cơ sở của phần chìm này mà phù sa sông tiếp tục bồi dần ra phía biển và được thực vật củng cố. Đồng bằng châu thổ Bắc Bộ là do sự hợp thành của hai dòng sông, sông Hồng và sông Thái Bình. Hai con sông này chia ra làm nhiều sông nhánh. Các nhánh này càng ra biển càng toả ra thành nhiều nhánh nhỏ hơn. Như vậy, bằng sức bồi đắp của mình, hai con sông Hồng và Thái Bình đã xây dựng một châu thổ thống nhất và rộng lớn. Toàn bộ đồng bằng châu thổ rộng đến 15.000 km2 được đặt trong một miền võng rộng lớn giữa núi, trên một nền đá kết tinh nguyên đã bị sụt xuống cuối cổ sinh, cách đây chừng 200 triệu năm. ở thời kỳ này, biển lên quá Việt Trì, ăn vào đến tận Nho Quan và miền đá vôi Ninh Bình. Chế độ biển kéo dài đến trên 170 triệu năm, đáy vịnh chịu một vận động sụt lún từ từ làm cho trầm tích lắng đọng trong đó có một chiều dài dày đến vài nghìn mét. Sau đó thì vịnh trở thành vũng hồ và lắng đọng trầm tích mà người ta gọi là trầm tích Neogen. Lớp trầm tích này dày từ 80 đến 120m ở trung tâm đồng bằng. Với đặc điểm như vậy, đồng bằng sông Hồng không những là vựa lúa của cả nước mà còn là nơi cung cấp nguồn tài nguyên quý giá có tầm quan trọng chiến lược cho đất nước: dầu khí 1.2. Cấu trúc địa chất và lịch sử phát triển của đồng bằng sông Cửu Long Sông Cửu Long bắt nguồn từ mãi những đỉnh núi quanh năm phủ đầy băng tuyết của cao nguyên Tây Tạng nằm cao hơn mực nước biển đến 5000 mét, rồi chảy qua Trung Quốc, Lào và Campuchia, đổ vào Nam Bộ để ra biển trên một lục địa hết sức rộng lớn. Những bậc thềm và hồ dài cũ còn sót lại cho thấy rằng sông Cửu Long ngày xưa đã chảy qua miền Đông Nam Bộ. Chỉ sau khi miền này được nâng lên thì sông mới đổi dòng xuống phía nam. Lúc đầu sông đổ vào vịnh Thái Lan xuyên qua vùng Rạch Giá hiện nay, nhưng do hệ thống đứt gãy xuyên Đông Dương hướng Tây Bắc - Đông Nam, sông phải chuyển hướng tại Phnompenh. Những công cuộc khảo sát dầu mỏ trên thềm lục địa đặc biệt là ở tam giác Vũng Tàu – Côn Lôn- Phú Quốc cho thấy trên nền đá granit có phủ gián đoạn những lớp đá cát Indosiniat trung sinh dày đến hơn 8000m làm chứng cho sự tồn tại của vịnh biển đó. Người ta cũng tìm thấy dấu vết của hệ thống đứt gãy xuyên bán đảo Đông Dương như đã nói ở trên chạy song song theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đồng thời cũng phát hiện được một hệ thống đường đứt gãy lớn hướng Bắc- Nam chạy từ Huế đến vĩ độ của Sài Gòn trên thềm lục địa kế cận. Vào thời kỳ có vận động tạo núi Himalaia, toàn bộ bán đảo Đông Dương được nâng lên làm cho sông Cửu Long ở thượng lưu và trung lưu cũng như các sông Vàm Cỏ và Đồng Nai tăng cường sức xâm thực của chúng. Các sông này vận chuyển một khối lượng phù sa khổng lồ và phối hợp với hiện tượng trầm tích sông hồ, lấp đầy vịnh biển để tạo ra đồng bằng Campuchia và đồng bằng châu thổ Nam Bộ hiện nay. Các trầm tích sông hồ nằm ngay trên tầng đá cát Indoxiniat có chỗ dày đến 200m, xếp theo chiều nghiêng thoai thoải từ miền Đông sang miền Tây Nam Bộ, nói lên sự bồi đắp cực kỳ mạnh mẽ đó. Khai thác được dầu mỏ tại thềm lục địa Miền Nam có nghĩa là đã tạo cơ hội cho ngành công nghiệp hoá dầu và năng lượng phát triển, tạo ra bước phát triển mới cho Nam Bộ. 1.3. Cấu trúc địa chất và lịch sử phát triển kiến tạo thềm lục địa Nam Việt Nam Thềm lục địa Nam Việt Nam có diện tích khá rộng và được đánh giá là khu vực có nhiều triển vọng về trữ lượng dầu khí. Nghiên cứu địa chất thềm lục địa Nam Việt Nam được bắt đầu từ nửa thập kỷ 60 và đầu những năm 1970. Toàn bộ khu vực thềm lục địa phía Nam được chính quyền Sài Gòn cũ chia thành các lô chuyển cho các công ty nước ngoài tiến hành tìm kiếm thăm dò. Bắt đầu từ giai đoạn này, trên các diện tích có triển vọng, công tác địa chấn đã được tiến hành nhằm phát hiện và chuẩn bị các cấu tạo để khoan thăm dò. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các tài liệu hiện có cho thấy rằng thềm lục địa Nam Việt Nam có cấu trúc địa chất hết sức phức tạp. Thềm lục địa Nam Việt Nam và các vùng kế cận hợp thành đơn vị cấu trúc có kiểu vỏ lục địa. Mảng Kontum-Bocneo được gắn kết từ cuối Mezozoi đầu đệ tam cùng với sự mở rộng của biển rìa “biển Đông” có kiểu vỏ chuyển tiếp đại dương, tạo thành khung kiến tạo chung của Đông Nam á. Mảng lục địa này được xem là một phần của lục địa cổ Gondvana đã trải qua nhiều lần phá vỡ gắn kết lại qua các chuyển động kiến tạo trong Paleozoi và đặc biệt vào Mezozoi sớm, chuyển động” tạo núi Indonesia” và trở thành phần tăng trưởng của rìa Đông Nam của mảng châu lục Âu - á. Sự tách giãn và va chạm giữa các mảng lớn Âu- á, âu- úc và Thái Bình Dương mang tính nhịp điệu và đều được phản ánh trong lịch sử phát triển của mảng Kontum-Bocneo sau thời kỳ Triat. Sự khấu chìm của mảng Đại Dương- Thái Bình Dương bên dưới lục địa dẫn đến sự phá vỡ, tách dãn lún chìm ở rìa “ Biển Đông” và thềm lục địa rộng lớn Nam Việt Nam và Sunda, hình thành các đai tạo uốn nếp trẻ và cung đảo núi lửa. Bên trong mảng Kontum-Bocneo xảy ra hiện tượng ra tăng dòng địa nhiệt và dâng lên các khu vực. Dọc theo các đứt gãy lớn phát triển các hoạt động xâm nhập Plutoid, phun trào núi lửa axít và kiềm cả bazan lục địa. Sự chuyển động phân dị đi kèm tách dăn tạo các riftơ, khai sinh đầu tiên các trũng molat giữa núi cuối Mezozoi-đầu Paleogen dần dần mở rộng, hình thành các trũng kiểu giữa núi như Phú Quốc, Vịnh Thái Lan và phát triển các bể trầm tích có tiềm năng về dầu khí trên thềm và sườn lục địa Việt Nam. Những va chạm giữa các mảng gây nên những chuyển động kiến tạo lớn Mezokainozoi trong mảng Kontum-Bocneo được ghi nhận vào cuối Triat (Indosin) và Jura (Malaisia) cuối Creta (Sumatra) cuối Eoxen trung, cuối Oligoxen trung, cuối Mioxen- thượng Plioxen. Đặc trưng phát triển kiến tạo sau Triat của thềm lục địa phía Nam là sự hình thành lớp phủ Mezo- Kainozoi với các bồn trũng chứa dầu Đệ Tam. Thềm lục địa Nam Việt Nam bao gồm các bể trầm tích Cửu Long, Nam Côn Sơn, Vịnh Thái Lan và bể Malai. Các bồn trũng này được lấp đầy trầm tích có tuổi từ Eoxen Oligoxen cho đến hiện tại với độ dày ở chỗ sâu nhất có thể đạt tới 1-12 km bao gồm các điệp Trà Cú, Trà Tân, Bạch Hổ, Côn Sơn, Đồng Nai và biển Đông ở bồn trũng Cửu Long với các tập cát kết, sét xen kẽ; và các điệp Dừa, Thông, Mẵng Cầu, biển Đông ở bồn trũng Nam Côn Sơn với các tập cát, cát kết, đá vôi xen kẽ. Đặc biệt còn phát hiện các lớp đá Macma nằm xen kẽ trong các đá trầm tích có tuổi trước Đệ Tam với thành phần chủ yếu là granít, granodiorite Với cấu trúc địa chất như vậy, Việt Nam có tiềm năng dầu khí vô cùng to lớn. Nhiều cuộc thăm dò, tìm kiếm dầu khí đã được tiến hành tại các bồn trũng ở Việt Nam nhằm phát hiện và đưa vào khai thác nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này. Tính đến năm 2001, trữ lượng dầu khí của Việt Nam được ước vào khoảng 4 tỷ thùng và trữ lượng khí thiên nhiên là 23 triệu tỷ fit khối. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên quý giá này có được tổ chức phát triển đúng tầm cỡ và khai thác triệt để hết tiềm năng hay không thì còn phải phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, trong đó yếu tố quyết định là yếu tố con người. 2. Điều kiện kinh tế xã hội 2.1. Cơ cấu tổ chức ngành công nghiệp dầu khí Chúng ta đã thực hiện công nghiệp hoá từ năm 1960 ở miền Bắc và tiếp tục trên cả nước sau 1975. Quá trình công nghiệp hoá nước ta được thực hiện trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn: Bị chiến tranh tàn phá, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, non nớt về kinh nghiệm và kiến thức, gắn với mô hình phát triển kiểu cũ nên không tránh khỏi những hạn chế và hiệu quả chưa tương xứng với các nguồn lực đã sử dụng. Chúng ta đã hình thành một số ngành công nghiệp quan trọng như : Năng lượng, dầu khí, hoá chất , cơ khí... cùng với các khu, cụm công nghiệp, xây dựng một số công trình lớn quan trọng, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu cho bước phát triển mới sau này. Ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam được hình thành từ những năm 1960, bắt đầu bằng một đoàn khảo sát địa chất, đoàn địa chất 36, tiền thân của tổng công ty dầu khí Việt Nam, nơi quản lý nguồn tài nguyên quan trọng và quý giá này của đất nước. Sự phát triển của ngành dầu khí Việt Nam gắn liền với sự trưởng thành trong gần 30 năm của một doanh nghiệp nhà nước dưới sự chỉ đạo phát triển phù hợp với đường lối, chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà Nước. Đây cũng là Tổng công ty đầu tiên không thuộc sự quản lý của Bộ liên quan từ năm 1992. Với mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp dầu khí trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của cả nước, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà Nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến việc phát triển ngành công nghiệp dầu khí, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho ngành công nghiệp này ngày một phát triển. 2.2. Đội ngũ công nhân lao động trong ngành dầu khí Ngành công nghiệp dầu khí là một ngành quan trong trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Lực lượng lao động dầu khí tuy không lớn nhưng là một bộ phận tiêu biểu của đội ngũ công nhân hiện đại, là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp phát triển công nghiệp dầu khí của đất nước. Đến năm 2003, ngành dầu khí Việt Nam đã trải qua 28 năm ra đời và phát triển. Con số 28 năm chưa phải là dài so với nền công nghiệp dầu khí của nhiều nước trên thế giới, của những công ty mà hoạt động dầu khí đã bao trùm lên khắp các châu lục, nhưng đằng sau con số 28 năm phát triển là sự trưởng thành của ngành kinh tế non trẻ của đất nước. Có được ngành công nghiệp dầu khí như hiện nay là nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng, đồng thời nhờ những cố gắng, nỗ lực rất cao của cán bộ công nhân lao động ngành dầu khí trên mọi lĩnh vực từ Bắc tới Nam, một đội ngũ với hơn 80% tốt nghiệp đại học và công nhân kỹ thuật cao. Hiện nay, tổng số lượng lao động làm việc trong ngành dầu khí vào khoảng 15.000 người và trong tương lai, khi triển khai đầy đủ các công trình lọc- hoá dầu và mở rộng các hoạt động dịch vụ, phân phối khác thì con số đó sẽ lên đến trên 16.000 người. Trong đội ngũ cán bộ công nhân nói trên phần lớn đã được đào tạo ở nước ngoài, trước đây là ở Liên Xô Cũ, Rumani và các nước Đông Âu và sau này có thêm các nước Tây Âu, Mỹ, úc, Nhật. Đặc điểm nổi bật trong số liệu nêu trên là số lao động có trình độ đại học trong Tổng công ty dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) chiếm đến 35,67% cao hơn rất nhiều so với các tổng công ty khác. Nếu kể cả liên doanh dầu khí Vietropetro thì tỷ lệ đó vào khoảng 21,5%. Thông qua các hoạt động hợp tác kinh tế trong lĩnh vực dầu khí, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã dần dần làm quen, tiếp cận được với nền công nghiệp dầu khí hiện đại của thế giới. Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật của ngành đã làm chủ được nhiều khâu trong lĩnh vực đòi hỏi trình độ cao cả về công nghệ và quản lý này. Lấy đơn cử xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietropetro làm ví dụ: Năm 1955, sau chuyến đi thăm của chủ tịch Hồ Chí Minh tới khu khai thác dầu khí trên biển Caxpien, Đảng và Nhà Nước liên tiếp cử học sinh, cán bộ sang Liên Xô và các nước học tập về dầu khí, chuẩn bị lực lượng cho chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam. Với sự giúp đỡ của Liên Xô Cũ, liên doanh khai thác dầu khí ở Việt Nam ra đời đã đạt được nhiều thành tựu trong việc thăm dò và khai thác thềm lục địa Việt Nam. Trong thời gian này, ngành dầu khí Việt Nam còn rất trẻ, các ngành dịch vụ công nghiệp dầu khí trong những năm 80 chưa hình thành. Trong điều kiện như vậy, xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro đã được xây dựng như một tổ hợp công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh và khép kín để có thể tự lập giải quyết các khâu của quá trình sản xuất từ thăm dò, xây lắp cho đến khai thác và xử lý dầu thô. Đến nay sau hơn 20 năm hoạt động xí nghiệp đã xây dựng được cơ sở vật chất với quy mô lớn, đào tạo được một đội ngũ công nhân lao động chuyên ngành dầu khí biển đủ mạnh cho toàn ngành trong một thời gian dài sắp tới. Tính từ ngày đầu thành lập, số cán bộ công nhân viên là người Việt Nam chỉ có khoảng 20%, đến nay xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro đã có một đội ngũ người Việt Nam chiếm trên 85% đã và đang đảm nhiệm những công việc quan trong, phức tạp mà trước đây chỉ có người nước ngoài mới làm được. Đội ngũ công nhân lao động Việt Nam trong xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro đã trưởng thành nhanh chóng và đang đảm nhiệm những vị trí chủ yếu trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Đội ngũ công nhân lao động như vậy cho tới ngày nay đã khai thác cho tổ quốc gần 130 triệu tấn dầu thô và hàng tỷ mét khối khí. Đây là nguồn động viên cổ vũ to lớn đối với toàn thể công nhân lao động trong ngành dầu khí phấn đấu hoàn thành vượt mức chỉ tiêu khai thác 20,86 triệu tấn dầu quy đổi (tăng1,5 triệu tấn so với 2002) gồm 17,6 triệu tấn dầu thô và 3,7 tỷ mét khối khí vào năm 2003. 2.3. Môi trường pháp lý Cùng với sự ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987, Luật dầu khí được ban hành năm 1993 đã tạo điều kiện thuận lợi và ngày càng thu hút được đông đảo nhà đầu tư đầu tư vào ngành công nghiệp này. Như vậy, môi trường hoạt động của công nghiệp dầu khí Việt Nam hoàn toàn có thuận lợi. Với quan điểm và mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp dầu khí trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà Nước ta luôn luôn quan tâm, chú trọng và tạo điều kiện, môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động dầu khí. Gần đây, vào năm 1999-2000 một số tập đoàn dầu khí quốc tế lớn lần lượt rút khỏi Việt Nam sau một thời gian hoạt động không mang lại kết quả mong muốn. Đây không phải là tình huống riêng biệt của nước ta mà còn ở khắp thế giới vì các công ty đang điều chỉnh lại chiến lược của họ, tập trung vốn và công nghệ vào những nơi có tiềm năng dầu khí lớn đem lại lợi nhuận cao, ít rủi ro trong lúc nước ta lại là một trong những nước không có may mắn được thiên nhiên biệt đãi về tài nguyên dầu khí. Để tạo cho ngành dầu khí hoạt động tốt trong điều kiện nêu trên, ngay trong năm 2000 Quốc hội đã bổ sung sửa đổi luật dầu khí, Chính phủ đã ban hành nghị định 48/2000/NĐCP và hàng loạt các quy chế chuyên ngành như quy chế khai thác, quy chế an toàn, quy chế môi trường, quy chế đấu thầu dự án tạo thành khung pháp lý về dầu khí tương đối đồng bộ. Do đó, nước ta được đánh giá là một trong những nước có phản ứng nhanh để hỗ trợ ngành dầu khí phát triển. Chính phủ còn chủ trương tăng cường vai trò quản lý nhà nước và tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện khung pháp lý về dầu khí với những chính sách ưu đãi hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt khi họ hoạt động trong những vùng nước sâu, xa bờ, những vùng có điều kiện địa chất khó khăn phức tạp, các mỏ biển và trong lĩnh vực khí đốt, lọc hoá dầu. Đối với những nhà đầu tư đã chịu rủi ro cao trong hoạt động tìm kiếm thăm dò, vừa qua chính phủ đã xem xét ưu tiên cho họ hoạt động trong những lô mới và một số ưu đãi trong xét thầu. Mặt khác, Chính phủ cũng chủ trương xây dựng Tổng công ty dầu khí Việt Nam thành một tập đoàn sản xuất–kinh doanh hoàn chỉnh, lớn mạnh để hợp tác có hiệu quả hơn nữa với các nhà đầu tư nước ngoài, phát triển các đề án tự lực, đủ sức hoạt động đa năng trong nước và từng bước mở rộng các hoạt động ra nước ngoài, trước mắt trong khuôn khổ các hợp tác kinh tế liên chính phủ. Tóm lại, trên cơ sở phân tích các điều kiện của việc thăm dò khai thác dầu khí trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam, bồn trũng đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình, đồng bằng sông Cửu Long cũng như các điều kiện về lực lượng lao động, cơ sở vật chất ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình thăm dò và khai thác dầu khí, ta có thể thấy rằng: ã Việt Nam có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên cho việc khai thác khoáng sản nói chung và dầu khí nói riêng như châu tam giác ở các con sông lớn, và một thềm lục địa rộng lớn. Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nguồn tài nguyên quý giá này đã được chú trọng và trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước trong thời kỳ tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ã Với đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật ngày một hoàn thiện, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí của Việt Nam hoàn toàn có cơ hội phát triển. II. Đặc điểm dầu thô và các loại dầu thô của Việt Nam 1.Đặc điểm của dầu thô Việt Nam Hiện nay, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đang khai thác dầu tại 6 mỏ trên thềm lục địa Việt Nam. Sáu mỏ dầu này cho ta sáu loại hỗn hợp dầu thô: Dầu Đại Hùng, Bạch Hổ, Rồng, Hồng Ngọc, Rạng Đông và Bungakekwa. Tất cả sáu loại hỗn hợp này đều có chất lượng cao và nhìn chung được bán với giá trung bình so với dầu thô Brent chuẩn trên thị trường thế giới. Thông qua những đánh giá về tính chất của dầu thô Việt Nam, chúng ta có thể rút ra những kết luận về đặc điểm của dầu thô khai thác ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam như sau: 1.1. Dầu thô Việt Nam thuộc loại nhẹ vừa phải Tỷ trọng dầu thô Việt Nam nằm trong giới hạn 0,830-0,850. Tỷ trọng của dầu thô Bạch Hổ là 0,8391 và của dầu thô Đại Hùng là 0,8403 nên theo cách phân loại phổ thông của thế giới, dầu thô nước ta được xếp vào loại nhẹ vừa. Điều đó có nghĩa là khi đem lọc dầu thô Việt Nam, người ta sẽ thu được hàm lượng các chất nhẹ sáng màu cao. Đó là những chất naphta (xăng thô), kerosen (dầu hoả), DO (dầu diezel), những sản phẩm dầu mỏ hiện đang có giá trị trên thị trường. Thực tế, các sản phẩm sáng màu này chiếm từ 50%-60% trong dầu thô Việt Nam. Bảng 1: Tỷ lệ các sản phẩm trực tiếp trong dầu thô Việt Nam Các phân đoạn Tỷ lệ % trong dầu thô Bạch Hổ Đại Hùng Naphta 17,81 22,65 Kerosen 13,91 14,70 DO 19,51 27,15 Cặn (chưng cất khí quyển trên 3450C) 48,27 39,45 Cặn (chưng cất chân không trên5500C) 14,20 5,0 Nguồn: Sách “Dầu khí và dầu khí ở Việt Nam” Thực tế sản xuất của Sài Gòn Petro với dầu thô Bạch Hổ cho thấy chỉ bằng hệ thống thiết bị chưng cất khí quyển cũng đã thu được các sản phẩm theo tỷ lệ như sau (% trên 1 đơn vị trọng lượng dầu thô): - Naphta: 13,8% - Kerosen: 1,8% - Do: 27,8% - Fo (cặn chưng cất khí quyển): 55,8% Và nếu chúng ta sử dụng công nghệ lọc hiện đại hơn thì tỷ lệ các sản phẩm thu được có thể thay đổi như sau: - Naphta: 17,2% - Kerosen: 7,0% - Do: 28,5% - Fo: 45,8% 1.2. Dầu thô Việt Nam là loại dầu thô rất sạch (clean crude) Dầu thô Việt Nam chứa rất ít các độc tố, rất ít lưu huỳnh, rất ít kim loại nặng và các hợp chất của Nitơ. ã Về hàm lượng lưu huỳnh Dầu thô Việt Nam thuộc loại dầu ngọt. Trong dầu thô Bạch Hổ, lưu huỳnh chỉ chiếm 0,035%, 0,095% trong dầu thô Đại Hùng. Trong khi đó trên thế giới, những loại dầu thô chứa lưu huỳnh dưới 0,5% đã được liệt vào loại dầu thô ít lưu huỳnh và có giá trị cao trên thị trường, mà những loại dầu thô ít lưu huỳnh như vậy trên thế giới cũng rất hiếm, chỉ gặp ở một số vùng như Algiêri, Trung Đông, khu vực sản xuất dầu quan trọng nhất trên thế giới. ở trường hợp dầu thô Bạch Hổ của Việt Nam, thậm chí không cần phải thêm quá trình xử lý khí lưu huỳnh thì các sản phẩm xăng, dầu hoả, dầu diezel, cặn vẫn đạt chất lượng rất cao vì hàm lượng lưu huỳnh nằm xa dưới mức quy định. Bảng 2: Hàm lượng lưu huỳnh trong các sản phẩm trực tiếp từ dầu thô Việt Nam Các sản phẩm Hàm lượng lưu huỳnh (% trọng lượng) Mức quy định quốc tế Trong sản phẩm từ dầu Bạch Hổ Naphta 0,2544 0,0007 Kerosen 0,102-0,253 0,0014 DO 1,0 0,0166 PO 2,5 0,09 Nguồn: Sách “Dầu khí và dầu khí ở Việt Nam” ã Về các kim loại nặng Tổng hàm lượng các kim loại độc như niken và zanadi trong dầu thô Bạch Hổ chỉ có 1,1 ppm trong khi nhiều loại dầu thô khác chứa nhiều hơn gấp 10-100 lần (dầu thô algiêri 15,6 ppm, dầu thô Vênêzuêla 135,0 ppm). ã Hàm lượng các chất của Nitơ Trong dầu thô Bạch Hổ, hàm lượng các hợp chất của Nitơ là 0,067%, trong dầu thô Đại Hùng là 0,028% là rất thấp so với đa phần các dầu thô trên thế giới. Những hợp chất của kim loại và Nitơ trong dầu thô là những chất rất độc đối với các chất xúc tác. Vì vậy để chế biến những loại dầu thô bẩn, phải áp dụng những giải pháp rất tốn kém để loại bỏ chúng đến giới hạn cho phép đối với từng quá trình xúc tác. Trong khi đó dầu thô của Việt Nam rất sạch. Vì vậy những công trình nghiên cứu của UOP (Mỹ) đã đề xuất giải pháp dùng toàn bộ cặn dầu thô Việt Nam sau chưng cất khí quyển để cắt phá (cracking) xúc tác sản xuất xăng với hiệu suất cao mà không sợ ngộ độc chất xúc tác. Đây là một giải pháp công nghệ rất kinh tế so với công nghệ chế biến các loại dầu thô khác trên thế giới. Mặt khác, cũng vì dầu thô Việt Nam thuộc loại dầu thô sạch nên có thể dùng để đốt trực tiếp trong các lò công nghiệp mà không sợ thủng nồi hơi (do ít Vanade) và không sợ gây ô nhiễm môi trường (do ít lưu huỳnh). Thực tế hiện nay ở Nhật đã dùng dầu thô của Việt Nam làm nhiên liệu đốt trực tiếp cho hệ thống các lò công nghiệp một cách kinh tế và an toàn cho thiết bị và môi trường. 1.3. Dầu thô Việt Nam chứa nhiều dye hydrocacbon parafinic trong các phân đoạn trung bình và cặn. Sự có mặt các paragin trong dầu thô Việt Nam là khá cao. Hàm lượng Hydrocacbon parafinic trong phân đoạn trung (kerosen và diezel) lên đến 30%, và trong phần cặn khi chưng cất khí quyển lên đến 50%. Nhiệt độ đông đặc của dầu thô Việt Nam cũng khá cao. dầu thô Bạch Hổ đông đặc ở 340C, dầu thô Đại Hùng ở 270C nên xảy ra nhiều khó khăn trong vận chuyển, tồn chứa, bốc rót theo đường ống vì độ bám dính của dầu vào ống khá cao, dễ gây tắc ống. Đây là nhược điểm chính của dầu thô Việt Nam. Tóm lại, nếu để lọc lấy các sản phẩm xăng, dầu thì dầu thô Việt Nam được đánh giá là loại dầu trung bình trên thế giới. Nếu đi vào lọc sâu để lấy các thành phần cao cấp, hoặc để đáp ứng vấn đề môi trường nghiêm ngặt thì dầu thô Việt Nam được đánh giá là loại tốt trên trung bình. 2. Phân loại dầu thô Dầu thô Việt Nam được khai thác tại vùng biển phía Nam Việt Nam và được vận chuyển tới kho chứa mới bằng đường ống. Trên thế giới có nhiều loại dầu thô, mỗi loại có đặc tính riêng và được phân chia chủ yếu theo hai đặc tính sau: a, Theo tỷ lệ phần trăm lưu huỳnh - gọi là dầu chua nếu tỷ lệ lưu huỳnh cao hơn 0,5% - gọi là dầu ngọt nếu tỷ lệ lưu huỳnh thấp hơn 0,5% b, Theo chỉ số API Đây là phương pháp phổ biến nhất trên thế giới dùng để phân loại dầu căn cứ vào tỷ trọng API. Chỉ số API (American Petroleum Intstitue) là tiêu chuẩn đo lường chất lượng của dầu thô được mua bán trên thị trường thế giới. API = 141,5/d-131,5 Trong đó d là tỷ trọng dầu thô xác định ở 15,60C (600F) so với nước ở cùng nhiệt độ. Theo đó ta có các loại dầu sau: Dầu nặng : Chỉ số API từ dưới 30% Dầu trung : Chỉ số API từ dưới 30-34% Dầu nhẹ : Chỉ số API từ 35-40% Dầu cực nặng: Chỉ số API từ 40% trở lên Các chỉ số của dầu thô Việt Nam cụ thể như sau: Bảng 3: Các chỉ số của dầu thô Việt Nam Dầu thô Tỷ trọng API (%) Điểm đông đặc (0C) Hàm lượng lưu huỳnh % Đại Hùng 30,70 27,0 0,095 Bạch Hổ 40,50 34,0 0,035 Rồng 40,50 34,0 0,035 Rạng Đông 37,69 30,0 0,05 Ruby (Hồng Ngọc) 39,50 27,0 0,14 Bunga Kekioa 36,50 36,0 0,05 Nguồn: www.petrovietnam.com.vn Như vậy, cả sáu loại dầu của Việt Nam đều là dầu ngọt, thuộc loại dầu trung, nhẹ và cực nhẹ. Xét về đặc tính kỹ thuật của từng loại dầu thô, về trình độ, công nghệ lọc dầu của từng nước và khu vực, về vị trí địa lý (có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyên chở) và về nhu cầu tiêu thụ thì dầu thô Việt Nam thích hợp với bốn thị trường chính: Nhật, Singapore, úc, Mỹ. Hiện nay dầu thô Việt Nam đã xuất sang Nhật , Singapore, úc , Mỹ , Trung Quốc, Nam Triều Tiên... III. Sự ra đời và phát triển của ngành dầu trên thế giới và khí Việt Nam 1. Một số nét về sự ra đời và phát triển của ngành công nghiệp dầu khí trên thế giới 1.1 Khái niệm dầu khí và công nghiệp dầu khí a, Dầu khí Dầu khí bao gồm dầu mỏ và khí đốt là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho con người. So với các loại khoáng sản khác như than đá, đồng, chì, nhôm, sắt... thì dầu khí được con người biết đến và sử dụng muộn hơn. Dầu mỏ và khí đốt là hợp chất hydrocacbon được khai thác lên từ lòng đất thường ở thể lỏng và thể khí. ở thể khí chúng bao gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành. Khí thiên nhiên là toàn bộ hydrocacbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan bao gồm cả khí ẩm, khí khô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong các vỉa dầu dưới dạng mũ khí hoặc._. khí hoà tan và được khai thác đồng thời với dầu thô. Giống như nhiều loại tài nguyên khoáng sản khác, dầu khí được hình thành do kết quả quá trình vận động phức tạp lâu dài hàng triệu năm về vật lý, hoá học, địa chất, sinh học... trong vỏ trái đất. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên đều được hình thành từ các đá có chứa vật chất hữu cơ (gọi là đá mẹ) bị chôn vùi dưới điều kiện áp suất và nhiệt độ nhất định. Sau đó chúng di chuyển đến nơi đất đá có độ rỗng nào đó (đá chứa) và tích tụ lâu dài ở đó nếu có những lớp đá chắn đủ khả năng giữ chúng (đá chắn). b, Công nghiệp dầu khí Để nhận thức sâu hơn về dầu khí và vai trò của nó, cần phải hiểu biết thêm một vài nét cơ bản về ngành công nghiệp dầu khí. Trước hết, ngành công nghiệp dầu khí là một ngành mang tính tổng hợp và đa dạng cao. chuỗi hoạt động của công nghiệp dầu khí bao gồm: Khâu đầu (còn gọi là thượng nguồn), khâu giữa (trung nguồn) và khâu sau (hạ nguồn). Khâu đầu bao gồm các hoạt động tìm kiếm , thăm dò, khai thác dầu khí. Khâu giữa bao gồm các hoạt động vận chuyển, tàng trữ dầu khí. Khâu này liên quan đến các công nghệ đường ống, tầu chứa, bồn chứa, cầu cảng...Khâu cuối (downstream) gồm các hoạt động xử lý, chế biến kinh doanh và phân phối các sản phẩm dầu khí. Thứ hai, công nghiệp dầu khí là ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, rủi ro nhiều và lợi nhuận cao. Thông thường khi đầu tư vào một lô tìm kiếm, thăm dò, các công ty phải bỏ ra hàng trăm triệu đô là Mỹ. Nếu kết quả tìm kiếm thăm dò không đạt kết quả (thường xác suất xảy ra điều này rất cao) số tiền đầu tư coi như mất trắng. Các sự cố khi khoan, khai thác, vận chuyển dầu khí thường gây ra những tổn thất vô cùng to lớn. Vì vậy các công ty dầu khí thường liên minh để giảm thiểu rủi ro và một khi phát hiện dòng dầu khí công nghiệp thì họ khai thác càng nhanh càng tốt để sớm thu hồi vốn đầu tư công nghệ. Thứ ba, ngành công nghiệp dầu khí là ngành công nghệ cao và là con đẻ của ngành công nghiệp nặng. Tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực thăm dò, khoan khai thác, xây dựng công trình biển có nhiều bước nhảy vọt. Hiện nay, công nghệ thăm dò địa chấn cho phép thu tín hiệu bốn chiều, bốn thành phần; công nghệ khoan cho phép khoan ngang, thậm chí khoan theo các nhánh hình xương cá và khoan vùng nước sâu tới hàng nghìn mét. Có thể nói ngành dầu khí trên thế giới đang sử dụng những công nghệ hiện đại nhất trong tất cả các lĩnh vực và đang là ngành dẫn đầu trong lĩnh vực phát triển và ứng dụng các công nghệ ngày càng tiên tiến hơn. Thứ tư, công nghiệp dầu khí là ngành mang tính quốc tế cao. Khác với than đá trước đây, việc thăm dò, khai thác, chế biến và phân phối dầu khí đã nhanh chóng mang tính toàn cầu. Tính quốc tế của các hoạt động dầu khí còn thể hiện ở chỗ do công nghệ cao và mang tính chuyên ngành sâu, hầu như mọi công ty không thể tự mình thực hiện toàn bộ chuỗi công việc. Từ đó hình thành và phát triển dịch vụ dầu khí. Một đặc điểm nữa của công nghiệp dầu khí là luôn tồn tại sự biến động về giá dầu thô và các sản phẩm buộc các tập đoàn phải có các giải pháp tổ chức áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển để tạo thế cạnh trạnh về điều kiện môi trường, địa chất, địa lý, về tính chất dầu thô, về giá thành thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, lợi nhuận. 1.2. Vài nét về ngành công nghiệp dầu khí trên thế giới Dầu khí đã được nhân loại biết đến từ xa xưa nhưng ngành công nghiệp này được chính thức tính từ năm 1854 khi 275 tấn dầu thô được khai thác từ lòng đất Rumani và sau đó 5 năm là ở Mỹ và Nga (1859). Theo tạp chí dầu khí OGJ thì tại thời điểm 01/01/2001 tổng trữ lượng dầu thô còn có thể thu hồi trên thế giới là 1028 nghìn tỷ thùng (1 thùng chứa 159 lít, 1 tấn khoảng 6,5- 6,5 thùng tuỳ theo tỷ trọng từng loại dầu) và tổng trữ lượng khí đốt là 5,28 triệu tỷ fit khối (gần 145 nghìn tỷ m3). Trữ lượng này không phân bổ đồng đều trên các châu lục và đại dương, nhiều nhất là ở Trung Cận Đông (65%) ít nhất ở Châu Âu (dầu chiếm 1,7% khí chiếm 4%). Mức độ khai thác dầu khí trên thế giới tăng rất nhanh. Nếu năm 1900 mới đạt 21 triệu tấn dầu thô thì năm 2000 đạt 3.741 triệu tấn. Hiện nay có 50 nước khai thác dầu khí trong đó 20 nước: Mỹ, Arapxeut, Liên Bang Nga, Iran, Mehico, Trung Quốc, Nauy, Anh, Vinezuêla, Abu Dhabi, Canada, Nigieria, Coóet, Indonêsia, Libia, Angiêria, Aicập, Omar, Braxin, Achentina chiếm đến 85,73% tổng sản lượng dầu thế giới. Việt nam được xếp thứ 33 nằm trong nhóm 30 nước còn lại. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với sự ra đời của hệ thống các nước XHCN và phong trào giải phóng dân tộc dâng cao, các nước có tài nguyên dầu khí lần lượt dành được độc lập với mức độ khác nhau và cuộc chiến tranh giành lại nguồn của cải quan trọng này diễn ra liên tục với tính chất vô cùng quyết liệt. Mặc dù các nước thuộc thế giới thứ ba tức là các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển chiếm giữ trên hai phần ba trữ lượng dầu khí thế giới nhưng do trình độ kỹ thuật kinh tế thấp nên suốt cả thời gian dài kể cả hiện nay phần lớn công nghiệp dầu khí các nước này vẫn do nước ngoài đặc biệt là các công ty siêu quốc gia nắm giữ. ý thức được sự thua thiệt, bất công, các nước này dần dần có biện pháp nhằm thu hồi quyền kiểm soát nguồn tài nguyên như quốc hữu hoá các mỏ dầu khí, thành lập các công ty dầu khí quốc gia thay đổi nội dung hợp đồng tô nhượng đã ký, đưa ra các loại hợp đồng như hợp đồng phân chia sản phẩm trong đó đối tác nước ngoài bỏ toàn bộ vốn đầu tư và chịu rủi ro trong quá trình tìm kiếm thăm dò hoặc các loại hợp đồng liên doanh. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu thô OPEC ra đời ngày 15 tháng 9 năm 1960 trước tiên là giành quyền kiểm soát giá sau đó đề ra chế độ thuế và tiếp theo là áp đặt sự kiểm soát của chính phủ nước chủ nhà đối với tất cả các hoạt động dầu khí trên lãnh thổ của họ. Tổ chức này hiện nay có 13 nước, có trữ lượng khoảng 76% trữ lượng dầu toàn thế giới, sản lượng khai thác hàng năm chiếm 47% nhưng vì gần như toàn bộ sản lượng dành cho xuất khẩu nên giữ vị trí khống chế hoàn toàn thị trường dầu khí thô thế giới. 37 nước sản xuất dầu khí còn lại nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa là chính nên tham gia một phần không lớn trên thị trường quốc tế. Trong số các nước này nhiều nước trong đó có cả Mỹ, Trung Quốc còn phải nhập khẩu dầu khí hoặc bán dầu thô, nhưng nhập khẩu toàn bộ các sản phẩm lọc dầu như nước ta hiện nay. Ngày nay, các hoạt động trong lĩnh vực dầu khí trên thế giới diễn ra ngày một sôi động và ngành công nghiệp dầu khí đã trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ và có vai trò vô cùng quan trọng với nền kinh tế quốc dân của nhiều quốc gia trên thế giới. 2. Sự ra đời và phát triển ngành dầu khí Việt Nam Lịch sử tìm kiếm dầu khí ở nước ta thực sự chỉ bắt đầu từ năm 1959-1960. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, giáo sư Kitovanhi cùng với một số cán bộ địa chất Việt Nam, từ khoảng tháng 7 năm 1959 đến tháng 8 năm 1960 đã đi thực địa khảo sát 25000 km và viết báo cáo đề xuất, tìm kiếm dầu khí ở châu thổ Sông Hồng. Trên cơ sở này ngày 27 tháng 11 năm 1961, Tổng cục địa chất Việt Nam thành lập đoàn địa chất 36 sau này nhanh chóng phát triển thành liên đoàn địa chất dầu khí 36, cái nôi đào tạo cán bộ, công nhân chủ chốt trong ngành dầu khí Việt Nam hiện nay. Sau khi miền Nam được giải phóng, ngày 3 tháng 9 năm 1975, chính phủ ra nghị định thành lập Tổng công ty dầu khí Việt Nam, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện việc quản lý nhà nước toàn bộ tài nguyên dầu khí cả nước, tổ chức tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến và thực hiện hiệp tác với nước ngoài về lĩnh vực dầu khí trên cả đất liền và thềm lục địa. Cũng từ đó về phương diện đối ngoại xuất hiện các tên mà ngày nay nhiều người quen thuộc , đó là Petrovietnam Trong thời gian từ năm 1975 đến 1990, Tổng cục dầu khí Việt Nam đã tổ chức, xây dựng lực lượng, tiếp tục tự điều hành công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng ven biển nông miền Bắc và đồng bằng Sông Cửu Long. Cán bộ, công nhân kỹ thuật Việt Nam với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô đã tiến hành nghiên cứu địa chất, vật địa lý, tiến hành nhiều giếng khoan sâu kỷ lục, có giếng đạt đến 5.000 m và chính đó là trường học hiệu quả nhất để đào tạo cán bộ dầu khí Việt Nam. Song song với công tác tự lực, Petrovietnam cũng đã hợp tác với các công ty của Canada, Tây Đức, Italia dưới hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm trong các năm 1977-1980 tìm kiếm, thăm dò trên ba lô ở trũng Cửu Long, ngoài khơi Bà Rịa-Vũng Tàu nhưng kết quả đạt được không như mong muốn. Ngày 19 tháng 6 năm 1981, chính phủ ta ký hiệp định liên doanh chính phủ với Liên bang Cộng Hoà XHCN Xô Viết thành lập xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro tiến hành thăm dò, khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam và đến năm 1986 những tấn dầu thô đầu tiên được khai thác từ mỏ Bạch Hổ, nơi trước kia, năm 1974, công ty Mobil đã tìm thấy dầu trong tầng Mioxen. Năm 1990, Tổng cục dầu khí Việt Nam được sáp nhập vào Bộ Công Nghiệp nặng và ngày 6 tháng 7 năm 1990, Hội đồng bộ trưởng quyết định thành lập Tổng công ty dầu khí Việt Nam, với tên giao dịch quốc tế là Petro vietnam, một tổ chức chuyên sản xuất, kinh doanh, bước đầu thực hiện chủ trương tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng sản xuất–kinh doanh trong chế độ quản lý bao cấp cũ. Với chức năng này, Petrovietnam tiếp tục ký các hợp đồng phân chia sản phẩm với các công ty, tập đoàn dầu khí nước ngoài, mở rộng tìm kiếm, thăm dò, khai thác ra toàn thềm lục địa từ Bắc tới Nam đồng thời cũng từng bước mở rộng các lĩnh vực hoạt động từ thượng nguồn đến hạ nguồn, trong nước và ngoài nước. Ngành dầu khí Việt Nam đến nay về cơ bản đã được xây dựng gần hoàn chỉnh bao gồm các hoạt động từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Các tổ chức được xếp vào ngành này là: 1, Tổng công ty dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) 2, Tổng công ty xăng dầu Việt Nam( Petrolimex) 3, Công ty xăng dầu hàng không(Vinapco) 4, Công ty dầu khí thành phố Hồ Chí Minh (Saigonpetro) 5, Công ty dầu khí Hà Nội( Hanoipetro) 6, Công ty Thương mại, Kỹ thuật & Đầu tư ( Petec) Trong các tổ chức kể trên chỉ có Tổng công ty dầu khí Việt Nam với tiền thân của nó là Tổng cục dầu khí Việt Nam hoạt động trong tất cả các khâu từ nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh dầu thô khí đốt và sản phẩm dầu khí, dịch vụ dầu khí. Các tổ chức còn lại hoạt động chính là vận chuyển, tàng trữ, phân phối dịch vụ trên phạm vi cả nước hoặc địa phương trực thuộc bộ thương mại, bộ giao thông vận tải hoặc các thành phố. Ngoài các đơn vị kinh doanh nói trên còn phải nói đến tổng cục hậu cần quân đội, các cơ sở đào tạo thuộc một số trường Đại học. Họ cũng góp phần rất xứng đáng trong việc tạo dựng dáng vóc của ngành dầu khí Việt Nam hiện nay. Trong ngành dầu khí Việt Nam, Tổng công ty dầu khí Việt Nam là một đơn vị chủ chốt, hoạt động trên tất cả các khâu trong ngành dầu khí và đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của ngành công nghiệp này. 3. Vai trò của dầu khí đối với nền kinh tế quốc dân Dầu khí được gọi là vàng đen, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Nó mang lại nguồn lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ cho cácc quốc gia và dân tộc trên thế giới đang sở hữu và trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên quý giá này. Hiện nay, trong cán cân năng luợng, dầu khí vẫn giữ vai trò quan trọng nhất so với các dạng năng lượng khác. Cùng với than đá, dầu khí chiếm tới 90% tổng tiêu thụ năng lượng toàn cầu. Đối với nước ta, vai trò và ý nghĩa của dầu khí và ngành công nghiệp dầu khí càng trở nên quan trọng trong thời ký đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. 3.1 Vai trò của dầu khí đối với công nghiệp hoá, hiện đại hóa Xăng dầu có vai trò đặc biệt quan trọng không thể thiếu để có thể thực hiện CNH-HĐH vì hầu hết mọi ngành kinh tế như giao thông vận tải, điện lực, xây dựng, công nghiệp đều cần đến năng lượng xăng dầu. ă Giao thông vận tải: Dầu mỏ và các sản phẩm của dầu mỏ được sử dụng rộng rãi làm nhiên liệu cho ôtô, xe máy, tàu thuỷ… Dầu mỏ đã thâm nhập vào tất cả các phương tiện giao thông chính, hiện đại. Dự án quy hoạch phát triển toàn diện mạng lưới giao thông đã đang và sẽ tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới chính là nhằm phục vụ có hệ thống hơn nhu cầu ngày càng tăng về giao thông vận tải. ă Điện lực: Dầu mỏ có khả năng tạo ra năng lượng cơ học và nhiệt lượng cung cấp cho sản xuất điện. Trên thế giới, sản xuất điện sử dụng rất nhiều dầu đốt nặng và khí thiên nhiên. Sản lượng điện từ dầu đốt nặng vẫn chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng sản lượng điện hàng năm. Hiện nay, ở Việt Nam chúng ta đã phát hiện ra tiềm năng rất lớn về dầu khí đặc biệt là khí. Đây là cơ sở đảm bảo cho nguồn năng lượng cho sản xuất điện của chúng ta, nhất là trong điều kiện hiện nay và những năm sắp tới chúng ta hầu như không có nguồn năng lượng thay thế cho xăng dầu. ă Công nghiệp: Xăng dầu và các sản phẩm dầu là nguồn nguyên liệu đầu vào để vận hành máy móc trong các ngành công nghiệp. Có thể ví xăng dầu như mạch máu của sản xuất công nghiệp. Bản thân chế biến dầu và các sản phẩm dầu tự nó cũng là một ngành công nghiệp nhưng lại khác với những ngành công nghiệp khác ở chỗ sự phát triển ngành công nghiệp năng lượng mà cụ thể là ngành dầu khí đóng vai trò tiên phong, tạo cơ sở vững chắc đảm bảo cho sự phát triển các ngành công nghiệp khác. 3.2. Vai trò của dầu khí đối với cải biến cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Không chỉ là vấn đề thu nhập kinh tế đơn thuần, trong những năm qua ngành công nghiệp dầu khí đã góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia làm cân đối hơn cán cân xuất nhập khẩu thương mại quốc tế, góp phần tạo nên sự phát triển ổn định nước nhà trong những năm đầu đầy khó khăn của thời kỳ đổi mói. Hàng năm, chỉ riêng xuất khẩu dầu thô đã chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, đem lại cho chúng ta một lượng ngoại tệ lớn để phát triển các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Để nhằm mục tiêu CNH-HĐH, chúng ta phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực (giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ). Muốn tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp thì đương nhiên là phải đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại. Trên thế giới, hầu hết máy móc hiện đại vẫn phải hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng đến nguồn nguyên liệu khá truyền thống là dầu lửa. Nói cách khác dầu là đầu vào không thể thiếu của sản xuất công nghiệp. Bên cạnh việc phát triển các ngành kinh tế truyền thống, xăng dầu còn kéo theo sự ra đời và phát triển của nhiều ngành công nghiệp mới: sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, công nghiệp hoá dầu, sản xuất nhựa đường…đều là những ngành công nghiệp mà nhu cầu về sản phẩm ngày càng gia tăng. Chính sự xuất hiện và ngày càng tăng trưởng của các ngành công nghiệp mới này đã góp phần làm cải biến cơ cấu kinh tế, chuyển dần sang tập trung vào khu vực công nghiệp. Ngoài ra, nhu cầu về xăng dầu gia tăng cũng tạo ra nhiều ngành dịch vụ mới như dịch vụ cung cấp xăng dầu, khí gas, các dịch vụ liên quan đến xe cơ giới. 3.3 Vai trò của ngành dầu khí đối với lao động – cải thiện đời sống dân cư Hiện nay, ngành dầu khí gồm Tổng công ty dầu khí Việt Nam với 12 đơn vị thành viên và 18 liên doanh thu hút khoảng gần 15.000 lao động. Thêm vào đó, ở các đơn vị thực hiện nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu, con số này ở vào khoảng 18.000 người. Mức thu nhập trung bình của toàn bộ hệ thống là gần 2.000.000 VNĐ/người/ tháng. Đây là mức thu nhập tương đối cao so với bình quân thu nhập của người Việt Nam. Ngoài ra, người lao động trong ngành dầu khí còn được hưởng chế độ đãi ngộ đặc biệt do tính chất của công việc. Trong tương lai, khi mà công nghiệp dầu khí phát triển (bao gồm cả khai thác, lọc và hoá dầu) thì chắc chắn sẽ tạo thêm công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đó là số lượng lao động gia tăng một cách gián tiếp nhờ xăng dầu thông qua sự tăng trưởng mở rộng của các ngành khác. Nhờ xăng dầu, đời sống dân cư nói chung cũng được cải thiện nhiều. Điện đã có mặt ở nhiều nơi trên đất nước. Giao thông đi lại thuận tiện. Nếu như trước đây phương tiện giao thông chính là xe đạp thì giờ đây, nó đã nhường chỗ cho xe máy với số lượng và chủng loại ngày càng gia tăng. Dầu hóa cũng làm chất đốt cho nhiệt lượng cao hơn củi, tiết kiệm thời gian, lại góp phần hạn chế nạn phá rừng. Những hộ gia đình có điều kiện kinh tế đặc biệt là ở thành thị, nhiều nhà đã chuyển sang dùng bếp gas-tiện lợi, nhanh, sạch hơn so với những loại chất đốt trước đây như mùn cưa, củi hay dầu hoả. Nhựa và sợi tổng hợp ra đời cũng đánh dấu một bước tiến dài trong sản xuất cũng như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nhờ máy móc, nhờ các thiết bị gia dụng hiện đại, con người được giải phóng hơn khỏi gánh nặng lao động chân tay, có thời gian nhiều hơn để quan tâm đến sức khoẻ của mình, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. 3.4 Vai trò của dầu khí với mở rộng hợp tác quốc tế Việc liên kết giữa các nước trong việc tìm kiếm, khai thác dầu khí đã trở nên phổ biến. Tầm quan trọng của xăng dầu và lợi nhuận mà xăng dầu đem lại đã thôi thúc người ta quan tâm nhiều hơn, đầu tư nhiều hơn cho nó, không phải chỉ riêng chính phủ của các nước có dầu mà cả những tập đoàn kinh tế nước ngoài có vốn và kỹ thuật. Hai bên hợp tác với nhau trên tinh thần đôi bên cùng có lợi. Hiện nay, riêng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác, Việt Nam đã thu hút được nhiều dự án đầu tư với số vốn gần 4 tỷ USD. Với kế hoạch xây dựng hai nhà máy lọc dầu số 1 và số 2 chúng ta cũng đã và đang thu hút nhiều hơn sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Công tác mua, bán dầu khí và các sản phẩm dầu khí cũng góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại quốc tế. Dầu thô Việt Nam được xuất khẩu sang rất nhiều thị trường như : Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan, Anh, Thuỵ Sỹ, các nước Đông nam á... 100% lượng xăng dầu tiêu thụ trong nước hiện nay đều được nhập khẩu từ rất nhiều thị trường khác nhau, trong đó có Singapore, Trung Quốc, Đông Nam á và Trung Đông là những thị trường truyền thống. Mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác trong dầu khí đã có những đóng góp đáng kể vào việc phát triển, mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Một vấn đề nữa mới được quan tâm nhiều trong vài thập niên gần đây là vấn đề ô nhiễm công nghiệp. Ô nhiễm từ các nhà máy, từ sinh hoạt của dân cư (xe ô tô, xe máy). Một trong những nguyên nhân là do dầu mỏ được sử dụng làm chất đốt sẽ thải ra một lượng Cacbon dioxide thấp hơn mức thải của than nhưng về lâu dài cũng sẽ không có lợi. Tóm lại, khi tiến hành xét duyệt một cách sơ lược về vị trí hiện tại của dầu khí khó mà tưởng tượng vào đầu thế kỷ này, dầu khí vẫn còn ít được biết đến trên thế giới. Ngày nay nó gắn liền với hầu hết các hoạt động thường ngày của chúng ta và gắn liền với phần lớn các hoạt động công nghiệp. Dầu khí có khả năng làm đảo lộn đời sống kinh tế thế giới cũng như đời sống thường nhật. Nó kích động mạnh trước hết đến nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển và cả những nước muốn phát triển công nghiệp. Nó ảnh hưởng mạnh đến vị trí của con người trong thiên nhiên, quyết định mối quan hệ giữa con người với con người giữa các dân tộc. Nó giữ vai trò chủ chốt trong quá trình thiết lập những sách lược chính trị của các quốc gia. Vì vậy, sử dụng dầu mỏ một cách hợp lý có thể tạo ra một trong những nền tảng chính trị cho sự phát triển cân đối dù một nước có hay không có dầu mỏ dưới đất của mình Chương II: thực trạng sản xuất và xuất khẩu dầu khí ở việt nam I. Hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác 1. Hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu khí Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Việt Nam được bắt đầu từ những năm 1960. Thành công đầu tiên là phát hiện ra mỏ khí condensat vào năm 1975 và sau đó là mỏ dầu Bạch Hổ vào năm 1986. Cho đến nay 46 hợp đồng PSC, JOC, và BCC đã được ký kết và hiện tại 23 hợp đồng đang hoạt động trên diện tích 38 lô trong đó PV tham gia góp vốn vào 19 hợp đồng. Tổng số vốn đầu tư thăm dò khai thác gần 4 tỷ USD. Cho tới nay, chúng ta đã tìm ra 63 mỏ phát hiện dầu khí, trong đó có 5 mỏ dầu, 1 mỏ dầu khí và 2 mỏ khí đang khai thác với sản lượng khoảng 45.000 tấn/ngày. Tuy nhiên mức độ thăm dò khai thác tập trung chủ yếu ở vùng nước nông hơn 200 mét, diện tích các lô đã ký hợp đồng chỉ chiếm 1/3 diện tích toàn thềm lục địa, 2/3 diện tích còn lại cần phải được đẩy mạnh thăm dò khai thác. Hầu hết các công nghệ tiên tiến trong hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của thế giới đã được áp dụng vào Việt Nam từ khâu thu nổ, xử lý, minh giải địa vật lý, mô hình, mô phỏng vỉa đến khoan, thử vỉa, phát triển và khai thác cũng như công tác phân tích thí nghiệm. Trữ lượng và tiềm năng dầu khí ở các diện tích đã thăm dò khai thác là khoảng 3,75 tỷ m3 quy dầu với tỷ lệ khí trên 50%, trong đó trữ lượng đã phát hiện khoảng 1,25 tỷ m3 quy dầu, tập trung chủ yếu ở các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn và Mã Lai-Thổ Chu. Để duy trì và tăng sản lượng khai thác dầu khí hàng năm với kế hoạch đạt 22-24 triệu tấn quy dầu vào năm 2005 và 27-30 triệu tấn quy dầu vào năm 2010, đòi hỏi phải đẩy mạnh nhịp độ thăm dò khai thác nhằm đảm bảo gia tăng trữ lượng hàng năm bình quân khoảng 50 triệu tấn quy dầu với mức vốn đầu tư khoảng 150-200 triệu USD/năm. Dưới đây là những hoạt động cụ thể về công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Việt Nam trong những năm qua. Bắt đầu từ những nghiên cứu của các đoàn địa chất-địa vật lý dầu khí thuộc tổng cục địa chất và tiếp theo là những nghiên cứu của các đơn vị thuộc Tổng cục dầu khí, Tổng công ty cũng như của các tổ chức quốc tế và của các công ty dầu khí nước ngoài, từ năm 1960 đến nay chúng ta đã xác định được 8 bể trầm tích với tổng diện tích gần 1 triệu km2 có khả năng sinh, chứa dầu khí bao gồm: - Bể Sông Hồng với diện tích 160 nghìn km2, kéo dài từ châu thổ sông Hồng đến vịnh Bắc Bộ và miền Bắc thềm lục địa miền Trung. ở đây đã xác minh các thành tạo đá cacbonat tuổi Đềvôn-Pecni, đá cát kết tuổi Oligoxen-Mioxen-Plioxen và đá cacbonat tuổi Mioxen là những đối tượng chứa dầu khí. Hệ số các giếng khoan thăm dò gặp dầu khí khá cao (30% ở thềm lục địa, 25% trên đất liền). Tiềm năng dự báo khoảng 0,6 tỷ m3 quy dầu (1000 m3 khí tương đương 1m3 dầu). Hình 1 : Bể Sông Hồng Phân bố tiềm năng dầu khí thu hồi theo Play Nguồn: “Viện dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành” - Bể Phú Khánh với diện tích 40 nghìn km2, phần lớn nằm ở độ sâu mực nước biển hơn 200 mét nên chưa được khoan thăm dò. Đối tượng tiềm năng là cát kết Oligoxen-Mioxen, cacbonat Mioxen với tiềm năng dự báo khoảng 0,3-0,7 tỷ m3 quy dầu. Hình 2 : Bể Phú Khánh Phân bố tiềm năng dầu khí thu hồi theo Play Nguồn: “Viện dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành” Bể Cửu Long với diện tích khoảng 60 nghìn km2 bao gồm đồng bằng sông Cửu Long và thềm lục địa kế cận duyên hải các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Cát kết Mioxen, Oligoxen và đá móng nứt nẻ là 3 đối tượng chứa dầu khí quan trọng nhất ở đây. Bể Cửu Long là nơi có mật độ hăm dò và hệ số phát hiện dầu cao nhất trong cả nước (54%) và cũng là nơi có 4 mỏ đang khai thác chủ yếu ở Việt Nam. Tiềm năng dự báo khoảng 700-800 triệu m3 qui dầu. Hình 3 : Bể Cửu Long Phân bố tiềm năng thu hồi dầu khí theo Play Nguồn: “Viện dầu khí 25 năm phát triển và trưởng thành” Bể Nam Côn Sơn với diện tích gần 100 nghìn km2 nằm ở Đông Nam Côn Đảo đã được tiến hành thăm dò từ năm 1969, khi đó Ray Geophyiscal đã lần đầu tiên thu nổ 8.000 km tuyến địa chấn ở thềm lục địa Việt Nam và công ty Pecten đã phát hiện ra dầu ở giếng khoan Dừa-1X năm 1974 tại lưu vực lô 12. Trong vòng hơn 30 năm thăm dò dầu khí, một số lượng lớn các giếng khoan đã được tiến hành ở hầu hết các lô vùng nước nông và rất nhiều giếng đã gặp dầu khí. Trong số đó, một số các phát hiện dầu khí đã được đưa vào phát triển và khai thác. Các phát hiện dầu khí cho đến nay đều có trữ lượng nhỏ đến trung bình và có các thành phần dầu, khí và condensat khác nhau. Bảng 4 : Số lượng các giếng khoan thăm dò tại bể Nam Côn Sơn STT Lô Tên nhà thầu Số giếng đã khoan 1 03 Petro Canada 2 2 04.1 British Gas 2 3 04.2 Lasmo 3 4 04.3 Occidental 3 5 05.1b Mobli 2 6 05.2 BP 6 7 05.3 AECD 4 8 06 ONGC/BP 8(không kể giếng khai thác) 9 10 Shell 4 10 11.1 Total 4 11 11.2 KNOC 4 12 12(E,W) CanOxy/Samedan 3 13 20 Petro Can 1 14 21 Enterprise 1 15 22 Cairn Egergy 1 Nguồn: “Viện dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành” Hình 4: Bể Nam Côn Sơn Phân bố tiềm năng dầu khí thu hồi theo Play Nguồn: “Viện dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành” - Bể Mã Lai- Thổ Chu, diện tích gần 40 nghìn km2, nằm ở phần thềm lục địa các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Cho tới nay chúng ta đã khoan thăm dò 25 giếng với hệ số gặp dầu, khí là 76%. Đối tượng thăm dò là đá cát kết Oligoxen và Mioxen. Tiềm năng dự báo là 250-350 triệu m3 quy dầu. Hình 5: Bể Malay - Thổ Chu Phân bố tiềm năng dầu khí thu hồi theo Play Nguồn: “Viện dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành” - Bể Vũng Mây-Tư Chính: nằm ở phía đông bể Nam Côn Sơn, diện tích gần 60 nghìn km2, độ sâu nước biển hơn 200 mét. Vì mức độ nghiên cứu còn ít nên tiềm năng dự báo tuy rất lớn nhưng dựa trên các yếu tố giả định do đó chứa nhiều rủi ro. Hình 6: Bể Tư Chính Phân bố tiềm năng tài chính thu hồi theo Play Nguồn: “Viện dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành” Các bể Hoàng Sa và Trường Sa có diện tích rất lớn nhưng chỉ có một số tuyến đo địa chấn và khảo sát địa chấn khu vực nên chỉ mới có dự báo trữ lượng lý thuyết. Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được nhà nước ban hành vào ngày 29 tháng 12 năm 1987 và sau đó là luật dầu khí ngày 26 tháng 7 năm 1993 đã mở ra giai đoạn tìm kiếm thăm dò sôi động trên toàn thềm lục địa Việt Nam. Cho tới nay ta đã ký được 46 hợp đồng tìm kiếm thăm dò dầu khí dưới các hình thức PSC, JOC, BOC. Trong đó sự tham gia góp vốn của PV giữ vị trí đáng kể và ngày một tăng lên (có 5 hợp đồng phần góp vốn của PV chiếm 50%). Bảng 5: Hoạt động thăm dò dầu khí giai đoạn 1989-2002 Năm Số giếng khoan Số phát hiện 1989 1 0 1990 10 3 1991 6 2 1992 4 7 1993 17 12 1994 23 14 1995 21 17 1996 27 7 1997 10 2 1998 3 2 1999 3 10 2000 13 15 2001 18 5 2002 15 7 Nguồn: www.petrovietnam.com.vn Từ các số liệu khoan thăm dò và các tham số lý hoá thu được từ các phòng thí nghiệm, thông qua công nghệ mô hình hoá, Tổng công ty dầu khí Việt Nam cho biết đã xác định tiềm năng và trữ lượng dầu khí: 3.000-4.000 triệu m3 dầu quy đổi trong đó 900-1.200 triệu m3 dầu và 2.100-2.800 tỷ m3 khí và trữ lượng dầu khí đã xác minh là trên 1.100 triệu tấn dầu quy đổi trong đó gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí. Cho tới nay chúng ta đã xác minh được các mỏ dầu khí thương mại bao gồm: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Lan Đỏ-Lan Tây, Hải Thạch, Rồng Đôi, Cái Nước, Bungakekwa, Kim Long, ác Quỷ, Cá Voi. 2. Hoạt động khai thác dầu khí 2.1. Sản lượng dầu thô và khí khai thác trong những năm qua a, Sản lượng dầu thô Tháng 6 năm 1986, dòng dầu thô đầu tiên của Việt Nam bắt đầu được khai thác từ mỏ Bạch Hổ do xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro thực hiện. Khi đó Bạch Hổ là mỏ dầu duy nhất được khai thác tại Việt Nam. Cho tới cuối năm 1994, hai mỏ mới Đại Hùng và Rồng bắt đầu được đưa vào khai thác. Trong 17 năm qua, sản lượng dầu thô khai thác của Việt Nam tăng lên liên tục do chúng ta đã liên tục phát hiện thêm những dòng dầu khí mới, phát triển các mỏ đang khai thác và đưa vào khai thác những mỏ mới. Tính đến năm 2002, chúng ta đã khai thác được khoảng 132,17 triệu tấn dầu thô từ thềm lục địa Việt Nam. Bảng 6: Sản lượng dầu thô khai thác qua các năm Năm Sản lượng (triệu tấn) Tốc độ tăng (%) 1986 0,04 - 1987 0,28 7,00 1988 0,69 2,46 1989 1,52 2,20 1990 2,7 1,78 1991 3,96 1,47 1992 5,5 1,39 1993 6,31 1,15 1994 7,07 1,12 1995 7,62 1,08 1996 8,80 1,15 1997 10,09 1,15 1998 12,50 1,24 1999 15,21 1,22 2000 16,29 1,07 2001 16,74 1,03 2002 16,85 1,01 Nguồn: Tạp chí thông tin kinh tế xã hội số 11 năm 2003 Hiện nay, bình quân mỗi ngày sản lượng dầu thô được khai thác tại thềm lục địa Việt Nam vào khoảng 342.000 thùng từ 6 mỏ đang khai thác. b, Sản lượng khí Cùng với dầu thô, khí đồng hành và khí thiên nhiên từ các mỏ cũng được khai thác và sử dụng. Mỏ khí đốt được khai thác đầu tiên ở Việt Nam là mỏ Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình) vào năm 1981. Đây là sự khởi đầu hết sức khiêm tốn nhưng hoàn toàn thuyết phục của ngành dầu khí Việt Nam. Khí đã kịp thời khắc phục tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng, nâng cao các giá trị của các sản phẩm đồ sứ, xi măng trắng, thuỷ tinh cao cấp, vật liệu xây dựng...Đây là những đóng góp rất có ý nghĩa đối với một tỉnh lúa như Thái Bình (nơi có mỏ Tiền Hải) trong bối cảnh kinh tế xã hội khó khăn lúc bấy giờ. Đến nay mỏ khí Tiền Hải đã khai thác được hơn 500 triệu m3 khí phục vụ công nghiệp địa phương tỉnh Thái Bình. Hiện nay chúng ta đưa được khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào bờ với công suất khoảng 2 tỷ m3 khí/năm, từ mỏ rạng Đông vào bờ với công suất khoảng 1- 1,5 tỷ m3 khí /năm và đặc biệt đưa khí từ hai mỏ khí Lan Tây, Lan Đỏ vào bờ vào cuối năm 2002 với công suất vận chuyển trong thời gian đầu vào khoảng 2,7 tỷ m3 khí /năm. Bảng dưới đây cho thấy sản lượng khí khai thác trong những năm qua. Bảng 7: Sản lượng khí khai thác từ 1991 đến nay Năm Sản lượng (tr.m3) Tốc độ tăng (%) Mỏ 1981-1986 154,6 - Tiền Hải C 1987-1994 190,1 22,9 Tiền Hải C 1995 206,5 8,62 Tiền Hải C&Bạch Hổ 1996 313,0 51,57 Tiền Hải C&Bạch Hổ 1997 562,0 79,55 Tiền Hải C&Bạch Hổ 1998 1039,3 84,92 Tiền Hải C&Bạch Hổ 1999 1434,9 38,06 Tiền Hải C&Bạch Hổ 2000 1700 18,47 Tiền Hải C&Bạch Hổ 2001 1724 1,41 Tiền Hải C&Bạch Hổ 2002 2000 16,00 Tiền Hải C, Bạch Hổ, Lan Tây-Lan Đỏ, Rạng Đông Nguồn: Tạp chí dầu khí số 1/2000 và tạp chí dầu khí số 1/2003 Bảng trên cho thấy sản lượng khí khai thác tăng lên đều qua các năm do chúng ta ngày càng phát hiện thêm được nhiều mỏ khí mới với trữ lượng lớn, hoàn thành và đưa vào hoạt động các đường ống dẫn khí từ các mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông, Lan Tây-Lan Đỏ vào bờ. Với trữ lượng khí rất lớn tại các mỏ Rồng Đôi (phát hiện năm 1994)._.át huy hết tiềm năng của người lao động. - Sử dụng cán bộ đào tạo là khâu cuối cùng quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình đào tạo. Tổng công ty phải có chính sách sử dụng cán bộ công nhân viên đã được đào tạo sao cho có thể khai thác, sử dụng được kiến thức kỹ năng của cán bộ được đào tạo theo nguyên tắc đúng người, đúng việc, đúng lúc, đúng nơi. - Lựa chọn cán bộ là quá trình liên tục. Từ chỗ phát hiện cán bộ có năng lực, cử người đi đào tạo, Tổng công ty cũng cần chú ý tới hiệu quả của cá nhân sau đào tạo lại một lần nữa phát hiện người có năng lực chuyên môn, tư chất quản lý tốt trong công việc để tiếp tục nâng cao. Quá trình phát hiện và đào tạo là tương hỗ, thúc đẩy sự phát triển, bộc lộ tiềm năng của các cán bộ, cần được tổng công ty chú ý. 3. Cải tiến cơ chế quản lý về thương mại Đây là việc cần làm ngay của Tổng công ty dầu khí để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở hơn nữa. Tổng công ty dầu khí cần trao quyền tự chủ cho các công ty liên doanh, không duy trì hệ thống quản lý cũ, bàn giao cho các công ty đàm phán trình kết quả cho tổng công ty phê duyệt. Với việc trao quyền tự chủ cho các công ty kinh doanh, Tổng công ty chỉ đưa ra những định hướng lớn về công tác kinh doanh cho các công ty dựa trên những phân tích, đánh giá của các bộ phận chuyên môn về giá dầu hàng ngày, đưa ra giá sàn/giá trần từ 2 - 3 hệ thống thông tin về diễn biến cập nhật của giá dầu cho đơn vị tự quyết định mức giá thích hợp để kinh doanh. Với quyền tự chủ kinh doanh, các đơn vị cơ sở kinh doanh có cơ hội nắm bắt thời cơ, giá cả thuận lợi để đàm phán, ký hợp đồng với đối tác nước ngoài. Điều này giúp bộ máy quản lý, thương mại của đơn vị kinh doanh năng động, nhạy bén không ngừng theo dõi biến động thị trường, chịu trách nhiệm nhiều hơn về kết quả kinh doanh. Thêm vào đó, hoạt động quản lý của tổng công ty bớt chồng chéo, phức tạp. Bộ máy quản lý của Tổng công ty không còn tham gia trực tiếp xử lý các công việc mang tính sự vụ của đơn vị mà chuyên tâm nghiên cứu ra định hướng phát triển của tổng công ty và giám sát kết quả hoạt động của các thành viên kinh doanh. Điều này giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên cũng như hiệu quả quản lý của Tổng công ty. 4. Tăng cường nghiên cứu mở rộng thị trường. Giai đoạn trước năm 1998, Tổng công ty dầu khí mới chỉ chủ yếu xuất khẩu dầu thô và sản phẩm dầu với lượng ít ỏi là Condensat (cho Trung Quốc). việc kinh doanh sản phẩm dầu nhập khẩu trên thị trường nội địa mới được tổ chức với quy mô nhỏ, lượng tiêu thụ không nhiều, kênh phân phối sản phẩm dầu của Tổng công ty chủ yếu là bán buôn trực tiếp cho khách hàng lớn. Hình thức bán sản phẩm qua đại lý chưa phát triển, số lượng đại lý ít, thị trường bán lẻ Tổng công ty chưa thực thực sự thâm nhập được nhiều. Riêng với sản phẩm khí hoá lỏng, dù nắm ưu thế là nguồn cung sản phẩm nội địa duy nhất song hình thức tiêu thụ sản phẩm mới chỉ tập trung vào lĩnh vực bán buôn. Giai đoạn tới, khi các dự án lọc, hoá dầu, dự án sản xuất nhựa đường, sản xuất khí... đi vào hoạt động, lượng sản phẩm dầu khí Tổng công ty cũng sẽ tăng lên gấp nhiều lần so với giai đoạn hiện tại. Tổng công ty cũng sẽ phải chuẩn bị tốt khâu phân phối, dự trữ sản phẩm để hoạt động kinh doanh tiến triển thuận lợi nhằm mục tiêu chiếm lĩnh 40% thị trường tiêu thụ các sản phẩm xăng dầu và LPG trong nước, tăng khả năng thâm nhập thị trường sản phẩm dầu của khu vực. Việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, chuẩn bị khâu phân phối vì thế là vô cùng quan trọng. Tổng công ty cần tập trung chuẩn bị theo huớng sau: 4.1 Xúc tiến xây dựng hệ thống tổng kho, kho trung chuyển và mạng lưới phân phối sản phẩm dầu khí trong nước - Với hệ thống tổng kho đầu mối có tổng dung tích lớn gần 300.000 m3 cần quan tâm xây dựng các kho trung chuyển rải khắp từ bắc tới nam để tăng hiệu quả kinh doanh, các sản phẩm từ tổng kho đầu mối, phát triển thị trường rộng, đều về mặt địa lý và cung ứng kịp thời cho hệ thống cây xăng lẻ. - Đầu tư phương tiện chuyên chở xăng dầu cũng hết sức cần thiết, gắn liền với việc đầu tư xây dựng các tổng kho. - Để đạt mục tiêu chiếm lĩnh 40% thị phần xăng dầu cả nước vào năm 2005, Tổng công ty cần đặc biệt quan tâm xây dựng hệ thống cây xăng và mạng lưới các cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên toàn quốc. Đầu tư xây dựng các cửa hàng bán lẻ xăng dầu đông đảo sẽ là bước chủ chốt giúp nâng cao doanh số bán lẻ xăng dầu của Tổng công ty, đặt nền tảng để chiếm lĩnh thị trường trên quy mô rộng. - Tổng công ty cũng cần có biện pháp khuyến khích, phát triển hoạt động của các đại lý sản phẩm xăng dầu. Đây là kênh phân phối sản phẩm rất hữu hiệu do có điều kiện trực tiếp tiếp xúc với thị trường tiêu thụ lẻ, do người tiêu dùng lẻ thường xuyên tham gia khảo sát chất lượng, giá cả sản phẩm ở các đại lý này. 4.2 Tiến hành công tác xúc tiến, quảng cáo sản phẩm, gia tăng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước với sản phẩm do công ty cung cấp. Công tác xúc tiến quảng cáo có vai trò rất quan trọng, quyết định hành vi mua sản phẩm của người tiêu dùng. Tổng công ty phải tăng cường hơn nữa việc quảng cáo về chất lượng các sản phẩm, uy tín của tổng công ty, cải tiến mẫu mã bao bì hàng hoá để khêu gợi sự tò mò, thích thú của khách hàng, chú trọng cả chất lượng lẫn độ an toàn của sản phẩm nhằm làm khách hàng tin tưởng khi quyết định đến với sản phẩm do tổng công ty cung cấp. Việc quảng cáo cần được phổ biến rộng rãi dưới mọi hình thức. Có thể tiến hàng quảng cáo trên radio và tivi song cần đặc biệt chú trọng hình thức quảng cáo trên pano, áp phíc lớn, hấp dẫn ở những đường phố trung tâm, trên phương tiện giao thông. Hình ảnh và thông điệp quảng cáo phải đặc biệt hấp dẫn và phù hợp với tập quán và truyền thống của người Việt. Kết quả thống kê cho thấy, 65% thành công của tiêu thụ sản phẩm là khả năng hấp dẫn người tiêu dùng qua thông điệp và hình ảnh quảng cáo sản phẩm. Tổng công ty cần tổ chức nhiều hơn những cuộc hội thảo về chất lượng sản phẩm, các cuộc gặp gỡ với người tiêu dùng để tuyên truyền về các sản phẩm Tổng công ty cung cấp. Ngoài ra, các hình thức khuyến mại như:giảm giá sản phẩm, tặng quà lưu niệm, tặng phiếu giảm giá,... cũng được quan tâm đặc biệt trong giai đoạn đầu của hoạt động kinh doanh nhằm tạo uy tín, cảm tình với khách hàng, tiến tới chiếm lĩnh thị trường sâu hơn. Cho đại lý phân phối sản phẩm, các cửa hàng bán lẻ xăng dầu cũng như các khách hàng mua sản phẩm dầu khí lớn của Tổng công ty được hưởng ưu đãi về phương thức thanh toán như: trả tiền hàng chậm, trả từng khoản định kỳ, chiết khấu % giá bán... 4.3. Nghiên cứu khả năng xuất khẩu một phần sản phẩm dầu khí ra thị trường khu vực Tổng công ty dầu khí cần nghiên cứu hướng xuất khẩu của sản phẩm dầu khí ra thị trường các nước. Muốn vậy, ngay từ bây giờ, tổng công ty cần hình thành một ban chuyên nghiên cứu tình hình thị trường sản phẩm dầu khí trong khu vực làm cơ sở cho hoạch định các bước phù hợp xuất khẩu sản phẩm dầu khí nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao trong tương lai. 5. Tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất kỹ thuật là một bộ phận rất quan trọng trong mọi ngành công nghiệp đặc biệt là ngành dầu khí. Trong những năm tới, công tác đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất cần phải triển khai theo các hướng sau: Đầu tư các thiết bị khoan được tự động hoá để nâng cao tốc độ thi công. Đồng thời với việc đầu tư, mua các thiết bị hiện đại, cần khoan, choòng khoan... cần phải đổi mới công nghệ khoan để nâng cao hiệu quả công tác khoan. Đối với các công trình xây lắp biển, khai thác vận chuyển dầu khí, cần tiến hành khảo sát phần dưới nước để sửa chữa, gia cố, thay thế từng phần các kết cấu thép của giàn cố định bị xuống cấp do bị tác động mạnh của môi trường. Các thiết bị khai thác, thiết bị an toàn, các thiết bị công nghệ phụ trợ khác cần đầu tư bằng các thiết bị hiện đại của các nước công nghiệp phát triển đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống đường ống dẫn khí, các trạm xử lý và phân phối khí được đầu tư theo hướng các thiết bị được chế tạo lắp đặt đúng tiêu chuẩn quốc tế và được các công ty đăng kiểm quốc tế cấp chứng chỉ. Trong lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật cần gia công chế tạo lắp đặt các kết cấu kim loại, chân đế các giàn cố định ,xây lắp, sửa chữa, bảo dưỡng các công trình biển, xây lắp các đường ống dẫn dầu, khí. Chú trọng đẩy mạnh xây dựng, phát triển và đầu tư cơ sỏ vật chất kỹ thuật cho dịch vụ chuyên ngành như: xử lý số liệu dầu khí, phân tích thí nghiệm, các dịch vụ cho khoan, khai thác,... cố gắng hình thành ngay một tổ chức đủ mạnh về dịch vụ khoan thăm dò ở Việt Nam. Bước đầu đầu tư cơ sở vật chất vào lĩnh vực công nghệ cao, chế tạo các thiết bị đo địa vật lý giếng khoan, dịch vụ đo địa vật lý, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế. Tiếp tục đầu tư xây dựng các căn cứ dịch vụ dầu khí với các trang thiết bị hiện đại phục vụ có hiệu quả cho các hoạt động dầu khí. Chú trọng tập trung trang thiết bị cho các dịch vụ chuyên ngành mang lại hiệu quả cao như: Xây dựng đội tàu dịch vụ dầu khí, các phương tiện thuỷ vận chuyển các sản phẩm lọc hoá dầu, các cơ sở gia công kết cấu kim loại phục vụ xây lắp các công trình biển, các xưởng sửa chữa tàu, thiết bị điện tử, hệ thống điều khiển tự động, thông tin liên lạc, thông qua phương thức tự đầu tư hoặc liên doanh với nước ngoài để đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, tiếp thu công nghệ mới. Đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc hình thành 3 trung tâm nghiên cứu mỏ, khai thác dầu khí: Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. 6. Tăng cường khả năng tài chính, thu hút đầu tư nước ngoài 6.1. Huy động nguồn vốn nội bộ từ cán bộ, công nhân viên của tổng công ty bổ sung vào quỹ đầu tư. Tiềm lực nguồn vốn từ các thành viên của tổng công ty là rất to lớn song vẫn chưa được khai thác. Tổng công ty có thể tổ chức các chương trình phổ biến mục đích và ý nghĩa của việc sử dụng nguồn vốn này với sự duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh của tổng công ty, mối quan hệ mật thiết giữa việc đẩy mạnh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của tổng công ty với mức sống ngày càng được nâng cao của mỗi thành viên. Từ đó, người lao động sẽ nhận thức được sự cần thiết phải tập trung vốn bổ sung vào quỹ đầu tư của tổng công ty. 6.2. Xin cấp vốn bổ sung từ ngân sách Nhà nước và sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư. - Để xin cấp vốn ngân sách bổ sung, tổng công ty cần đưa ra những kế hoạch bổ sung hợp lý, chỉ ra những kết quả khả quan có thể đạt được nếu có thêm vốn triển khai các hoạt động. - Sử dụng tỷ lệ lớn hơn lợi nhuận sau thuế để bổ sung quỹ đầu tư cũng là biện pháp tăng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của tổng công ty. 6.3. Kêu gọi đầu tư bằng các nguồn vốn phát triển như vốn FDI, ODA, vốn vay Ngân hàng thế giới lãi suất thấp, thời hạn dài Để được cấp vốn ODA hỗ trợ dự án đầu tư, tổng công ty cần chuẩn bị những dự án, đề án khả thi phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp sử dụng khí, công nghiệp chế biến dầu khí và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án, đề án trình Chính phủ và các bộ liên quan phê duyệt. 6.4. Cổ phần hoá các đơn vị sản xuất kinh doanh Cổ phần hoá các đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả cũng là biện pháp hữu hiệu thu hút vốn cho các tổng công ty dầu khí. Cổ phần hoá là một định hướng chiến lược đúng đắn trên con đường đổi mới và hội nhập của nền kinh tế nước ta vì nó giúp huy động vốn cho đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, năng lực sản xuất cho các công ty cổ phần. Năng suất, hiệu quả và lợi nhuận của các doanh nghiệp cao hơn trước, thích nghi nhanh chóng với cơ chế thị trường. Người lao động gắn được kết quả sản xuất kinh doanh của mình với lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp, đồng thời tạo được điều kiện làm chủ doanh nghiệp, từng bước hạn chế được các yếu kém của cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Bước đầu tiến hành cổ phần hoá ở một số dơn vị sản xuất kinh doanh làm ăn có hiệu quả là bước đi đúng đắn của Tổng công ty dầu khí Việt Nam nhằm đạt mục tiêu chiến lược xây dựng tập đoàn dầu khí đa ngành, đa sở hữu, xây dựng hệ thống các công ty cổ phần của tổng công ty dầu khí Việt Nam sẽ giúp huy động tối đa nguồn nội lực trong xã hội mà trước hết là trong tập thể cán bộ công nhân viên ngành dầu khí, kể cả những người đã nghỉ việc để đầu tư phát triển. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, tổng công ty dầu khí Việt Nam cần phải: - Đẩy mạnh việc tuyên truyền giải thích làm cho người lao động thấy rõ lợi ích của họ và triển vọng của doanh nghiệp khi chuyển sang hoạt động theo công ty cổ phần. Làm cho mọi người hiểu rõ hơn về bản chất, cấu trúc của công ty cổ phần và khả năng thích ứng của nó trong cơ chế thị trường. - Bộ máy chỉ đạo cổ phần hoá phải là bộ máy chuyên trách, đủ quyền lực và năng lực chỉ đạo, được giao mục tiêu tiến độ thực hiện chương trình cổ phần hoá một cách cụ thể. Chuyển nhanh các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ dầu khí và kinh doanh các sản phẩm dầu khí sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần mà trong đó tổng công ty dầu khí Việt Nam nắm giữ cổ phần chi phối. 7. Củng cố quan hệ với khách hàng mua dầu thô. Đây là những hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng giúp gia tăng trữ lượng dầu khí của đất nước, ổn định lâu dài cung cầu dầu thô trong nước và phục vụ xuất khẩu. ã Cần thiết lập và củng cố mối quan hệ bạn hàng dài hạn với các thị trường nhập khẩu dầu thô quen thuộc của Việt Nam là biện pháp đảm bảo đầu ra ổn định cho lượng dầu thô khai thác tăng đều của Việt Nam hiện nay. Hiện tại, tổng công ty dầu khí có thể tạm thời yên tâm với những khách hàng mua dầu số lượng lớn, dài hạn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, úc và thị trường Châu Âu. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải tiếp tục tìm kiếm những khách hàng mới tiêu thụ lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam trước khả năng gia tăng các nguồn cung dầu trên thế giới khi các công ty dầu lớn của thế giới tăng cường khai thác ở trung đông. ã Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải tích cực nghiên cứu triển khai phương án đầu tư thăm dò khai thác dầu khí ra nước ngoài nhằm gia tăng trữ lượng dầu khí đảm bảo cung cầu trong thời gian tới. Với các dự án nhà máy lọc dầu sắp được vận hành mà trước hết là nhà máy lọc dầu số 1 đi vào hoạt động trong thời gian tới, phần lớn lượng dầu thô khai thác của Việt Nam sẽ phải dùng để làm nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy lọc dầu. Vì thế lượng dầu thô dành cho xuất khẩu sẽ giảm đáng kể. Đặc biệt tới năm 2010 khi nhà máy lọc dầu số 2 hoạt động, gần như toàn bộ lượng dầu thô ta khai thác sẽ chỉ đủ cung cho hoạt động chế biến dầu khí trong nước. Với tiềm năng hạn chế về dầu khí, để đảm bảo khai thác dầu khí mà đặc biệt là dầu thô phục vụ cho hoạt động chế biến trong nước và một phần cho xuất khẩu thu ngoại tệ tổng công ty cần xúc tiến đầu tư thăm dò khai thác dầu khí ra nước ngoài. Để chuẩn bị cho hoạt động đầu tư này, tổng công ty cần triển khai: - Lựa chọn khu vực đầu tư có trữ lượng dầu khí lớn, môi trường chính trị, kinh tế thuận lợi. - Hình thành tổ đề án thăm dò khai thác dầu khí ra nước ngoài, xây dựng chiến lược đào tạo lực lượng có năng lực quản lý, chuyên môn chuẩn bị hoạt động trong dự án tìm kiếm khai thác dầu khí có tính quốc tế. - Chuẩn bị chương trình ngân sách cho hoạt động đầu tư nước ngoài. - Lựa chọn đối tác hợp tác lâu dài, bình đẳng cùng có lợi. 8. Phát triển công nghiệp chế biến dầu khí Việc phát triển công nghiệp chế biến dầu khí là một yếu tố vô cùng quan trọng giúp chúng ta tiết kiệm được ngoại tệ từ việc giảm lượng dầu khí đã qua chế biến từ nước ngoài để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Hiện tại, chúng ta vẫn phải nhập khẩu gần như 100% sản phẩm dầu khí từ bên ngoài. Để phát triển công nghiệp chế biến dầu khí, trong những năm tới thì những giải pháp cần thực hiện là: - Lựa chọn hợp lý các dự án lọc hoá dầu có tính đến các yếu tố địa lý, điều kiện kinh tế xã hội để vừa tạo thuận lợi cho các hoạt động lọc hoá dầu sau này, vừa thúc đẩy được sự phát triển kinh tế xã hội ở các vùng đặt địa điểm dự án và những vùng kế cận. -Tăng cường phát triển công nghiệp khí đốt để cung cấp khí cho các nhà máy phát điện, tiếp tục sản xuất LPG phục vụ nhu cầu trong nước. - Trước mắt cần nhanh chóng hoàn thành nhà máy lọc dầu số 1 để từng bước cung cấp sản phẩm dầu khí cho thị trường nội địa. Dự kiến nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất sẽ đi vào hoạt động vào năm 2005. - Tăng cường cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy hoá dầu trong tương lai. 9. Cải thiện môi trường lao động và công tác bảo vệ môi trường. 9.1. Điều kiện lao động trong ngành dầu khí Điều kiện lao động trong ngành công nghiệp dầu khí rất đa dạng nhưng những nơi có môi trường làm việc tốt, phù hợp với các tiêu chuẩn cần thiết thường là các văn phòng hành chính, phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm, còn các cơ sở sản xuất trực tiếp trên các công trường của các công ty trong ngành dầu khí thì vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được cải thiện như việc chống ồn, chống rung, nắng nóng, bụi, hệ thống thông gió và cấp nước sinh hoạt. Hiện nay, toàn ngành dầu khí có khoảng 25% - 30% công nhân phải làm việc ngoài trời chịu ảnh hưởng trực tiếp của nắng, gió, bức xạ nhiệt. Việc trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân đối với người lao động vẫn còn hạn chế. Để cải thiện điều kiện lao động, nâng cao năng suất lao động trên các cơ sở sản xuất cần phải: - Nghiên cứu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về điều kiện môi trường lao động phục vụ công tác sức khoẻ, an toàn và môi trường trong ngành dầu khí. - Tiếp tục điều ra và thống kê cập nhật đánh giá về tai nạn, sự cố trên các cơ sở công trình trong ngành dầu khí. - Nghiên cứu mối quan hệ giữa điều kiện môi trường lao động và các bệnh nghề nghiệp trong ngành dầu khí, đề xuất các biện pháp kỹ thuật làm giảm nguy cơ bệnh nghề nghiệp. - Nghiên cứu, đánh giá chuyên đề các nghề nghiệp nặng nhọc, độc hại, đề xuất chế độ hợp lý nhằm phục hồi sức khoẻ cho người lao động. - Việc phân loại lao động hiện nay chủ yếu tập trung vào các đối tượng lao động chân tay và dựa trên cơ sở mức tiêu hao năng lượng và tần số mạch của người lao động trong quá trình sản xuất có lưu ý tới tính độc hại của môi trường lao động để đề xuất các chế độ lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như sự phát triển của cơ chế thị trường có hàng loạt các yếu tố cần được chú ý, nghiên cứu và xem xét khi phân loại lao động và xây dựng chế độ đó là: Mức độ căng thẳng thần kinh, tâm lý khi làm việc; chế độ ca và thời gian lao động; điều kiện và môi trường lao động hiện hữu. Tất cả các yếu tố trên cần được đưa vào một hệ phân loại một cách định lượng để có được sự khách quan và tin cậy. 9.2. Công tác bảo vệ môi trường Đây là vấn đề rất cần được sự quan tâm để giảm thiểu những tác động xấu đến môi trường. Cần nghiên cứu, phát triển đưa vào ứng dụng những công nghệ hiện đại, không gây ảnh hưởng đến môi trường. Trước mắt, phải xây dựng và phát triển các đường ống dẫn khí và xử lý được khí đồng hành để không phải đốt ngoài khơi gây ảnh hưởng đến không khí và môi trường, đồng thời không tận dụng được nguồn khí này. III. Một số kiến nghị đối với nhà nước Để đảm bảo duy trì và tăng sản lượng khai thác dầu khí hàng năm, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa khâu khai thác thăm dò nhằm phát hiện và gia tăng trữ lượng hàng năm bình quân khoảng 50- 70 triệu m3 quy dầu, để đạt được mục tiêu này đòi hỏi nhịp độ khoan khai thác thăm dò hàng năm khoảng 10 - 15 giếng/năm với vốn đầu tư rất lớn (120 - 170 triệu USD/năm). Bởi vậy, cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với vùng nước sâu, xa bờ nhằm thu hút vốn, công nghệ cao và kinh nghiệm của các công ty dầu khí quốc tế. ã Nhà nước cần có các chính sách theo hướng mở rộng và khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, xây dựng một hệ thống luật lệ và chính sách mềm dẻo, dễ áp dụng, dễ hiểu và rõ ràng; có các chính sách thuế và hỗ trợ cho hoạt động dầu khí nói chung và hoạt động hạ nguồn nói riêng, đặc biệt cho các dự án sản xuất nhiên liệu cơ bản cho hoá dầu nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hiện nay, nước ta chỉ có luật dầu khí cho lĩnh vực thượng nguồn, còn đối với các hoạt động hạ nguồn, chưa có một văn bản pháp quy nào để khuyến khích phát triển. Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của tổng công ty nhằm tạo điều kiện cho tổng công ty thực sự tự chủ về tài chính. Tổng công ty dầu khí phải được coi là một doanh nghiệp kinh doanh thực thụ, được áp dụng tất cả các chính sách, chế độ như các doanh nghiệp kinh doanh khác, được toàn quyền quyết định đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh của mình trong khuôn khổ chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của tổng công ty, chỉ quản lý tổng công ty bằng các công cụ vĩ mô như thông qua hệ thống pháp luật, hệ thống thuế... tách biệt chức năng quản lý nhà nước về dầu khí và chức năng quản lý của tổng công ty. ã Nhà nước có chính sách và quy hoạch phát triển công nghệ sử dụng khí trong nước, thúc đẩy thị trường tiêu thụ khí ở Việt Nam. ã Nhà nước cho phép tổng công ty bán LPG theo giá sát giá thị trường, cụ thể là giá bán LPG của tổng công ty không cố định ở mức giá nhập khẩu mà được điểu chỉnh ở mức giá hợp lý theo giá thị trường để tăng lợi nhuận. ã Nhà nước sớm phê duyệt cơ chế đầu tư thăm dò khai thác dầu khí ra nước ngoài, có chính sách hỗ trợ vốn rủi ro để đầu tư thăm dò gia tăng trữ lượng dầu khí hỗ trợ bằng cấp vốn hoặc cho phép Tổng Công ty hàng năm để lại từ 30 - 50% triệu USD/năm từ lợi nhuận trước thuế để khai thác dầu. ã Nhà nước sớm ban hành kế hoạch quốc gia về ứng cứu sự cố tràn dầu để làm cơ sở cho các ngành kinh tế và các địa phương trong nước có thể xây dựng kế hoạch cứu dầu tràn riêng cho các hoạt động của mình hay riêng khu vực địa phương của mình. Do hạn chế về mặt tài chính trong những năm trước mắt, Nhà nước khó có kinh phí để thiết lập các trung tâm ứng cứu tràn dầu quốc gia. Vì vậy, thích hợp nhất là đầu tư cho ngành dầu khí xây dựng một trung tâm nghiên cứu tràn dầu tầm cỡ quốc gia ở Vũng Tàu dựa trên cơ sở nhân lực, trang thiết bị mặt bằng của hai đơn vị ứng cứu tràn dầu hiện nay của Petrovietnam để ứng cứu tràn dầu cấp quốc gia ở khu vực biển Đông Nam Bộ và phục vụ ứng cứu tràn dầu cho các hoạt động dầu khí của PetroVietnam ở khu vực này. Để tăng cường công tác quản lý và giải quyết hậu quả của các sự cố tràn dầu Nhà nước nên sớm ban hành các văn bản dưới luật có liên quan tới công tác đền bù ô nhiễm môi trường do các sự cố tràn dầu gây ra nhằm giúp nhanh chóng giải quyết hậu quả của các sự cố tràn dầu đã và đang xảy ra ở Việt Nam. ã Tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các quốc gia, các tổ chức kinh tế, các thiết chế trên thế giới. Củng cố quan hệ truyền thống với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nga, Australia, EU... đồng thời phát triển quan hệ với các nước Trung Âu, Châu Phi, Mỹ Latinh, Mỹ. Việc ký kết các hiệp định kinh tế, thương mại là cơ sở mở ra nhiều triển vọng cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lĩnh vực xăng dầu-dầu khí nói riêng. Tích cực tham gia và củng cố vai trò của Việt Nam trong hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), tranh thủ ưu thế là thành viên chính thức trong hai tổ chức kinh tế quốc tế này để thúc đẩy quá trình hội nhập. Đẩy nhanh tiến độ lên lô trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Kêu gọi các dự án tài trợ, đầu tư của các tổ chức như: tổ chức phát triển công nghiệp thuộc liên hiệp quốc UNIDO, Ngân hàng thế giới... ã Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dầu khí nói riêng rất cần đến các nguồn thông tin và thị trường công nghệ... Bởi vậy nhà nước cần có chiến lược tổng thể trong việc cung cấp thông tin cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp tự tìm kiếm thông tin cho mình. Kết luận Ngày nay, dầu mỏ và khí đốt vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu, có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của hầu hết các nước trên thế giới. Đối với Việt Nam thì nguồn năng lượng này lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Được thiên nhiên ưu đãi về nguồn dầu khí, trữ lượng dầu mỏ và khí đốt ở thềm lục địa và ngoài khơi Việt Nam là khá lớn. Ngành dầu khí Việt Nam ra đời từ những năm 1970. cho đến nay, trải qua gần 30 năm xây dựng và trưởng thành, ngành dầu khí Việt Nam đã trải qua một chặng đường không ít khó khăn và thử thách. Mặc dù vậy, ngành dầu khí Việt Nam vẫn chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân của nước ta. Đặc biệt, trong những năm qua, các hoạt động thăm dò, khai thác và xuất khẩu dầu khí ở Việt nam đã có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với công công cuộc nghiệp hóa-hiện đại hóa nền kinh tế. Tuy nhiên, để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc phát triển ngành dầu khí nước ta theo quy mô rộng lớn hơn, hiện đại hơn, tương xứng với tiềm năng dầu khí của đất nước là một yếu tố vô cùng quan trọng và thiết yếu. Khoá luận này đã khái quát chung về tiềm năng dầu khí của nước ta, phân tích thực trạng khai thác và xuất khẩu dầu khí ở Việt Nam đồng thời trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển ngành dầu khí Việt Nam trong thời gian tới. Khoá luận này được hoàn thành bởi những kiến thức được tích luỹ trong suốt hơn bốn năm học, niềm say mê và tinh thần trách nhiệm của một sinh viên năm cuối Trường Đại học Ngoại Thương. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian, tài liệu thu thập và khả năng nghiên cứu, khoá luận không tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn. Danh mục tài liệu tham khảo Sách: Công nghiệp dầu khí và nguồn nhân lực, Tiến sỹ Trần Ngọc Toản, Giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Đức Trí, NXB Thanh niên năm 2000 Vietsovpetro 20 năm xây dựng và phát triển, NXB Chính trị quốc gia 2001 Viện dầu khí: 25 năm xây dựng và trưởng thành Dầu khí và dầu khí ở Việt Nam, Trần Mạnh Trí, NXB Khoa học kỹ thuật 1996 Dầu mỏ và khí thiên nhiên ngày nay, Đào Bích Thảo, NXB Khoa học kỹ thuật 1976 Công nghệ và kỹ thuật khai thác dầu khí, Phùng Đình Thực, Dương Danh Lam, Lê Bá Tuấn, Nguyễn Văn Cảnh, NXB Giáo dục 1999 Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo dục 2002 Kinh tế Việt Nam 2002, NXB chính trị quốc gia Báo, tạp chí: Tạp chí dầu khí các năm 2001, 2002, 2003 Tạp chí thông tin dầu khí thế giới năm 2003 Tạp chí Nghiên cứu Châu Mỹ 2003 Tạp chí Thông tin Kinh tế Xã hội số 11 năm 2003 Tạp chí Chiến lược chính sách công nghiệp năm 2003 Tạp chí Ngoại thương các năm 2002, 2003 Tạp chí Nghiên cứu kinh tế năm 2003 Thời báo kinh tế Việt Nam các năm 2002, 2003 Báo Công nghiệp Việt Nam năm 2003 Petrovietnam review 2003 Vietnam Economic Time, September 2003 Trang web: www.petrovietnam.com.vn www.vnexpress.net www.vinaseek.com Phụ lục Hiện trạng các hợp đồng dầu khí TT Nhà điều hành Lô Bể Ngày ký Hợp đồng % PV Hiện trạng 1 BP/ONGC 06, 12E NCS 18/05/88 PSC 10 Giữ lại lô 06-1, đang phát 2 Shell 112, 114 SH 15/06/88 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 3 Total 106, 103 SH 21/11/88 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 4 BP 117, 118 SH 16/02/89 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 5 Enterprise 17 CL 14/04/89 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 6 Enterprise 21 NCS 14/04/89 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 7 Cairn 22 NCS 27/02/90 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 8 Ipl 115 SH 27/02/90 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 9 Seeptre 111 SH 22/05/90 PSC Không hoàn thành cam kết, hợp đồng hết hiệu lực 10 PetroCanada 03, 12W NCS 28/05/90 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 11 Fina 46, 50 TN 08/08/90 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 12 BHP 120, 121 PK 10/01/91 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 13 Petronas 01, 02 CL 09/09/91 PSC 15 Giữ lại lô 01-a, đang khai thác 14 Shell 10 NCS 27/04/92 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 15 KNOC 11-2 NCS 19/05/92 PSC Chờ phát triển 16 BP 05-3 NCS 04/06/92 PSC 15 Phát hiện khí, chưa thẩm 17 BP 05-2 NCS 09/06/92 PSC 17,5 Chờ phát triển 18 Togi 11-1 NCS 09/07/92 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 19 Lasmo 04-2 NCS 19/08/92 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 20 Idemitsu 102/91 SH 30/09/92 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 21 JVPC 15-2 CL 06/10/92 PSC 17,5 Đang khai thác mỏ Rạng 22 Oxy 04-3 NCS 22/10/92 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 23 Bristish Gas 04-1 NCS 28/10/92 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 24 BHP Đại NCS 14/04/92 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 25 M & P ĐBSH THN 23/07/93 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 26 OMV 104 SH 20/08/93 PSC Đang thẩm lượng 27 Talisman MP3-CAA TN 24/08/93 PSC 12,5 Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 28 MJC 05-1B NCS 19/04/94 PSC Đang khai thác dầu 29 Canadian Oxy 12W NCS 16/11/94 PSC Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 30 Conoco 133, 134 NCS 10/04/96 BCC 30 Hoàn trả lô, hợp đồng hết hiệu lực 31 Unocal B&48/95 TN 27/05/96 PSC 23,5 Hợp đồng đang thực hiện 32 Opeco 12E NCS 19/09/97 PSC Phát hiện khí, chờ thị trường 33 Cửu Long 15-1 CL 25/10/98 JOC 50 Phát hiện khí, chờ thị trường 34 Vamex 07&08 NCS 27/07/99 PSC Phát hiện dầu, đang phát 35 Unocal 52/97 TN 19/10/99 PSC 30 Hợp đồng đang thực hiện 36 Hoàng Long 16-1 CL 15/12/99 JOC 41 Phát hiện khí, chờ thị trường 37 ATI 102, 106 SH 24/02/00 PSC 20 Hợp đồng đang thực hiện 38 Conoco 16-2 CL 27/04/00 PSC 30 Hợp đồng đang thực hiện 39 Vietgasprom 112 SH 09/09/00 JOC 50 Hợp đồng đang thực hiện 40 OMV 111 SH 19/09/00 PSC Hợp đồng đang thực hiện 41 Samedan 12W NCS 21/11/00 PSC Hợp đồng đang thực hiện 42 Hoàn Vũ 09-2 CL 20/12/00 JOC 50 Hợp đồng đang thực hiện 43 PV-Petronas 10 NCS 08/01/02 JOC 40 Hợp đồng đang thực hiện 44 PV-Zarubeznheft (Nga)-Idemitsu 09-3 CL 19/01/02 JOC 35 Hợp đồng đang thực hiện 45 PVEP-Talisman (Canada) Petronas 46.2, 50-51 Malai-Thổ Chu 02/02 JOC 40 Hợp đồng đang thực hiện 46 PVEP-Petronas 01-97 và 02-97 CL 1/03 JOC 50 Hợp đồng đang thực hiện Nguồn: Viện Dầu khí 25 năm xây dựng và trưởng thành ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhai thac va xk dau khi.doc
  • docBiaNguyen.doc
Tài liệu liên quan