Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, bên cạnh việc phát triển kinh tế, đời sống văn hoá - xã hội ngày càng được cải thiện và nâng cao thì nhu cầu du lịch lại càng tăng, đặc biết là ở các nước có nền kinh tế phát triển, các nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự phát triển của ngành du lịch đã trở thành một hiện tượng cuốn hút hàng tỷ người trên thế giới, mang lại nhiều lợi ích to lớn, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển.
Cùng với sự phát triển du lịch thế giới,
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Khai thác làng nghề phục vụ mục đích du lịch ở tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong thời gian qua nhờ các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chính sách mở cửa về đối ngoại và kinh tế nên ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.
Nằm trong chiến lược phát triển chung của cả nước, du lịch Bắc Ninh cũng được chú trọng và được coi là một điểm du lịch vệ tinh của Hà Nội.
Bắc Ninh là mảnh đất nơi sinh của dân tộc Việt, quê hương của các vua nhà Lý - triều đại khai mở nền văn minh Đại Việt, một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi còn lưu giữ và bảo tồn những di sản văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc. Xung quanh Bắc Ninh là các điểm du lịch đặc biệt quan trọng của quốc gia như: Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương), Hà Nội ngàn năm văn hiến, Hạ Long - di sản thiên nhiên thế giới. Bắc Ninh cũng nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt từ Hà Nội đi Lạng Sơn lên phía Bắc và vào Nam theo 2 tuyến đừng bộ và đường sắt quốc gia. Đây còn là một thị trường còn bỏ ngỏ, có tiềm năng kinh tế, giàu truyền thống văn hoá, giàu tính nhân văn. Nhìn chung, với bề dày lịch sử và những di sản văn hoá phong phú và vị trí thuận lợi, Bắc Ninh có đầy đủ điều kiện và khả năng để phát triển du lịch. Việc phát triển du lịch văn hoá Bắc Ninh đặc biệt là phát triển du lịch làng nghề Bắc Ninh là một hướng mới để phát triển du lịch tỉnh nhà.
Đề tài “Khai thác làng nghề phục vụ mục đích du lịch ở tỉnh Bắc Ninh” được thực hiện với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển du lịch tỉnh, làm tăng lòng tự hào về quê hương, đất nước con người Việt Nam.
2. Mục đích, giới hạn và nhiệm vụ đề tài
2.1. Mục đích
Vận dụng cơ sở lý luận và phương pháp luận về làng nghề và du lịch để đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn và tiềm năng phát triển du lịch làng nghề tỉnh Bắc Ninh.
2.2. Nhiệm vụ
- Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của các làng nghề tỉnh Bắc Ninh.
- Khảo sát, đánh giá khả năng phát triển du lịch của các làng nghề tỉnh Bắc Ninh.
- Xây dựng một số tuyến du lịch chuyên đề về làng nghề và tuyến du lịch kết hợp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Bước đầu đưa ra một số định hướng, giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Bắc Ninh.
2.3. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong lĩnh vực tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là các làng nghề tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống: để tìm kiếm và nêu lên
các mô hình của đối tượng nghiên cứu, thu thập, phân tích thông tin ban đầu. Từ đó vạch ra chỉ tiêu, định hướng thích hợp.
- Phương pháp khảo sát thực địa: nhằm thẩm định lại và bổ sung nguồn tư liệu đã có và kiểm chứng lại những kết quả xử lý tư liệu, đánh giá tại chỗ những kết luận khoa học của khoá luận.
- Phương pháp bản đồ: khoá luận sử dụng một hệ thống bản đồ chức năng để nghiên cứu, bao gồm: bản đồ hành chính, bản đồ hiện trạng làng nghề để đánh giá mức độ tập trung, mức độ phân hoá các làng nghề giữa các vùng lãnh thổ và bản đồ các tuyến điểm du lịch làng nghề trên địa bàn tỉnh.
- Phương pháp phân tích tổng hợp số liệu: để thực hiện khoá luận, việc tiến hành nghiên cứu thu thập các tài liệu liên quan như: giáo trình, sách báo, tạp chí, báo cáo... rất cần thiết để từ đó tổng hợp, phân tích và đưa ra kết luận.
- Phương pháp toán và thống kê du lịch: được vận dụng để thống kê các di tích lịch sử văn hoá, các làng nghề, thống kê đánh giá lượng khách, tỷ lệ doanh thu... để từ đó xác định hiệu quả kinh tế.
4. Những đóng góp và những điểm mới của khoá luận
Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bắc Ninh
Phân tích thực trạng hoạt động của các làng nghề Bắc Ninh
Đánh giá tiềm năng du lịch của các làng nghề Bắc Ninh
Xây dựng một số tuyến du lịch làng nghề và du lịch kết hợp của tỉnh.
Bước đầu đưa ra một số định hướng và giải pháp để phát triển du lịch làng nghề Bắc Ninh
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của khoá luận bao gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng hoạt động làng nghề Bắc Ninh
Chương III: Phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh
Chương IV: Những định hướng và giải pháp
Chương I
Những cơ sở lý thuyết chung
1. Quan điểm và đặc điểm của làng nghề
1.1. Một số quan niệm làng nghề và ngành nghề truyền thống
Trong xã hội nông thôn Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, làng đã là một tế bào xã hội. Làng Việt Nam có một vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử dân tộc. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, những nét thuần phong mỹ tục cổ truyền ở nông thôn vẫn được duy trì và phát triển cho đến ngày nay.
Từ buổi ban đầu, phần lớn người dân trong làng đều sinh sống bằng nông nghiệp. Về sau để đáp ứng những nhu cầu về sản xuất và sinh hoạt, có những bộ phận dân cư chuyển sang làm và sống bằng các nghề thủ công khác. Họ liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành các phường hội: phường gốm, phường đúc đồng, phường dệt vải, phường làm mộc... Từ đó các nghề được lan truyền và hình thành lên các làng nghề. Trải qua một thời gian dài phát triển đã có rất nhiều làng nghề phát triển mạnh, số hộ, số lao động làm nghề truyền thống và sống bằng nghề đó ngày càng tăng nhanh.
Hiện nay có một số quan niệm về làng nghề như sau:
Làng nghề là làng, tuy vẫn có trồng trọt, chăn nuôi và một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ....) song đã nổi trội một nghề truyền thống, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường hội, có quy trình công nghệ nhất định, sống chủ yếu bằng nghề đó, sản xuất ra những mặt hàng thủ công, mỹ nghệ có tính hàng hoá... [13]
Quan niệm này hàm ý về các làng nghề truyền thống, đó là những làng nghề nổi tiếng và đã tồn tại từ hàng ngàn năm nay.
Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời. Tại đây có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những quy ước của xã hội và gia tộc. [14]
Như vậy làng nghề là một thiết chế gồm 2 yếu tố cấu thành là “làng” và “nghề”. Các làng nghề gắn bó với các ngành nghề phi nông nghiệp, các ngành nghề thủ công ở trong các thôn làng.
Một số quan niệm khác lại cho rằng, làng nghề là làng ở nông thôn có một (hoặc một số) nghề thủ công tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập. Về mặt định lượng, có thể hiểu làng nghề là một làng ở nông thôn có từ 35% - 40% số hộ trở lên chuyên làm một (hoặc một số) nghề thủ công nghiệp và có thể sinh sống bằng chính thu nhập của nghề đó (thu nhập của nghề chiếm trên 50% tổng thu nhập của các hộ và giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% giá trị sản lượng của địa phương). [22]
Có thể nói đây là một quan niệm tương đối đầy đủ về làng nghề hiện nay. Tuy nhiên, chỉ tiêu định hướng trên chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì đối với từng loại làng nghề khác nhau thì tỷ lệ nói trên cũng khác nhau. Hơn nữa, quy mô về số hộ và số lao động của các làng và các vùng cũng chênh lệch nhau đáng kể. Mặt khác, cùng với sự thăng trầm trong quá trình phát triển của từng nghề và làng nghề mà số lượng hộ và lao động làm nghề có sự biến đổi theo từng giai đoạn khác nhau.
Trước đây khái niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp. Ngày nay trên thế giới, khu vực kinh tế thứ 3 đang đóng vai trò quan trọng và trở thành lĩnh vực chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng, thì các nghề buôn bán dịch vụ ở nông thôn cũng được xếp vào các làng nghề. Như vậy trong làng nghề sẽ có làng một nghề và có làng nhiều nghề, có làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
- Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại, hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có lác đác ở một vài hộ không đáng kể.
- Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỷ trọng các nghề chiếm ưu thế gần tương đương nhau. Trong nông thôn Việt Nam trước đây loại làng nghề một nghề xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh.
- Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử (từ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm) và tồn tại đến ngày nay.
- Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan toả của các làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hoá và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, công nghệ sản xuất trong các làng nghề không còn hoàn toàn là thủ công mà có rất nhiều nghề, nhiều công đoạn sản xuất đã sử dụng công nghệ - kỹ thuật, cơ khí hiện đại và bán cơ khí. Tại các làng nghề cũng đã xuất hiện nhiều hộ, nhiều cơ sở chuyên làm dịch vụ đầu ra, đầu vào cho các hộ làm nghề khác.
Như vậy, làng nghề được hiểu một các đầy đủ là những làng ở nông thôn tồn tại các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và số thu nhập so với nghề nông.
Đối với những ngành nghề được xếp vào những ngành nghề tiểu thủ công truyền thống nhất thiết phải có các yếu tố sau:
- Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta.
- Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề.
- Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề đông đảo.
- Kỹ thuật và công nghệ mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam
- Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước là chủ yếu.
- Sản phẩm mang tính truyền thống và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất lượng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn hoá mang bản sắc của dân tộc Việt Nam.
- Là nghề nghiệp nuôi sống bộ phận dân cư trong cộng đồng, đóng góp đáng kể vào ngân sách của Nhà nước.[14]
Như vậy, nghề thủ công truyền thống là những ngành nghề phi nông nghiệp, đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử còn tồn tại tới ngày nay. Nó bao gồm cả các ngành nghề mà phương pháp sản xuất đã được cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống, thể hiện được nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Ngành nghề truyền thống ở nước ta rất phong phú và đa dạng. Nhiều ngành nghề đã tồn tại từ hàng ngàn năm, nhiều mặt hàng truyền thống đã nổi tiếng khắp thế giới từ lâu đời. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ nên nhiều sản phẩm mới ra đời, có ưu thế và có sức cạnh tranh hơn những sản phẩm truyền thống. Vì vậy mà xuất hiện xu thế một số ngành nghề truyền thống dần dần bị mất đi và một số ngành nghề mới xuất hiện để phù hợp với đòi hỏi khách quan của thị trường về cơ cấu, chất lượng và chủng loại sản phẩm.
1.2 Một số đặc điểm của làng nghề Việt Nam
1.2.1 Làng nghề tồn tại ở nông thôn và gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp
Các làng nghề đều ra đời ở nông thôn sau đó tách dần khỏi nông nghiệp nhưng không rời khỏi nông thôn. Sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân. Các gia đình nông dân vừa làm ruộng vừa làm nghề thủ công nghiệp. Sự ra đời của các làng nghề đầu tiên là do nhu cầu giải quyết lượng lao động phụ, lao động dư thừa nhàn rỗi giữa các mùa vụ và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của từng gia đình và của làng xã. Về sau khi các nghề thủ công phát triển nó không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân trong làng mà còn phục vụ cho nhu cầu của làng xã lân cận trong vùng. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển thì thủ công nghiệp tách ra thành một ngành độc lập, vươn lên thành ngành sản xuất chính ở một số làng. Song để đảm bảo cuộc sống, người dân bao giờ cũng vẫn duy trì nghề nông và đi buôn bán hoặc làm thêm nghề khác. Sự kết hợp đa nghề này thường được thể hiện trong một làng hay trong từng gia đình nhưng nó vẫn gắn chặt với nông thôn. Làng nghề là một điểm đặc trưng của nông thôn châu á, của phương thức sản xuất châu á.
1.2.2 Công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu.
Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm sản xuất phải hoàn toàn dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ. Có một số nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ mà chính bản thân người thợ có thể tự làm ra. Hiện nay, đã có sự cơ khí hoá và điện khí hoá từng bước trong công nghệ - kỹ thuật sản xuất song cho tới nay cũng chỉ có một số không nhiều có khả năng cơ giới hoá được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm.
1.2.3 Đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ
Hầu hết các làng nghề được hình thành dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có trên địa bàn địa phương. Đặc biệt là các nghề thủ công chuyên sản xuất những sản phẩm tiêu dùng như đan lát mây tre, chế biến lương thực thực phẩm (làm bánh, làm tương, làm mắm...), sản xuất vật liệu xây dựng... Một số ngành nghề còn có thể tận dụng những phế liệu, phế phẩm trong công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để làm nguyên liệu nên càng có sẵn. Thậm chí một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chạm khảm, sơn mài... cũng có thể khai thác được nguồn nguyên liệu tại chỗ, địa phương hoặc trong nước. Cũng có một số nguyên liệu phải nhập ngoại song không nhiều.
1.2.4 Phần lớn lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, óc thẩm mỹ đầy tính sáng tạo của các nghệ nhân và những người thợ. Phương pháp dạy nghề chủ yếu theo phương thức truyền nghề .
Lao động trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống chủ yếu là lao động thủ công . Trước đây, hầu hết các công đoạn trong qui trình sản xuất đều là lao động thủ công giản đơn. Ngày nay do khoa học kỹ thuật phát triển nhiều công đoạn sản xuất đã được áp dụng công nghệ mới song với một số sản phẩm vẫn đòi hỏi phải duy trì kỹ thuật thủ công tinh xảo ở một số công đoạn nhất định. Hầu hết các làng nghề dù được hình thành bằng con đường nào đi chăng nữa thì cùng đều phải có các nghệ nhân làm nòng cốt, là người phát triển các làng nghề. Nghệ nhân đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các làng nghề. Mỗi làng đều có một tổ nghề là người thầy đầu tiên dạy nghề, truyền nghề, đem bí quyết nghề nghiệp ở nơi khác về truyền cho làng mình.
Việc dạy nghề, trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong gia đình từ đời này sang đời khác, ít được phổ biến ra ngoài. Thậm chí có những bí quyết nghề không được truyền cho con gái, vì vậy hầu hết các nghề chỉ được lưu truyền trong phạm vi từng làng nghề. Sau này khi các hợp tác xã làm nghề thủ công, các trung tâm dạy nghề ra đời thì phương thức dạy nghề, truyền nghề có nhiều thay đổi, các bí quyết nghề nghiệp không còn được giữ bí mật như trước nữa. Phương thức đào tạo nghề hiện nay chủ yếu theo lối truyền nghề kèm cặp.
1.2.5 Sản phẩm các làng nghề mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc dân tộc.
Có thể nói mỗi sản phẩm của làng nghề là một tác phẩm nghệ thuật. Các sản phẩm này vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao vì chúng vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí. Mỗi sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh sảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Các hàng thủ công truyền thống thường mang tính cá biệt và có sắc thái riêng của mỗi làng nghề.
Các sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam vừa phản ánh những nét văn hoá chung của dân tộc vừa có những nét riêng của làng nghề. Ngay cả những người Việt Nam sống ở nước ngoài khi nhớ về quê hương là nhớ ngay đến các dấu ấn đậm nét của mỗi làng nghề với những sản phẩm độc đáo. Như vậy làng nghề truyền thống không chỉ là những đơn vị kinh tế, thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu mà còn mang nét đặc trưng tiêu biểu của nền văn hoá dân tộc, văn hoá cộng đồng làng xã Việt Nam.
1.2.6. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính địa phương, tại chỗ, nhỏ hẹp:
Sự ra đời của các làng nghề là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ của các địa phương. ở mỗi một làng nghề hoặc cụm làng nghề đều có các chợ làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay, thị trường chính để tiêu thụ các sản phẩm của các làng nghề vẫn là địa phương, trên địa bàn tỉnh hay liên tỉnh. Làng nghề thủ công trong một thời gian dài đã phát triển theo một lối mòn đó là đáp ứng thị hiếu quen thuộc và nhỏ hẹp của một bộ phận dân cư, yếu tố cạnh tranh hầu như không có. Vì vậy khi bước vào cơ chế thị trường các làng nghề này đã gặp những khó khăn không nhỏ. Tuy nhiên, các sản phẩm thuộc nhóm hàng thủ công mỹ nghệ có thị trường tiêu thụ phong phú, đa dạng và rộng lớn hơn. Các sản phẩm này vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân địa phương trong nước, vừa để xuất khẩu. Trong đó nhu cầu để xuất khẩu và bán cho khách tham quan du lịch thường chiếm tỷ trọng lớn.
1.2.7. Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.
Cho tới nay, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong các làng nghề là hộ gia đình. Với hình thức này, hầu như tất cả các thành viên trong gia đình đều tham gia vào những công việc khác nhau trong quá trình sản xuất - kinh doanh. Tuỳ thuộc vào nhu cầu công việc mà các hộ gia đình có thể thuê thêm nhân công thường xuyên hoặc thời vụ. Đây là hình thức tổ chức thích hợp với quy mô sản xuất nhỏ. Tuy nhiên mô hình này hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển sản xuất - kinh doanh.
Tổ sản xuất là hình thức hợp tác, liên kết một số hộ gia đình cùng sản xuất - kinh doanh một mặt hàng. Đây là hình thức sản xuất được phát triển trong các làng nghề vì nó làm tăng sức mạnh cho từng thành viên để phát triển sản xuất - kinh doanh có hiệu quả.
Các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần được phát triển từ một số tổ chức sản xuất hoặc một số hộ gia đình sản xuất - kinh doanh khá đã bắt đầu hình thành ở nhiều làng nghề. ở một số làng nghề, hình thức sản xuất - kinh doanh này không chiếm tỷ trọng lớn về số lượng lao động song lại đóng vai trò trung tâm liên kết, thực hiện các hợp đồng đặt hàng với các hộ gia đình, giải quyết đầu ra, đầu vào, nơi sản xuất của các làng nghề với các thị trường tiêu thụ khác nhau.
1.3. Phân loại làng nghề
Nếu dựa trên sản phẩm và phương thức sản xuất chính để phân loại thì có 6 loại làng nghề sau:
- Làng nghề thủ công: làm ra các mặt hàng sử dụng hàng ngày như: dao, kéo, chiếu, mây tre đan gia dụng... Đặc điểm của các làng nghề này là sản xuất thủ công bằng tay và các công cụ đơn giản. Do chi phí thấp nên loại hình này khá phổ biến.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: làm ra các mặt hàng có giá trị văn hoá nghệ thuật và trang trí như đồ mỹ nghệ chạm khảm, chạm khắc tượng gỗ, đá, các đồ mỹ nghệ bằng bạc, đồ thêu ren, dệt thảm, chế biến mây tre đan...
- Làng nghề công nghiệp: sản xuất các hàng hoá thành phẩm và bán thành phẩm như sản xuất giấy, dệt, may mặc, gốm sứ, tái chế nhựa, kim loại, thuộc da...
- Làng nghề chế biến lương thực thực phẩm: chế biến các loại nông sản như xay xát, sản xuất miến dong, bún, bánh, sản xuất bia, nấu rượu, giết mổ vật nuôi, chế biến hoa quả...
- Làng nghề sản xuất và cung ứng nguyên liệu: sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vôi, cát...
- Làng nghề buôn bán và dịch vụ: thực hiện bán buôn, bán lẻ và cung cấp dịch vụ.
Nói tóm lại, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống với các sản phẩm mang đậm dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc. Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Khởi đầu sự phát triển đó là từ một vài gia đình rồi đến cả họ và sau đó lan ra cả làng. Thông qua lệ làng mà làng nghề định ra một số quy ước như: không truyền nghề cho người làng khác, không truyền nghề cho con gái hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí quyết nghề... Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, có những nghề được lưu giữ đến tận ngày nay, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và cũng có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ nghệ thuật tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và sự phân công lao động khá cao.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của làng nghề
Vào buổi đầu dựng nước của người Việt Cổ (cách đây khoảng 4000 năm) đã là thời đại kim khí với nền văn hoá Phùng Nguyên Đông Sơn. Theo các nhà khảo cổ học, qua nhiều năm nghiên cứu và khai quật các di chỉ đã khẳng định rằng vào thời kỳ này đã xuất hiện một số nghề thủ công truyền thống như: luyện kim, làm đồ gốm bằng bàn xoay, chế tạo thuỷ tinh, nghề mộc... Những nghề này đã được tổ chức có hệ thống theo cơ cấu làng xã.
Như vậy làng nghề cổ truyền Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Những di chỉ khảo cổ cho biết vào thời kỳ dựng nước (600 năm trước Công Nguyên) các làng nghề đã xuất hiện trên lưu vực sông Hồng khởi đầu cho một mô hình kinh tế xã hội truyền thống. [30]
Mặc dù bị kìm hãm và kém phát triển trong thời kỳ Bắc thuộc nhưng các làng nghề truyền thống Việt Nam vẫn tồn tại trên cơ sở nền nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của ngành nông nghiệp một số nghề thủ công mới cũng xuất hiện ở thời kỳ này như nghề luyện đồng, luyện sắt, sản xuất vật liệu xây dựng... Qua quá trình giao lưu kinh tế - văn hoá với các nước láng giềng đã góp phần thúc đẩy công nghệ sản xuất phát triển. Tiêu biểu như nghề làm giấy, nghề mộc, nghề xây dựng... Dựa vào nguồn tài liệu của các di chỉ khảo cổ thì trong thời kỳ Bắc thuộc nhân dân ta vẫn cố gắng duy trì các làng nghề như nghề làm đá, đúc đồng, làm giấy...
Từ thế kỷ XVI được sự quan tâm của vua quan nhà Lý – Trần, nông nghiệp, thương nghiệp và đặc biệt là thủ công nghiệp có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều ngành nghề thủ công truyền thống đã xuất hiện trong thời kỳ này tiêu biểu như nghề dệt ở Thăng Long, gốm Bát Tràng, đúc đồng... Theo các tài liệu thời kỳ này có khoảng 64 làng nghề truyền thống, riêng Bắc Ninh đã có 14 làng.
Từ thời kỳ Hậu Lê đến nhà Nguyễn các làng nghề truyền thống phát triển mạnh mẽ. ở hầu hết các tỉnh xuất hiện thêm nhiều làng nghề như: dệt, thêu, tơ lụa... Cả vùng đồng bằng sông Hồng có hàng trăm làng nghề trong đó đất Kinh Bắc chiếm số lượng phong phú nhất khoảng 52 làng nghề.
Nửa cuối thế kỷ XIX khi thức dân Pháp xâm lược nước ta chúng vẫn khuyến khích phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống bằng việc đưa các sản phẩm sang Pháp và một số nước để giới thiệu. Song một số ngành nghề vẫn bị mai một, thất truyền. Thời kỳ này cũng du nhập một số nghề từ Pháp và một số nước khác.
Sau Cách mạng tháng Tám cho đến thời kỳ đổi mới năm 1986, làng nghề Việt Nam có những bước phát triển mới. Hàng loạt các tổ chức sản xuất kinh doanh, thu mua xuất khẩu hàng thủ công nghiệp ra đời. Hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu tiêu thụ ở các nước XHCN. Hàng xuất khẩu được chủ yếu dựa trên các hiệp định tương trợ thương mại. Do vậy ít chú ý đến chất lượng sản phẩm dẫn đến làm ẩu, tay nghề của các nghệ nhân giảm xuống do không chịu sáng tạo mẫu mã và đa dạng hoá sản phẩm. Lớp trẻ không còn chú ý tiếp thu các nghề truyền thống nữa. Thời kỳ này các làng nghề gặp nhiều khó khăn, sản xuất bị giảm sút, nhiều làng nghề bị mai một, suy tàn.
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ đầu những năm 90 trở đi với chính sách khuyến khích thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển và việc xác lập kinh tế hộ gia đình, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, giải tỏa những khó khăn ách tắc trong lưu thông, phân phối sản phẩm đã tạo điều kiện cho nhiều làng nghề và ngành nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển, đồng thời mở rộng, phát triển thêm nhiều làng nghề mới ở hầu hết các địa phương trong cả nước.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển của làng nghề
Nghiên cứu sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các làng nghề trong suốt chiều dài lịch sử ta thấy chúng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội. Một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới sự phát triển của các làng nghề gồm có:
3.1. Vị trí địa lý
Đây là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và
đảm bảo sự tồn tại, phát triển lâu dài đối với bất cứ làng nghề thủ công nào ở nước ta.
Hầu hết các làng nghề đều nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông đường thuỷ hoặc đường bộ và gần nguồn nhiên liệu. Tại những lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu, sông Thương... quy tụ rất nhiều làng nghề và đã tạo thành các trung tâm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Nằm ở những đầu mối giao thông này cho phép các làng nghề có thể dễ dàng chuyên chở nguyên vật liêụ cũng như trao đổi và bán sản phẩm không những trong vùng mà còn thông thương với các vùng khác, kể cả xuất khẩu. Đặc biệt, trước kia do điều kiện giao thông đường bộ chưa phát triển thì yếu tố “bến sông bãi chợ” luôn đóng vai trò chính trong việc vận chuyển, buôn bán của làng nghề. Bên cạnh đó, để quyết định mở nghề lập nghiệp, các tổ nghề còn đặc biệt quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu thích hợp cho yêu cầu sản xuất lâu dài. Vì vậy phần lớn các làng nghề đều hình thành nên nghề chính cho mình trên cơ sở nguồn nguyên liêụ sẵn có tại địa phương. Điển hình nhất là các làng gốm Hương Canh, Thổ Hà... Một số làng nghề không có nguồn nguyên liệu tại địa phương (nghề chạm khắc gỗ, nghề song mây đan...) lại có những vị trí gần các bến cảng thuận lợi cho việc chuyên chở nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và bán sản phẩm. Có thể nói, đây là hai yếu tố quyết định tới sự tồn tại lâu dài của làng nghề.
3.2 Nhu cầu của người tiêu dùng và sức ép kinh tế
Từ trước tới nay nhu cầu của con người đối với các mặt hàng thủ công là rất lớn. Đó là các nhu cầu ăn, ở, mặc, nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng, thờ cúng... Trước kia, khi chưa có nền công nghiệp phát triển, mọi loại hàng tiêu dùng từ vật dụng sinh hoạt hàng ngày đến công cụ sản xuất, đồ thờ cúng, kể cả nhạc cụ, vũ khí... đều được làm bằng tay và phương tiện sản xuất khá thô sơ. Các sản phẩm thủ công lúc bấy giờ đều được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt và sản xuất của người dân.
Ngày nay, khi nền công nghiệp cơ khí đã phát triển, một số công đoạn trong sản xuất của các làng nghề đã sử dụng máy móc nhưng nhu cầu về các sản phẩm thủ công truyền thống không vì thế mà giảm đi. Nhu cầu về các sản phẩm thủ công, nhất là các mặt hàng mỹ nghệ, hàng xuất khẩu lại tăng hơn trước rất nhiều. Khi có nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ thì tất yếu phải có sản xuất hàng thủ công. Nhu cầu càng lớn, càng bền vững thì sản xuất ở các làng nghề càng ổn định, phát triển lâu dài. Ngược lại, sự tồn tại và phát triển của các làng nghề cũng phụ thuộc vào khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội, có khả năng tiêu thụ lớn (sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ gia đình, mộc mỹ nghệ...). Tuy nhiên có một số ngành nghề, làng nghề bị mai một, thậm chí bị tan rã do các sản phẩm không còn phù hợp với thị trường, không thay đổi mẫu mã, mặt hàng và bị cạnh tranh bởi hàng công nghiệp (nghề làm nón, làm quạt, làm mật...)
Bên cạnh đó, ta cũng cần quan tâm tới sức ép kinh tế đối với các làng nghề. Các làng nghề xuất hiện trước tiên là để đáp ứng nhu cầu trong sản xuất và tiêu dùng, nhưng cũng có những làng nghề hình thành và phát triển do thiếu điều kiện sản xuất nông nghiệp. Do đất chật, người đông, thu nhập không đảm bảo cho đời sống của dân cư trong vùng đã tạo nên sức ép buộc người dân phải phát triển ngành nghề phi nông nghiệp. Nhiều làng nghề tồn tại và phát triển mạnh mẽ đến ngày nay đều có mật độ dân số cao, diện tích canh tác nông nghiệp trên đầu người thấp, tiêu biểu như làng Ninh Hiệp, làng Đồng Kỵ, làng tranh dân gian Đông Hồ... Có lẽ chính sức ép kinh tế cũng là một trong những nhân tố tạo cho vùng đồng bằng sông Hồng trở thành nơi xuất hiện sớm nhất, tập trung nhất các làng nghề và ngành nghề thủ công.
3.3 Trình độ tay nghề của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, kĩ thuật truyền thống và kinh nghiệm lâu đời của các làng nghề
Đây là một nhân tố rất quan trọng, với đôi bàn tay vàng các nghệ nhân đã tạo lên những sản phẩm quý giá, tinh xảo và độc đáo. Cũng chính họ, những nghệ nhân, thợ cả đã giữ gìn cho làng nghề tồn tại, đã đào tạo ra những nhóm thợ mà trước hết là con em trong gia đình, dòng họ, trong làng... Cứ thế, những thế hệ thợ thủ công kế tiếp, đan xen, đời sau nối tiếp đời trước. Do đó trong mỗi làng nghề thường có một vài ba lớp thế hệ thợ cùng tham gia sản xuất, duy trì và phát triển ngành nghề ngày càng thịnh vượng hơn.
Về kỹ thuật, hầu hết các làng nghề đều sử dụng kỹ thuật truyền thống lâu đời của Việt Nam trong sản xuất. Mỗi nghề đều có kỹ thuật sản xuất riêng bao gồm nhiều công đoạn từ khâu khai thác, chế biến đến hoàn thiện sản phẩm để đưa ra thị trường tiêu thụ. Trong đó còn bao gồm cả thủ pháp nghệ thuật. Có nhiều làng nghề làm chung một nghề, thường có kỹ thuật chung nhưng không vì thế mà các công đoạn kỹ thuật lại giống nhau. Mỗi làng có cách ứng dụng kỹ thuật chung ấy theo cách riêng của mình. Thủ pháp nghệ thuật còn đa dạng hơn nữa bởi mỗi nghệ nhân đều có thủ pháp nghệ thuật riêng dựa trên trình độ sáng tạo và kinh nghiệm riêng của mình. Chính vì thế mà thợ gốm Thổ Hà (Bắc Ninh) rất giàu kinh nghiệm sản xuất loại gốm đỏ, thợ gốm Phù Lãng (Bắc Ninh) lại chuyên sản xuất gốm màu da lươn. Trong khi đó thợ gốm Bát Tràng lại có sản phẩm đặc trưng nhất là gốm sành (gọi là gốm đàn). Bên cạnh đó loại gốm men ngọc, gốm men rạn, men nâu, gốm hoa lam được thợ gốm tài năng của Bát Tràng làm ra trong suốt mấy trăm năm nay đã trở thành sản phẩm tiêu biểu của nghề gốm Việt Nam. Tính đa dạng và khác biệt trong yếu tố kỹ thuật của các nghệ nhân đã tạo lên tính đa dạng phong phú cho các sản phẩm thủ công, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân.
Mặt khác, các nghề cổ truyền trường tồn được chính còn do kinh nghiệm lâu đời của họ. Kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong thủ pháp nghệ thuật của mỗi gia đình, dòng họ, làng nghề thường nằm trong tay các nghệ nhân, thợ cả và truyền từ đời này sang đời khác. Bí quyết đó như một thứ vũ khí bí mật luôn được mỗi người thợ gìn giữ với đầy đủ ý thức và sự cẩn trọng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất có ảnh hưởng tr._.ực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng và giá thành sản phẩm. Do đó để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề cần phải đổi mới trang thiết bị, áp dụng kỹ thuật mới, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại để đưa ra những sản phẩm có chất lượng tốt, giá trị cao.
3.4. Quy chế làng nghề và các chính sách của Nhà nước
Có thể nói đây là nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Các làng nghề thủ công lâu đời đều có các qui chế về nghề thủ công hoặc thành văn bản riêng hoặc được ghi trong các Hương ước của làng. Thậm chí mỗi phường nghề còn có những qui chế riêng dưới dạng “lời thề”, “lời nguyền”. Các qui chế này được truyền qua các thế hệ bắt buộc các thành viên phải thực hiện một cách nghiêm ngặt.
Những qui định này là biện pháp để giữ bí mật, bí quyết nghề nghiệp của những người thợ trong làng nghề . Nó có tác dụng tích cực để duy trì hoạt động lâu dài của mỗi làng nghề . Song sự độc quyền này cũng làm kìm hãm sự phát triển của nghề nghiệp trong phạm vi cả nước.
Để đảm bảo phát triển nghề và làng nghề nhất thiết phải có hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước. Chúng ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển hay suy vong của làng nghề. Ngay từ thời Lý - Trần, khi hàng hoá thủ công và sản phẩm nông nghiệp dồi dào Nhà nước đã cho phép mở các cảng biển Vân Đồn, Vạn Ninh để trao đổi và buôn bán hàng hoá. Nhà nước phong kiến cũng rất khuyến khích nhân dân sản xuất và sử dụng hàng nội hóa. Các Tổ nghề được tôn vinh, các thợ giỏi được mời về kinh đô sản xuất hàng cao cấp phục vụ cho triều đình... những nghệ nhân sản xuất ra các sản phẩm cực kì tinh xảo, những công trình kiến trúc kì vĩ thường được vua ban thưởng, hậu đãi. Trong chiến lược khai thác thuộc địa, người Pháp cũng đã tiến hành những cuộc chấn hưng nghề và làng nghề thủ công Việt Nam. Sau này nghề và làng nghề nước ta dù đã trải qua những bước thăng trầm song vẫn luôn gắn với những chính sách của Đảng và Nhà nước. Những năm gần đây, nhờ chính sách mở cửa, hội nhập của nền kinh tế nước ta với các quốc gia trên thế giới đã tạo điều kiện cho các làng nghề mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngược lại, đây cũng là điều kiện cho hàng nước ngoài tràn vào cạnh tranh và làm hạn chế sự phát triển của một số làng nghề. Nếu không có những chính sách phát triển hợp lí, không có sự kết hợp giữa đại công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thì các làng nghề khó có điều kiện phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển như hiện nay các yếu tố như vốn, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng... cũng có vai trò nhất định nhưng nhìn chung 4 yếu tố trên không thể thiếu được trong lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống Việt Nam.
4. Vai trò của việc phát triển làng nghề đối với ngành du lịch
4.1 Vai trò của làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn
Thứ nhất, phát triển làng nghề là biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn, góp phần chuyển dịch nền kinh tế.
Sự phát triển của làng nghề không những thu hút lao động ở gia đình mình, làng xã mình mà còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác đến làm thuê. Làng nghề phát triển còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát triển, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Chẳng hạn nghề chế biến lương thực, thực phẩm tạo nhiều điều kiện cho chăn nuôi phát triển... Tác dụng to lớn của các làng nghề là tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Thu nhập từ sản xuất công nghiệp nông thôn thường gấp 2 - 3 lần thu nhập thuần nông, nó chiếm khoảng 70% thu nhập của các hộ nông dân kiêm nghề.
Làng nghề còn là một mắt xích quan trọng nối liền giữa thành thị và nông thôn. Sự phát triển của các làng nghề đã đóng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất từ các ngành nghề thủ công và dịch vụ ở nông thôn bằng cách điện khí hóa và cơ giới hóa công cụ sản xuất, giải phóng nhân công trong sản xuất nông nghiệp.
Việc phát triển làng nghề là một giải pháp quan trọng nhằm khai thác nguồn nhân lực ở nông thôn tạo điều kiện cho những người không có khả năng sản xuất nông nghiệp chuyển sang làm nghành nghề mà họ có ưu thế hơn.
Thứ hai, các làng nghề phát triển tạo ra khối lượng hàng hoá phong phú, đa dạng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất .
Vai trò của các làng nghề thể hiện rõ nét trong việc phát triển kinh tế. Trước đây sản phẩm tiêu dùng thông thường của các làng nghề đã cung cấp 88% cho đại bộ phận người dân và 12% tham gia xuất khẩu. Những làng có nghề truyền thống, bộ mặt nông thôn thay đổi rõ rệt so với các làng thuần nông. Lượng hàng hoá mà làng nghề trong cả nước làm ra đã và đang đóng góp một phần đáng kể cho nền kinh tế. Nhiều làng nghề đã giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Qua đó chứng tỏ là các làng nghề thủ công đã có vị trí, tầm quan trọng không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả ở lĩnh vực văn hoá xã hội. Sản xuất của làng nghề thủ công phát triển theo hướng chuyên môn hóa, đa dạng hoá sản phẩm đã làm cho các làng nghề năng động hơn. Nó góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất cho kinh tế nông thôn.
Nếu trước đây làng nghề chỉ được xem là kinh tế phụ của người dân để tận dụng thời gian nông nhàn và tăng thu nhập cho nông dân thì nay làng nghề là một yếu tố quan trọng, một bộ phận chủ yếu trong chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta. Khai thác mọi nguồn lực để mở rộng và phát triển ngành nghề, làng nghề trong nông thôn là nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước.
Thứ ba, phát triển làng nghề góp phần thúc đẩy gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư ở nông thôn và tăng tích luỹ cho kinh tế hộ gia đình.
Hoạt động làng nghề, phố nghề mang lại thu nhập gấp 2 - 3 lần làm nông nghiệp. Sản xuất ngành nghề, chi phí lao động và diện tích thấp hơn nhiều so với nông nghiệp, nghề phụ trở thành nghề chính. Thu nhập từ làng nghề đã là nguồn tích lũy và làm giàu trong bước đi ban đầu để chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá. Thực tiễn cho thấy nhiều làng nghề không còn hộ đói nghèo, số hộ giàu ngày càng tăng nhanh. Đối với họ nhiều nghề đã trở thành biểu tượng của sự thịnh vượng và phát triển trong tương lai.
Khi làng nghề truyền thống và làng nghề mới phát triển đã xuất hiện một số người mạnh dạn rời bỏ nông nghiệp để làm nghề. Đây chính là cơ sở vững chắc của việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động. ở những làng nghề có uy tín nhiều hộ gia đình hàng năm tích luỹ được hàng trăm triệu đồng. Đời sống người làng nghề được cải thiện, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội cũng từ đó dần dần bị đẩy lùi. Trật tự kỷ cương xã hội được thiết lập, mọi người quen dần với cách sống và thực hiện theo hiến pháp và pháp luật.
Thứ tư, phát triển làng nghề góp phần bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống tạo thành làng quê hay phường hội. Đó chính là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Những phong tục tập quán, đền thờ, miếu mạo... của mỗi làng xã vừa có nét chung của văn hoá dân tộc, vừa có nét riêng của mỗi làng quê, làng nghề. Các sản phẩm của làng nghề chính là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Đó cũng chính là dấu ấn di sản văn hoá quý báu mà ông cha ta để lại cho thế hệ sau. Nó mang trong mình bản sắc văn hoá dân tộc mà các dân tộc khác không có được. Cho nên việc duy trì ngành nghề truyền thống, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc là vô cùng cần thiết.
Đặc điểm sản xuất của làng nghề luôn gắn chặt với truyền thống văn hoá của mỗi vùng nghề, làng nghề. Bởi lẽ nghề nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến văn hoá tinh thần, tác động đến tâm lý, tình cảm, phong tục, tập quán của làng nghề. Những sản phẩm này đã vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần để trở thành những sản phẩm văn hoá mang bản sắc truyền thống dân tộc.
4.2. Vai trò của làng nghề đối với việc phát triển du lịch
Ngày nay, nhu cầu văn hoá của con người, của tập thể chính là động lực thúc đẩy người ta đi du lịch. Đi du lịch không chỉ đơn thuần để vui chơi giải trí mà còn hướng tới mục đích cao hơn, đó là sự hiểu biết, học hỏi, nghiên cứu. Theo thang cấp bậc nhu cầu của Maslow, nhu cầu hiểu biết chính là nhu cầu cao nhất của con người. Con người khi đã thoả mãn được nhu cầu chủ yếu như: ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, an dưỡng, giao lưu... thì họ đều hướng tới những giá trị tinh thần, nhân văn, nhân bản. Họ muốn tự hoàn thiện bản thân và cân bằng lại nhân cách của mình.
Sự khác biệt về văn hoá giữa quốc gia này với quốc gia khác, dân tộc này với dân tộc khác, vùng này với vùng khác chính là nguyên nhân xuất hiện các dòng khách du lịch từ nơi này đến nơi khác, từ nước này sang nước khác. Trong khi đó, sản phẩm của các làng nghề lại chính là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Chính vì vậy, các làng nghề ngày càng có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong nước và quốc tế.
Gần đây ngành du lịch nước ta đã đặc biệt quan tâm đến loại hình du lịch làng nghề. Một số Công ty du lịch đã bắt đầu tiến hành các “tour” du lịch làng nghề theo những tuyến du lịch văn hoá và thương mại. Khách trong nước và quốc tế qua những chuyến đi ấy đã tận mắt thấy quy trình sản xuất, tạo tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người thợ. Không chỉ sửng sốt trước tài khéo léo của các nghệ nhân và thích thú các sản phẩm độc đáo, họ còn hiểu biết hơn về văn hoá truyền thống, đất nước và con người Việt Nam.
Khách du lịch đến làng nghề, dường như họ coi đó là cơ hội may mắn trong đời mình. Thường thì họ được xem và chọn mua tuỳ thích một vài vật phẩm độc đáo, có giá trị nghệ thuật làm quà lưu niệm. Còn với các nhà doanh nghiệp và thương nhân khác tại các làng nghề họ có thể tìm được đối tác, bạn hàng thậm chí cả cơ hội đầu tư. Trên thực tế, đã có nhiều hợp đồng kinh tế được ký kết, thực hiện có hiệu quả ngay sau các “tour” du lịch làng nghề.
Như vậy, các làng nghề phát triển đã góp phần tạo ra các sản phẩm du lịch mới lạ, độc đáo, hấp dẫn để thu hút du khách trong và ngoài nước.
Ngược lại, khi du lịch phát triển tại các làng nghề sẽ tạo thêm việc làm cho người dân địa phương bởi du lịch đòi hỏi lực lượng nhân công lớn. Hơn nữa, đây cũng là điều kiện vô cùng thuận lợi để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề.
{
Chương II
thực trạng phát triển làng nghề Bắc Ninh
1. Khái quát chung
1.1. Vị trí địa lý
Bắc Ninh nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng với diện tích 804km2, nhỏ nhất trong 61 tỉnh thành phố của cả nước. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây giáp Hà Nội và phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên. Bắc Ninh có tọa độ địa lý như sau:
Từ 20057’ đến 21022’ vĩ tuyến Bắc
Từ 105054’ đến 1060 kinh tuyến Đông
Về mặt hành chính, Bắc Ninh có một tỉnh lỵ là thị xã Bắc Ninh và 7 huyện: Quế Võ, Yên Phong, Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành, Gia Bình và Lương Tài.
Bắc Ninh là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, liền kề với thủ đô Hà Nội, nằm trong khu vực tam giác kinh tế tăng trưởng: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, gần các khu, cụm công nghiệp lớn của vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. Bắc Ninh có điều kiện giao thông tương đối thuận lợi, là giao điểm của hai quốc lộ huyết mạch 1A nối Hà Nội - Lạng Sơn và quốc lộ 18 nối Nội Bài - Quảng Ninh. Tỉnh nằm trên trục đường sắt xuyên Việt với đoạn Bắc Ninh - Việt Yên dài 20km nối Bắc Ninh với thủ đô Hà Nội và cửa khẩu quan trọng nhất nước ta ở phía Bắc - cửa khẩu Hữu Nghị. Đặc biệt, khi nâng cấp đường 18 hoàn thành, Bắc Ninh chỉ cách sân bay quốc tế Nội Bài 20km. Ngoài ra, Bắc Ninh còn có hệ thống giao thông nội tỉnh tương đối phát triển nối với các trục đường quan trọng 1A, 5, 18, 38...tạo nên một mạng lưới giao thông thuận lợi. Đây là điều kiện giao lưu hàng hoá, trao đổi với bên ngoài, tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành nghề truyền thống nói riêng.
Đường sông cũng là một lợi thế đáng kể của Bắc Ninh, ba con sông Thái Bình, sông Đuống, sông Cầu chảy qua Bắc Ninh tạo một mạng lưới đường thuỷ nối liền với các tỉnh bạn. Bắc Ninh còn có cảng sông Thị Cầu với trọng tải 200.000 tấn/ năm.
1.2. Đặc điểm tự nhiên
1.2.1.Địa hình
Địa hình Bắc Ninh chủ yếu là đồng bằng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa sông Đuống và sông Thái Bình. Do tác động của quá trình địa mạo cùng với các qúa trình nhân tạo nên ở Bắc Ninh có những dạng địa hình sau:
Đồng bằng tích tụ xâm thực đồi sót Yên Phong - Quế Võ có độ cao trên dưới 100 m, đỉnh cao nhất có độ cao là 171m (núi Hàm Long - xã Nam Sơn - Quế Võ), có độ dốc trung bình 10 - 150 có nơi trên 250. Các đồi hình thành do bào mòn xâm thực, các thềm phù sa cổ cao 10 - 20 m.
Đồng bằng tích tụ xâm thực xen ở các huyện Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình và Lương Tài. ở đây không có đồi sót, chỉ có phù sa mới bồi tụ do sông Hồng, sông Thái Bình phủ trên lớp trầm tích biển. Nay là vùng đất phù sa trong đê nên không được bồi đắp nữa.
Tóm lại, Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng kết hợp với những dãy núi thấp thiên nhiên thơ mộng với những thắng cảnh như: Núi Phật Tích với chuyện Vương Chất và Từ Thức, núi Nguyệt Hằng hay còn gọi là núi CôTô, khu núi Dạm gồm đủ Tứ Linh, núi Lim (Hồng Ân Sơn) nơi hàng năm diễn ra hát quan họ ... Các ngọn núi này nằm xen kẽ trong các khu thị xã, thị trấn đây là quang cảnh đặc thù để phát triển du lịch đa dạng trên lãnh thổ, đặc biệt là du lịch cuối tuần, cắm trại, dã ngoại ...
1.2.2. Khí hậu
Cũng như các tỉnh khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Ninh có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa đông lạnh và khô rõ rệt, mùa mưa là mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô cũng chính là mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 với một số đặc trưng khí hậu:
Bức xạ tổng cộng/ năm: 120,6 kacl/ cm2.
Bức xạ quang hợp: 59,8 kacl/ cm2.
Đặc điểm chế độ nhiệt:
Bắc Ninh nhiệt độ trung bình năm 23,10C. Nhiệt độ mùa hè trên 250C (kéo dài 6 tháng), với tổng nhiệt lượng 800 – 1.2000C. Mùa đông dài 3 tháng, nhiệt độ trung bình nhỏ hơn 200C, tổng nhiệt lượng 600 - 7000C. Tổng giờ nắng một năm là 1.183 giờ.
Bảng 1: Nhiệt độ trung bình tháng của tỉnh Bắc Ninh (0C) [28]
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
N. độ(0C)
18.4
17.0
20.7
24.5
28.1
29.8
28.8
29.1
26.0
26.4
23.8
19.2
Giờ nắng
68
15
19
19
198
166
77
158
93
167
147
65
Đặc điểm lượng mưa và chế độ ẩm.
Thời tiết chia làm hai mùa rõ rệt do ảnh hưởng của gió mùa, mùa mưa có lượng mưa và ngày mưa chiếm ưu thế trong năm (lượng mưa chiếm 80% so với cả năm), độ ẩm cao. Mùa mưa có giông bão, mưa rào kéo dài.
Mùa đông có gió Đông Bắc, lượng mưa và số ngày mưa giảm, độ ẩm xuống khá thấp dưới 70 - 80%, có khi tới 40 - 50%. Có mưa nhỏ và mưa phùn ở cuối đông sang xuân. Ngoài hai mùa trên có mùa xuân và mùa thu chuyển tiếp không rõ lắm và ngắn. Lượng mưa trung bình năm của Bắc Ninh là 1.638mm song lượng mưa phân bố không đều trong năm. Mùa mưa tập trung vào tháng 7, 8, 9 chiếm 75 - 80% lượng mưa cả năm. Độ ẩm trung bình trên 80%. Lượng bốc hơi bình quân 630 mm/ năm.
Bảng 2: Lượng mưa, lượng bốc hơi, độ ẩm tương đối trung bình [28]
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Cả năm
Lượng mưa
(mm)
41
8
88
141
224
181
395
388
256
169
17
42
1950
Độ ẩm
(%)
77
80
87
85
79
76
82
81
82
79
74
76
80
Bốc hơi
(mm)
67
53
45
60
103
165
77
83
73
89
99
78
992
Nhìn chung, khí hậu Bắc Ninh có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. So sánh với số liệu bảng 1, ta thấy Bắc Ninh có khí hậu khá thích hợp với hoạt động của con người. Hầu hết các tháng trong năm đều rất thuận lợi cho du lịch. Hạn chế chính của khí hậu Bắc Ninh là lượng mưa lớn và nắng nóng tập trung vào tháng 7, 8, 9. Tuy nhiên với khí hậu 4 mùa trong năm, phong cảnh thay đổi theo mùa tạo nên những nét hấp dẫn riêng nên hoạt động du lịch có thể diễn ra cả năm không bị ngắt quãng.
Tài nguyên nước.
Bắc Ninh có một hệ thống sông ngòi, kênh mương dày đặc, mật độ đường thuỷ 1,0 - 1,2 km/km2. Với các con sông lớn: sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình hàng năm tiếp nhận trung bình lượng nước mưa từ 250 - 300 triệu m3.
Thuỷ chế sông ngòi Bắc Ninh cũng có tính chất hai mùa rõ rệt và phân bố chênh lệch rõ về lượng nước chảy, nhiệt độ và chất lượng nước. Mùa hè mưa nhiều nên thường có lượng nước lớn (30 - 35 l/s/km2). Mùa cạn chủ yếu vào mùa đông với lưu lượng thấp (4 - 6 l/s/km2) lượng nước chỉ bằng 20% so với cả năm.
Nước ngầm tỉnh Bắc Ninh khá phong phú: theo đánh giá của liên đoàn địa chất 2, Bắc Ninh có khả năng khai thác được khoảng 400.000 m3/ ngày. Nhìn chung, tài nguyên nước của tỉnh Bắc Ninh phong phú, đa dạng tạo điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp và phục vụ sinh hoạt cũng như đáp ứng nhu cầu du lịch. Bên cạnh đó, mỗi con sông của Bắc Ninh lại mang trong mình một truyền thuyết đẹp, chuyện tình Mỵ Nương - Trương Chi trên sông Tiêu Tương, con sông Cầu “nước chảy lơ thơ” hay vẻ đẹp hùng tráng của sông Đuống “ nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”... Đó chính là tiềm năng để tạo nên những tour du lịch đầy lý thú và bổ ích.
Tài nguyên thực vật và động vật.
Vùng gò đồi Bắc Ninh trước đây hầu hết là rừng tự nhiên với thảm thực vật phong phú: Lim (Tiên Sơn, Hàm Long, Quế Võ...), Giẻ, Trám, Báng... nhưng đến nay rừng tự nhiên không còn. Vùng gò đồi chủ yếu còn lại là rừng trồng: keo, bạch đàn, mường lát, sầm sì với số lượng lớn. Số lượng cây xanh trên các đường phố, công viên, các khu di tích... của Bắc Ninh cũng rất lớn đem lại cảnh quan tươi mát, trong lành.
Về hệ động vật: do có địa hình đồng bằng, đồi thấp nên Bắc Ninh không có các loại động vật hoang dã đặc trưng như các vùng núi khác. Phần lớn là động vật nuôi như: trâu, bò, lợn, gia cầm ... Số gia súc gia cầm nuôi với số lượng khá lớn đủ để đáp ứng nhu cầu thực phẩm của người dân địa phương và du khách.
Nói tóm lại, với thảm thực vật và hệ động vật phong phú, đa dạng, những triền đồi, dãy núi danh thắng nổi tiếng, dòng sông hiền hoà, thiên nhiên thơ mộng, khí hậu điều hoà, Bắc Ninh có điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển du lịch.
1.3. Đặc điểm về dân cư và nguồn lao động
Đến năm 2001, toàn tỉnh Bắc Ninh có 957,7 nghìn người. Trung bình mỗi năm dân số Bắc Ninh lại tăng thêm hơn 12 nghìn người. Bắc Ninh là tỉnh có tỉ lệ dân số tự nhiên giảm nhanh và tương đối thấp so với cả nước. Nếu năm 1994 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,67% thì đến năm 1996 còn 1,49%. Sự giảm mức gia tăng chủ yếu là do giảm nhanh tỷ suất sinh. Trong thời kỳ 1998 - 1999, mức tăng dân số tự nhiên của Bắc Ninh là 1,41%.
Mật độ dân số.
Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh năm 1999 là1.178 người/km2. Mật độ dân số này gấp 1,3 lần mật độ dân số Đồng bằng sông Hồng và đứng thứ năm trong 61 tỉnh, thành phố của cả nước.
Bắc Ninh có mật độ dân cư đông đúc như vậy một phần là do nằm trong khu vực Đồng bằng sông Hồng, là vùng đất đã được khai phá từ lâu đời. Nơi đây có nhiều điều kiện thuận lợi cho con người sinh sống; tài nguyên đất, nước, khí hậu khá phong phú là cơ sở để phát triển một nền kinh tế đa dạng; có nhiều tuyến đường quốc lộ quan trọng chạy qua tạo thành tuyến giao thông thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá với các vùng và các tỉnh khác trong cả nước.
Dân cư Bắc Ninh phân bố không đều, thị xã Bắc Ninh có mật độ dân số cao nhất (2.711người/km2), mật độ dân số trung bình của các huyện đồng bằng là trên 1.000 người/km2 còn 2 huyện trung du có mật độ thấp hơn. Nguyên nhân là do sự khác nhau về vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Bảng 3: Mật độ dân số theo các huyện, thị xã của Bắc Ninh [28]
(Đơn vị: người/ km2)
Huyện, thị xã
Năm 1995
Năm 1999
Toàn tỉnh
1.156
1.178
1. Thị xã Bắc Ninh
2.631
2.731
2. Huyện Yên Phong
1.180
1.191
3. Huyện Quế Võ
850
853
4. Huyện Tiên Du
1.416
1.177
5. Huyện Từ Sơn
1.416
1.177
6. Huyện Thuận Thành
1.182
1.193
7. Huyện Gia Bình
984
959
8. Huyện Lương Tài
984
1.004
Cấu trúc dân số
Bắc Ninh là tỉnh có dân số trẻ. Số người từ 14 tuổi trở xuống chiếm hơn 32,2% dân số của tỉnh; từ 15 -55 chiếm 55,3% và trên 55 tuổi chiếm 12,5%. Như vậy Bắc Ninh có nguồn lao động dồi dào. Lực lượng lao động trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp là chủ yếu 86,7% còn hoạt động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ chỉ có 13,3%.
Bắc Ninh có tỷ lệ nữ giới cao hơn nam giới: nữ giới chiếm 51,5%, nam chỉ có 48,5% dân số của tỉnh.
Dân cư Bắc Ninh chủ yếu sống ở nông thôn (với 90,6% dân số), dân cư thành thị tập trung ở thị trấn và thị xã Bắc Ninh chỉ chiếm 9,4% dân số.
Bảng 4: Cấu trúc dân số theo nam, nữ ở Bắc Ninh [28]
(Đơn vị: %)
Huyện, thị xã
1995
2001
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
Nam
Nữ
Toàn tỉnh
100
48,2
51,8
100
48,5
51,5
1. Thị xã Bắc Ninh
100
46,6
53,4
100
46,8
53,2
2. Huyện Yên Phong
100
48,3
51,7
100
48,5
51,5
3. Huyện Quế Võ
100
47,3
52,7
100
47,6
52,4
4. Huyện Tiên Du
100
46,6
53,4
100
46,8
53,2
5. Huyện Từ Sơn
100
46,6
53,4
100
46,8
53,2
6. Huyện Thuận Thành
100
47,4
52,6
100
47,8
52,2
7. Huyện Gia Bình
100
46,6
53,4
100
46,9
53,1
8. Huyện Lương Tài
100
46,6
53,4
100
46,9
53,1
Nguồn lao động
Đến năm 1999, số người trong độ tuổi lao động của Bắc Ninh chiếm 51,3% dân số. Trong đó 99% số người lao động biết chữ, 49% đã tốt nghiệp trung học cơ sở và 13% tốt nghiệp phổ thông trung học.
Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 7,8% tổng số lao động của tỉnh. Lao động có trình độ đại học và trên đại học là 7.650 người, có trình độ trung học chuyên nghiệp là 30 nghìn người.
Bắc Ninh là nơi có nhiều ngành nghề thủ công phát triển vào bậc nhất ở nước ta. Sản phẩm của các làng nghề bán ra không chỉ trong vùng mà còn có mặt trên thị trường cả nước và nước ngoài. Đội ngũ thợ thủ công đông đảo, nhiều người có tay nghề cao và đạt đến trình độ nghệ nhân. Điển hình là các làng gốm ven sông Cầu, rèn Đa Hội, làm mành trúc ở Tân Hồng( Từ Sơn), làm mộc, trạm khắc gỗ ở Từ Sơn, Phù Khê...
1.4. Đặc điểm kinh tế
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Bắc Ninh đã có nhiều thay đổi rõ nét. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên địa bàn tỉnh đạt 1429,7 tỷ đồng năm 1995, đến năm 1999 đã là 3.137 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm sau cao hơn năm trước: năm 1998 so với 1997 là 107%; năm 1999 so với 1998 đạt 100,5%.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp.
Bảng 5: Cơ cấu GDP của Bắc Ninh [28]
(Theo giá hiện hành) - ( đơn vị: %)
Khu vực
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng GDP
100
100
100
100
100
1. Nông, Lâm, Ngư nghiệp
51,5
49,4
46,26
44,52
35,9
2. Công nghiệp
12,9
13,6
14,83
15,66
20,3
3. Xây dựng
8,0
8,1
8,16
8,67
9,2
4. Dịch vụ
27,6
29,0
30,76
31,15
34,6
Từ số liệu ở bảng trên ta thấy rằng các ngành dịch vụ và công nghiệp đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế của tỉnh. Ngành công nghiệp đã góp phần phục vụ tốt cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Ngành tiểu thủ công nghiệp mà chủ yếu là các làng nghề đã tìm được hướng đi lên và xác định chỗ đứng của mình. Bên cạnh các làng nghề truyền thống đã có từ hàng ngàn năm nay, Bắc Ninh đã nắm bắt được nhu cầu của thị trường để phát triển thêm nhiều làng nghề mới tạo ra số lượng sản phẩm phong phú, đa dạng với chất lượng cao. Tiêu biểu là sản phẩm của các làng Đình Bảng, Phù Khê, Hương Mạc, giấy Phong Khê, rèn Đa Hội, tre nứa Xuân Lai...
1.5. Thị trường tiêu thụ
Bắc Ninh có thị trường rất phong phú và rộng lớn. Trước hết Bắc Ninh nằm ở vị trí vô cùng thuận lợi cho việc thông thương, trao đổi hàng hoá và giao lưu văn hoá. Bắc Ninh nằm ở gần các thành phố, đô thị lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn... đây chính là những thị trường lớn để tiêu thụ sản phẩm của Bắc Ninh. Đồng thời đó cũng là nơi để Bắc Ninh tìm hiểu các thông tin về thị trường, là nơi giao dịch, đặt văn phòng giới thiệu sản phẩm... vô cùng thuận lợi.
Bắc Ninh có nhiều tuyến đường quốc lộ quan trọng đi qua: 1A, 18, 38... nằm gần quốc lộ 5 và các đường tỉnh lộ tạo điều kiện thuận lợi để vận chuyển sản phẩm, hàng hoá và nguyên vật liệu. Bên cạnh đó hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc của Bắc Ninh cũng rất thuận tiện để vận tải đường thuỷ phát triển.
Đối với thị trường xuất khẩu, về lâu dài sẽ là thị trường quan trọng nhất của Bắc Ninh. Trước đây những sản phẩm thủ công của Bắc Ninh như mây tre đan, thêu ren, thảm len, sơn mài... được xuất khẩu đi các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ) là chủ yếu. Khi bước vào cơ chế thị trường, các làng nghề đã nhạy bén thay đổi mẫu mã, kiểu dáng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay sản phẩm của các làng nghề Bắc Ninh đã và đang xâm nhập vào thị trường các nước trong khu vực và thế giới như: Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Pháp, Đức, Canada, các nước châu Phi, châu Mỹ... sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là những bộ đồ mộc cao cấp được khảm trai, chạm khắc công phu bằng gỗ trắc, gụ, pơmu, những bộ xa lông kiểu cổ vách đá. Sản phẩm thủ công như tranh dân gian, thảm len, tượng nhỏ, đồng mỹ nghệ... được các nước Đài Loan, Nhật Bản... rất ưa chuộng. Trong những năm gần đây, giá trị xuất khẩu của hàng thủ công mỹ nghệ nước ta đã chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đóng góp vào kết quả đó có vai trò không nhỏ của làng nghề thủ công Bắc Ninh.
Thị trường dịch vụ du lịch là thị trường có tiềm năng lớn. Do lượng khách quốc tế vào nước ta ngày một nhiều, lượng hàng hoá bán cho khách du lịch sẽ tiếp tục tăng và nhu cầu của thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào sự hấp dẫn của sản phẩm, mẫu mã cũng như thị hiếu của người nước ngoài. Từ xa xưa nghề truyền thống Việt Nam đã chịu ảnh hưởng rất lớn của nghề truyền thống Trung Quốc. Điều này gây khó khăn cho việc bán sản phẩm thủ công mỹ nghệ của ta cho du khách. Các sản phẩm của ta bán cho khách nước ngoài nhìn chung là giá rẻ, song nhiều khi giá rẻ chưa phải là điều hấp dẫn đối với họ. Vì trong một thời gian ngắn họ chưa có điều kiện để tìm hiểu về giá trị của sản phẩm, mà lại cho rằng đó là những sản phẩm kém giá trị hay được sản xuất hàng loạt chứ không phải là sản phẩm thủ công thực sự của những nghệ nhân tài hoa. Chính vì vậy trước mắt cần quan tâm đến sản phẩm bán cho khách nước ngoài để nó thực sự đặc sắc và phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế.
Tóm lại, tiềm năng về thị trường của làng nghề Bắc Ninh còn rất lớn. Điều quan trọng hơn cả là phải có một chiến lược sản xuất, phục vụ cho khách du lịch cũng như tiêu dùng trong nước với sản phẩm mang nét đặc thù, độc đáo và mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
2. Thực trạng phát triển và phân bố các làng nghề thủ công ở tỉnh Bắc Ninh
2.1. Đặc điểm chung
Từ bao đời, các vùng nông thôn của Bắc Ninh vẫn lấy trồng trọt và chăn nuôi là nguồn sinh nhai chủ yếu. Trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế - xã hội xuất hiện dần những làng làm thêm những nghề khác ngoài nông nghiệp. Các làng nghề của Bắc Ninh xuất hiện khá sớm dần dần hình thành các làng nghề thủ công.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử làng nghề của Bắc Ninh cũng có những chuyển biến thay đổi sản phẩm phục vụ kịp thời các nhu cầu quốc kế dân sinh. Có những sản phẩm mới ra đời, kéo theo các làng nghề mới xuất hiện. Trong từng thời kỳ phát triển, có những sản phẩm phù hợp với thị trường được mở rộng dần ra các làng trong xã trở thành xã nghề. Như nói đến đồng Đại Bái là cả xã Đại Bái làm nghề dát, gò đồng; nói gốm Phù Lãng là cả xã Phù Lãng đều làm gốm... Gần đây hàng mộc mỹ nghệ đã phát triển ở 3 xã Phù Khê, Hương Mạc, Đồng Quang. Đây là một hình thức mới: một cụm xã liền nhau cùng sản xuất một loại sản phẩm. Hiện nay ở Bắc Ninh đang hình thành các cụm làng nghề sản xuất một loại sản phẩm: cụm hàng mộc mỹ nghệ, cụm sắt thép, cụm dệt (Tiên Sơn), cụm giấy, cụm hàng nhôm (Yên Phong), cụm đồng, nhựa (Gia Lương)...
Song trong quá trình vận động, vơí sự tác động của khoa học kỹ thuật, thị hiếu và nhu cầu của thị trường, sản xuất trong các làng nghề thủ công cũng dần bộc lộ những hạn chế nhất định. Sang thời kỳ kinh tế thị trường đã phân hoá rõ: Những làng nghề trải qua thăng trầm mà vẫn giữ được nghề, chuyển đổi sản phẩm hoặc đầu tư trang thiết bị công nghệ mới thì không những tồn tại mà còn phát triển mạnh hơn (giấy Phong Khê, thép Đa Hội, mộc mỹ nghệ Đồng Kỵ, Phù Khê, Hương Mạc...); Những làng nghề chậm đổi mới về sản phẩm và công nghệ thì mất dần thị trường, sản xuất bị thu hẹp, mai một (làng gốm Phù Lãng, tranh dân gian Đông Hồ...).
Căn cứ vào mức độ hoạt động của làng nghề, ta có thể chia làng nghề thủ công ở Bắc Ninh làm 3 loại.
Các làng nghề phát triển
Đó là các làng nghề đã vận động phù hợp với cơ chế thị trường, sản xuất ra được một khối lượng hàng hoá lớn, kinh doanh có hiệu quả. Loại này có 16 làng (chiếm 13%) trong đó có 15 làng nghề truyền thống tiêu biểu là làng mộc mỹ nghệ Đồng Kỵ, Phù Khê Đông, Phù Khê Thượng, làng thương mại Đình Bảng, làng xây dựng Đình Cả, Nội Duệ, làng giấy Dương ổ, làng thép Đa Hội, làng đồng Đại Bái...
Các làng nghề hoạt động cầm chừng
Đó là các làng nghề ở dạng vẫn sản xuất kinh doanh bình thường nhưng chưa hoặc không có khả năng mở rộng sản xuất. Loại này có 32 làng (chiếm 52%) trong đó có 10 làng nghề truyền thống. Khó khăn chủ yếu của các làng nghề này là vấn đề tiêu thụ sản phẩm, không đầu tư thiết bị công nghệ nên hiệu quả kinh tế thấp như rượu Đại Lâm, nhôm Văn Môn, dệt Hồi Quan... Còn lại các làng nghề sản xuất nhỏ mang tính khu vực như tre đan, mộc dân dụng và chế biến nông sản (mỳ, bún, bánh, đậu).
Các làng nghề đang khó khăn, mai một
Đó là các làng nghề đang gặp khó khăn do sản phẩm không đáp ứng được các yêu cầu của thị trường về chất lượng, mẫu mã, giá cả... nên sản xuất đang bị thu hẹp dần mà nghề mới thì chưa có. Loại này có 10 làng (chiếm 17%) trong đó có 6 làng nghề truyền thống là các làng tranh dân gian Đông Hồ, làng cày bừa Đồng Xuất, Trung Bạn, gốm Đoàn Kết, Phấn Trung (Phù Lãng) và dao kéo Vát (Quế Võ).
Tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là mô hình hộ gia đình. T._.độ nghiệp vụ thấp vì vậy ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm du lịch.
Bắc Ninh là tỉnh có tài nguyên du lịch nhân văn rất phong phú, đa dạng. Các điểm, cụm du lịch, các làng nghề thủ công có mức độ tập trung dày. Đây chính là tiềm năng to lớn của tỉnh. Tuy nhiên, việc khai thác nguồn lực này chưa có hiệu quả cao, số lượng tuyến du lịch còn hạn chế, chưa xây dựng được những sản phẩm du lịch độc đáo.
Nguyên nhân chủ yếu là do các di tích đã bị xuống cấp nghiêm trọng, nhiều làng nghề, lễ hội bị mai một trong khi nguồn kinh phí lại hạn hẹp, việc huy động vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn nên đầu tư tôn tạo và phát triển chưa đúng hướng. Ngoài ra, việc quản lý và khai thác các tài nguyên còn lỏng lẻo ảnh hưởng tới việc thu hút khách, đặc biệt là khách quốc tế.
Dựa trên cơ sở thực tại, có thể đánh giá du lịch Bắc Ninh còn nhiều tồn tại cần giải quyết, khắc phục. Cần có những hướng đi, giải pháp đúng đắn để du lịch Bắc Ninh nói chung và du lịch làng nghề Bắc Ninh nói riêng phát huy hết thế mạnh của mình.
chương IV
Những định hướng và giải pháp cơ bản
1. Định hướng phát triển du lịch làng nghề Bắc Ninh
1.1. Quan điểm phát triển du lịch Bắc Ninh
Bắc Ninh là tỉnh có tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch, nhất là du lịch văn hoá. Quan điểm xuyên suốt là phải đặt du lịch Bắc Ninh trong mối quan hệ mật thiết với du lịch Hà Nội. Điều đó cũng có nghĩa trong định hướng khai thác các tài nguyên nhân văn phục vụ mục đích du lịch của Bắc Ninh, cần quan tâm đến yếu tố thị trường Hà Nội. Cần phải xác định đúng những sản phẩm đặc trưng nào của Bắc Ninh có thể thu hút được khách đến từ thủ đô.
Phát triển du lịch Bắc Ninh trước hết nhằm mục đích:
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng GDP du lịch trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
Phát huy truyền thống bản sắc dân tộc, tôn tạo và giữ gìn các di tích lịch sử - văn hoá, các lễ hội truyền thống, các làng nghề thủ công, cảnh quan môi trường.
1.2. Những căn cứ để đưa ra định hướng
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2000 - 2010
Quy hoạch phát triển vùng du lịch Bắc Bộ thời kỳ 2000 - 2010 trong đó Bắc Ninh được xác định nằm trong tiểu vùng du lịch trung tâm.
Tiềm năng du lịch của tỉnh.
Hiện trạng tăng trưởng của dòng khách du lịch quốc tế và nội địa đến Bắc Ninh thời kỳ 1995 – 2000.
1.3. Các quan điểm cơ bản
Bảo tồn và phát triển các làng nghề phải trên quan điểm đánh giá đúng vai trò và vị trí mới của làng nghề trong điều kiện công nghiệp hoá - hiện đại hóa.
Bảo tồn và phát triển các làng nghề phải trên quan điểm tuyển dụng lao động nông thôn và thực hiện phương châm “ ly nông bất ly hương”.
Bảo tồn và phát triển các làng nghề phải trên quan điểm kết hợp yếu tố truyền thống với hiện đại, kết hợp phát triển tiến hoá tuần tự và phát triển rút ngắn nhảy vọt với sự kết hợp các loại công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông thôn.
Bảo tồn và phát triển các làng nghề phải trên quan điểm huy động tối đa mọi nguồn vốn trong dân vào phát triển kinh tế và đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh trong các làng nghề.
Khôi phục, bảo tồn và phát triển các làng nghề phải dựa trên quan điểm kết hợp phát triển kinh tế với việc bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển toàn diện nông thôn.
1.4. Những định hướng cơ bản để bảo tồn và phát triển các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới
Khôi phục và duy trì ở mức độ nhất định các làng nghề sản xuất những sản phẩm truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc mà hiện nhu cầu thị trường có xu hướng giảm sút, chuyển đổi những nghề mà sản phẩm hiện nay không có nhu cầu.
Đẩy mạnh phát triển những làng nghề mà sản phẩm của nó có nhu cầu lớn trên thị trường, tập trung phát triển mạnh những sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn, những mặt hàng có giá trị kinh tế cao.
Phát triển thêm nhiều làng nghề mới, ngành nghề mới từ những làng thuần nông và trong những làng có các ngành nghề phi nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng không đáng kể.
Phát triển các làng nghề theo hướng đa dạng hoá hình thức sở hữu, tổ chức kết hợp chặt chẽ các quá trình tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong các làng nghề.
Chú ý bảo tồn một số công nghệ cổ truyền tinh xảo, độc đáo, tập trung đổi mới, phát triển công nghệ tiên tiến hiện đại với sản xuất trong các làng nghề.
1.5. Quy hoạch tổng thể các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh cho phù hợp với sự phát triển của du lịch
Tỉnh Bắc Ninh đang xúc tiến xây dựng “ Khu làng nghề tiểu thủ công nghiệp”, một dự án lớn và không kém phần hấp dẫn các doanh nghiệp, các hộ nghề làm hàng thủ công truyền thống. Đây được coi là “hướng mở” cho phát triển kinh tế công nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Nó không đơn thuần là tập trung các doanh nghiệp, hộ nghề lại một khu để giải quyết vấn đề mặt bằng, ô nhiễm môi trường... mà đây thực sự là công nghiệp hóa các làng nghề. Quy hoạch là bước đi đầu tiên để chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc tập trung các làng nghề với những ưu tiên đặc biệt cho các doanh nghiệp, mục tiêu của Bắc Ninh là sẽ chuyển dần thành tỉnh công nghiệp từ nay đến năm 2015. Hiện nay tỉnh đã lập quy hoạch, san lấp mặt bằng 4 khu công nghiệp quy mô lớn và sẽ tiếp tục quy hoạch các làng nghề còn lại vào các khu công nghiệp tiếp theo trong thời gian tới.
Quy hoạch các làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh có nhiều ưu điểm nổi bật mà trước tiên là tạo ra sự chuyển dịch quan trọng trong phát triển kinh tế. Hầu hết lao động tại các doanh nghiệp ở làng nghề đều trong độ tuổi thanh niên, phần nhiều là nữ. Theo tính toán, mục tiêu quy hoạch mở mang làng nghề ở Bắc Ninh từ nay đến 2005 sẽ tạo ra 8.000 chỗ làm mới mỗi năm, đội ngũ này có trình độ chuyên môn hóa cao về tay nghề. Bên cạnh đó thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn sẽ tăng lên 80% vào năm 2005. Việc quy hoạch tập trung sẽ bỏ được cung cách quản lý yếu kém, manh mún, đồng thời tránh được ô nhiễm môi trường trên phạm vi rộng.
Đối với ngành du lịch, việc quy hoạch các làng nghề cũng có những tác động tích cực. Trước hết khi các làng nghề được quy hoạch cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng sẽ được cải tạo, xây mới tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch phát triển. Việc tiếp cận với các làng nghề, các di tích lịch sử - văn hoá sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa việc tập trung các hộ làm nghề, các doanh nghiệp sản xuất với số lượng lớn sẽ dễ dàng trong việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, kịp thời nắm bắt được những thay đổi của thị trường, của người tiêu dùng và đặc biệt là du khách. Trên cơ sở đó để đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng thị trường. Đồng thời việc xuất khẩu tại chỗ, thu về nguồn ngoại tệ cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của tỉnh nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung.
2. Các giải pháp cơ bản
2.1. Cải tạo và xây dựng mới cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng
Kết cấu hạ tầng tốt sẽ là điều kiện và nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển. Kết cấu hạ tầng ở nông thôn nói chung và trong các làng nghề nói riêng cũng đã được quan tâm đầu tư nhưng nhìn chung vẫn còn trong tình trạng thấp kém, thiếu hụt ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động du lịch ở làng nghề, đòi hỏi nhà nước phải có những đầu tư thích đáng hơn.
Đối với mạng lưới và công trình phân phối điện, cần tiếp tục mở rộng, hoàn thiện các công trình quốc gia đến các vùng nông thôn, đến tận các làng nghề, đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho việc qui hoạch, cải tạo đồng bộ và tiêu chuẩn hoá mạng lưới điện hạ thế đến từng hộ dân và cơ sở sản xuất kinh doanh. Trên bình diện vĩ mô, nhà nước cần có chính sách và biện pháp can thiệp với giá điện sản xuất ở nông thôn, nhằm tạo sự bình đẳng về chi phí năng lượng đầu vào so với ở thành thị, đồng thời tạo điều kiện khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề phát triển.
Đẩy mạnh khảo sát thiết kế và qui hoạch phát triển đồng bộ hệ thống công trình giao thông bao gồm cả đường xá đi lại trong từng làng nghề và hệ thống cầu cống, đường xã, bến bãi bên ngoài làng nghề. Kết hợp giữa duy tu bảo dưỡng với cải tạo nâng cấp và xây dựng mới những công trình trọng điểm, đầu mối. Tiến hành phân cấp quản lý khai thác các hệ thống công trình giao thông nông thôn gắn liền với vấn đề tổ chức thu lệ phí và bảo vệ, duy tu, cải tạo nâng cấp công trình.
Tăng cường đầu tư cho việc nâng cấp công trình, đổi mới thiết bị kỹ thuật của các trung tâm bưu điện, liên lạc ở các huyện, thị trấn, trạm khu vực đồng thời hỗ trợ đầu tư mở rộng mạng lưới đến các cơ sở xã, thôn, cụm dân cư. Ưu tiên lắp đặt thuê bao điện thoại, cung cấp thiết bị thông tin cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất - kinh doanh trong các làng nghề dưới hình thức đầu tư trả góp với lãi suất thấp, tăng thời gian bảo hành và sửa chữa miễn phí, giảm chi phí quản lý và các phụ phí khác.
Tuy nhiên trong nỗ lực đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các làng nghề, nhà nước và chính quyền địa phương phải xem xét mức độ hài hoà, phù hợp của hệ thống với môi trường cảnh quan tự nhiên ở làng quê Việt Nam. Chúng ta không thể bê tông hoá, hiện đại hoá một cách hoàn toàn hệ thống đường xá ở đây vì như vậy nó sẽ phá vỡ đi vẻ đẹp tự nhiên, dân dã của làng quê Việt Nam - một trong những yếu tố thu hút khách du lịch đến đây. Với những con đường nhỏ hẹp chúng ta có thể sử dụng gạch đỏ để lát, nó sẽ làm tôn thêm vẻ đẹp của làng quê Việt Nam.
2.2. Tập trung đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động
Nhà nước và chính quyền địa phương phải tích cực hỗ trợ đào tạo kiến thức quản lý, bồi dưỡng nâng cao năng lực kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất - kinh doanh và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động ở các doanh nghiệp.
Có thể nói đầu tư vào con người là loại đầu tư có hiệu quả nhất đối với mọi quốc gia trên thế giới. Phát triển và đào tạo nguồn lực con người là một chính sách quan trọng có tính chiến lược. Tình trạng yếu kém về kiến thức và năng lực quản lý, kinh doanh của các cơ sở sản xuất, trình độ tay nghề thấp của người lao động và thiếu lao động lành nghề trong các làng nghề đòi hỏi phải tăng cường đầu tư cho đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ tri thức quản lý, năng lực kinh doanh của chủ doanh nghiệp và kỹ năng tay nghề của người lao động. Đây là vấn đề hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự thúc đẩy phát triển các làng nghề, ngành nghề nông thôn, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Với chính sách đào tạo cho các chủ hộ, chủ doanh nghiệp trong các làng nghề, nhà nước mà trước hết là các trung tâm dạy nghề, chính quyền địa phương cần kết hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho các chủ hộ, chủ doanh nghiệp trong các làng nghề ở nông thôn về mặt học vấn văn hoá, khoa học kỹ thuật và kiến thức quản trị doanh nghiệp thông qua các hình thức đào tạo:
Đào tạo tại các trung tâm, mở các lớp tập huấn ngắn hạn cho các chủ doanh nghiệp. Đây là các lớp bồi dưỡng kiến thức ngành nghề, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kế toán tài chính, thị trường, tiếp thị...
Đào tạo bồi dưỡng kiến thức thông qua hình thức mở các câu lạc bộ giám đốc. Tới đây họ không chỉ tiếp thu được những kiến thức thông qua các chuyên đề nhỏ mà còn học hỏi, trao đổi được kinh nghiệm và tìm kiếm bạn hàng.
Đào tạo thông qua các trung tâm thông tin và tư vấn cho các chủ doanh nghiệp.
Do tính chất đặc thù của các làng nghề truyền thống là có tính chất kế thừa, do đó có lẽ tốt nhất là việc đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động phải được bắt đầu ngay từ gốc trong các làng nghề. Thực tế cho thấy những người sinh trưởng và lớn lên ở đất có nghề, nghề ngiệp đã ăn sâu vào trong máu thịt họ từ nhiều đời. Vì thế không có gì lạ khi thấy các em nhỏ chỉ 7 - 8 tuổi trong các làng nghề đã biết làm nghề của cha mẹ một cách khéo léo. Vì vậy các cơ sở sản xuất, đặc biệt là các hiệp hội ngành nghề cần chủ động đào tạo tay nghề cho người lao động nhằm đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật của sản xuất. Có thể sử dụng các hình thức đào tạo sau:
Thông qua các trung tâm dạy nghề.
Các nghệ nhân giỏi dạy nghề theo lối cổ truyền vừa học vừa làm trong một thời gian nhất định. Phương pháp này có ưu điểm là đào tạo được thợ có tay nghề cao, có thể làm ra các sản phẩm tinh xảo, độc đáo, sáng tạo.
Các hiệp hội nghề nghiệp có thể tổ chức các lớp đào tạo về kỹ thuật tay nghề và các kiến thức quản lý nhằm tạo ra nhiều người có trình độ sản xuất và kinh doanh giỏi, có khả năng tiếp nhận những nghề mới, cải tiến nghề cũ, làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất, các làng nghề thủ công.
Bên cạnh đó cần đào tạo kiến thức, kỹ năng giao tiếp cho những người bán hàng tại các điểm bán hàng và giới thiệu sản phẩm. Bởi lẽ thông qua họ một phần giá trị của sản phẩm, cốt cách, tinh hoa của những nghệ nhân, tâm hồn người Việt Nam được chuyển tải đến cho du khách. Điều này sẽ thúc đẩy nhu cầu tìm hiểu, mua sản phẩm của du khách.
2.3. Mở rộng thị trường tiêu thụ
Làng nghề đang trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đặc biệt là khi ngành “công nghiệp không khói” trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đi lên của một đất nước, vì vậy hơn bao giờ hết việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam được quan tâm chú trọng và đầu tư như trong thời kỳ này. Đối với các làng nghề, thị trường đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm là vấn đề sống còn, nó quyết đinh sự tồn tại, phát triển hay suy vong của các làng nghề. Thực trạng phát triển các làng nghề cho thấy, những cơ sở nào tồn tại và phát triển mạnh đều giải quyết được vấn đề đầu ra cho sản phẩm. Sự biến động thăng trầm của các làng nghề phần lớn do nhu cầu thị trường quyết định.
Thị trường ngoài nước
Trong những năm gần đây, sản phẩm của các làng nghề đã mở rộng được thị trường xuất khẩu sang Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapo, một số nước Tây Âu và Bắc Phi, song nhìn chung vẫn chưa có được thị trường ổn định, lâu dài. Việc xuất khẩu của các làng nghề phần lớn đều do các cơ sở sản xuất tự lo liệu. Trong khi đó hầu hết các cơ sở sản xuất - kinh doanh tại các làng nghề đều có quy mô vừa và nhỏ do đó trình độ và khả năng tiếp cận thị trường của các cơ sở này còn rất yếu kém. Hầu hết các cơ sở sản xuất - kinh doanh không có bộ phận chuyên trách về thu thập và xử lý thông tin, kể cả thông tin liên quan đến thị trường và sản phẩm mà họ đang tiến hành sản xuất - kinh doanh. Nguồn vốn tài chính có hạn nên họ cũng không đủ kinh phí để mua sắm các thiết bị và chi phí phục vụ cho các hoạt động tiếp cận thu thập xử lý thông tin và làm tốt công tác quảng cáo tiếp thị. Trình độ tri thức và năng lực xử lý thông tin của chủ các cơ sở này cũng còn hạn chế.
Bởi vậy nhà nước cần tiến hành hỗ trợ các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh doanh ở các làng nghề trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, thông qua việc giao trách nhiệm cho các cơ quan ngoại thương, ngoại giao trợ giúp việc nghiên cứu nhu cầu của thị trường, nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng... Trợ giúp giới thiệu sản phẩm làng nghề, ngành nghề truyền thống trên mạng truyền thông viễn thông, mạng Internet hoặc tham gia các hội chợ triển lãm, hội chợ du lịch trong nước và quốc tế. Đơn giản hoá và trợ giúp các cơ sở này làm tốt các thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá.
Đồng thời có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi tổ chức và cá nhân quan tâm, chú trọng đến công tác tiếp thị. Các cơ quan quản lý chuyên ngành, cơ quan quản lý ngoại thương, các hiệp hội nghề nghiệp nên có sự phối hợp chặt chẽ trong việc sắp xếp và thống nhất các đầu mối xuất khẩu hạn chế tình trạng cạnh tranh hỗn loạn làm tổn hại đến lợi ích chung, các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở tích cực thâm nhập mở rộng thị trường xuất khẩu, cần có mạng lưới liên hệ tới các cơ sở ở làng nghề, hỗ trợ việc thu gom hoặc đặt các hợp đồng làm hàng xuất khẩu để giảm những khâu trung gian không cần thiết, làm tổn hại và gây thua thiệt cho người sản xuất.
Thị trường trong nước
Để mở rộng thị trường trong nước, nhà nước và chính quyền địa phương các cấp cần có các chính sách và biện pháp tác động tạo điều kiện cho người dân ngày càng nâng cao mức thu nhập làm tăng sức mua của người dân. áp dụng những biện pháp hữu hiệu, tích cực nhằm ngăn chặn hàng nhập lậu, khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa. Phát triển mạnh các trung tâm thương mại, hình thành các tụ điểm thương mại thị trấn, chợ nông thôn. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để các cơ sở sản xuất - kinh doanh trong các làng nghề mở các đại lý, cửa hàng, quầy hàng giới thiệu sản phẩm tại các đô thị, tụ điểm thương mại, chợ ở các địa phương khác nhau. Tạo được mối liên kết giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề và các doanh nghiệp lớn của nhà nước.
Bên cạnh đó, nên khuyến khích hình thành các hiệp hội ngành nghề ngay trong từng làng, từng xã đến huyện, tỉnh và trung ương. Thông qua các tổ chức này, các cơ sở sản xuất, cá nhân người thợ được trao đổi và cung cấp thông tin về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, giá cả, thị hiếu, mẫu mã, chất lượng sản phẩm tạo ra sự hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của làng nghề.
2.4. Chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường
Tình trạng không có hệ thống cấp, thoát nước chung, các loại khí, nước, phế thải, rác thải của sản xuất và sinh hoạt không được thu gom, xử lý trước khi thải ra môi trường xung quanh ở nông thôn, nhất là ở trong các làng nghề đã tác động xấu đến môi trường tới mức báo động cần có biện pháp khắc phục kịp thời. Vì vậy nhà nước và chính quyền địa phương các cấp cần xúc tiến quy hoạch và xây dựng hệ thống cấp, thoát nước, xử lý chất thải, làm vệ sinh và bảo vệ môi trường ở khu vực nông thôn nói chung và trong các làng nghề nói riêng với tinh thần khẩn trương tích cực.
Một mặt cần tăng cường nhận thức của người dân, các chủ cơ sở sản xuất - kinh doanh về sự cần thiết của những hệ thống, công trình này và vận động họ đóng góp đầu tư xây dựng. Quy định chặt chẽ trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người dân trong việc bảo vệ môi trường.
Mặt khác cần có chính sách và biện pháp cụ thể về tổ chức, quản lý môi trường ở các làng nghề. ở mỗi huyện, xã cần có những bộ phận chuyên môn về việc kiểm tra, giám sát việc thực thi công tác bảo vệ môi trường trong các làng nghề. Đồng thời cần quy định việc thu phí bảo vệ môi trường và xử phạt hành chính đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh cũng như các cá nhân đổ chất thải bừa bãi làm ô nhiễm môi trường, phí bảo vệ môi trường phải được tính đầy đủ cho chi phí xử lý ô nhiễm môi trường và đền bù cho người bị ảnh hưởng của sự ô nhiễm đó. Nhà nước và chính quyền địa phương có thể hỗ trợ đầu tư các công trình chung quan trọng cho các làng nghề và cả một vùng nhất định. Nên kết hợp việc xây dựng các công trình cấp thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường với các công trình giao thông, thuỷ lợi nhằm bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ.
Có thể nói môi trường là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của khách du lịch khi quyết định chọn điểm đến. Vì vậy để thu hút du khách tới các làng nghề nói riêng và tới Bắc Ninh nói chung thì mọi người dân và chính quyền các cấp cần nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong các làng nghề.
3. Giải pháp nâng cao vai trò của làng nghề với hoạt động du lịch tỉnh Bắc Ninh
Như đã phân tích ở trên hoạt động du lịch ở Bắc Ninh còn nhiều hạn chế. Bắc Ninh là tỉnh có tiềm năng du lịch phong phú trong đó các làng nghề là một trong những điều kiện thuận lợi để tạo nên các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều du khách trong và ngoài nước. Song các làng nghề còn chưa thể hiện được vai trò của mình đối với sự phát triển của du lịch tỉnh nhà. Với những nỗ lực của Sở Du lịch -Thương mại Bắc Ninh, các cấp chính quyền cùng các tổ chức, cá nhân có liên quan du lịch tỉnh Bắc Ninh sẽ từng bước phát triển và khởi sắc. Lượng khách tới đây sẽ tăng lên và ổn định hơn. Cùng với sự phát triển của ngành du lịch các ngành nghề có liên quan cũng sẽ có những tác động tích cực. Khi đó các làng nghề sẽ là điểm đến thường xuyên của khách du lịch. Tuy nhiên để khách du lịch có được những thông tin về làng nghề, về các sản phẩm thủ công truyền thống, để họ có được những hiểu biết về làng nghề và lựa chọn là điểm đến của mình thì các làng nghề cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao vai trò của mình đối với hoạt động du lịch tỉnh như:
Tham gia các hội chợ triển lãm, hội chợ du lịch trong nước và quốc tế.
Giới thiệu thông tin, sự đặc sắc của các sản phẩm làng nghề trên các tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng, các sách báo, ấn phẩm mà khách du lịch thường quan tâm theo dõi như Tạp chí Du lịch, Tạp chí Heritage...
Đẩy mạnh việc trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở các thành phố, đô thị lớn là nơi tập trung nhiều du khách. Các cửa hàng trưng bày này có thể kết hợp giới thiệu về sản phẩm, về làng nghề, lịch sử của nó đồng thời có thể giới thiệu các “tour” du lịch tới các làng nghề này.
Đa dạng hoá sản phẩm, tập trung sản xuất các mặt hàng có giá trị nghệ thuật, phù hợp vơí thị hiếu của du khách. Hầu hết du khách khi đi du lịch ít khi mua các sản phẩm có kích thước và trọng lượng lớn. Họ thường có xu hướng mua các sản phẩm vừa và nhỏ, độc đáo, lạ mắt, có giá trị nghệ thuật để làm đồ lưu niệm hoặc làm quà. Các làng nghề cần tìm hiểu nắm bắt được nhu cầu này của khách du lịch để tạo ra các sản phẩm phù hợp.
Đối với một số làng nghề, khi khách du lịch tới thăm quan các cơ sở sản xuất có thể hướng dẫn họ làm một số sản phẩm đơn giản. Du khách thường thích tìm hiểu quy trình sản xuất, cách làm và đặc biệt thích tự tay mình làm được một sản phẩm nào đó dù rất đơn giản dưới sự hướng dẫn chỉ bảo của các nghệ nhân hay những người thợ ở đây. Khi đó những trải nghiệm mà du khách có được sẽ càng có giá trị và ấn tượng mạnh mẽ về chuyến đi. Nó cũng sẽ tạo nên sự khác biệt, điểm nhấn độc đáo của chuyến du lịch.
Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các công ty du lịch của tỉnh và các địa phương khác để thường xuyên cập nhật thông tin và có nguồn khách ổn định.
Tổ chức tốt các chuyến “ tour” du lịch làng nghề để thông qua du khách có thể quảng bá sản phẩm bằng hình thức truyền miệng từ người này sang người khác.
Tiến hành in các tờ rơi, tờ quảng cáo, các cuốn sách nhỏ giới thiệu về truyền thống lịch sử, các nghệ nhân, các sản phẩm tiêu biểu của làng nghề để tặng, bán cho du khách khi họ đến thăm các làng nghề.
Kết hợp với các công ty du lịch để xây dựng các “ tour” du lịch chuyên đề về làng nghề và các “ tour” du lịch kết hợp, tạo nên các sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo để thu hút du khách.
kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
Bắc Ninh là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời của nước ta. Đây là mảnh đất phát tích của Triều Lý - triều đại phong kiến độc lập đầu tiên của nước ta.
Bắc Ninh cũng là cái nôi của nền văn hoá Việt Nam. Tuy là tỉnh có diện tích nhỏ nhất trong cả nước song Bắc Ninh lại có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi. Thêm vào đó là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn đa dạng, phong phú là tiềm năng to lớn cho việc phát triển du lịch văn hoá của tỉnh.
Bắc Ninh còn là mảnh đất có nhiều làng nghề thủ công với truyền thống lâu đời. Những nghệ nhân với đôi bàn tay khéo léo của mình đã tạo nên bao sản phẩm tinh xảo có giá trị nghệ thuật làm nhiều người phải trầm trồ thán phục. Đây cũng là một phần quan trọng của tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bắc Ninh, là một yếu tố tạo nên những sản phẩm du lịch mới lạ, độc đáo.
Du lịch văn hoá Bắc Ninh hiện đang trước ngưỡng cửa của phát triển, tuy nhiên còn chậm và hiệu quả chưa cao. Điều này thể hiện qua tất cả các chỉ tiêu như lượng khách, doanh thu, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng... Sự đóng góp của du lịch Bắc Ninh còn nhỏ bé không những đối với du lịch cả nước mà còn đối với nền kinh tế của tỉnh.
Bắc Ninh là tỉnh có hệ thống cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn. Vì vậy để phát triển kinh tế nói chung và du lịch nói riêng cần phải có sự cải thiện đáng kể điều kiện hạ tầng đặc biệt là giao thông vân tải và cấp thoát nước.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn vô cùng nghèo nàn. Chất lượng trang thiết bị cũng như lao động phục vụ du lịch còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh có truyền thống lâu đời với những sản phẩm độc đáo sẽ là điểm dừng chân lý thú của nhiều du khách. Song các làng nghề và du lịch Bắc Ninh chưa phát huy hết được thế mạnh này. Các tuyến du lịch làng nghề chưa thực sự hấp dẫn được du khách. Chính từ thực tế này đã đặt ra cho các làng nghề và du lịch Bắc Ninh những cơ hội và thách thức lớn.
2. Ưu nhược điểm của khoá luận
2.1. Ưu điểm
Khoá luận đã bước đầu đưa ra được một số những định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy du lịch làng nghề Bắc Ninh phát triển đóng góp vào sự lớn mạnh của du lịch địa phương.
Khoá luận đã xây dựng được một số tuyến du lịch làng nghề và tuyến du lịch kết hợp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
2.2. Nhược điểm
Do tình hình thực tế, hoạt động du lịch Bắc Ninh nói chung và du lịch làng nghề Bắc Ninh nói riêng chưa phát triển nên khoá luận chưa đảm bảo được đầy đủ các số liệu thống kê.
3. Những kiến nghị
Kiến nghị chính phủ cấp vốn ngân sách đầu tư vào kết cấu hạ tầng cho Bắc Ninh, cải tạo và nâng cấp kết cấu hạ tầng ở các khu du lịch, khu di tích, trong các làng nghề và các tuyến du lịch trọng điểm.
Kiến nghị Bộ văn hoá thông tin dành vốn để đầu tư giữ gìn nâng cấp những di tích lịch sử - văn hoá đã được xếp hạng trên địa bàn tỉnh, các làng nghề thủ công truyền thống, làng quan họ cổ...
Kiến nghị UBND tỉnh và Tổng cục du lịch tạo nguồn vốn dành cho công tác tuyên truyền, quảng cáo, phát triển du lịch Bắc Ninh nói chung và du lịch làng nghề Bắc Ninh nói riêng.
Kiến nghị UBND tỉnh và chính quyền các cấp quan tâm đến vấn đề môi trường tại các làng nghề và tạo mọi điều kiện thuận lợi để làng nghề Bắc Ninh phát triển tương xứng với tiềm năng của nó.
Kiến nghị UBND tỉnh cho phép các thành phần kinh tế khác thành lập các doanh nghiệp hoạt động du lịch để tăng tính hấp dẫn và tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Do điều kiện thời gian cũng như do trình độ và kinh nghiệm bản thân còn nhiều hạn chế nên khoá luận sẽ không khỏi có những khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn đọc quan tâm tới vấn đề này.
Xin chân thành cảm ơn!
tài liệu tham khảo
[1]. Báo cáo kết quả thực hiện công tác du lịch Bắc Ninh các năm 1998, 1999, 2000, Sở Du lịch - Thương mại Bắc Ninh.
[2]. Báo cáo hiện trạng sản xuất và môi trường một số làng nghề tỉnh Bắc Ninh, Cục môi trường 12/ 2000.
[3]. Bản đồ tài nguyên du lịch Bắc Ninh, Bản đồ tổ chức không gian điểm - tuyến du lịch Bắc Ninh, Bản đồ hành chính Bắc Ninh, Viện nghiên cứu phát triển du lịch.
[4]. Ma Thế Cường, Tục trình nghề ở đất Kinh Bắc, Tạp chí Du lịch Việt Nam 1/ 1999, tr 16.
[5]. Dự án quy hoạch tổng thể phát triển Khoa học - Xã hội Bắc Ninh 1998 - 2000, Sở kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh 1997, tr 4 - 60.
[6]. Vũ Thuỳ Dương, Khoá luận tôt nghiệp: “ Tiềm năng du lịch và việc hình thành các tuyến điểm du lịch ở Bắc Ninh”, ĐHMHN, 1999.
[7]. Định hướng quy hoạch phát triển du lịch văn hoá tỉnh Bắc Ninh, Sở Du lịch - Thương mại Bắc Ninh 1/1998, 24tr.
[8]. Hội xứ Bắc, Sở văn hoá thông tin Hà Bắc 1998, 107 tr.
[9]. Mai Thế Hởn, Phát triển làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh, Tạp chí hoạt động khoa học số 1/1999.
[10]. Nguyễn Thị Hường, Phát triển các làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh để phục vụ xuất khẩu, Tạp chí kinh tế và dự báo số 5/1999.
[11]. Nguyễn Văn Huyên, Địa lý hành chính Kinh Bắc, NXB Văn hoá - 1996.
[12]. Nguyễn Đăng Khang, Du lịch Bắc Ninh - tiềm năng đang bị bỏ ngỏ, Báo công an nhân dân 6/ 2001.
[13]. Kỷ yếu hội thảo quốc tế: “Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam”, Bộ Công nghiệp và tổ chức phát triển công nghiệp của LHQ, 8/ 1996.
[14]. Làng nghề nông thôn và vấn đề môi trường, Tạp chí hoạt động khoa học số 1/ 2002.
[15]. Trần Đình Luyện, Văn hiến Kinh Bắc, Sở văn hoá - thông tin Bắc Ninh 1997, 271 tr.
[16]. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn: Ngành nghề nông thôn Việt Nam 1997, NXB Bộ Nông nghiệp, 1998.
[17]. Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề, Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội văn nghệ dân gian Hà Nội, CLB nghề truyền thống, NXB Văn hoá dân tộc, 1996, tr 31 - 44.
[18]. Trần Tiến Nghị, Du lịch làng nghề, loại hình cần được quan tâm khai thác, Tạp chí Du lịch Việt Nam 8/ 1998, tr 16.
[19]. Nguyễn Thế Nhã, Giải pháp phục hồi và phát triển các làng nghề trong nông thôn đồng bằng sông Hồng, Tạp chí kinh tế nông nghiệp số 9/ 2000.
[20]. Niêm giám thống kê Bắc Ninh 2000, Cục thống kê Bắc Ninh 2001.
[21]. Non nước Việt Nam, Tổng cục du lịch, Trung tâm công nghệ thông tin du lịch, Hà Nội 1999, tr 334 - 342.
[22]. Dương Bá Phượng, Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, NXB khoa học - xã hội 2001.
[23]. Dương Bá Phượng, Làng nghề - thành tố quan trọng của công nghiệp nông thôn - cần được bảo tồn và phát triển. Tổ chức nghiên cứu kinh tế, số 7/ 2000.
[24]. Phương hướng và giải pháp phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Sở Công nghiệp Bắc Ninh, 1998.
[25]. Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Bắc Ninh, Sở Thương mại Du lịch 1997, tr 5 - 60.
[26]. PTS. Nguyễn Minh Tuệ, Giáo trình tài nguyên du lịch, Khoa Du lịch, Viện Đại học Mở Hà Nội, 72 tr.
[27]. PTS. Nguyễn Minh Tuệ, PGS - PTS Vũ Tuấn Cảnh, PGS - PTS Lê Thông, PTS Phạm Xuân Hậu, PTS Nguyễn Kim Hồng, Địa lý Du lịch, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1997, 264 tr.
[28]. TS Lê Thông (chủ biên), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam phần 1, Nhà xuất bản Giáo Dục 2002, tr 29 - 56.
[29]. Tư liệu vùng đồng bằng sông Hồng 1997 - 1998, Nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật 1998, tr 227 - 235.
[30]. Hà Văn Tấn (chủ biên),Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 1994.
[31]. Ty văn hoá Hà Bắc: “Phong Thổ Hà Bắc” xuất bản 1982.
[32]. PGS - TS Nguyễn Viết Sự (chủ biên), Tuổi trẻ với nghề truyền thống Việt Nam, NXB Thanh Niên, 2001.
[33]. Nguyễn Sỹ, Làng nghề ở Bắc Ninh, Tạp chí Cộng Sản số 14/ 2000.
[34]. Bùi Văn Vượng, Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam, NXB Thanh Niên 2000.
[35]. Bùi Văn Vượng, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin.
Table of Contents
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1425.doc