Trường đại học ngoại thương
Khoa Kinh tế ngoại thương
=======&=======
Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài:
Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ 21
Sinh viên thực hiện : Trần Trung Hiếu
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Xuân Nữ
Lớp : D - T1- K37
Hà Nội-2002
Mục lục
Lời nói đầu 4
Chương 1:
Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam những năm cuối thế kỷ 20 6
1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo thời kỳ từ 1975 đến 1988 6
1.1. Việt Nam, m
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột quốc gia với nền nông nghiệp lạc hậu 6
1.2. Những sự thay đổi mang tính quyết định về đường lối sản xuất nông nghiệp của Đảng và Nhà nước 8
2.Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo thời kỳ từ 1989 đến 2000 11
2.1. Tình hình sản xuất gạo của Việt Nam 11
2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 22
Chương 2:
Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. 33
1. Khả năng sản xuất gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 33
1.1. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động sản xuất gạo của Việt Nam 33
1.2. Định hướng của nhà nước đối với hoạt động sản xuất lúa gạo 41
1.3. Khả năng, mục tiêu sản xuất lúa gạo của Việt Nam 43
2. Khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 45
2.1. Nhu cầu của thị trường gạo thế giới trong thiên niên kỷ mới 45
2.2. Khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam 51
Chương 3:
Những giải pháp nhằm thực hiện chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. 55
1. Kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu gạo của một số quốc gia trên thế giới 55
1.1. Kinh nghiệm trong sản xuất và xuất khẩu gạo của Thái Lan 56
1.2. Kinh nghiệm trong sản xuất và xuất khẩu gạo của Mỹ 59
1.3. Kinh nghiệm trong sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ 61
1.4. Kinh nghiệm trong sản xuất và xuất khẩu gạo của Trung Quốc 62
1.5. Kinh nghiệm trong sản xuất và xuất khẩu gạo của Pakistan 62
2. Định hướng phát triển hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Đảng và Nhà nước 65
3. Giải pháp nhằm thực hiện chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 68
3.1. Đối với Nhà nước 68
(Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách)
3.2. Đối với ngành Nông nghiệp 74
(Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật)
3.3. Đối với các Doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo 80
(Các giải pháp về nghiên cứu thị trường và Marketing)
Kết Luận 82
Các tài liệu tham khảo 84
Lời nói đầu
Chỉ cách đây hơn mười năm, có ít người Việt Nam, dù là người lạc quan nhất có thể nghĩ rằng Việt Nam sẽ trở thành một nước có gạo để xuất khẩu. Ngày nay điều tưởng như không bao giờ xảy ra đó đã trở thành hiện thực, không những thế Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Năm 1989, những tấn gạo đầu tiên của Việt Nam sau bao năm dài gián đoạn lại lên tàu, vượt đại dương xuất đi khắp thế giới.
Thành tích kỳ diệu này làm đã làm sửng sốt bạn bè quốc tế nhưng đối với người dân Việt Nam đây là một điều hoàn toàn không bất ngờ, thành tích này là kết quả tất yếu của bao nỗ lực cố gắng vươn lên của ngành nông nghiệp Việt Nam, của những định hướng chiến lược đúng đắn của Đảng và nhà nước Việt Nam, của hàng triệu người lao động Việt Nam làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và các ngành phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
1. Sự cần thiết của đề tài:
Ngày nay, gạo đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp một phần không nhỏ vào kim nghạch xuất khẩu qua đó gián tiếp góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thế kỷ 21 đang đến với những biến động lớn, nhanh chóng về kinh tế, chính trị và môi trường sống đã và đang có những tác động lớn lao đến nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Để có thể thích ứng với sự biến động không ngừng và ngày càng nhanh của thị trường thế giới, tiếp tục tăng cao kim ngạch xuất khẩu gạo trong những năm tới, duy trì vai trò tích cực của hoạt động xuất khẩu gạo trong nền kinh tế quốc dân , chúng ta cần phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện tại và những định hướng giải pháp cho một sự phát triển toàn diện trong tương lai.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Tất cả những điều trình bày trên đây nói lên lí do em chọn đề tài : “Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21”. Do phạm vi đề tài quá lớn, trong phạm vi của khoá luận này em chỉ xin đi sâu phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo hiện tại của Việt Nam từ đó làm nổi bật lên những những khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm đầu thế kỷ 21, đồng thời mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, phát huy hơn nữa vai trò tích cực của gạo Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận này được viết dựa trên phương pháp tổng hợp, so sánh kết hợp giữa lí luận và thực tiễn để từ đó thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ mới đầy thử thách.
4. Nội dung nghiên cứu:
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, Khoá luận được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ 20.
Chương 2: Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21.
Chương 3: Những giải pháp nhằm thực hiện chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thế kỷ 21.
Do trình độ nhận thức và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, chắc chắn khoá luận này còn nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong được nhận những lời nhận xét và đóng góp của các thày cô và các bạn để khoá luận có thể hoàn thiện hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thày cô giáo trong Khoa Kinh tế Ngoại thương về những góp ý quý báu. Đặc biệt, cho phép em bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thạc sĩ Nguyễn Xuân Nữ về sự động viên và chỉ bảo tận tình của cô trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2002.
Sinh viên thực hiện,
Trần Trung Hiếu
Trung 1- K37D, ĐHNT
Chương 1:
Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ 20.
1. Tình hình sản xuất gạo Thời kỳ từ 1975 đến 1988:
1.1. Việt Nam, một quốc gia với nền nông nghiệp lạc hậu:
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta đã dành được thắng lợi trọn vẹn với chiến thắng vang dội của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, non sông Việt Nam thu về một mối. Việc thống nhất hai miền đất nước đã tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam. Ngành nông nghiệp Việt Nam bước sang một trang mới “thời kỳ hợp tác hoá hoạt động sản xuất nông nghiệp trên toàn lãnh thổ”. Trong thời kỳ này, cùng với việc hợp tác hoá bậc cao ở miền Bắc, nông dân ở miền Nam được cấp ruộng, thực hiện tập thể hoá nông nghiệp dưới hai hình thức: Tập đoàn sản xuất và hợp tác xã. ở nông thôn miền Nam tầng lớp trung nông là lực lượng sản xuất quan trọng, chiếm tới 70% dân cư nông nghiệp, 70% lực lượng lao động, sử dụng 80% ruộng đất, 60% tổng năng lượng cơ khí, 70% máy móc cỡ nhỏ và 93% sức kéo trâu bò. Do có ưu thế về ruộng đất, vốn nhất là kinh nghiệm sản xuất và khoa học kỹ thuật, tầng lớp này sản xuất và cung cấp đại bộ phận sản phẩm hàng hoá cho xã hội. Toàn bộ vấn đề ruộng đất và hợp tác hoá nông nghiệp nói trên đã có những ảnh hưởng to lớn đến tình hình sản xuất lúa gạo của nước ta. Tình hình sản xuất lúa nước ta từ năm 1975 đến 1988 đựơc thể hiện tại bảng sau:
Bảng 1: Sản xuất lúa của nước ta từ 1975-1988
Năm
Sản lượng Lương thực (1.000 tấn)
Sản lượng lúa
(1.000 tấn)
Diện tích lúa
(1.000 ha)
Năng suất lúa (tạ/ha)
Mức lương thực BQ (kg/ng)
Riêng thóc (kg/ng)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
1975
11.464,2
10.293,6
4.855,9
21,2
240,6
216,0
1976
11.800,0
1978
12.265,3
9.789,9
5.426,5
17,9
238,5
190,4
1980
14.406,4
11.647,4
5.600,2
20,8
268,2
216,5
1985
18.200,0
15.874,8
5.703,9
27,8
304,0
265,1
1986
18.379,1
16.002,9
5.688,6
28,1
300,8
261,8
1987
17.562,6
15.102,6
5.588,5
27,0
280,8
241,8
1988
19.583,1
17.000,0
5.726,4
29,7
266,8
88/75
170,1
165,2
117,9
140,5
123,5
Nguồn: Lương thực Việt nam thời đổi mới hướng xuất khẩu - Nguyễn Trung Vãn tr.134
Trong thời kỳ này diện tích đất canh tác có xu hướng tăng không nhiều( 18%). Suốt 13 năm liên tục, diện tích lúa vẫn chỉ dao động từ 5,3 triệu ha đến 5,7 triệu ha. Cùng trong thời gian đó lại có những năm giảm sút đáng kể như năm 1978, 1983,1987. Bản thân tình trạng giảm sút về diện tích đất canh tác gieo trồng lúa đã chi phối sâu sắc đến xu hướng tăng mức lương thực bình quân theo đầu người nói chung và nhất là lúa nói riêng.
Trong suốt 14 năm (1975 đến 1988) sản lượng lúa tăng 65,2% thấp hơn một chút (xem bảng 1) so với tốc độ tăng trưởng sản lượng lương thực. Sản lượng lúa tăng điển hình trong các năm 1985, 1986 và 1988. Mức tăng chủ yếu do thâm canh tăng vụ, tăng năng suất. Tuy nhiên nếu xét chung thì sản lượng lúa tăng chậm và không ổn định. Điều này thấy rõ nhất là trong suốt 6 năm từ năm 1975 đến 1980, sản lượng lúa liên tiếp bấp bênh, nếu so với năm 1976, sản lượng lúa không những chẳng nhích lên một chút nào mà còn giảm tới 10%, giảm từ 11,8 triệu tấn năm 1976 xuống còn 9,8 triệụ tấn năm 1978.
Năng suất lúa bình quân qua các năm từ 1975 đến 1988 tăng 40,5% từ 21,19 tạ/ha lên 29,70 tạ/ha. Tuy nhiên xu hướng tăng có sự khác nhau rõ rệt theo mùa vụ, có thể năng suất lúa chiêm xuân 1975-1988 tăng 69,4%, từ 21,84 lên 37,8 tạ/ha, lúa hè thu tăng 36,2% từ 24,82 lên 33,8 tạ/ha, còn lúa mùa chỉ tăng 14,2% từ 20,9 lên 26,5 tạ/ha.
Lúc này, nhiệm vụ giải quyết lương thực luôn là nỗi lo âu, là gánh nặng của toàn Đảng, toàn dân. Năm 1986 sản xuất lương thực của cả nước (gồm lúa là chủ yếu), đạt 18, 37 triệu tấn thì đến năm 1987 giảm xuống còn17,5 triệu tấn (tức giảm 80 vạn tấn) trong khi dân số lại tăng thêm 1,5 triệu người. Bình quân lương thực năm 1986 là 300,8 kg/người tụt xuống còn 280 kg/người vào năm 1987 (nếu chỉ tính riêng miền Bắc chỉ còn 238,6 kg/người).
Sản xuất lương thực không đủ, mặc dù Nhà nước đã phải nhập khẩu 1,28 triệu tấn lương thực (gạo, mì, ngô) để đưa thêm vào cân đối nhưng vẫn thiếu. Hậu quả là năm 1988, ở 21 tỉnh thành phố có trên 9,3 triệu người thiếu ăn, chiếm 39,5% nhân khẩu trong đó có tới 3,6 triệu người đói trầm trọng.
Trong số nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trì trệ này cần phải nói đến những sai sót của mô hình hợp tác hoá nông nghiệp bậc cao, từ việc tổ chức quản lý đến phân phối. Trước hết việc tổ chức thực hiện mô hình hợp tác hoá bậc cao diễn ra quá nhanh, chưa phù hợp với những điều kiện thực tế về năng lực quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ canh tác... Những sai sót của mô hình hợp tác hoá nông nghiệp miền Bắc những năm 1960-1974 rất đáng tiếc lại tái diễn ở miền Nam sau ngày giải phóng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất lúa. Thứ hai là trình độ quản lý tư liệu sản xuất, đất đai và lao động của bộ máy hợp tác xã bộc lộ sự non nớt yếu kém rõ rệt, chưa đáp ứng kịp trước yêu cầu của qui mô tập trung hoá và chuyên môn hoá. Thứ ba, chế độ phân phối bình quân chủ nghĩa, công bằng trên hình thức đã không thúc đẩy được tài năng của những người lao động giỏi, kìm hãm sản xuất. Nền nông nghiệp Việt Nam lúc này đang đứng trước những thử thách lớn lao hơn bao giờ hết.
1.2. Chính sách về đường lối sản xuất nông nghiệp của Đảng và Nhà nước:
Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Đảng và nhà nước đã lập tức triển khai hoạt động hợp tác hoá sản xuất nông nghiệp trên toàn lãnh thổ nước ta, mà đặc biệt tại hai vựa lúa chính là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Tại miền Bắc, Nhà nước ta tiếp tục phát huy kết quả của quá trình hợp tác hoá trong giai đoạn trước, nâng các hợp tác xã nông nghiệp thành các hợp tác xã bậc cao. Toàn bộ các khâu trong quá trình sản xuất nông nghiệp giờ đây do hợp tác xã và các tổ, đội dịch vụ đảm nhiệm. Tại miền Nam, sau khi thu hồi ruộng đất đất từ tay các địa chủ và chủ đồn điền, Nhà nước đã tiến hành phân phối ruộng đất cho nông dân. Do trình độ nhận thức của đại bộ phận nông dân miền Nam về hoạt động sản xuất tập thể còn nhiều hạn chế cũng như địa bàn sản xuất của khu vực này quá rộng, Đảng và nhà nước đã chủ trương thực hiện việc tập thể hoá nông nghiệp ở đây dưới hai hình thức là tập đoàn sản xuất và hợp tác xã. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng trăm hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp đã ra đời tại vùng đồng bằng sông Cửu Long và đã có những đóng góp tích cực cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước nhà. Tuy nhiên do quá nôn nóng và thiếu hiểu biết, cũng như không chịu rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm trong hoạt động hợp tác hoá ở miền Bắc, nên dần dần hoạt động của các hợp tác xã và các tập đoàn sản xuất đi và ngõ cụt, sản xuất trì trệ đình đốn do người nông nhân không còn thiết tha với ruộng đất. Sản xuất lương thực lúc này giảm sút về mọi phương diện: diện tích, sản lượng, cũng như năng suất. Lượng lương thực hàng năm không đủ cung cấp cho người dân, nhà nước buộc phải nhập khẩu gạo để chống đói.
Đứng trước tình hình khẩn cấp đó, Ban Bí thư TW Đảng cộng sản Việt nam đã có chỉ thị số 100 (ngày 13/01/1981) chính thức hoá cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và cá nhân người nông dân hay còn gọi là “khoán 100”, theo đó hộ xã viên nông dân được chủ động một khâu canh tác và được hưởng phần sản lượng vượt khoán. Nhờ đó, sản xuất lúa đã tăng mỗi năm gần 1 triệu tấn, năm 1985 đạt mức 15,875 triệu tấn. Từ vụ đông xuân 1987 - 1988, nhiều địa phương đã nghiên cứu cải tiến khoán 100 thành khoán gọn đến hộ xã viên và đạt kết quả tốt. Từ kinh nghiệm đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết và nâng lên thành Nghị quyết số 10 (ngày 5/04/1988) về đổi mới quản lý trong nông nghiệp, hay còn gọi là “Khoán 10”. Nghị quyết thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, và trong nông nghiệp thì có hộ gia đình là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ được giao lại cho hộ gia đình nông dân. Nông dân được quyền quyết định việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làm ra trên phần đất được giao lại của họ.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 10, hàng chục triệu nông dân Việt Nam đã được giải thoát khỏi những cơ chế chính sách không phù hợp, những cơ chế chính sách làm cho người nông dân ngày càng xa rời đất đai không thiết tha gì với sản xuất. Đồng ruộng đã được phủ một màu xanh trở lại, giờ đây người nông dân đã tự có thể quyết định được vận mệnh của chính mình, hàng chục triệu lao động trong ngành nông nghiệp và các ngành khác có liên quan đã hăng say lao động tạo nên một sự kỳ diệu mới cho đất nước trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20. Sản lượng lương thực đã có bước phát triển vượt bậc, từ mức trên dưới 18 triệu tấn/năm trong giai đoạn 1984 - 1987 đã tăng lên đạt 21,5 triệu tấn/năm 1989 và cũng trong năm này những tấn gạo đầu tiên của Việt Nam qua bao nhiêu vất vả khó khăn đã lên tàu xuất đi khắp thế giới.
Như vậy, từ chỗ lương thực sản xuất không đủ tiêu dùng, Việt nam đã không những giải quyết triệt để được vấn đề an ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới với kim nghạch xuất khẩu ngày càng tăng.
2.Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo từ 1989 đến 2000:
2.1. Tình hình sản xuất gạo của Việt Nam:
Nhận thức được những những thách thức to lớn trong hoạt động sản xuất lúa gạo Việt Nam nói riêng và sản xuất lương thực nói chung, trong hơn một thập kỷ vừa qua Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giành nhiều cố gắng để phát triển sản xuất lương thực. Những cố gắng không ngừng đó đã bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ, được bạn bè quốc tế coi như một kỳ tích. Kết quả đó đã chuyển nước ta từ một nước thiếu lương thực sang một nước không những bước đầu đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia, trong khi dân số vẫn tiếp tục tăng ở mức cao khoảng 1,5 triệu người/năm và thường có thiên tai nặng ở một số vùng, mà hàng năm còn có dự trữ và xuất khẩu với khối lượng lớn
Bảng dưới đây sẽ khắc hoạ những nét tổng thể về sản xuất lúa gạo của cả nước từ năm 1989 đến 2000:
Bảng 2: Tình hình sản xuất lúa gạo của Việt nam từ 1989 đến 2000
Năm
Diện tích
(ngàn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn thóc)
Dân số
(triệu người)
Sản lượng thóc bình quân (kg/người)
Sản lượng lương thực bình quân
(kg/người)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
1989
5.895,8
32,2
18,996
64,833
293
332
1990
6.027,7
31,9
19,225
66,233
290
324
1991
6.302,7
31,1
19,621
67,774
291
325
1992
6.475,4
33,3
21,590
69,405
311
349
1993
6.559,4
34,8
22,836
71,025
314
359
1994
6.598,5
35,6
23,528
72,509
324
361
1995
6.765,6
36,9
24,963
73.962
366
373
1996
7.003,8
37,7
26,396
75.355
350
388
1997
7.009,7
38,8
27,623
76.715
367
399
1998
7.362,4
39,6
29,101
78.059
382
408
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
1999
7.495,5
41,12
30,822
76,327
403
421
2000
7.673,7
42,62
32,700
77,685
420
89/00
(%)
130,1
132,3
172
119,8
143,3
Nguồn : Tổng cục thống kê - Niên giám thống kê qua các năm
Nhìn vào bảng ta thấy đây là thời kỳ hưng thịnh nhất của Việt nam trong lĩnh vực sản xuất lúa so với các thời kỳ trước đó. Tất cả các lĩnh vực từ diện tích canh tác, năng suất, sản lượng đều được nâng cao đột phá. Có được thành tích này là do nỗ lực của toàn thể nhân dân trong điều kiện đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và bước ngoặt chuyển biến từ Nghị quyết 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Toàn bộ ruộng đất và công cụ lao động đều được giải phóng, người lao động đựơc làm chủ ruộng đất, làm chủ công cụ lao động, làm chủ ở các khâu sản xuất đến tiêu thụ cho nên đảm bảo sản xuất ở mức có hiệu quả nhất.
Kỳ tích đó còn được sự đóng góp của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghệ sinh học, thuỷ lợi và phân bón. Nhiều giống lúa mới được nghiên cứu ra đời và được áp dụng vào sản xuất, cùng với việc dịch chuyển cơ cấu mùa vụ, thâm canh, tăng năng suất. Bên cạnh hàng chục triệu nông dân trực tiếp lao động trên đồng ruộng còn phải kể đến đội ngũ các nhà khoa học, trực tiếp làm nên thành quả tuyệt vời của mặt trận nông nghiệp những năm qua, đã luôn sát cánh cùng với những người nông dân vượt lên biết bao thiên tai và thử thách để đưa các giống lúa mới, áp dụng cách phương pháp sản xuất mới, trực tiếp đưa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng.
Như vậy sản xuất lúa ở thời kỳ bao cấp và thời kỳ đổi mới có sự khác biệt rất rõ nét. Thời kỳ bao cấp thường chỉ đề cập đến sự phát triển sản xuất một cách chung chung và trên thực tế hoạt động sản xuất vẫn không hiệu quả và trì trệ. Đặc trưng sản xuất lúa gạo thời kỳ đổi mới là sự tăng tốc mạnh mẽ, năng suất cao liên tục nhiều năm. Mô hình đặc trưng của sản xuất lúa của Việt Nam thời kỳ đổi mới được xác định là:
Hiệu quả tối ưu
Tăng tốc sản xuất
Hình1: Mô hình sản xuất lúa gạo Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Hướng mạnh xuất khẩu
Nâng cao chất lượng
An ninh lương thực
Nguồn: PTS Nguyễn Trung Vãn- Lương thực Việt Nam thời kỳ đổi mới hướng xuất khẩu. Hà nội 1998, trang 246
Dưới đây, là những phân tích đi sâu về từng mặt của hoạt động sản xuất gạo của Việt Nam trong thời kỳ này:
2.1.1. Về mặt diện tích đất canh tác:
Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 (1989 đến 2000) diện tích lúa của cả nước tăng đáng kể (gần 30%) từ 5.895.800 ha lên 7.673.700 ha. Mức tăng kỷ lục này cũng vượt xa tất cả các thời kỳ trước đó như thời kỳ 1955 đến 1974, thời kỳ 1975 đến 1988. Đáng nói hơn nữa, mức tăng này lại diễn ra ngay trong điều kiện có sự tranh chấp quyết liệt giữa diện tích canh tác lúa và diện tích đất ở do có sự bùng nổ về dân số và đất thi công các công trình công nghiệp do tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hàng năm đất ở mới, đất công nghiệp trên phạm vi cả nước đã chiếm vào đất nông nghiệp hàng ngàn ha, chủ yếu là vào phần diện tích đất canh tác lúa.
Tuy nước ta có bảy khu vực sản xuất nông nghiệp là : Trung du miền núi Bắc bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long. Tuy nhiên diện tích trồng lúa của nước ta chủ yếu tập trung tại hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long lằ một khu vực được thiên nhiên vô cùng ưu đãi về điều kiện tự nhiên, rất thuận lợi cho việc canh tác lúa chiếm tới hơn 50% tổng diện tích canh tác của toàn quốc. Hiện nay nhờ ứng dụng một loạt các biện pháp cải tiến kỹ thuật trong các khâu làm đất, gieo trồng, giống và thuỷ lợi nên một số lượng lớn diện tích ở hai vùng đồng bằng kể trên đã có khả năng canh tác liên tiếp ba vụ lúa trong một năm là: vụ Hè Thu, vụ Đông Xuân và vụ lúa mùa.
Mức tăng diện tích lúa của Việt Nam ta trong thời gian này chủ yếu dựa vào hướng thâm canh tăng vụ, đặc biệt là vụ lúa hè thu và vụ đông xuân theo chủ trương của Nghị quyết 10, phần lớn diễn ra ở đông bằng sông cửu Long. Cụ thể diện tích lúa riêng vùng này trong 10 năm qua đã tăng 62,6% từ gần 2,3 triệu ha năm 1988 lên 3,9 triệu ha năm 1999, tăng 1,6 triệu ha.
Do quỹ đất canh tác có hạn lại bị chiếm dụng làm đất ở mới và đất công nghiệp cho nên trong những năm gần đây, để tăng diện tích lúa, chúng ta không thể tập trung vào hướng quảng canh và phải dựa vào hướng thâm canh tăng mùa vụ sản xuất. Nhờ đó mà trong năm 2000 cả nước vẫn gieo cấy được hơn 7,6 triệu ha tăng 176 ngàn ha so với năm 1999.
2.1.2. Về mặt sản lượng:
Nhờ mở rộng diện tích thâm canh tăng vụ và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp như việc sử dụng các loại giống mới, sử dụng phân bón đa dạng phù hợp với từng loại và mùa vụ..., nên sản lượng có xu hướng tăng rõ rệt đặc biệt là trong những năm gần đây. Các số liệu từ các Bảng1 và 2 cho ta thấy rõ nhất sự tăng trưởng này.
Thời kỳ hưng thịnh nhất trong sản xuất lúa ở Việt nam có lẽ là hơn 10 năm cuối cùng của thế kỷ 20 (1989-2000). Trong giai đoạn này, xu hướng sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định. Một điểm nữa khác với thời kỳ trước là mức tăng sản lượng lúa lớn hơn so với tổng sản lượng lương thực. Trong động thái phát triển chung đó, tốc độ tăng trưởng kể từ năm 1992 càng nhanh chóng và vững chắc hơn. Năm 1992, sản lượng lúa tăng so với năm trước là 10%, đạt mức tăng lớn ở giai đoạn này. Đến năm 1995, sản lượng vẫn giữ được mức khả quan là 6%. Cần nói thêm, trong năm 1989 năm mở đầu cho giai đoạn này đồng thời mở đầu cho cục diện xuất khẩu lớn, sản lượng đã tăng 11,7% so với năm 1998. Về con số tuyệt đối, năm 1989 và 1992 là hai năm sản lượng lúa tăng đạt xấp xỉ 2 triệu tấn so với năm trước. Năm 2000, sản lượng lúa lại tăng khoảng 2 triệu tấn so với năm 1999, tương ứng với 6,1%.
Như vậy, trong suốt thời kỳ 1989-2000, tốc độ tăng trung bình hàng năm về sản lượng lúa đạt mức 6%. Mức tăng trưởng này vượt xa tất cả các thời kỳ trước của lịch sử trồng lúa Việt nam. Chưa bao giờ sản lượng lúa lại tăng mạnh và tăng liên tục trong nhiều năm như trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nếu ta coi sản lượng lương thực năm 1989 là 100% thì năm 2000 là 172% , như vậy bình quân mỗi năm tăng 6%, trong khi đó thế giới chỉ tăng 1,7%, châu á tăng 1,8%.
2.1.3. Về mặt năng suất:
Thời gian trong vòng 10 năm trở lại đây là thời kỳ đổi mới, thời kỳ này Việt Nam đã chú trọng vào đầu tư cho nông nghiệp, cùng với những thành tựu to lớn của vuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với những chính sách phù hợp, hợp lý với trình độ sản xuất cho nên năng suất lúa cũng không ngừng được nâng cao, từ 32,2 tạ/ha năm 1989 lên 42,62 tạ/ha năm 2000 tương ứng với 32%. Tính trung bình trong khoảng thời gian này năng suất lúa trung bình hàng năm của Việt Nam tăng gần 3,2% năm đây là một mức tăng rất cao nếu ta so sánh với mức tăng của các nước trong khu vực có cùng điều kiện tự nhiên và điều kiện canh tác. Với năng suất lúa hàng năm tính đến năm 2000 là 42,62 tạ/ha, Việt Nam đã đạt được năng xuất sản xuất lúa vào hàng khá trong những nước xuất khẩu gạo chính của thế giới. Điều này góp một phần không nhỏ vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng nhưng gia tăng không ngừng khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam hàng năm.
2.1.4. Về mặt chất lượng và trình độ chế biến sau thu hoạch:
Chất lượng gạo có liên quan đến hàng loạt các yếu tố từ khâu sản xuất như đất đai, nguồn nước tưới tiêu, phân bón, giống lúa đến khâu chế biến, vận chuyển, bảo quản. Tuy nhiên giống lúa và công tác chế biến, bảo quản sau thu hoạch hiện nay là vấn đề cơ bản để nâng cao chất lượng gạo.
Yêú tố quan trọng nhất quyết định chất lượng gạo là giống. Nếu như giống có chất lượng tốt, có đầy đủ các đặc tính ưu việt của giống có chất lượng cao thì cây lúa sẽ sinh trưởng tốt, hạt chắc, mẩy, tỷ lệ hạt lép thấp, hàm lượng protein trong gạo cao. Và nếu như các khâu sau thu hoạch như xay xát, sấy, bảo quản... được thực hiện tốt thì gạo sẽ có chất lượng cao, đảm bảo khả năng xuất khẩu, không phải bán gạo với giá thấp như hiện nay.
Khi nghiên cứu về chất lượng gạo của các loài lúa các nhà khoa học đã phát hiện ra giống lúa Indica được dùng phổ biến ở Việt Nam có hàm lượng protein trung bình là 12,91%, hàm lượng protein của lúa nếp cao hơn lúa tẻ (Theo tiến sĩ nông nghiệp Taira - Đại học Hokkaido - 1978). Các loại lúa khác như Tám thơm, Nàng Hương… tuy có chất lượng rất cao nhưng sản lượng lại không cao và một số giống gạo quí của Việt Nam đang trong nguy cơ thoái hoá nếu không có sự quan tâm kịp thời của ngành nông nghiệp và các nhà khoa học.
Nhận thức được ảnh hưởng của giống và chọn giống đến chất lượng gạo, Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI cùng các trung tâm nghiên cứu và lai tạo giống lúa đã kết hợp với các hợp tác xã để đưa ra trồng thử nghiệm các giống lúa mới, tạo nên các ruộng thử nghiệm để có thể kiểm nghiệm và thu được các giống lúa mới phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Việt Nam, của từng vùng. Đây là công tác quan trọng để có thể tạo ra nhiều giống lúa cho gạo có chất lượng cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu của Việt Nam.
Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI ngay từ những năm 1966 đã bắt đầu nghiên cứu chọn tạo giống lúa có chất lượng bằng phương pháp lai tạo. Cho đến nay nhờ phương pháp này đã xác định nhiều giống lúa cho năng suất cao và chất lượng hạt tốt như dòng lúa IR480-5-9. Cùng với phương pháp lai tạo thì viện IRRI cũng phát triển chọn giống bằng phương pháp gây đột biến thông qua việc xử lý hoá học như xử lý bằng tia gama lên giống lúa làm thay đổi hàm lượng protein thô, tăng phẩm chất cho giống lúa tạo ra giống có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng, nhất là những tiến bộ về giống lúa có năng suất và chất lượng cao như CR 203, OM 80-81, IR 58, IR 64 và các giống lai Trung Quốc. Từ đó đã có những thay đổi sâu sắc trong chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, hạn chế và né tránh được nhiều thiệt hại do thiên tai gây ra.
Tuy chỉ đứng hàng thứ hai trong vai trò làm tăng chất lượng gạo, nhưng việc nâng cao hiệu quả ở khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch cũng là một giải pháp vô cùng quan trọng.
Thực tế cho thấy trong những năm qua chúng ta đã không ngừng đầu tư cho khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Vì vậy kết hợp với các biện pháp khác, chất lượng gạo của chúng ta cũng từng bước được nâng cao. Chất lượng gạo được đánh giá qua một loạt các tiêu thức: hình dáng và kích cỡ hạt gạo, mùi vị, màu sắc, thuỷ phân, tỷ lệ tấm, tỷ lệ tạp chất, tỷ lệ thóc lẫn hoặc số hạt thóc lẫn trong 1 kg gạo, tỷ lệ hạt bạc bụng... Trong các tiêu thức này tỷ lệ tấm có ý nghĩa hết sức quan trọng và được quan tâm nhiều hơn. Có thể thấy được sự thay đổi rõ nét trong chất lượng gạo sản xuất của Việt Nam qua Bảng 3 dưới đây:
Bảng 3: Chất lượng gạo của Việt nam trong những năm qua phân loại theo % tấm:
%tấm
Năm
Loại gạo 5% tấm
(%)
Loại gạo 10% tấm
(%)
Loại gạo 15% tấm
(%)
Loại gạo 20% tấm
(%)
Loại gạo 25% tấm
(%)
Loại gạo 35-40% tấm
(%)
1989
0,3
2,3
5,0
92,4
1990
3,3
13,1
5,9
2,
20,2
55,5
1991
6,0
30,0
3,0
8,0
26,4
26,6
1992
18,5
20,8
13,0
1,2
15,4
31,1
1993
25,7
25,6
13,3
8,2
14,7
12,5
1994
42,3
23,6
4,1
8,5
6,7
14,8
1995
30,6
22,3
13,8
11,6
16,5
5,2
1996
30,6
17,7
5,5
6,2
21,7
18,3
1997
27,4
16,2
7,1
1,2
25,9
12,2
1998
26,9
26,2
13,9
0,4
30,8
1,8
1999
24,4
23,2
16,3
0,7
33,1
2,3
2000
25,6
22,7
14,5
1,3
35,3
0,6
Nguồn: Vấn đề giải pháp và định hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam, Nguyễn Trung Vãn, trang 43 và Số liệu của trung tâm thông tin-Bộ Thương Mại
Thực vậy, trước kia khâu chế biến sau thu hoạch của chúng ta từ khâu phơi sấy, xay sát... đều hoàn toàn là thủ công. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ các khâu sau thu hoạch chỉ mới được chú ý trong vài năm gần đây. Nhưng do nhiều nguyên nhân, hệ thống đó vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng gạo . đặc biệt ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi sản xuất trên 50% sản lượng thóc của cả nước, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật sau thu hoạch vẫn còn thiếu trầm trọng. Nếu chúng ta giảm được 30% tổn thất sau thu hoạch so với mức tổn thất hiện nay, thì sẽ tăng được sản lượng từ 810 đến 850 ngàn tấn thóc. Ngoài ra, còn có thể nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu cho hàng trăm ngàn tấn thóc khác.
2.1.5. Sản xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long – Vựa lúa chính của Việt Nam:
Đồng bằng sông Cửu Long hiện gồm 12 tỉnh, trong đó 10 tỉnh có sản xuất lúa hàng hoá. Cả khu vực có diện tích tự nhiên 3,9 triệu ha, trong đó đất nông nghiệp hiện đang sử dụng trên 2,6 triệu ha. Dân số toàn vùng trên 16 triệu người. Đây là vùng sản xuất lúa quan trọng nhất nước ta, hàng năm sản xuất khoảng 50% tổng sản lượng cả nước (50% sản lượng lúa Đông xuân, 29% sản lượng lúa mùa và trên 5,3 triệu tấn trong hơn 6,5 triệu tấn lúa Hè thu toàn quốc). Năng suất bình quân ở khu vực này cao hơn mức bình quân của cả nước từ 0,2 - 0,25 tấn/ha. Điều kiện đất đai khí hậu thời tiết đặc biệt thuận lợi đối với việc trồng lúa. Đất vùng đồng bằng sông Cửu Long với độ phì nhiêu cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất cân đối và tỉ lệ các chất dễ tiêu cao. Nước tưới được xem như một thuận lợi cho việc trồng lúa, ngay cả mùa khô vẫn đủ nước tưới cho vụ Đông xuân. Khí hậu, đặc biệt là năng lượng bức xạ mặt trời cao, nhiệt độ chênh lệch giữa các mùa không cao, ít có bão, không có mùa lạnh ... là những điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi cho việc trồng lúa ở khu vực này phát triển.
Những năm vừa qua Chính phủ đã có nhiều dự án lớn để phát triển kinh tế ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long đặc biệt là các dự án về thuỷ lợi. Hàng chục ngàn tỉ đồng đã được đầu tư để nạo vét các hệ thống kênh mương cũ, đào đắp hàng nghìn cây số kênh mương mới các loại, xây dựng các trạm bơm. Tới nay, toàn vùng có tới gần 60% di._.ện tích cấy lúa được đảm bảo tưới tiêu chủ động.
Chỉ tính đến năm 1997 diện tích làm 3 vụ lúa một năm ở khu vực này đã đạt tới 150 ngàn ha, gấp 35 lần so với năm 1985 và diện tích làm hai vụ đạt trên 1 triệu ha, gấp 1,6 lần so với năm 1985. Có thể nói đầu tư cho khu vực nông nghiệp (trong đó có vùng đồngbằng sông Cửu Long) của Việt Nam, trong các năm từ 1998 -1999 là cao nhất thế giới. Nếu như những năm trước đó đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 7% ngân sách thì những năm 1998 -1999 lên tới 20% so với tổng ngân sách (tăng khoảng 3 lần) và khi so với mức 30% đóng góp từ khối nông nghiệp vào GDP hàng năm hiện nay thì hệ số đầu tư lại cho nông nghiệp (20% Tổng ngân sách/30% GDP) là hệ số cao nhất (0,7). Đây là thuận lợi cơ bản góp phần ổn định và tăng trưởng kim xuất khẩu đặc biệt là nông sản, lúa gạo.
Ngoài ra, còn phải kể đến những thuận lợi khác đối với sản xuất lúa ở khu vực này, đó là năng suất lúa cao, giá lao động thấp, đầu tư cho sản xuất không cao và khả năng hoàn vốn nhanh. Chất lượng một số mặt hàng nông sản trong đó có gạo đang từng bước được cải thiện, việc đầu tư cho sản xuất, chế biến gần đây được chú trọng đã góp phần giảm giá thành sản xuất,đo đó đã phần nào tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận còn có những tồn tại, bất cập ở các khu vực sản xuất lúa hàng hoá này. Đó là mức độ giàu nghèo, trình độ canh tác còn chênh lệch giữa các tiểu vùng và các nhóm hộ nông dân trong khu vực. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho thâm canh lúa còn thiếu. Gía vật tư phục vụ sản xuất chưa được ổn định ở mức tương đối. Công tác khuyến nông còn yếu. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn chậm. Trình độ dân trí nói chung thấp, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, vụ hè thu ở một số nơi trong khu vực này còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, những biến động về thời tiết, lũ lụt. Tình trạng "xâm mặn, xì phèn" ... vẫn chưa giải quyết hoàn toàn đã ảnh hưởng đến việc tăng vụ, tăng diện tích và năng suất.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu lớn, đặc biệt là về sản lượng, với mức tăng cao, có thể đảm bảo về mặt số lượng lúa hàng hoá dành cho xuất khẩu hàng năm, những tồn tại, bất cập vẫn còn và cần sớm được giải quyết đối với sản xuất lúa hàng hoá ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể là:
Gía thành sản xuất lúa còn cao (do vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn phân bón thuốc trừ sâu, chí phí vận chuyển, thu hoạch cao..) nên sức cạnh tranh yếu.
Tỉ lệ hao hụt sau thu thu hoạch vẫn ở mức hai con số (11 -13%). Đây cũng là nguyên nhân làm tăng giá thành sản xuất và xuất khẩu gạo.
Chất lượng gạo, công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng của thị trường tiêu thụ. Tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún vẫn chiếm ưu thế (mỗi tỉnh thường có từ 30 -40 loại giống lúa khác nhau) đã ảnh hưởng đến việc bảo quản, chế biến cũng như chất lượng gạo đạt yêu cầu xuất khẩu.
Đầu tư cơ sở hạ tầng chưa theo kịp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế tình hình cũng là nguyên nhân làm giá thành xuất khẩu cao, cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế.
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện kế hoạch phát triển các vùng lúa chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thị trường tiêu thụ còn chậm chạm, thậm chí giậm chân tại chỗ.
Bảng 4: Diễn biến diện tích, năng suất, sản lượng lúa vùng ĐbSCL giai đoạn (1996-1999)
Tỉnh
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1996
1997
1998
1999
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
Toàn vùng
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
3442.7
4.02
13824.8
3472.8
4.02
13964.5
3760.6
4.07
15318.6
3986.7
4.08
16280.8
1. Long An
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
371.3
3.18
1181.2
374.5
3.31
1240.6
400.1
5.50
1400.5
441.2
3.45
1522.8
2. Đồng Tháp
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
390.8
4.40
1720.0
371.9
4.70
1748.9
422.6
4.57
1930
442.7
46.9
2076.2
3. An Giang
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
417.2
4.73
1971.5
415.0
4.77
1980.5
429.2
4.76
2044.6
462.8
45.4
2100.0
4. Tiền Giang
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
280.2
4.38
1227.1
281.7
4.50
1268.9
281.5
4.69
1319.9
285.6
45.6
1301.8
5. Bến Tre
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
97.7
3.61
352.7
98.8
3.23
319.2
100.8
3.36
338.4
224.2
4.31
966.0
6. Vĩnh Long
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
290.8
4.22
885.2
198.0
4.36
863
228.5
4.24
969.5
101.1
3.23
326.8
7. Trà Vinh
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
159.2
4.26
678.7
200.5
3.49
699.1
210
3.54
744
514.3
3.94
2020.2
8. Cần Thơ
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
405.8
4.46
1809.1
388.2
4.42
1716.5
433.7
4.37
1894.7
466.5
4.24
1979.6
9. Sóc Tăng
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
320.2
3.59
1150.4
330.7
3.57
1181.2
343.6
4.02
1381.5
232.6
3.61
839.2
10. Kiên Giang
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
449.6
3.78
1697.5
439.7
3.85
1692.2
505.9
3.76
1900.4
356.5
4.23
1507.5
11. Bạc Liêu
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
139.8
3.97
554.8
153.3
3.94
604.4
170.7
3.97
677.4
205.7
3.84
709.8
12. Cà Mau
-Diện tích
-Năng suất
- Sản lượng
1000 ha
tấn/ha
1000 tấn
201.1
2.97
596.6
220.5
2.95
650.0
234
3.07
717.7
253.5
3.33
843.9
Nguồn: Tổng cục thống kê - Số liệu thống kê nông-lâm thuỷ sản (1996-1999)
2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
2.2.1. Khối lượng và kim nghạch xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Sau bao nỗ lực vượt mọi khó khăn, năm 1989 Việt Nam được đứng vào những hàng ngũ những nước xuất khẩu gạo. Liên tục từ đó cho đến nay, khối lượng, kim nghạch xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày tăng. Hiện nay Việt Nam đang là một trong số các quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Xem xét đánh giá về kết quả xuất khẩu gạo của Việt nam trong những năm qua ta thấy nổi bật lên mấy điểm sau:
Khối lượng xuất khẩu tăng nhanh. Trong vòng 12 năm Việt nam đã xuất khẩu được 30,027 triệu tấn. Lượng xuất so năm đầu và năm cuối trong kỳ nghiên cứu tăng hơn 2,5 lần. Cũng trong cùng thời kỳ đó, mậu dịch gạo thế giới chỉ tăng 1,5 lần.
Trong 12 năm trên từ năm 1989 đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta đạt 6,5 tỷ USD. Đó là chưa tính phần xuất khẩu theo tiểu ngạch khó thống kê được chính xác(khoảng trên 700.000 triệu USD) thì lượng ngoại tệ do xuất khẩu gạo đem lại cho đất nước là trên 7 tỷ USD, chiếm khoảng 10 - 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giữ vị trí quan trọng trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam. Có thể nói phần đóng góp kim ngạch xuất khẩu gạo là không nhỏ vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế quốc dân, từng bước ổn định cuộc sống cho người nông dân, lực lượng chiếm tới 70% đội ngũ lao động của Việt nam. Có được những kết quả khả quan trên đây là nhờ những yếu tố khách quan và chủ quan sau:
Trong vòng 12 năm qua từ năm 1989 đến năm 2000, thị trường gạo thế giới có nhiều biến động theo hướng có lợi cho việc xuất khẩu gạo. Nhu cầu nhập khẩu tăng cao qua các năm đã tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu gạo Việt nam cất cánh.
Trong nước, cơ chế đổi mới nông nghiệp với khởi đầu là chính sách ruộng đất với “khoán 100”, “khoán 10”, luật Đất đai, chính sách đầu tư tín dụng, chính sách tự do lưu thông hàng hoá và phát triển thị trường đã thực sự là động lực thúc đẩy ngành nông nghiệp Việt nam nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng phát triển vượt bậc. Năng suất và sản lượng tăng trưởng nhanh và ổn định (4% so với 2,2% tốc độ tăng dân số) đã cho phép Việt nam không chỉ sản xuất để bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực trong nước mà còn xuất khẩu với số lượng ngày càng tăng, đưa Việt nam lên vị trí thứ 2 về xuất khẩu gạo thế giới.
Bảng 5 dưới đây cung cấp các số liệu về số lượng và kim nghạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong các năm từ 1989 đến 2000, Bảng 6 cung cấp số liệu về thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1995-2000
Bảng 5: Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt nam qua các năm
Năm
Số lượng (triệu tấn)
Kim ngạch (triệu USD)
Số lượng
% thay đổi so với năm trước
Kim ngạch
% thay đổi so với năm trước
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
1989
1,372
310,2
1990
1,478
+10,77
275,4
-11,21
1991
1,016
-31,25
229,9
-16,52
1992
1,953
+92,22
405,1
+76,20
1993
1,649
-15,57
335,7
-17,13
1994
1,962
+18,98
420,9
+25,37
1995
2,025
+3,21
538,8
+28,01
1996
3,047
+50,46
868,4
+61,17
1997
3,682
+20,84
891,3
+2,63
1998
3,793
+3,01
1.006,0
+12,87
1999
4,550
+19,95
1.035,0
+2,88
2000
3,500
-23,07
668,0
- 35,45
Tổng 89/2000
30,027
6.563,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê -Niên giám thống kê qua các năm
Bảng 6: Thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam thị trường thế giới
Năm
Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam (tấn)
Lượng gạo mậu dịch trên thế giới (tấn)
Thị phần của Việt Nam (%)
(1)
(2)
(3)
(4)
1995
1.988.000
22.508.477
8,8%
1996
3.500.000
20.350.699
17,2%
1997
3.574.804
21.045.512
17,0%
1998
3.700.000
28.795.850
12,8%
1999
4.600.000
25.986.434
17,7%
2000
3.400.000
22.500.000
15,1%
2001
3.528.000
24.786.000
14,2%
2002(*)
3.250.000
24.474.000
13,3%
Nguồn: Số liệu thống kê của Tổ chức Lương thực thế giới (FAO)_2001
& World rice Trade calendar year 2002_USDA {(*) dự báo 2002}
2.2.2. Chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu
Chất lượng gạo xuất khẩu chính là thước đo hiệu quả xuất khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm gạo. Như đã đề cập ở các phần trên, chất lượng gạo chính là vấn đề Việt nam cần quan tâm chú ý nhiều nhất để tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường mới. Theo các báo cáo của Bộ thương mại, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thông, gạo xuất khẩu Việt nam trong những năm qua chỉ ở loại trung bình hoặc thấp. Gạo loại thấp chỉ có thể phấn đấu ngang bằng hoặc vượt được gạo của ấn Độ, Philippines. Gạo trung bình cũng chỉ ngang bằng hoặc vượt được gạo Trung Quốc. Như vậy gạo xuất khẩu của Việt nam phần lớn ở giữa loại 2 và loại 3. Nếu thị trường gạo trên thế giới khan hiếm, người mua có thể đẩy lên loại 2. Ngược lại, khi gạo bão hoà thì gạo loại 2 cũng dễ dàng bị đẩy xuống loại 3. Ngoài ra, gạo Việt nam chủ yếu mới phân cấp theo một tiêu thức là tỷ lệ tấm, ngoài ra các tiêu thức khác như mùi vị, hình dáng, kích cỡ, màu sắc, tỷ lệ hạt thóc lẫn trong 1kg gạo còn chưa được quan tâm đầy đủ.
Xét theo tỷ lệ tấm, Việt nam xuất khẩu các loại gạo sau: Gạo 5% tấm, Gạo 10% tấm, Gạo 20% tấm, Gạo 25% tấm, Gạo 35 – 40 % tấm.
Theo dõi các số liệu ta thấy trong những năm đầu tiên của thời kỳ xuất khẩu, Việt nam chủ yếu xuất khẩu các loại gạo 25% và 35 – 40% tấm, các loại khác rất ít hoặc hầu như không có. Các năm kế tiếp , khối lượng xuất khẩu đã được điều chỉnh sang các loại 20%, 15%, 10%, 5% tấm, giảm loại gạo tỷ lệ tấm cao. Những năm gần đây lượng gạo xuất khẩu chủ yếu đã là các loại 5%, 10% và 25%. Trong đó loại gạo 5% đã có nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng lên gần ngang bằng gạo Thái.
Như vậy song song với việc chú trọng tăng khối lượng gạo phẩm cấp cao, có tỷ lệ tấm thấp, Việt nam cần phải đầu tư chú trọng vào các khâu chế biến để đảm bảo có được sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng các yêu cầu đa dạng về kích cỡ, hình dáng, màu sắc và hương vị độc đáo của các thị trường cao cấp Bắc Mỹ, EU, Nhật bản. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà giá cho các loại gạo phẩm cấp trung bình và thấp đang liên tục rớt xuống do nhu cầu của phần thị trường này giảm xuống và vẫn còn giảm trong vài năm tới (dự báo của FAO và USDA – Rice Outlook 23/04/2002) thì việc có được thị phần tại khu vực cao cấp sẽ bảo đảm cho kim ngạch cũng như hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt nam.
Bảng 7: Chất lượng gạo xuất khẩu qua các năm theo phẩm cấp (Đơn vị: %)
Phẩm cấp gạo
1995
1996
1997
1998
1999
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
Cao cấp
54,0
45,5
39,2
52,3
31,6
Trung bình
22,4
11,0
18,4
25,6
11,0
Thấp
23,6
43,5
43,4
22,2
44,2
Nguồn: Trung tâm thông tin- Bộ Thương mại & Bộ Nông nghiệp và PTNT
Để đảm bảo và nâng cao phẩm cấp cho gạo xuất khẩu, Việt nam đã nghiên cứu đưa vào trồng các giống lúa phù hợp, cho năng suất cao, chịu thiên tai, sâu bệnh, chất lượng gạo tốt cho xuất khẩu vì việc giống lúa gieo trồng chính là một trong những yếu tố cơ bản – “điều kiện cần” để có được sản phẩm xuất khẩu đạt chất lượng.
Đồng bằng sông Cửu long với 5 giống lúa đạt hiệu quả tốt: IR. 64, VND 95-20; MTL 250, OM. 1490, OM. 2031, phù hợp với điều kiện sản xuất của khu vực này, thời gian sinh trưởng ngắn 90 – 110 ngày và cho chất lượng tốt để xuất khẩu, được khách hàng ưu dùng.
Đồng bằng sông Hồng, có giống lúa cao sản IR.42 cũng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, dễ gieo trồng, chăm sóc và năng suất cao.Ngoài ra, còn có giống lúa ngắn ngày X.21 và giống lúa lai HR.1 chịu rét tốt, kháng sâu bệnh, phù hợp với nhiều loại đất canh tác, năng suất cao (6-10 tấn/ha).
Bên cạnh việc tuyển chọn các giống lúa cho gạo xuất khẩu đại trà, Việt nam phải nên đầu tư canh tác các giống lúa theo yêu cầu của từng thị trường: gạo thơm, gạo hạt tròn Japonica, gạo từ lúa sản xuất tự nhiên, không dùng phân hoá học.v.v. Việt nam có các loại gạo đặc sản “Tám thơm” ở miền Bắc, “Nàng Hương” ở miền Nam cho gạo chất lượng cao, nhiều dinh dưỡng, hương vị đặc biệt mà các thị trường nhập khẩu ổn định và cao cấp như Hồng Kông, Singapore rất ưu chuộng, đem lại giá trị xuất khẩu cao. Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam vừa chọn tạo thành công 5 giống lúa mới, bao gồm: NX30, BM9608, BM9820, N97, LT2 cho năng suất cao phẩm chất tốt. Những giống này có đủ khả năng đáp ứng được các yêu cầu thâm canh tăng năng suất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở khắp các địa phương trên cả nước. Điển hình trong số này là giống LT2 ngắn ngày, cấy được cả hai vụ Xuân và vụ mùa, chống đạo ôn khoẻ năng suất trung bình từ 5,5 đến 5,8 tấn ha. Ngoài ra giống NX 30 có sức chống chịu sâu bệnh và điều kiện thời tiết, có thể trồng đại trà tại các tỉnh từ miền Bắc đến miền Trung. Giống BM9608 thích hợp với vùng úng ngập, chua phèn, có thể mở rộng ở các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ,Hải Phòng, Hải Dương, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị.
Việt Nam có thể học tập Thái Lan trong việc phát triển và lựa chọn giống lúa để xuất khẩu. Năm 1997 Thái lan xuất khẩu 5,1 triệu tấn gạo, trong đó gạo thơm chiếm 25% thị phần, giá bình quân 750 – 760 USD/tấn. Đây là một bài học lớn cho Việt Nam trong quá trình hoạch định chiến lược xuất khẩu gạo của mình.
2.2.3. Giá gạo Việt Nam trên thị trường thế giới:
Giá gạo của Việt Nam từ năm 1989 trở lại đây nhìn chung biến động không ổn định. Giá gạo tăng mạnh vào các năm 1995, 1997 và 1998. Trong đó năm 1998, giá gạo đạt mức kỷ lục là 268 USD/ tấn. Còn các năm 1990, 1996 và năm 1999 giá gạo lại giảm mạnh (năm 1990: giảm 8,1%, năm 1996: giảm 20%, năm 1999: giảm 18,8%). Xu hướng những năm 2000 này giá gạo sẽ tiếp tục giảm. Nguyên nhân chính là do những tác động của thị trường và giá cả lúa gạo thế giới .
Với mức giá những năm qua, giá gạo của Việt Nam luôn thấp hơn so với giá quốc tế. Tuy nhiên, cùng với xu hướng tăng của chất lượng gạo cũng như trình độ nghiệp vụ thương mại quốc tế trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu, giá xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm có xu hướng càng nhích lại gần với giá cả quốc tế. Khoảng cách chênh lệch giữa giá gạo của Việt Nam so với giá gạo của các nước nhất là Thái Lan đã được thu hẹp đáng kể. Nếu như năm 1989, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn giá gạo của thế giới đến 60-70 USD/tấn thì khoảng cách này đã giảm xuống ở mức 45 USD năm 1992 và khoảng 30 USD năm 1994. Hiện nay mức chênh lệch chỉ còn khoảng 15-20 USD. Đặc biệt, năm 1998, giá gạo của Việt Nam đã tiếp cận giá gạo của Thái Lan do đồng bạt giảm giá. Giá FOB cuối tháng 7-1998 gạo 25% tấm của Việt Nam là 265-270 USD/tấn trong khi giá gạo cùng loại của Thái Lan cũng là 265-270 USD/ tấn, gạo 5% tấm của Việt Nam là 310-315 USD/ tấn so với 310-320 USD/ tấn của Thái Lan. Năm 1999 cả nước xuất khẩu được 4,5 triệu tấn đạt kim nghạch 1 tỷ USD. Tính ra giá gạo xuất khẩu bình quân năm 1999 đạt 222,4USD/Tấn. Năm 2000 cả nước xuất khẩu 3,4 triệu tấn, kim nghạch đạt 0,6 tỷUSD , giá gạo bình quân là 176,8USD/tấn. Tương tự năm 2001 xuất khẩu đạt 3,537 triệu tấn gạo, thu về 545 triệu USD, đơn giá 154,1USD/tấn. So với năm trước tuy tăng 4% sản lượng nhưng kim nghạch giảm 9,2%, đơn giá giảm 13%. Năm nay tình hình xuất khẩu gạo thuận lợi hơn về giá cả, ước tính xuất khẩu đạt 3,2 triệu tấn, thu về 560 triệu USD , đơn giá 180USD/Tấn song lượng giảm 31,2%, kim nghạch giảm 44% so với năm 1999. Đơn giá có tăng hơn năm năm 2001 nhưng so với năm 1999 vẫn giảm 19,1%. Ước tính cụ thể thì nông dân trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long bị giảm thu nhập như sau: So với năm 1999, năm 2000 bị giảm trên 2000 tỷ đồng, năm 2001 bị giảm hơn 2400 tỷ đồng, năm 2002 dù giá có phục hồi nhưng ước tính vẫn giảm gần 2000 tỷ.
Bảng 8: So sánh giá gạo xuất khẩu của Việt nam và giá gạo quốc tế 1989 – 2000 (Đơn vị tính: USD/MT)
Năm
Giá gạo quốc tế
(FOB Bangkok loại 5%/tấn)
Giá gạo xuất khẩu trung bình của
Việt Nam
Giá XK của Việt Nam qui định theo giá gạo 5% /tấn
Chênh lệch giá giữa (2) và (4)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
1989
320
226
245
75
1990
287
191
224
63
1991
290
227
234
56
1992
280
214
233
47
1993
268
211
230
38
1994
295
230
270
35
1995
338
250
307
31
1996
362
285
335
27
1997
329
247
305
24
1998
302
273
294
21
1999
284
227
257
27
2000
230
190
202
28
2001
181
141
163
18
Nguồn: USDA- Rice Year Book 2001
2.2.4. Các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Thị trường có một ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo. Hiểu rõ điều này, trong thời gian qua chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường. Tuy nhiên, do mới chỉ bắt đầu xuất khẩu lớn từ năm 1989, việc thâm nhập và mở rộng thị trường của Việt Nam đã gặp không ít gian nan vì thường đụng phải những thị trường quen thuộc của các nước xuất khẩu truyền thống như Thái Lan, Mỹ.
Bảng 9: Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam qua một số năm điển hình(Đơn vị: Tỷ lệ % so với tổng kim ngạch xuất khẩu gạo)
Thị Trường
1989
1992
1995
1998
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
1- Châu á
Trong đó: Trung Đông
50,0
44,6
79,0
87,0
0,0
10,5
10,0
13,0
2- Châu Phi
49,0
35,5
10,0
10,0
3- Châu Mỹ
0,9
15,1
9,0
2,0
4- Châu Âu
0,1
4,8
2,0
1,0
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu, Bộ Thương mại & Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam
Từ bảng trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, từ năm 1989 đến nay , các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn luôn tập trung ở hai khu vực Châu á và Châu Phi. Tuy nhiên có xu hướng là tỷ trọng xuất sang Châu Phi giảm dần từ 49% vào năm 1989 còn 10% vào năm 1998 đồng thời tỷ trọng xuất sang các nước Châu á tăng mạnh từ 50% năm 1989 lên 87% năm 1998. Sự giảm sút của gạo Việt Nam trên thị trường Châu Phi là vì không có khả năng cung cấp tín dụng cho bạn hàng. Do điểm yếu này mà gạo Việt Nam vẫn phải thông qua một nước thứ ba để thâm nhập vào thị trường Châu Phi.
Thứ hai, đối với khu vực thị trường Trung Đông, nếu như năm 1989, ta chưa thâm nhập được vào thị trường này thì đến năm 1992, tỷ trọng xuất sang khu vực này đã đạt 10%. Tỷ trọng này được duy trì khá ổn định và có xu hướng tăng nhẹ. Bạn hàng thường xuyên của Việt Nam ở khu vực này là Iran, Iraq. Đây là một khu vực thị trường có nhiều tiềm năng và khả năng thanh toán cao. Vì vậy, chúng ta nên chú trọng hơn nữa đến thị trường này trong những năm tới.
Thứ ba, tỷ trọng thị phần của gạo Việt Nam ở hai khu vực Châu Mỹ và Châu Âu thấp thường ở mức dưới 10% đặc biệt là thị trường Châu Âu. ở thị trường khu vực Châu Đại Dương, hầu như chúng ta chưa xuất khẩu được. Một mặt do nhu cầu nhập khẩu gạo ở các khu vực này không lớn, mặt khác là khả năng tiếp cận của gạo Việt Nam đối với những thị trường này còn yếu. Trên thực tế, đây là những khu vực thị trường có nhu cầu lớn về gạo cao cấp mà Việt Nam chưa đáp ứng được. Vì vậy, để mở rộng thị phần ở các khu vực này, sẽ cần phải đầu tư nhiều hơn tới chất lượng gạo.
Đến nay, gạo Việt nam đã có mặt trên 80 nước trên thế giới, trong đó châu á , châu Phi chiếm phần lớn tổng lượng xuất khẩu. Số còn lại là các nước châu Âu, Trung đông, Mỹ, Mỹ la tinh. Gần đây Nhật bản và Hàn quốc đã mở cửa thị trường và nhập khẩu gạo Việt nam. Chúng ta cũng bắt đầu thâm nhập thị trường Trung quốc. Trung bình Việt nam chiếm khoảng 11 – 12% thị phần mậu dịch gạo thế giới. Năm cao nhất (1997) đạt 17,6%. Tuy nhiên, điểm yếu về thị trườngcủa gạo xuất khẩu Việt nam là chúng ta vẫn chưa có được các bạn hàng ổn định, lâu dài. Xuất khẩu gạo vẫn phải qua các công ty trung gian, môi giới của Hồng kông, Hàn quốc, Indonêsia, Australia, I ran .. với tỷ trọng cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt nam còn thiếu kinh nghiệm, thông tin đầy đủ, kịp thời về những biến động của thị trường cung cầu gạo thế giới cũng như thiếu tính chuyên nghiệp trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh, thương hiệu sản phẩm gạo Việt nam trong con mắt thế giới. Đây chính là những bất cập mà Việt nam cần khẩn trương điều chỉnh để có thể tăng khả năng cạnh tranh, tăng thị phần trên thế giới.
2.2.5. Chính sách của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu gạo:
Trước năm 2000 Nhà nước ta sử dụng hạn ngạch xuất khẩu gạo nhằm hai mục đính, thứ nhất đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thứ hai nằm đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu gạo đạt được hiệu quả cao nhất, tránh việc xuất khẩu ồ ạt, tranh mua tranh bán của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Hạn ngạch xuất khẩu gạo hàng năm được quản lý linh hoạt dựa trên các căn cứ về tình hình dự trữ lương thực và tình hình sản xuất lương thực trong năm đó. Hạn chế việc xuất khẩu gạo hàng năm cũng cần căn cứ vào mức độ an toàn lương thực của năm đó. Chúng ta có thể điều chỉnh hạn ngạch xuất khẩu gạo để điều tiết thị trường gạo trong nước nhằm khuyến khích sản xuất và ổn định giá lương thực. Hạn ngạch xuất khẩu gạo hàng năm được phân bổ cho các doanh nghiệp đầu mối và một số doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu gạo với giá cao và đảm chiến lược thị trường lương thực.
Từ năm 2000, do dự trữ gạo của quốc gia đã đảm bảo được an ninh lương thực đồng thời trình độ của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam khi tham gia thị trường gạo thế giới đã được nâng lên, có thể phân tích đánh giá được các biến động của thị trường thế giới để đảm bảo cho công tác kinh doanh nông sản có lợi nhất nên Nhà nước ta đã chủ trương bãi bỏ hạn nghạch xuất khẩu gạo. Cụ thể bằng việc bãi bỏ cơ chế giao hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón và việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất, nhập khẩu hai mặt hàng này. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản;
Đây là một bước tiến dài của Việt Nam để tiến tới tự do hoá thị trường gạo nhằm tham gia vào Tổ chức Thương mại Quốc tế trong thời gian tới, đồng thời cũng là quyết định mang tính cởi trói cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam, giúp họ có thể chủ động trong hoạnt động kinh doanh của mình.
Chương 2:
Khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21.
1.khả năng sản xuất gạo của Việt nam những năm đầu thế kỷ 21
1.1. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động sản xuất gạo của Việt Nam:
1.1.1. Thuận lợi:
Khi đề cập đến lợi thế của một quốc gia trong việc sản xuất – xuất khẩu chính là chúng ta muốn đề cập đến Thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo. Theo đó, lợi thế so sánh là kết quả duy nhất của những khác biệt quốc tế về năng suất lao động tương đối. Trong quá trình tham gia thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ lựa chọn sản xuất loại hàng hoá và dịch vụ có lợi nhất cho xuất khẩu và sẽ nhập khẩu loại hàng hoá dịch vụ nào mà sản xuất trong nước không hiệu quả. Chính từ sự lựa chọn đó, các quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những loại hàng hoá và dịch vụ mà việc sản xuất chúng là bất lợi nhất (không có lợi thế so sánh). Xuất phát từ quan điểm trên đây, chúng ta hãy xét đến lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) của Việt nam trong sản xuất lúa gạo. Việt nam là một trong những nước có nền văn minh gắn liền với lịch sử gieo trồng cây lúa nước trong hàng ngàn năm qua. Có được điều đó chính vì Việt nam có những lợi thế nổi bật sau:
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên khí hậu và sinh thái
Việt Nam được thiên nhiên ban tặng một điều kiện khí hậu và sinh thái khá phong phú đa dạng, được phân thành 7 vùng sinh thái khác nhau, mỗi vùng có một thế mạnh riêng, đặc biệt có những tiểu vùng “sinh thái – khí hậu” tạo cho cây lúa Việt nam có năng suất sinh học và những đặc trưng về “hương vị - chất lượng” tự nhiên, được thế giới ưa thích. Thêm vào đó, tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bổ tương đối đồng đều trong nước. Với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt nước ta được xếp vào loại giầu. Độ ẩm tương đối trong năm cao hơn 80%, lượng mưa lớn (trung bình 1800 – 2000 mm). Đây là những thuận lợi rất lớn cho việc sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Có thể nói sản xuất lúa nước ta không thua kém gì Thái lan mà còn đáp ứng được tính đa dạng về chủng loại và phẩm cấp gạo cho thị hiếu tiêu dùng đa dạng hiện nay trên thế giới.
1.1.1.2. Đất đai
Tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là 10 –11,15 triệu ha, trong đó trồng lúa khoảng 7,6 triệu ha (Số liệu năm 2000 của Tổng cục Thống kê). Phân bổ theo vùng Đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây nguyên, Đông Nam bộ. Vùng đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL)và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) được đánh giá vào loại phì nhiêu trên thế giới. Độ màu mỡ và và những đặc điểm thời tiết, khí hậu cho phép ĐBSCL và ĐBSH sản xuất lúa quanh năm (3 vụ) trên diện rộng và thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc chủng, có năng suất cao.
1.1.1.3. Nguồn nước tưới tiêu
Cùng với đất, nước có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Tài nguyên nước của Việt nam cũng rất giàu có. Số ngày mưa lý tưởng 120 – 140 ngày/ năm không chỉ cung cấp nguồn nước tự nhiên quý giá mà còn bồi bổ cho lúa một nguồn phân đạm thiên nhiên dễ hấp thụ. Ngoài ra hệ thống thuỷ lợi cũng được nhà nước quan tâm đầu tư (10% ngân sách nhà nước). Tính đến năm 1999, diện tích gieo trồng lúa được tưới là 6,5 triệu ha. Lợi thế của tài nguyên nước đã đảm bảo cho lợi thế của tài nguyên đất được phát huy đầy đủ trong quá trình sản xuất lúa. Tại hai vựa lúa chính của cả nước là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, nguồn nước tưới tiêu được cung cấp đầy đủ đã tạo khả năng cho việc sản xuất liên tục ba vụ lúa trong một năm. Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch tự nhiên rộng khắp cả vùng kết hợp với một số công trình thuỷ nông có hiệu quả rất cao như kênh Vĩnh Tế…, do đó tạo điều kiện đưa nước tưới và phù sa màu mỡ của sông Mêkông bồi đắp cho đồng ruộng. Đồng bằng sông Hồng lại có thế mạnh về hệ thống thuỷ nông nhân tạo với các công trình tưới tiêu đã đi vào lịch sử công cuộc xây dựng miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa như Bắc Hưng Hải…. Hiện nay nhà nước đang tích cực đầu tư cho hệ thống tưới tiêu của hai vùng sản xuất lúa trọng điểm trên với mục tiêu đảm bảo đủ nước tưới tiêu vào mùa khô hạn, đồng thời tiêu nước chống úng nhanh chóng trong mùa lũ, hạn chế tối đa tình trạng úng ngập kéo dài đặc biệt là tại đồng bằng sông Cửu Long. Điều này được thể hiện rõ trong chương trình bê tông hoá hệ thống kênh mương dẫn nước tưới tiêu hiện đang diễn ra sôi nổi trên toàn quốc. Những thành tích bước đầu của chương trình này đã đảm bảo cho thêm hàng trăm ngàn hécta đất mỗi năm được cung cấp đầy đủ nước tưới cũng như tiêu thoát nước nhanh chóng khi cần thiết.
1.1.1.4. Nguồn lao động dồi dào
Hiện nay cả nước có khoảng 40 triệu người đang ở độ tuổi lao động (48% dân số), hàng năm có khoảng 1- 2 triệu người bước vào độ tuổi lao động (Niên giám thống kê từ năm 1999 trở về trước – Tổng cục thống kê). Nguồn lao động này không chỉ dồi dào về số lượng mà còn có nhiều lợi thế về chất lượng như sự thông minh, cần cù, có khả năng tiếp thu khoa học công nghệ. Giá công lao động lại rẻ, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực : Giá công lao động Việt nam chỉ khoảng 1/3 Thái lan; 1/30 Đài loan; 1/26 Singapore. Chi phí lương công nhân Việt nam ở khu vực công nghiệp chế biến đang phổ biến ở mức 25-30 USD/tháng. Sản xuất lúa chủ yếu do nông dân tự làm, do vậy chi phí giá đầu vào về lao động ngày càng thấp hơn nhiều so với thế giới. Ngoài ra, vốn kinh nghiệm đúc kết được trong lịch sử hơn 6.000 năm sản xuất lúa cũng là vốn tài nguyên vô hình quý giá giúp khai thác triệt để những lợi thế thiên nhiên khác như tài nguyên đất, nước, khí hậu.
1.1.1.5. Vị trí địa lý và cảng biển
Việt Nam nằm trong vòng cung châu á - Thái bình dương. Đây là một nơi đang diễn ra những dòng giao lưu kinh tế sôi động nhất và đầy hứa hẹn cho những bước phát triển trong tương lai, như một vùng động lực cho quá trình tạo thế và đà phát triển. Việt nam nằm trên các tuyến giao thông quốc tế quan trọng và có hệ thống cảng biển là cửa ngõ không chỉ cho nền kinh tế Việt Nam mà còn cho nhiều quốc gia khác. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi. Lợi thế so sánh về mặt địa lý của nước ta đang tạo ra môi trường kinh tế năng động, linh hoạt, giảm được chi phí vận chuyển.
Việt nam có đường biển dài trrên 3.000km, bờ biển có nhiều cảng quốc tế thuận tiện như Hải Phòng, Cái Lân, Cửa Ông, Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu với Sài Gòn là cảng gạo quan trọng nhất. Cảng Sài Gòn có hệ thống kho bảo quản gạo xuất khẩu và nằm ở vị trí hết sức thuận lợi không chỉ cho việc vận chuyển nội địa gạo xuất khẩu từ vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long (hành trình bằng đường sông trong vòng 1 ngày) mà còn cho việc vận chuyển gạo xuất khẩu đi các nước từ đường hàng hải quốc tế (ví dụ: đi Singapore chỉ hết 2 ngày, Indonesia: 3 ngày, Hồng kông: 4 ngày, Pháp: 25 ngày v.v)
Với những đặc điểm trên, sản x._. trả bảo hiểm cũng cần đơn giản, nhanh gọn và chính xác. Quỹ bảo hiểm này cần có sự giám sát của đại diện nông dân và chính quyền, nhất là trong việc xác minh thiệt hại để chi trả được chính xác.
3.1.5. Tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng cho nông dân và các doanh nghiệp tiêu thụ lúa gạo.
Nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ vốn để mua thóc. Ngân hàng cần đơn giản hoá thủ tục vay vốn để các doanh nghiệp có vốn kịp thời mua gom thóc của dân. Các doanh nghiệp có đủ tiền mua thóc vừa góp phần ổn định giá thóc lúa vụ thu hoạch, hạn chế tư thương ép giá nông dân, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động nguồn hàng đáp ứng cho các hợp đồng xuất khẩu gạo có khối lượng ốn định.
Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần tôn trọng các nguyên tắc quản lý và bảo tồn vốn do Ngân hàng đặt ra nhằm hạn chế các rủi ro đáng tiếc.
Để tạo điều kiện cho nông dân có vốn để sản xuất vụ sau, Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn để mua hết lượng thóc hàng hoá trong dân. Vấn đề tiêu thụ thóc hàng hoá ở hai vùng sản xuất lương thực hàng hoá chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là rất cấp thiết và có tác dụng duy trì sản xuất. Việc Nhà nước hỗi trợ vốn cho các doanh nghiệp mua hết thóc hàng hoá của dân vào vụ thu hoạch đã hạn chế việc ép giá mua thóc đồng thời các doanh nghiệp cũng sẽ chủ động được nguồn hàng và chất lượng thóc gạo.
Hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng : Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế hợp tác... vay đủ vốn mua thóc gạo hàng hoá cho người trồng lúa, chế biến và chờ xuất khẩu. Như vậy các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ chủ động được hàng, đưa hàng ra xuất khẩu vào thời điểm giá có lợi nhất đồng thời mua hết thóc gạo hàng hoá trong dân, tạo điều kiện cho nông dân có vốn đầu tư sản xuất vụ sau.
Nhà nước cần huy động các nguồn vốn như vốn Ngân sách Nhà nước, vốn của Ngân hàng huy động, vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế và nước ngoài để hàng năm bổ sung cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng phục vụ người nghèo. Nhà nước cần đảm bảo đủ loại tín dụng thông thường cho dân vay để mua vật tư, phân bón đầu tư cho sản xuất lúa gạo, đặc biệt là các vùng quy hoạch sản xuất lúa gạo đặc sản tập trung.
Cho nhóm hộ hoặc các hộ tư nhân vay vốn để đầu tư các thiết bị sấy thóc theo kiểu sàn phẳng công suất 3 - 5 tấn/mẻ. Góp phần giảm tổn thất sau thu hoạch và tăng chất lượng gạo. Vốn đầu tư này rất cần thiết đối với nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là vụ lúa hè thu thu hoạch vào mùa mưa làm giảm chất lượng thóc rất nhanh.
Cho các cơ sở xay sát chế biến thóc gạo vay vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư nâng cấp thiết bị xay sát hoàn thiện dây chuyền công nghệ để sản xuất ra các loại gạo theo nhu cầu và thị hiếu của các thị trường.
Hình thức thủ tục cho vay cần gọn nhẹ đơn giản phù hợp với khả năng kinh tế và trình độ của người vay vốn. Tuy nhiên cũng cần tuân thủ nguyên tắc bảo toàn vốn của Ngân hàng đối với khách hàng vay lượng vốn lớn.
Song song với các nguồn vốn vay Nhà nước cần tiếp tục đầu tư xây dựng mới và bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi đầu mối, khai hoang xây dựng đồng ruộng. quy hoạch các vùng sản xuất lúa đặc sản tập trung.
3.2. Đối với ngành Nông nghiệp (Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật)
3.2.1.Quy hoạch các vùng lúa chuyên canh để phục vụ hoạt động xuất khẩu:
Dân số Việt Nam đến năm 2010 sẽ đạt khoảng 90 triệu người. Mục tiêu đến năm 2010, phấn đấu cải tiến khẩu phần ăn để đạt mức 2100- 2300 Kcal/ngày/người. Xu hướng giảm lượng gạo trong khẩu phần ăn hàng ngày, tăng lượng thực phẩm giàu đạm như thịt, cá, trứng, sữa, đường và hoa quả. Ngoài nhu cầu lương thực cho người để đảm bảo an toàn lương thực còn có nhu cầu về giống để tái sản xuất, nhu cầu thức ăn cho chăn nuôi, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Căn cứ vào nhu cầu lương thực cho người tiêu dùng trong nước, chăn nuôi, để giống và cho xuất khẩu và căn cứ vào khả năng đất, các tiến bộ kỹ thuật, đến năm 2000 diện tích gieo trồng cây lương thực đạt 8,8triệu ha, trong đó lúa đạt 7,6 triệu ha, ngô đạt 1 triệu ha còn lại là diện tích khoai lang và sắn. Sản lượng lương thực đạt 35,5 triệu tấn, trong đó thóc đạt 32 triệu tấn, ngô đạt 2 triệu tấn. Đến năm 2010, diện tích gieo trồng cây lương thực đạt 9,6 triệu ha, trong đó lúa 7,9 triệu ha, ngô 0,8- 1,0 triệu ha, còn lại là diện tích khoai lang hoặc sắn. Sản lượng lương thực đạt 46- 47 triệu tấn, trong đó thóc đạt 38- 39 triệu tấn, ngô đạt 5,0- 6,0 triệu tấn.
Từ hiện trạng và dự báo về thị trường gạo, vấn đề đang đặt ra cho chúng ta là không nên tiếp tục tăng sản lượng gạo xuất khẩu mà phải chuyển sang hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam để tiêu thụ hết, tiêu thụ nhanh với hiệu quả cao số lượng gạo hiện nay khoảng 4-5 triệu tấn. Có thể nêu lên một số công việc cụ thể cần thực hiện để có thể giải quyết được vấn đề trên.
Về lâu dài, nước ta duy trì ở mức 4,0 triệu ha đất canh tác lúa (chủ yếu là diện tích được tưới, đã có thể sản xuất 35-36 triệu tấn).
Tập trung thâm canh, thay đổi giống lúa có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thay đổi của thị trường trong nước bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Xây dựng vùng sản xuất lúa xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long để sản xuất đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (kể cả vùng lúa sạch, lúa không biến đổi gen), để nâng cao năng lực chế biến và kỹ năng kinh doanh để chiếm lĩnh thị trường thế giới.
Duy trì xuất khẩu ở mức 4-5 triệu tấn/ năm.
Mở rộng sản xuất khi có thị trường, trước mắt chuyển một phần lúa một vụ hoặc mùa vụ bấp bênh sang trồng các loại cây trồng khác có thị trường đạt hiệu quả cao hơn hoặc nuôi trồng thuỷ sản, giảm diện tích lúa vụ 3 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Việc mở rộng diện tích canh tác lúa bằng hình thức khai hoang và ngọt hoá ở đồng bằng sông Cửu Long phải được cân nhắc kỹ giữa việc tăng thêm diện tích, sản lượng với việc duy trì, bảo vệ rừng ngập mặn, nuôi trồng thuỷ hải sản và bảo vệ môi trường sinh thái..
Tiếp tục làm thuỷ lợi để hỗ trợ đồng bào vùng cao phát triển sản xuất lương thực ở những nơi có điều kiện để tự giải quyết một phần lương thực tại chỗ.
Dưới đây xin được trình bày một số phác thảo cho việc quy hoạch các vùng lúa chuyên canh.
Vùng đồng bằng sông Hồng, đến năm 2010 bố trí khoảng 300.000 ha sản xuất thóc chất lượng cao và đặc sản truyền thống. Trong đó, trên những vùng đất thấp, trũng, hơi chua và mặn phù hợp với đặc tính của giống lúa Tám thơm, quy mô diện tích gieo trồng khoảng 18.000- 20.000 ha, đạt sản lượng khoảng 54.000- 60.000 tấn lúa Tám thơm các loại, chủ yếu là ở 7 tỉnh ven biển của tỉnh Nam định và Thái Bình. Bố trí khoảng 20.000- 22.000 ha trên phạm vi các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng gieo trồng các loại lúa nếp hoa vàng, nếp cái và nếp lý, đạt sản lượng 70.000- 80.000 tấn. Diện tích còn lại xây dựng các vùng trồng lúa chất lượng được các khách hàng nước ngoài ưa chuộng để xuất khẩu.
Vùng đồng bằng sông Hồng đầu tư phát triển một vùng lúa gạo đặc sản, chất lượng cao tập trung theo phương thức sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Trong giai đoạn trước mắt. Tập trung tác động vào khâu giống và chế biến bảo quản lúa gạo.
Trước mắt cung cấp giống nguyên chủng đảm bảo chất lượng của các giống lúa chất lượng cao đã được thị trường chấp nhận như C70, C71, Mộc tuyền, X21 Ngoài các giống lúa chất lượng cao, chọn lọc các giống lúa đặc sản truyền thống như lúa tám thơm, nếp. Lúa tám thơm bố trí trên các chân đất thấp, trũng, đất hơi chua và mặn của các huyện ven biển Xuân Trường, Giao thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định và Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Thuỵ tỉnh Thái Bình. Chọn lọc các giống lúa nếp hoa vàng, nếp cái và nếp lý để phát triển trên đất thấp, trũng của tất cả các tỉnh của vùng đồng bằng sông Hồng.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long, bố trí khoảng 950.000ha đất thành các vùng tập trung để xây dựng vùng sản xuất lúa gạo chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu tiêu thu gạo chất lượng cao trong nước và xuất khẩu. Sản xuất các giống lúa thơm truyền thống của vùng, các giống Khao Daw Mali, Jasmin và các giống chất lượng cao được thị trường trong nước thế giới ưa chuộng. Sản lượng lúa chất lượng cao năm 2010 đạt khoảng 11 triệu tấn thóc.
Vùng đồng bằng sông cửu Long có sản lượng thóc chiếm khoảng một nửa sản lượng thóc toàn quốc, đồng thời là vùng có sản lượng thóc hàng hoá cao nhất cả nước. Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam những năm qua phần lớn từ vùng này. Trong tương lai đây cũng là vũng cung cấp lượng gạo chủ yếu cho xuất khẩu. Do vậy, cần quy hoạch vùng sản xuất gạo chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu để tăng chất lượng và hiệu quả xuất khẩu gạo, tăng độ đồng đều của lô hàng xuất khẩu và giảm thời gian thu gom gạo đủ cho một hợp đồng xuất khẩu.
Vùng được quy hoạch sản xuất lúa đặc sản chất lượng cao nằm ở các tỉnh thuộc vùng. Năm tỉnh An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Đồng Tháp và Kiên Giang mỗi tỉnh bố trí trên 100.000 ha. Các tỉnh còn lại của vùng mỗi tỉnh khoảng 50.000 ha. Trước mắt, mỗi tỉnh chọn một số vùng tập trung đại diện cho các mô hình làm thí điểm để rút kinh nghiệm trong việc đầu tư từng mô hình như mô hình đại diện cho vùng sản xuất 3 vụ được kiểm soát lũ cả năm, mô hình đại diện cho vùng mặn ven biển được ngọt hoá và mô hình đại diện cho vùng sản xuất 2 vụ lúa đông xuân- hè thu chỉ phải kiểm soát lũ tháng 8.
Ngoài việc đầu tư chung cho nông nghiệp nông thôn, những vùng được quy hoạch để sản xuất lúa chất lượng cao và lúa đặc sản cần được ưu tiên đầu tư về thuỷ lợi, thuỷ nông và cải tạo đồng ruộng; nghiên cứu nhân giống lúa và khuyến nông; cơ giới hoá nông nghiệp; xây dựng nhà kho; sấy lúa và xay xát, đánh bóng gạo.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long việc xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông nội đồng rất quan trọng, làm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Có thể hoàn thiện hệ thống thuỷ nông nội đồng theo hướng : bao lửng né lũ cho mô hình 2 vụ lúa đông xuân, hè thu; mô hình bao kín để tưới tiêu tự chảy hoặc bao khép kín tiêu tự chảy và tưới bằng bơm nhỏ cho mô hình trồng 3 vụ lúa màu; mô hình bờ bao khép kín ngăn mặn, trữ ngọt cuối mùa mưa ở vùng đất mặn ít không có nguồn nước ngọt.
Tổ chức dịch vụ thu mua lúa xuất khẩu với sự tham gia của các thành phần kinh tế : quốc doanh, tập thể và tư thương, theo hướng tận dụng tối đa vai trò của các Hợp tác xã, chủ vựa, tư thương có kinh nghiệm, phương tiện, đứng ra làm đại lý cho các Công ty trực tiếp thu mua lúa của nông dân ở các xã, huyện theo khung gía thống nhất của Công ty ở từng thời điểm và được hưởng dịch vụ đại lý. Đồng thời, Công ty cũng xây dựng mạng lưới thu mua lúa gạo ngay tại các nhà kho, các nhà máy xay xát để giữ vai trò kiểm soát thị trường và có thể can thiệp khi có những biến động lớn.
Tăng chất lượng lúa gạo trong quá trình sản xuất trồng trọt bằng cách đổi mới các hình thức khuyến nông và dịch vụ phù hợp như :
Dịch vụ cung ứng lúa giống : được đảm nhận bởi Công ty giống cây trồng trung ương, Công ty giống cây trồng các tỉnh và đại diện ở các huyện. Dịch vụ cung ứng lúa giống, các doanh nghiệp Nhà nước nên giữ vai trò chủ đạo trong việc cung ứng nguồn hàng, tư thương tham gia vào bán lẻ tới nông dân. Các loại giống lúa cung ứng ra thị trường cần đảm bảo chất lượng, đúng tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng sản phẩm cho xuất khẩu và các giống lúa có năng suất cao đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Tăng cường nhập nội các giống lua mới có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với thị hiếu thị trường. Các giống lúa mới trước khi đưa ra dịch vụ đại trà cần được khảo nghiệm cẩn thận tại địa phương để tránh rủi ro cho nông dân. Ngoài việc nhập nội các giống lúa cần tuyển chọn duy trì các giống lúa thơm, đặc sản truyền thống của dân tộc. Các giống này được thị trường cao cấo trong nước ưa chuộng.
Dịch vụ cung ứng phân hoá học và thuộc trừ sâu : Đây là những dịch vụ rất quan trọng trong sản xuất lúa gạo. Để thực hiện tốt dịch vụ này cần điều hành việc nhập khẩu, dự trữ phân bón, thuốc trừ sâu một cách khoa học thông qua quan hệ cung cầu về phân bón và thuốc trừ sâu nhằm khuyến khích sản xuất trong nước và tránh các đợt đột biến giá do khủng hoảng thiếu. Mặt khác, Nhà nước cũng cần quản lý chặt chẽ về chất lượng và mẫu mã hàng để tránh nhầm lẫn với nông dân. Tham gia cung ứng dịch vụ này tới nông dân bao gồm Tổng công ty vật tư nông nghiệp và các chi nhánh tại các tỉnh huyện, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân tham gia. Đi đôi với việc cung ứng cần khuyến cáo nông dân sử dụng cân đối phân hoá học N.P.K và bón phân phù hợp với nông hoá thổ nhưỡng và phù hợp với từng loại lúa giống.
Chương trình khuyến nông sử dụng các loại giống lúa mới gồm các giống lúa lai năng suất cao, giống lúa đặc sản và giống lúa năng suất cao. Dịch vụ các giống lúa tốt đảm bảo chất lượng, đặc tính kỹ thuật của giống, quy trình canh tác, quy trình phơi sấy và vật tư kỹ thuật phục vụ cho thâm canh giống lúa mới.
Chương trình khuyến nông về công nghệ sản xuất : phổ biến và hướng dẫn nông dân sử dụng các công cụ,máy móc nhỏ trong các khâu làm đất, bơm nước, giặt đập, phơi sấy, xay xát...
Chương trình khuyến nông bảo vệ sản xuất: Tại các vùng có điều kiện khuyến cáo nông dân áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM), bảo vệ và khuyến khích phát triển những loài thiên địch có lợi cho cây trồng và môi trường. Tuy nhiên, tại những vùng không có điều kiện áp dụng các biện pháp IPM, hướng dẫn nông dân xác định đúng các loại sâu bệnh và cung ứng các loại thuốc thực vật đặc chủng để diệt trừ sâu bệnh. áp dụng các biện pháp sinh học và thủ công để diệt trừ chuột và ốc bươu vàng hại lúa. Hạn chế đến mức tối đa việc dùng hoá chất để diệt chuột. Khuyến cáo nông dân sử dụng các loại thuốc trừ sâu bằng thảo mộc để tránh độc hại cho người sử dụng và hạn chế độc tố trên sản phẩm và môi trường.
Sau một thời gian thực hiện khoán theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, sản xuất gia tăng theo hướng phát triển hàng hoá nhưng hệ thống hợp tác xã nông nghiệp trước đây gần như mất dần vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành sản xuất. Khi kinh tế hàng hoá tương đối phát triển thì nhu cầu thông tin và dịch vụ tăng lên, các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo cơ chế cũ không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế. Trong nông nghiệp nông thôn đã hình thành hợp tác xã với những nội dung hoạt động khác nhau. Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ kinh doanh tổng hợp hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Dịch vụ sản xuất nông nghiệp, kinh doanh thương mại, chế biến và sản xuất kinh doanh ngành nghề. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp chủ yếu tổ chức các hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho hộ xã viên, nông dân trên địa bàn. Hợp tác xã dịch vụ tưới tiêu, điện và các hợp tác xã theo những ngành nghề cụ thể. Do vậy, cần đổi mới và củng cố lại các hợp tác xã nông nghiệp theo tinh thần của Luật hợp tác xã để các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả và thực sự là chỗ dự của nông dân trong nền kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
3.2.2. Tuyển chọn và lai tạo giống lúa theo nhu cầu nước nhập khẩu
Gạo là nhu cầu thực phẩm hàng ngày không thể thiếu vắng đối với mọi thành viên trong xã hội. Mức tăng nhu cầu tiêu thụ gạo phụ thuộc chủ yếu vào mức tăng dân số. Dân số các nước phát triển (tiêu thụ chủ yếu là lúa mì) chỉ tăng bình quân 0,5%, trong khi đó dân số các nước đang phát triển (tiêu thụ chủ yếu là gạo) vẫn tăng gần 2%/năm. Theo tính toán của FAO, muốn đảm bảo an toàn lương thực thực phẩm thì mức tăng sản lượng lương thực phải gấp 1,5- 2 lần mức tăng dân số. Dự báo trong giai đoạn 2000- 2015, số dân tăng thêm hàng năm trên thế giới vẫn còn ở mức khá cao, trung bình hàng năm tăng 87 triệu người và sau đó tốc độ tăng mới từng bước giảm nhiều hơn. Số dân tăng thêm hàng năm sẽ chỉ còn khoảng 70 triệu người vào thập niên 30 của thế kỷ 21 và khoảng hơn 50 triệu người vào thập niên 50. Khi đó tốc độ dân số chung toàn cầu sẽ tương đương với tỉ lệ tăng dân số hiện nay của các nước phát triển (0,5%/năm).
Mặt khác theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ sản lượng gạo thế giới đến năm 2009 đạt 429 triệu tấn, tốc độ tăng trưởng cung gạo đạt 2,7%/năm (trong khi giai đoạn 1989- 1999 chỉ là 1,4%), nhiều nước thiếu lương thực đã vươn lên để tự túc lương thực. Hiện nay thiếu lương thực đã giảm từ 80 nước xuống còn 38 nước, trong đó có 20 nước ở châu Phi. Thương mại gạo toàn cầu trong giai đoạn 2000- 2009 tăng với tốc độ trên 2%/năm. Về số lượng gạo thương mại toàn cầu sẽ tăng lên 22,5 triệu tấn vào năm 2002, và đạt 26,7 triệu tấn vào năm 2009, tăng hơn 6% so với kỷ lục năm 1998. Cùng với xu hướng nhu cầu gạo bình quân đầu người có giảm dần ở một số nước Châu á có thu nhập tăng nhanh. Khả năng cung cấp về gạo chất lượng cao Japonica giảm sẽ dẫn tới cầu lớn hơn trên thị trường gạo chất lượng cao, do đó giá gạo loại này sẽ tăng khá. Nhu cầu gạo chất lượng thấp sẽ giảm nếu không có những đột biến về thiên tai hay khủng hoảng kinh tế, tuy nhiên chiều hướng này sẽ được bù đắp khi nhu cầu về loại gạo chất lượng thấp do chăn nuôi tăng lên. Thị trường gạo thế giới đang được phân chia thành 4 nhóm :
Các nước có thu nhập thấp như ấn độ và các nước Châu Phi là những nước trong tương lai sẽ tiêu thụ gạo nhiều hơn;
Các nước Châu á, kể cả Trung Quốc và Inđônesia là những nước sẽ chuyển từ tiêu thụ gạo chất lượng thấp sang tiêu thụ gạo chất lượng cao;
Đông Nam á và Trung Đông, những khu vực này sẽ tiêu thụ gạo chất lượng cao;
Bắc Mỹ và Châu Âu là những khu vực ngày càng quan tâm hơn đến tác động của kỹ thuật và môi trường.
Do trong tương lai các thị trường tiềm năng của gạo Việt Nam vẫn là Châu á và có thể mở rộng sang thị trường của các nước châu Phi, vì vậy ngoài việc tiếp tục cung cấp gạo phẩm cấp thấp và trung bình (phục vụ thị trường châu Phi), Việt Nam cần phải tichs cực nghiên cứu lai tạo và trồng trên diện rộng các giống lúa có chất lượng cao thì mới có thể giữ vững và phát triển tại thị trường truyền thống là thị trường châu á
3.2.3. Đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, xay xát, công nghệ sau thu hoạch
Chế biến và công nghệ sau thu hoạch: Phấn đấu đến năm 2010 giảm mức hao hụt về mặt số lượng xuống 10- 13% so với hiện nay là 13- 16%. Trước mắt cần tập trung khắc phục những nguyên nhân chính gây ra tổn thất trong các khâu phơi sấy, bảo quản và xay xát lúa gạo. Ba khâu này chiếm tới 68- 70% tổng tổn thất.
Cải tiến kỹ thuật và công nghệ làm khô lương thực : hiện nay, tại Việt Nam làm khô thóc vẫn chủ yếu dựa vào ánh nắng mặt trời để giảm độ ẩm của thóc từ 19- 21% xuống còn 15 - 16% ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và xuống 13-14% ở vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh duyên hải miền Trung. Tuy nhiên do thiếu sân phơi, người nông dân ở các tỉnh phía Nam thường phơi thóc trên đường nhựa làm cản trở giao thông và gây ra độ gẫy nát cao lúc xay xát. Mặt khác, vụ hè thu ở Nam bộ thu hoạch vào mùa mưa nên không thể phơi nắng đã làm giảm đáng kể đến chất lượng và sản lượng thóc gạo. Ngô thu hoạch vào mùa mưa nên cũng không đủ nắng để phơi, nấm mốc phát triển sinh độc tố gây nguy hiểm cho vật nuôi.
Cần nghiên cứu hoàn thiện một số mô hình thiết bị sấy kiểu sàn phẳng với nhiều quy mô phù hợp và sử dụng các loại nhiên liệu có sẵn ở các địa phương như rơm, rạ, trấu, than củi... Các mô hình này đã được kiểm chứng thực tế tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều nông dân đã áp dụng đạt kết quả tốt. Cần phổ biến và khuyến cáo rộng rãi để nông dân áp dụng với hình thức nhóm hộ hợp tác đầu tư xây dựng thiết bị sấy này.
Cải tiến kỹ thuật và công nghệ bảo quản lương thực, như :
áp dụng công nghệ bảo quản kín gạo xát trắng, gạo lật bằng cách sử dụng màng PVC trong môi trường khí CO2 hoặc khí ni tơ trong các kho dự trữ quốc gia và dự trữ lưu thông.
áp dụng công nghệ bảo quản mát thóc, gạo ở nhiệt độ 15 - 160C tại một số cụm kho dự trữ quốc gia hiện đại.
Sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh vật, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho người và gia súc, không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản lương thực trong kho tập trung và phương tiện cất giữ ở gia đình.
Cải tiến kỹ thuật và công nghệ xay xát : đối với hệ máy nhỏ dưới 1 tấn/ giờ dùng máy xay quả lô cao su, sàng phân ly kiểu Yanmar và máy xát dùng máy xát Noda. Các loại máy này đã được VINAPRO sản xuất và được thị trường ưa chuộng. ở miền Bắc đã lắp đặt một dây chuyền máy 1 tấn/giờ tại huyện Quỳnh Phụ theo công nghệ của Yanmar. Dây chuyền máy kiểu này có thể sản xuất gạo 5-10% tấm và có tỉ lệ thu hồi gạo 68- 72%. Cuối dây chuyền có lắp đặt máy đóng gói gạo theo định lượng.
Để nâng cao chất lượng và tỉ lệ thu hồi gạo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng nâng cao cũng như để giảm tổn thất xay xát cần tập trung cải tạo, nâng cấp đối với hệ xay xát nhỏ ở miền Bắc, miền Trung và hệ xay xát cũ ở phía Nam.
Đối với hệ máy xay xát 15 tấn/ca (2 tấn/giờ) cần cải tạo và bổ xung vào đoạn cuối của dây chuyền các thiết bị tách, đánh bóng ẩm và phân loại theo định lượng, phẩm cấp.
Đối với hệ máy cũ miền Nam 8- 15 tấn/ca (1-2 tấn/giờ) cần nghiên cứu cải tạo, nâng cấp công nghệ và thiết bị.
Chính phủ Đan Mạch viện trợ không hoàn lại để xây dựng 3 nhà máy xay xát với thiết bị và công nghệ hiện đại tại Thái Bình, Cần Thơ, Sóc Trăng. Ba nhà máy này sắp đưa vào sử dụng sẽ góp phần làm tăng chất lượng gạo và bao bì phù hợp với yêu cầu của thị trường. Khi các nhà máy này hoàn thành, cần tổng kết, rút kinh nghiệm để mở rộng cho các địa phương khác. Đồng thời từng bước cổ phần hoá trong đó cổ đông là nông dân, để thu hồi vốn và đầu tư cơ sở mới.
Phát triển các thiết bị sấy khô thóc với các công suất khác nhau phù hợp với hộ hay nhóm hộ và sử dụng nguyên liệu có sẵn tại địa phương như rơm rạ, trấu và than củi. Thóc gạo được làm khô đến độ ẩm cho phép sẽ tạo điều kiện tốt cho lưu kho.
3.3. Đối với các Doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo (Các giải pháp về nghiên cứu thị trường và Marketing)
3.3.1. Nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu thị trường:
Đầu tư nghiên cứu cập nhật các thông tin mới nhất về tình hình sản xuất và tiêu thụ của các thị trường trên thế giới, chú ý tập chung vào các thị trường đã có quan hệ với Việt Nam. Nghiên cứu kỹ tình hình biến động về giá cả các loại gạo của thị trường. Nghiên cứu đặc tính, thị hiếu của từng thị trường.
Xây dựng hệ thống thông tin thị trường xuất khẩu gạo. Thông tin này cung cấp cho các đơn vị xuất khẩu gạo để tránh thua thiệt cho các đơn vị, và tránh hiện tượng vì thiếu thông tin nên chào hàng với giá thấp, tạo ra mâu thuẫn giữa các đơn vị xuất khẩu.
Ngoài những thông tin trên, hệ thống thông tin thị trường xuất khẩu gạo cần cung cấp cho các đơn vị xuất khẩu gạo của Việt Nam để tránh hiện tượng lừa đảo trong thương mại.
Đồng thời với việc xây dựng hệ thống thông tin thị trường xuất khẩu gạo là việc xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu của Việt Nam. Việc có thương hiệu sẽ làm tăng uy tín của các sản phẩm gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế đặc biệt là đối với các loại gạo có phẩm cấp cao như Tám Thơm hay Nàng Hương.
Việt Nam có lợi thế về xuất khẩu gạo so với một số nước khác. Mặt hàng gạo có thể đưa vào giao dịch trên thị trường hàng hoá sau của Việt Nam. Do đó, cần nghiên cứu hình thành thị trường hàng hoá giao sau của Việt Nam. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người bán gạo và người mua gạo trực tiếp gặp nhau trao đổi tiến hành ký kết hợp đồng tiêu thụ. Người bán gạo bao gồm các hộ nông dân, chủ trang trại, các doanh nghiệp là những người trực tiếp sản xuất có nhu cầu tiêu thụ thóc gạo của mình, đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất và, không vì lợi ích lợi nhuận của họ là tự bảo hiểm về giá, đề phòng những diễn biến bất lợi mà thị trường giao ngay mang lại rủi ro với họ. Người mua những người này là bảo hiểm về giá cho nguyên liệu đầu vào xác định để ký kết các hợp đồng xuất khẩu. Những hợp đồng này đều kết thúc bằng việc giao hàng thực sự, cho nên buộc các nhà sản xuất và xuất khẩu phải tham gia vào thị trường hàng hoá giao sau, với mục đích chính là tự bảo hiểm và là cơ sở cho việc hạch toán sản xuất và kinh doanh... Người bán và người mua không phụ thuộc vào thành phần kinh tế, có nghĩa là doanh nghiệp Nhà nước, tập thể và tư nhân đều có thể tham gia trên thị trường hàng hoá giao sau này.
3.3.2. Củng cố và mở rộng các thị trường hiện tại, phát triển các thị trường mới:
Từ các số liệu tại bảng 11, ta có thể thấy được thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam chủ yếu là các nước châu á, chiếm tới hơn 80% tổng lượng gạo xuất khẩu của nước ta . Trong khi đó một thị trường rất phù hợp cho các loại gạo có phẩm cấp thấp và trung bình của Việt Nam là thị trường Châu Phi, Trung Đông lại chưa được quan tâm đúng mức. Tại thị trường Phi châu tuy mức xuất khẩu hàng năm của chúng ta có tăng nhưng hiện tại mới chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một con số quá thấp so với thực tế khả năng xuất khẩu của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu từ các nước Châu Phi và khu vực Trung Đông.
Trong thời gian tới theo dự báo và đánh của FAO và Bộ Nông nghiệp Mỹ_USDA thì châu Phi chính là thị trường lớn cho các nước xuất khẩu gạo có phẩm cấp thấp và trung bình như Việt Nam. Vì vậy việc đẩy mạnh quan hệ giao lưu kinh tế với các thị trường dễ tính này đang được đặt ra như một vấn đề cấp thiết. Có thể nói Đảng và Nhà nước, ngành nông nghiệp đã và đang có những bước đi quyết định để chiếm lĩnh thị trường trên. Chuyến tham hữu nghị chính thức một loạt các nước Châu phi, Trung Đông vừa qua của Chủ tịch nước Trần Đức Lương là một minh chứng cho quyết tâm này của Việt Nam.
kết luận
Cùng với những thành tựu to lớn trong đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước trong những năm vừa qua, sản xuất và xuất khẩu gạo từ năm 1989 đến nay đã đạt được những thành quả đáng khích lệ. Sản xuất và xuất khẩu gạo đã có tác động tích cực trở lại đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế nói chung của đất nước. Mặc dù chỉ là một mặt hàng cụ thể, nhưng lúa gạo có vai trò, có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó là mặt hàng nhạy cảm. Biến động giá lúa gạo do việc kiểm soát yếu kém sẽ ảnh hưởng ngay đến đời sống của gần 80% dân số trong khối nông nghiệp, ảnh hưởng đến an toàn lương thực quốc gia và an ninh trật tự xã hội
Không chỉ ở bình diên quốc gia, ngay cả trên thế giới các nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu và đưa ra nhận định: " thế giới có đủ khả năng sản xuất lương thực để nuôi sống hơn 6 tỷ người hiện nay nhưng vẫn có nguy cơ bị đói'. Với trên 700 triệu ha đang được sử dụng để sản xuất lương thực (trong đó có lúa), chưa kể việc tăng năng suất cây trồng và mở rộng thêm diện tích canh tác đó là khả năng đảm bảo lương thực của toàn thể nhân loại. Tuy nhiên nguy cơ bị đói vẫn còn do việc nghiên cứu sản xuất và tiêu dùng lương thực hiện nay của thế giới chủ yếu do các tổ chức tư nhân thực hiện. Quyền lợi tiếp cận và được đáp ứng nhu cầu lương thực của con người chưa được đảm bảo và quan tâm đúng mức ở nhiều quốc gia; ấy là chưa kể đến yếu tố thiên tai khó lường trước và thường xuyên xảy ra ở mọi nơi.
Đối với Việt Nam, trong thời gian tới gạo vẫn là mặt hàng cần được quan tâm và hỗ trợ trong các khâu từ sản xuất, chế biến dự trữ đến xuất khẩu bởi vì hiện nay chúng ta phải duy trì và ổn định sản lượng lương thực do vẫn còn chứa đựng các yếu tố đe doạ an ninh lương thực quốc gia.
Sản xuất và xuất khẩu gạo có tác động tích cực đến việc phát huy nguồn lực trong nước, góp phần đáng kể để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước khác trên thế giới, góp phần thực hiện thành công mục tiêu xoá đói giảm nghèo của Đảng.
Chúng ta vừa đi qua một chặng đường 1989-2002. Việc sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời gian tới, trong thế kỷ 21 đang có thế và lực mới. Nhà nước đã có khá đủ chủ trương, chính sách cơ chế mở lối thông thoáng cho sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt có đường lối, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với nỗ lực cao của Chính phủ, của các ngành, các cấp, của chính quyền địa phương và của các doanh nghiệp, hy vọng rằng mọi thử thách sẽ được vượt qua, những yêu cầu nêu trên trong nhiệm vụ của sản xuất lúa hàng hoá - xuất khẩu gạo chắc chắn sẽ được thực hiện một cách tốt đẹp.
Nhìn lại những chặng đường đã qua trong hoạt động sản xuất lúa gạo, chúng ta không thể không tự hào ghi nhận những thành quả to lớn mà nghành nông nghiệp nói riêng và hàng triệu người nông dân Việt Nam đã đạt được. Để có được những thành tựu to lớn, được thế giới ngưỡng mộ như ngày hôm nay, mỗi người Việt Nam không thể quên được những khó khăn vất vả, những thử thách lớn lao trong những ngày đầu đổi mới. Từ đó rút ra những bài học làm tiền đề cho sự phát triển của tương lai đất nước.
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2002.
Sinh viên thực hiện,
Trần Trung Hiếu
Trung 1- K37D, ĐHNT
Các tài liệu tham khảo
Tiếng Việt:
Chỉ thị số 100 (13/10/1981) Ban Chấp hành TW Đảng CSVN
Nghị Quyết 10 (05/04/1987) Ban chấp hành TW Đảng CSVN
Thủ tướng Phan Văn Khải - Đẩy mạnh phát triển và nông nghiệp và kinh tế nông thôn - Nông nghiệp Việt nam, những thành tựu - Nhà xuất bản Lao động, 1998
Giáo sư Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng - Thành tựu sản xuất lương thực Việt nam và sự phát triển Nông nghiệp bền vững - Nông nghiệp Việt nam, những thành tựu - Nhà xuất bản Lao động, 1998
TS. Nguyễn Trung Vãn – Lương thực Việt nam thời đổi mới, hướng xuất khẩu – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1998
TS. Nguyễn Trung Vãn – Vấn đề, gải pháp và định hướng xuất khẩu gạo Việt Nam
PTS Nguyễn Đình Long, PTS Nguyễn Thế Mạnh - Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt nam - Nhà xuất bản Nông nghiệp 1999
KS Trần Thanh Cảnh, Bộ NN-PTNT - Đồng bằng Sông Cửu long, thành tựu xuất khẩu lúa gạo lớn nhất ở Việt nam - Nông nghiệp Việt nam, những thành tựu - Nhà xuất bản Lao động, 1998
Niên giám thống kê Việt nam, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội 1991, 1997, 1998, 1999,2000.
Số liệu thống kê nông - lâm - thuỷ sản Việt nam 1975-2000, dự báo năm 2000 - Nhà xuất bản Thống kê 1999
Tạp chí thương mại các số năm 2000,2001,2002
Thời báo Kinh tế Việt Nam các số năm 2002
Tiếng Anh:
USDA- Rice year book 2001
USDA- World Trade Calender Year 2002
USDA (ERS) - Rice Outlook Apr,23,2002.
USDA (ERS) - Rice Outlook Oct,15,2002.
FAO - Database
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoa Luan Tot Nghiep.doc