Khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN và kinh nghiệm của EU. Giải pháp thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập liên minh tiền tệ ASEAN

Lời nói đầu Hợp tác khu vực đang là một xu thế phổ biến trong nền kinh tế thế giới, nhất là từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Trong vòng 5 năm qua, có khoảng 66 khu vực mậu dịch tự do được thành lập. Theo thống kê của WTO, hiện nay đang có hơn 150 hiệp định hợp tác khu vực có hiệu lực trên thế giới. Đại bộ phận các hiệp định này được ký kết giữa các nước đang phát triển. Năm 2004, Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) tròn 37 tuổi. So với lịch sử phát triển của các tổ chức khác, lịch sử

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1831 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN và kinh nghiệm của EU. Giải pháp thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập liên minh tiền tệ ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ASEAN không phải là quá dài song phải đến độ tuổi này, ASEAN đã trở thành một cơ cấu hợp tác kinh tế mạnh mẽ và hiệu quả, tương xứng với các nước trong khu vực. Thực hiện mục tiêu hội nhập kinh tế sâu sắc hơn nữa, ngoài khu vực mậu dịch tự do AFTA, ASEAN cũng đang hướng tới mở rộng triển khai thị trường, tự do hoá thương mại với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Austraylia, Newzealand… Ngoài ra ASEAN cũng lập các diễn đàn nhằm tăng cường đối thoại giải quyết các vấn đề chính trị, an ninh khu vực. Với tình hình và điều kiện khu vực ASEAN đang ngày càng chuyển biến theo hướng tích cực như vậy, có một câu hỏi đặt ra là đến khi nào ASEAN sẽ thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực sang bước tiếp theo là hình thành đồng tiền chung ASEAN và liệu khả năng này có trở thành hiện thực? Vấn đề này sẽ trở nên quan trọng hơn khi chúng ta nhận thức được những nguồn lợi đặc biệt mà đồng tiền chung ASEAN có thể mang lại trong tất cả những lĩnh vực kinh tế, thương mại, ngân hàng, đối ngoại,… đồng thời sự ra đời của đồng tiền chung ASEAN sẽ đem lại sức mạnh cho các nước Đông Nam á trong những cuộc cạnh tranh khốc liệt của thế kỷ này. Thêm vào đó, vị thế quốc tế của ASEAN cũng được nâng lên một tầm cao mới nhờ đồng tiền chung… Tuy nhiên để thực hiện tiến trình này, ASEAN cũng phải vượt qua rất nhiều thách thức lớn phía trước. Vậy khả năng ASEAN hình thành đồng tiền chung như thế nào? Những thuận lợi, khó khăn, thách thức, tác động mà ASEAN sẽ gặp phải trong tiến trình này là gì? Liệu khu vực Đông Nam á sẽ có một đồng tiền chung trong vòng 10 năm, 15 năm hay thời gian ngắn và dài hơn nữa hay không… Chúng ta hãy cùng phân tích vài nét cơ bản. "Về khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN" trong các phần sau của tiểu luận này. Do những hạn chế về lý luận và thực tiễn, nên trong quá trình thực hiện khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và ý kiến đóng góp của các bạn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Nguyễn Trọng Tài đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Chương I Nhìn nhận chung về tình hình kinh tế ASEAN 1.1. Lịch sử hình thành ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) được thành lập vào ngày 08/08/1967 bằng sự kiện các Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Philipin, Singapore và ThaiLand kí vào bản tuyên bố ASEAN (hay tuyên bố Băng Cốc). Từ đó đến nay, ASEAN đã mở rộng tổ chức và phát triển thành ASEAN 10 với diện tích 4,3 triệu km2, số dân khoảng 490 triệu người, lực lượng lao dộng rẻ và hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên phong phú… Đây là hiệp hội của tất cả các nước Đông Nam á theo đúng ý tưởng ban đầu của những người sáng tạo ra hiệp hội. ASEAN ra đời trong bối cảnh nội bộ từ các nước trong khu vực đến các nước trên thế giới có nhiều biến động. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang diễn ra ác liệt và các nước Đông Nam á tham gia vào cuộc chiến. Đồng thời, các nước Đông Nam á phải xử lý nhiều vấn đề về chính trị, kinh tế trong từng nước và cả xung đột trong quan hệ giữa các nước với nhau. Trước bối cảnh đó, ASEAN ra đời để đối phó với những khó khăn bên trong và thách thức bên ngoài. 1.1.1. Mục đích thành lập ASEAN được thành lập với các mục đích sau: - Thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc Luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc. - Thúc đẩy sự hợp tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau về các vấn đề cúng quan tâm trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật, hành chính. - Hợp tác trên lĩnh vực đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính. - Phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, mởi rộng oạt động thương mại quốc tế, cải thiện hệ thống thông tin liên lạc vận tải và nâng cao mức sống của nhân dân. - Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam á. - Duy trì quan hệ hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ và mục đích tương tự và đề xuất cac biện pháp để tăng cường hợp tác giữa các tổ chức này. 1.1.2. Cơ cấu tổ chức của ASEAN Hiện nay cơ cấu tổ chức của ASEAN gồm các cơ quan sau đây: - Các cơ quan hoạch định chính sách bao gồm: Hội nghị cấp cao ASEAN, hội nghị Bộ trưởng ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế, Các hội nghị Bộ trưởng các ngành khác. Hội nghị liên Bộ trưởng, Tổng thư ký ASEAN, cuộc họp các quan chức cao cấp, cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp, cuộc họp các quan chức cao cấp khác, cuộc họp tư vấn chung. - Các Uỷ ban của ASEAN gồm có: Uỷ ban thường trực ASEAN, các Uỷ ban hợp tác chuyên ngành. - Các ban thư ký ASEAN gồm có Ban thư ký ASEAN quốc tế và ban thư ký ASEAN quốc gia. Ngoài ra còn có các cơ chế hợp tác với các nước thứ 3 bao gồm hội nghi sau Bộ trưởng, cuộc họp của ASEAN với các nước bên đối thoại và Uỷ ban ASEAN ở các nước thứ 3. 1.1.3. Nguyên tắc hoạt động chủ yếu của ASEAN Các nguyên tắc hoạt động của ASEAN được phản ánh trong nhiều văn kiện được ASEAN thông qua bao gồm: - Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên với bên ngoài có 6 nguyên tắc chính là: - Cùng tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc. - Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài. - Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. - Giải quyết bất dồng hoặc tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình. - Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực. - Hợp tác với nhau một cách hiệu quả. Các nguyên tắc điều phối của Hiệp hội. - Nguyên tắc nhất trí: Nguyên tắc này quy định mọi quyết định về các vấn đề quan trọng chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các thành viên nhất trí thông qua. - Nguyên tắc bình đẳng thể hiện trên hai mặt. Thứ nhất, các nước thành viên ASEAN dù ở trình độ phát triển nào đều bình đẳng với nhau trong nghĩ vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi. Thứ hai, hoạt dộng của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, các chức chủ toạ các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao cũng như địa điểm tổ chức các cuộc họp được phân công đều giữa các nước thành viên trên cơ sơ luân phiên theo vần A, B, C của Tiếng Anh. Ngoài ra, trong quan hệ giữa các nước ASEAN cũng đang hình thành một số nguyên tắc khác như: Nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc chung của Hiệp hội. 1.2. Liên kết kinh tế ASEAN trong những năm gần đây. Trong một thập niên đầu, nội dung hợp tác trong ASEAN chủ yếu là chính trị và đối ngoại. Hợp tác kinh tế chỉ bắt đầu vào cuối những năm 1970 với chương tình quan trọng nhất là thảo thuận thương mại ưu đãi (PTA) giữa 5 thành viên ban đầu. Sau đó có thêm một số chương trình hợp tác về công nghiệp như AIP (ASEAN Industrial Projects), AIJV (ASEAN Industrial Joint venture)... Tuy nhiên tác dụng và hiệu quả của các chương trình hợp tác này rất hạn chế, không tạo được bước chuyển đáng kể trong hợp tác kinh tế ASEAN, vì quy mô và phạm vi nhỏ bé của chúng, hơn nữa lại thiếu vốn để thực hiện. Hợp tác kinh tế ASEAN trên cơ sở các nguyên tắc của tự do hoá thương mại chỉ được bắt đầu với việc ASEAN ký và thực hiện Hiệp định thương mại ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) vào đầu thập niên 1990 tiến trình tự do hoá trao đổi dịch vụ với việc ký Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS) năm 1995, và sau đó là tiến trình tự do hoá trong lĩnh vực đầu tư với việc ký hiệp định khung về đầu tư ASEAN (AIA) năm 1998. Tự do hoá trong lĩnh vực thông tin và công nghệ thông tin (ICT) cũng được khởi động với việc ký Hiệp định khung E- ASEAN năm 2000. Ngoài các lĩnh vực hợp tác trên trong hơn hai thập kỷ qua, ASEAN cũng đẫ phát triển ngày một mạnh hơn và chặt chẽ hơn sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực kinh tế chuyên nghành khác. Đến nay quan hệ hợp tác ASEAN đã bao quát hầu hết mọi phương diện trên cơ sở đa phương và song phương giữa các quốc gia với nhau. 1.3. Kinh tế ASEAN những năm gần đây. Vào những năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ kinh tế ở Châu á sảy ra đã làm cho hợp tác ASEAN nói chung và kinh tế nói riêng bị ảnh hưởng nghiêm trọng: Một loạt các công ty tài chính và các ngân hàng bị phá sản, hàng loạt người dân bị thất nghiệp, xuất nhập khẩu trì trệ. Cuộc khủng hoảng này đã cho thấy tiềm lực và khả năng kinh tế của ASEAN còn rất nhiều hạn chế. Các nước đã không thể tự giúp nhau đưa ra một giải pháp thống nhất chung, có tính hữu hiệu để vượt qua được cuộc khủng hoảng. Thêm vào đó là quyền lợi dân tộc cộng với sự phụ thuộc quá lớn vào các nước bên ngoài cũng là nguyên nhân làm cho kinh tế các nước ASEAN bị trì trệ. Hiện nay kinh tế các nước ASEAN đang dần phục hồi trở lại. Biểu đồ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế phần trăm năm. ở Thái Lan, nợ nước ngoài của các công ty đã giảm mạnh xuống khoảng 37 tỷ USD so với 90 tỷ USD năm 1996, xuất khẩu của nước này trong tháng 5/2002 đã tăng 3.16% so với cùng kì năm trước, thặng dư thương mại đạt 58 tỷ Baht. Thái Lan phấn đấu đến cuối năm nước này sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu trung bình 5,94 tỷ USD/ tháng . Qua đó ta có thể nhận thấy, qua cuộc khủng hoảng năm 97, các nước ASEAN đã có những sách lược nhằm đẩy nhanh quá trình cải cách hệ thống ngân hàng, giúp hệ thống này tăng khả năng cạnh tranh. Ngoài ra , ASEAN cũng thúc đẩy tiến trình AFTA sớm hơn, tăng cường đối thoại bên ngoài về an ninh, kinh tế, thống nhất các nguyên tắc nhất trí, nguyên tắc bình đẳng và vào tháng 6/2002, tại Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN đã thông qua “nguyên tắc 10-X” để 4 nước gia nhập ASEAN sau là Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma được thực hiện các biện pháp xoá bỏ hàng rào thuế quan chậm hơn 6 nứơc thành viên cũ, tạo điều kiện cho những nước này có thêm thời gian chuẩn bị để tiến trình hội nhập được thành công hơn. Năm 2003 vừa qua, bất chấp những tác động tiêu cực của dịch sars và cuộc chiến tranh irac hồi đầu năm các nước asean vẫn phục hồi và phát triển tương đối khả quan với tốc độ tăng trưởng trung bình là 5% so với 4,5% năm 2002. Nhân tố quan trọng nhất giúp cho ASEAN đạt mức tăng trưởng mạnh này là sự phục hồi nền kinh tế toàn cầu đặc biệt là sự phục hồi cao hơn so với dự kiến của Nhật Bản. Đối với một số nước, sự tăng trưởng còn có được nhờ sự gia tăng trở lại của các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Hầu hết các thị trường vốn trong nước đã trở nên sôi động hơn. Mặt khác cũng phải kể đến các chính sách tài chính và tiện tệ phù hợp đã được từng nước áp dụng trong thời gian qua để thúc đẩy tăng trưởng. Nhìn chung, phần lớn các nước đều tiếp tục duy trì chính sách tài khoá mở rộng trong khi hướng tới củng cố ngân sách trong kế hoạch trung hạn. Chính sách tiền tệ nới lỏng được tiếp tục duy trì với mức lãi suất thấp hoặc ổn định do hầu hết các nước đều kiểm soát được tỷ lệ lạm phát của mình. Bảng 1: Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối của một số nước ASEAN 2001 2002 2003 Cán cân thương mại (tỷ USD) Indonesia 25,36 25,70 25,25 Malaysia 14,14 13,54 19,01 Thái Lan 2,53 3,45 19,01 Philippines -0,22 -1,50 -2,70 Cán cân vãng lai (tỷ USD) Indonesia 6,90 7,26 5,59 Malaysia 7,3 7,2 11,6 Thái Lan 6,24 7,63 5,74 Philippines 1,32 4,20 1,68 Dự trữ ngoại hối (tỷ USD) Indonesia 27,25 30,50 34,16 Malaysia 30,47 34,22 34,20 Thái Lan 32,36 38,05 39,40 Philippines 12,44 13,14 13,80 Nguồn: Asia Monitor, Business Monitor International, Vol 14,Oct 2003. Theo đánh giá, triển vọng phát triển của các nước ASEAN trong năm 2004 còn sáng sủa hơn mức tăng trưởng dự kiến của cả khu vực đạt từ 5,5% đến 5,9% mức tăng trưởng cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997-1998 đến nay. Theo dự báo của WB, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2004 của khu vực đông nam á có thể đạt mức 5,7%. Sự phát triển mạnh của nền kinh tế Thái Lan có thể giúp nước này đạt giá trị xuất khẩu khoảng 80 tỷ USD cao hơn năm 2003 khoảng 6 tỷ USD. Các quan chức Indonesia dự đoán tăng trưởng kinh tế nước này vẫn tiếp tục sáng sủa do có sự đóng góp tích cực của khu vực xuất khẩu có thể đạt tới 64,64 tỷ USD. Malaysia có thể giảm bớt nợ nước ngoài từ 48,6 tỷ USD năm 2003 xuống còn 45,60 tỷ USD năm 2004. Đối với Philippines, gánh nặng thâm hụt ngân sách Nhà nước tuy có chiều hướng giảm bớt nhưng thực sự chưASEAN đủ mạnh để cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô. Dự đoán của chính phủ Philippines về tốc độ tăng trưởng kinh tế sang năm có thể đạt khoảng 4,2%-5,2%. ASEAN đã đi được chặng đường 35 năm, qua thời gian này, hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đã chứng tỏ là một tổ chức khu vực thành công nhất thế giới. ASEAN nay bao gồm 10 quốc gia của toàn khu vực Đông Nam á năng động. Trong giai đoạn này ASEAN không chỉ tăng cường hợp tác lẫn nhau giữASEAN các thành viên mà ngày càng phát triển quan hệ kinh tế, đối ngoại với các nước bên ngoài. Có thể nói cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã khiến cho kinh tế các nước Đông Nam á tăng trưởng chậm nhưng lại mở ra con đường phát triển kinh tế vững chắc và ổn định hơn cho khu vực này. Chương II Khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN 2.1. Các tác động có thể dẫn tới đồng tiền chung ASEAN 2.1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực Bối cảnh quốc tế và khu vực trong những năm qua diễn ra hết sức sôi động đẫ ảnh hưởng trực tiếp đến các nền kinh tế ASEAN và ASEAN với tư cách là một tổ chức khu vực. Những nhân tố đó gồm: Thứ nhất: Quá trình toàn cầu hoá cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã tạo ra sự liên kết thị trường hàng hoá, dịch vụ tài chính xuyên biên giới. Trong quá trình đó, các công ty xuyên quốc gia trở thành lực lượng hùng mạnh về kinh tế và tài chính dẫn đến quá trình sản xuất được quốc tế hoá. Toàn cầu hoá mở ra thời kỳ phát triển với sự tuỳ thuộc và tương tác giữa các nề kinh tế, các khu vực tăng lên. Nó chứa đựng cả những nhân tố tích cực đổi mới và năng động nhưng cũng bao hàm các yếu tố tiêu cực, bất ổn và trở thành một thách thức đối với khu vực ASEAN. Thứ hai: Cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực xảy ra từ giữa năm 1997 đã gây ra những bất ổn về kinh tế mặc dù các nước ASEAN đã bước đầu hợp tác trong việc phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô nhưng tất cả mới chỉ là bước đầu và chưa có hiệu quả thực sự. Trong khi đó những chính sách đa dạng, những phản ứng rất khác nhau của các nước ASEAN nhằm đối phó với khủng hoảng lại cho thấy những hình ảnh trái ngược. Thứ ba: Cũng trong thời kì khủng hoảng, quá trình hợp tác ASEAN + 3 (ASEAN và ba nước Đông Bắc á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc) được hình thành trước đó đã phát triển mạnh và dần dần tạo ra một cơ chế hợp tác mới trong khu vực. Hợp tác ASEAN + 3 (ASEAN và ba nước Đông Bắc á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc) được hình thành trước đó đã phát triển mạnh và dần dần tạo ra một cơ chế hợp tác mới trong khu vực. Hợp tác ASEAN + 3 chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực thương mại, đầu tư và tài chính. Vào tháng 4 – 2000, Hội nghị bộ trưởng tài chính giữa ASEAN và ba nước Đông Bắc á họp tại Chiềng Mai mà nội dung chính là thiết lập cơ chế trao đổi tiền tệ giữa các nước ASEAN và Đông Bắc á để phòng ngừa và giảm bớt rủi ro tiền tệ. Các nước ASEAN và Trung Quốc đang tiến dần tới một hiệp định thương mại tự do trong thời gian tới. Như vậy, có thể nói quá trình hợp tác ASEAN + 3 sẽ là một nhân tố tác động lớn đến quá trình phát triển của thể chế hợp tác khác như diễn đàn hợp tác châu á - Thái Bình Dương APEC, diễn đàn hợp tác á - Âu ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã mang lại cho ASEAN nhiều cơ hội phát triển mới, tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong nhiều năm, làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và cải thiện nhanh mức sống của dân chúng, tạo ra cơ sở vật chất cũng như môi trường pháp lý thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, các nước ASEAN cũng phải gánh chịu những mặt trái của quá trình này. Đó là cuộc cạnh tranh không cân sức, mà bằng chứng hùng hồn là cuộc khủng hoảng tiền tệ vừa nổ ra làm cho kinh tế ASEAN rơi vào tình trạng trì trệ và suy thoái. Nhưng cũng đó mà ASEAN đã biết phối hợp và xây dựng triển khai nhiều loại hình hợp tác đa phương và song phương, khu vực thương mại AFTA , diễn đàn khu vực ARF, mở rộng thành viên, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên... Hiện tại trong những năm sắp tới chắc chẵn ASEAN tiếp tục bị sức ép càng lớn của toàn cầu hóa. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các nước ASEAN và tổ chức ASEAN phải biết tận dụng cơ hội của toàn cầu hóa, chủ động hội nhập quá trình này mà mục tiêu hướng tới là thành lập một đồng tiền chung khu vực ASEAN . Có thể nói toàn cầu hóa, khu vực hóa chính là tác động đầu tiên của tiến trình này. Trong bối cảnh toàn cầu hòa tuy hoàn cảnh và tên gọi khác nhau nhưng tựu trung lại các nước đều trải qua 2 bước với 5 cấp độ phát triển của hội nhập quốc tế như sau: * Cộng đồng Khu vực mậu dịch tự do Liên minh hải quan Khối thị trường chung * Liên minh: Liên minh kinh tế Liên minh kinh tế và tiền tệ Trong đó khu mậu dịch tự do là hình thức sơ đẳng nhất, là khởi điểm của quá trình liên minh liên kết. 2.1.2. Tác động của AFTA. AFTA ra đời chính là giai đoạn khởi đầu cho bước đầu hình thành đồng tiền chung ASEAN. Khu mậu dịch tự do ASEAN hay gọi tắt là AFTA được quyết định thành lập từ năm 1992. Theo tuyên bố AFTA bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1993 và hoàn thành vào năm 2008. nhưng vào tháng 9 năm 1994 các nước ASEAN đã quyết định rút ngắn thời gian hoàn thành AFTA xuống còn 10 năm tức là vào năm 2003. Riêng đói với Việt Nam do gia nhập ASEAN muộn hơn 3 năm so với các thành viên khác nên thời gian thực hiện AFTAcủa Việt Nam được bắt đầu từ 1/1/2006. Việc AFTA ra đời đối với ASEAN có nhiều tác động khác nhau. Về mặt lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu thuế xuất nhập khẩu sẽ bị giảm sút nếu AFTA không có tác dụng kích thích năng lượng buôn bán đến mức số lượng thuế thu được không tăng doanh thu không bù đắp được sự cắt giảm thu do thuế xuất. Về mặt doanh nghiệp, sản xuất và buôn bán chịu 2 loại tác động ngược chiều: được lợi do tăng khả năng cạnh tranh về giá cả và chịu sức ép về cạnh tranh lớn hơn do sự xóa bỏ các hàng rào bảo hộ thuế và phi thuế. Việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu không ảnh hưởng trực tiếp tới tài chính doanh nghiệp. Còn người tiêu dùng được lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng phong phú hơn. Về hợp tác đầu tư, AFTA ra đời đầu tư nội bộ khu vực được tăng cường đáng kể cho dù nguồn cung cấp từ bên ngoài vào ASEAN vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo. Như vậy, AFTA ra đời chính là giai đoạn khởi sở cho bước đầu hình thành động tiền chung ASEAN. Bởi vì để thông nhất một đồng tiền chung, khu vực phải đi từ cấp độ đầu tiên là xây dựng khu vực mậu dịch tự do rồi mới đến các tiêu thức khác như liên minh hải quan, khối thị trường chung liên minh tiền tệ. Nếu ASEAN nỗ lực hoàn thành sớm khu vực mậu dịch AFTA sẽ thúc đẩy tiến trình xây dựng đồng tiền chung cho khu vực Đông Nam á. 2.1.3. Kế hoạch thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (AC - FTA). Có một câu hỏi được đặt ra với các nước ASEAN là liệu ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập nào sau AFTA, trong khi mối quan hệ ASEAN – Trung Quốc ngày càng phát triển. Việc Trung Quốc gia nhập WTO, gần gũi về vị trí địa lý và văn hóa thì viẹc lựa chọn thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN –Trung Quốc (AC – FTA) Trong tương lai có thể là câu trả lời. ASEAN và Trung Quốc là những nước phát triển kinh tế ở những giai đoạn khác nhau nhưng đang cùng phải đối mặt với những cơ hội và thách thức của xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế một cách mạnh mẽ của thế kỉ 21. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do giữa 2 bên và tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của ASEAN và Trung Quốc trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Việc các nhà lãnh đạo 2 bên đồng ý thông qua việc thành lập xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc trong vòng 10 năm tới sẽ tạo ra viễn cảnh một khu vực kinh tế với 1.7 tỷ người tiêu dùng, GDP là 2 ngàn tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại khoảng 1.23 ngàn tỷ USD. Như vậy, đây sẽ là khu vực mậu dịch tự do (FTA) Lớn nhất thế giới với các chỉ số kể trên trong số các nước đang phát triển. Việc thiết lập AC – FTA sẽ góp phần loại bỏ hàng rào thuế quan giữa ASEAN và Trung Quốc , giảm chi phí thúc đẩy thương mại trong khu vực và tăng tính hiệu quả kinh tế. Hơn nữa sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng đảm bảo sự ổn định kinh tế khu vực, đồng thời cho phép ASEAN và Trung Quốc có tiếng nói trọng lượng hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Trong thời gian tới 2 bên sẽ tăng cường hợp tác kinh tế và thương mại bao gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghệ thông tin và liên lạc, phát triển nguồn nhân lực, đầu tư song phương và phát triển lưu vực sông Mekong. Trung Quốc sẽ giành sự ưu đãi đối với 3 nước kém phát triển nhất ASEAN là Mianma, Lào, và Campuchia đồng thời hỗ trợ cho ASEAN trong nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên. Với rất nhiều lợi ích đạt được từ AC – AFT ASEAN cũng cần được tăng cường sức mạnh bằng việc lưu hành một đồng tiền chung. Tiến tới ASEAN cũng có những ý định mở rộng thị trường hợp tác thương mại với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Newzeland, Austraulia, ấn độ,... các nước thuộc khối EU. 2.1.4. Quan hệ kinh tế ASEAN và một số nước. ASEAN - Nhật: Hợp tác kinh tế ASEAN – Nhật đã có từ nhiều năm nay chủ yếu từ việc Nhật tham gia vào các chương trình Nhật hỗ trợ cho ASEAN. Tháng 11/2002 Hội nghị cấp cao ASEAN – Nhật đã thông qua tuyên bố thiết lập đối tác kinh tế toàn diện trong đó gồm cả yếu tố của một khu vực mậu dịch tự do giữa 2 bên trong vòng 10 năm một ủy ban chung giữa 2 bên đã được thành lập nhằm xây dựng một văn bản khuôn khổ về đối tác kinh tế này. Văn bản trên đã được các nhà lãnh đạo ASEAN ký nhân dịp hội nghị cấp cao ASEAN – Nhật tháng 10/2003. ASEAN - ấn Độ: Bắt đầu từ 2003 Việt nam cùng các nước ASEAN và ấn Độ triển khai tuyên bố của hội nghị cấp cao ASEAN – ấn Độ tháng 11/2002 về xây dựng đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – ấn Độ (AICEP) hướng tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa 2 bên. ASEAN - CER (úc và Newzeland): Tháng 9/2002 tại Brunei các nước ASEAN và CER đã ký tuyên bố chung thiết lập đối tác kinh tế chặt chẽ (CEP) giữa 2 bên hiện nay 2 bên đang tiếp tục thảo luận các biện pháp cụ thể để thực hiện các biện pháp kinh tế này. Những biện pháp thuận lợi hóa và cả một số biện pháp tự do hóa thương mại và đầu tư giữa 2 bên sẽ là nội dung chủ yếu của đối tác kinh tế hợp tác chặt chẽ ASEAN – CER. ASEAN - EU: Gần đây EU đưa ra một chương trình hợp tác theo hướng tăng cường kinh tế giữa 2 bên có tên là TREATI (hợp tác xuyên khu vực giữa EU và ASEAN về thương mại và đầu tư. Với tất cả các điều kiện kinh tế thuận lợi trên chắc chắn ASEAN sẽ ngày càng lớn mạnh. ASEAN cần được tăng cường sức mạnh bằng việc lưu hành một đồng tiền chung, đó cũng là logic tự nhiên. Đồng thời chính sức mạnh của thị trường thống nhất đó sẽ tạo ra cơ sở kinh tế cho sự ra đời của đồng tiền chung ASEAN. 3. Phân tích khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN. Về mặt cơ bản đại bộ phận đều nhất trí liên minh tiền tệ khu vực sẽ là hình thức hợp tác hiệu quả trong dài hạn của Đông Nam á. Việc thành lập một liên minh tiền tệ khu vực với một đồng tiền chung sẽ nâng cao sức đề kháng chống lại đầu cơ tiền tệ. Tháng 12/1998 các nước ASEAN họp tại Hà Nội trong đó yêu cầu ban thư ký ASEAN nghiên cứu tính khả thi của đồng tiền chung ASEAN. Tuy nhiên vẫn còn mất nhiều năm để có đồng tiền chung ASEAN. Về lý thuyết liên minh tiền tệ có những lợi ích sau: Hệ thống tỷ giá hối đoái sẽ có độ tin cậy cao hơn do các nước thành viên có trách nhiệm hỗ trợ cho nhau để thực hiện cam kết của mình. Khả năng chống đầu cơ tiền tệ cao hơn. Khuyến khích thương mại đầu tư khu vực kể cả nhà đầu tư ngoài khu vực. Tránh được tình trạng đồng tiền phá giá cạnh tranh nhau. 3.1. Những nguồn lợi mà đồng tiền chung ASEAN có thể mang lại. Sự ra đời của đồng tiền chung ASEAN sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho các nước thành viên trong mọi mặt cụ thể như kinh tế, thương mại, ngân hàng đối ngoại... đồng thời cũng là nhân tố cơ bản làm thay đổi vị trí địa lý kinh tế – tiền tệ – tài chính quốc tế cho khu vực. Đồng tiền chung ASEAN ra đời cũng sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh quyết liệt với USD, Yên Nhật và đồng EURO trên tất cả các cần sự có mặt của tiền tệ. Sự kiện này cũng sẽ đưa vị trí của Châu á nói chung và ASEAN nói riêng lên một tầm cao mới. Cụ thể các nước thành viên sẽ ảnh hưởng những lợi ích quan trọng và căn bản như sau: Châu á sẽ thực sự đi vào con đường hội nhập quốc tế, có giải pháp cụ thể ứng phó với quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Thị trường chung Châu á sẽ trở nên thực sự đồng nhất và có hiệu quả hơn. Tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch ngoại hối. Giảm rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro về tỷ giá đối hoái, tăng cường sự ổn định tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô đồng thời khuyến khích đầu tư, kích thích tăng trưởng, thúc đẩy kinh tế phát triển, tìm lại tốc độ tăng trưởng cao, hạn chế thất nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới. Việc ra đời của một đồng tiền chung trong khu vực có hội tụ tất cả các cơ sở đảm bảo duy trì ổn định của nó thì khi được tung ra thị trường sẽ trở thành một đồng tiền quốc tế. Sẽ vị tính toán, công cụ dự trữ trong các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tiền tệ ở bên ngoài phát hành. Chính vì vậy khi ASEAN hình thành đồng tiền chung trên cơ sở của một tảng kinh tế – chính trị – xã hội vững chắc tương tự như trường hợp đồng EURO thì những nguồn lợi mà Đông Nam á thu được là rất lớn. Điều này cũng tạo điều kiện tiền để cho ASEAN vươn lên khẳng định vai trò quốc tế của mình. Thêm vào đó, có được một đồng tiền chung mạnh và ổn định cũng đồng nghĩa với việc ASEAN muốn có sức cạnh tranh với đồng đô la Mỹ, đồng Yên Nhật, và cả đồng EURO. Nhưng không vì thế mà làm tuột mất những lợi ích mà Mỹ, Nhật và Châu âu mang lại cho ASEAN mà ngược lại thông qua đó có thể củng cố vị thể quốc tế, chia sẻ quyền lực tiền tệ và quyền lực kinh tế có lợi cho Đông Nam á. Như vậy việc ra đời của đồng tiền vhung ASEAN được xem như là một nhân tố mới góp phần chuyển dịch sự cân bằng của hệ thống tiền toàn cầu và sẽ là một trong những yếu tố cơ bản giúp Đông Nam á cũng như từng nước thành viên nói riêng trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, thương mại hối đoái, đầu tư trực tiếp cũng như đầu tư gián tiếp. ASEAN có được đồng tiền chung ổn định sẽ tăng cường sức cạnh tranh cơ bản của nền kinh tế , củng cố tiềm lực, mang lại sức mạnh cho ASEAN trong cạnh tranh quốc tế khốc liệt của thế kỷ tới. Đồng thời cũng sẽ cấu thành một trong những yếu tố cơ bản, hiệu quả giúp ASEAN vững vàng tiến bước trên con đường hội nhập toàn cầu hóa kinh tế, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức khác. 3.2. Những khó khăn khi hình thành đồng tiền chung ASEAN. Thứ nhất: Xét về quan điểm thực tế, ASEAN thích hợp với một đồng tiền chung như đồng EURO tại Châu âu. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là ASEAN không quan tâm đến những vấn đề phát sinh khi thực hiện liên minh tiền tệ này. Xuất phát từ thực tế các nước ASEAN đang ở những trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Sự khác nhau diễn ra ngay cả trong ASEAN, các nước này đang ở trình độ phát triển khác nhau về trình độ công nghiệp hóa, thu nhập, mức sống, dự trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ...Cho thấy sự cách biệt quá lớn giữa các nước thành viên. Lấy một vài ví dụ như sau: Thu nhập đầu người ở Singapore cao gấp 40 lần thu nhập đầu người ở Inđonexia. Một số nước trong khu vực có nền công nghệ kỹ thuật tiên tiến và trình độ kỹ thuật phát triển đi trước Việt Nam từ 10 đến 25 năm và đã làm chủ được một số công nghệ nguồn, thâm nhập được vào thị trường thế giới trong khi các doanh nghiệp của Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma chỉ vừa mới bước vào thương trường, còn thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý... Thêm vào đó việc mở rộng ASEAN ra toàn bộ khu vực Đông Nam á càng làm cho sự tách biệt trong ASEAN đặc biệt là ASEAN6 và ASEAN4. Sự cách biệt này là một trở ngại lớn cho liên kết kinh tế khu vực, trên thực tế việc phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế vẫn chịu sự quyết định của các ý muốn chính trị chứ không phải do nhu cầu phát triển thị trường của quy luật phát triển kinh tế khách quan Thứ hai: ASEAN là một khu vực không hoàn toàn đồng nhất với lịch sử văn hóa và truyền thống pháp lý đa dạng. Sự đa dạng về truyền thống lịch sử văn hóa xã hội diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Hơn nữa các nước trong khu vực còn khác biệt về văn hóa dân tộc và tôn giáo. Vì vậy đối với việc ASEAN mở rộng ra toàn khu vực Đông Nam á thành ASEAN10 thì tính chất đa dạng và khác biệt về chính trị, văn hóa xã hội, luật pháp... càng trở nên sâu sắc. Thứ ba: Liên quan đến những nguyên nhân trên điều kiện cơ bản cho liên kết kinh tế khu vực là các nước tham gia vào quá trình hợp tác phải thu được lợi ích như nhau. Câu hỏi được đặt ra là điều này có thể xảy ra khi các nước đang ở những trình độ, giai đoạn phát triển khác nhau? Từ những khó khăn trên chúng ta lại nhìn ra một khó khăn tiếp theo trong tiến trình hình thành đồng tiền chung ASEAN đó là chính sách tiền tệ. Xét ở giai đoạn Đông Nam á hiện nay khó có một ngân sách tập trung nào ở mức liên minh để thực hiện các vụ chuyển tiền mặt trên phạm vi rộng xuyên biên giới. Thêm vào đó các nước ASEAN lại muốn đặt giới hạn đối với mức thâm hụt tài chính mà mỗi nước có thể chịu đựng được. Vì nó sẽ giúp các nước hạn chế phạm vi dùng chính sách tài chính quốc gia để đối phó với các cơn sốc xảy ra ở mỗi nước trong khi đó sử dụng đồng tiền chung thì rủi ro kinh tế ở nước này sẽ ảnh hưởng đến kinh tế nước khác, như vậy đòi hỏi ở đây là ASEAN không chỉ nâng cao chính sách và cơ cấu cho phép huy động cả nguồn vốn và sức lao động qua biên giới mà còn đòi hỏi sự đoàn kết về chính trị giữa các quốc gia liên minh. Để hiểu thêm về vấn đề này chúng ta hãy cùng điểm qua vài mốc thời gian của các nươc thành viên gia nhập ASEAN . ASEAN ra đời được hơn 35 năm gồm 5 nước ban đầu là Thái Lan, Indonexia, Malaixia, Philipin và singap._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29174.doc
Tài liệu liên quan