Khả năng áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền trong định giá các Doanh nghiệp ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, tốc độ tăng GDP luôn ở mức cao. Giai đoạn 2005-2010 theo dự đoán, GDP sẽ dao động trong khoảng 8 – 8,5%. Theo xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đã gia nhập WTO hứa hẹn một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Đây cũng là thời điểm bùng nổ của thị trường chứng khoán, nhiều công ty đã niêm yết hoặc có cổ phiếu giao dịch trên các sàn giao dịch, thị trường chứng khoán thực sự trở thành kênh huy động vốn hấp dẫn cho

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Khả năng áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền trong định giá các Doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, nhu cầu cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhu cầu mua bán, sáp nhập, nhu cầu định giá cổ phiếu… đang tăng lên khiến nhu cầu định giá doanh nghiệp trở thành vấn đề cấp thiết. Hiện nay, định giá doanh nghiệp ở Việt Nam được áp dụng chủ yếu hai phương pháp: tài sản ròng và chiết khấu dòng tiền. Trong đó, phương pháp tài sản ròng đang được sử dụng phổ biến, mặc dù phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF) được đánh giá là phương pháp có nhiều ưu điểm nổi trội hơn do tính đến những giá trị kì vọng trong tương lai doanh nghiệp sẽ tạo ra. Nguyên nhân chính là do thị trường Việt Nam còn thiếu cơ sở dữ liệu, thiếu những điều kiện cần thiết để phương pháp chiết khấu dòng tiền được áp dụng hiệu quả. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, phương pháp chiết khấu dòng tiền đã được áp dụng phổ biến. Do vậy, phương pháp này trong tương lai chắc chắn sẽ là phương pháp có tính thực tiễn rất cao ở Việt Nam. Chính vì sự cần thiết nghiên cứu để áp dụng được phương pháp chiết khấu dòng tiền, em đã lựa chọn đề tài: “ Khả năng áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền trong định giá các doanh nghiệp ở Việt Nam”. Đề tài đã trình bày cơ sở lý thuyết của phương pháp chiết khấu dòng tiền, đồng thời minh họa phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp qua ví dụ về công ty cổ phần BIBICA – là một công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thông qua đó, chuyên đề chỉ ra những hạn chế khi áp dụng phương pháp này ở thị trường Việt Nam và một số giải pháp, cũng như kiến nghị để khắc phục, để phương pháp DCF sớm được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp bao gồm 3 phần: Chương 1 – Cơ sở lý thuyết của phương pháp chiết khấu dòng tiền Chương 2 – Áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền trong định giá công ty cổ phần BIBICA Chương 3 – Các hạn chế khi áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền ở Việt Nam và giải pháp khắc phục. CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA PHƯƠNG PHÁP CHIẾT KHẤU DÒNG TIỀN 1.1. Giá trị doanh nghiệp Trong nền kinh tế, doanh nghiệp là chủ thể quan trọng thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Một tổ chức kinh tế được gọi là “doanh nghiệp” khi nó được thừa nhận về mặt pháp luật trên một số tiêu chuẩn nhất định. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được coi là một loại tài sản. Cũng giống như các loại tài sản khác, doanh nghiệp cũng được đem ra mua bán, hợp nhất, chia nhỏ… do đó, doanh nghiệp cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy luật thị trường, quy luật giá trị. Giá cả của doanh nghiệp cũng phải tuân theo quy luật cung cầu, cạnh tranh. Tuy nhiên, khác với các tài sản thông thường, doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp còn là một tổ chức kinh tế, đang thực sự hoạt động. Do vậy, không chỉ gồm các tài sản hữu hình, doanh nghiệp thực sự sở hữu các tài sản vô hình khác như giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh, quyền khai thác, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai… Vì thế, khái niệm giá trị doanh nghiệp phải dựa trên tài sản là doanh nghiệp đang hoạt động, mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp đó không thể tách rời, các yếu tố cấu thành hữu hình và vô hình là một thể thống nhất. Giá trị doanh nghiệp chính là giá trị toàn bộ của một doanh nghiệp: là số tiền mà một doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh. 1.2. Định giá doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm định giá doanh nghiệp Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, mục đích sở hữu doanh nghiệp vì thế cũng là vì mục tiêu lợi nhuận. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư quyết định bỏ vốn là đánh giá hiệu quả hoạt động, đánh giá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai hay chính là việc định giá doanh nghiệp. Đó là quá trình ước tính khoản tiền mà người mua phải trả để họ có được quyền sở hữu, quyền thu lợi từ doanh nghiệp và cũng là ước tính của người bán về khoản tiền thu được khi bán doanh nghiệp của mình. Giá trị của doanh nghiệp là giá trị mà cả người mua và người bán đều chấp nhận được. Khác với tài sản thông thường, doanh nghiệp là một hệ thống phức tạp với nhiều yếu tố cấu thành. Khi xem xét một doanh nghiệp, nhất thiết phải đặt các yếu tố đó trong mối liên hệ với nhau. Chỉ khi nào doanh nghiệp phá sản, thanh lý thì các tài sản mới được đánh giá riêng rẽ, độc lập. Giá trị của các yếu tố cấu thành tài sản của doanh nghiệp luôn thay đổi theo thời gian, ví dụ như giá trị còn lại của tài sản cố định luôn giảm dần, nhưng giá trị thương hiệu có thể tăng lên theo thời gian. Do vậy, có thể định nghĩa như sau: Định giá doanh nghiệp là việc xác định giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai tại một thời điểm nhất định. Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay có thể sử dụng nhiều phương pháp. Phương pháp định giá phải có cơ sở khoa học, chặt chẽ và có thể chấp nhận được vẫn phải dựa trên một trong hai cách tiếp cận là: - Đánh giá giá trị các tài sản và giá trị của yếu tố tổ chức – các mối quan hệ - Lượng hóa các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư. Tiếp cận theo phương pháp nào là tùy thuộc vào điều kiện và mục đích định giá. 1.2.2. Sự cần thiết của định giá doanh nghiệp Nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu định giá doanh nghiệp càng nảy sinh một cách tự nhiên từ nhiều đối tượng trong nền kinh tế. Trên thế giới, xuất phát ban đầu của nhu cầu định giá doanh nghiệp là từ quá trình mua bán, sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Giống như mua bán một mặt hàng bình thường, người ta phải xác định giá trị của nó để có được giá cả phù hợp. Đây là giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, cũng như yêu cầu để tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong môi trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể liên kết với nhau, sáp nhập hoặc chia tách để tận dụng lợi thế của nhau về thị trường, nhân lực, vốn… để vững chắc và lớn mạnh trên thị trường. Giá trị của doanh nghiệp được đánh giá trên một phạm vi lớn có tính đến tất cả các yếu tố tác động tới doanh nghiệp. Vụ mua bán, sáp nhập, chia tách diễn ra dựa trên cơ sở giá trị doanh nghiệp đã thương thuyết giữa các bên. Đặc biệt, trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan trọng để các quốc gia tiến hành chuyển đổi loại hình sở hữu như cổ phần hóa, sáp nhập, hợp nhất, giao bán khoán và cho thuê. Xét sự cần thiết của định giá từ các đối tượng trong nền kinh tế có liên quan đến nhu cầu định giá doanh nghiệp, đó là những nhà đầu tư, người cung cấp, bản thân nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô. - Đối với nhà đầu tư, người cung cấp: Thông tin về giá trị doanh nghiệp cho sự đánh giá tổng quát về khả năng tài chính, uy tín kinh doanh, rủi ro và vị thế tín dụng. Từ đó, nhà đầu tư có quyết định có tiếp tục đầu tư, nhà cung cấp có tiếp tục cung cấp các yếu tố đầu vào, cấp tín dụng cho doanh nghiệp nữa hay không. Giá trị doanh nghiệp quyết định giá cả cổ phiếu trên thị trường. Nếu nhà đầu tư định giá được đúng giá trị của doanh nghiệp thì sẽ thu được lợi suất đầu tư mong muốn. - Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Thông tin về giá trị doanh nghiệp giúp các nhà quản trị phân tích, đánh giá trước khi đưa ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp. Từ giá trị doanh nghiệp của mình, họ sẽ có cơ sở để so sánh giá trị đó với doanh nghiệp khác, từ đó thấy được vị trí và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Quyết định kinh doanh đúng đắn của các nhà quản trị phải dựa trên nhận thức sâu sắc về vị trí và những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp mình. - Đối với các nhà quản lý, hoạch định kinh tế vĩ mô: Trên phương diện quản lý vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức đánh giá tính ổn định của nền kinh tế, của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường… Theo dõi sự biến đổi giá trị doanh nghiệp sẽ rất hữu ích trong việc dự báo sự thay đổi của thị trường. Như vậy, định giá doanh nghiệp đang ngày càng trở nên không thể thiếu trước sự tăng trưởng kinh tế, khi mà số lượng các doanh nghiệp mua bán, sáp nhập, cổ phần hóa đang nhiều dần lên, cùng với nhu cầu thông tin từ nhiều đối tượng trong nền kinh tế. 1.3. Định giá doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền 1.3.1. Định nghĩa phương pháp chiết khấu dòng tiền Nguyên lý của phương pháp chiết khấu dòng tiền là giá trị của một doanh nghiệp bằng tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp không chỉ có ở thời điểm hiện tại mà còn tính đến tài sản có thể sinh ra trong tương lai. Cơ sở của nguyên lý trên dựa trên lý luận cho rằng nhà đầu tư bỏ tiền vào doanh nghiệp là để hưởng lợi nhuận mà doanh nghiệp làm ra. Do đó họ phải tính đến những khoản lợi nhuận có thể thu được trong tương lai. Quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình phát sinh các dòng tiền vào và dòng tiền ra. Trong đó, dòng tiền của doanh nghiệp được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong thời gian tồn tại của doanh nghiệp. Bản chất của hoạt động đầu tư là bỏ vốn trong một khoảng thời gian dài, nhiều rủi ro. Theo nguyên lý giá trị thời gian của tiền, một đồng vốn bỏ ra đều có chi phí cơ hội nhất định, các dòng tiền bằng nhau trong các thời điểm khác nhau sẽ có giá trị khác nhau. Do vậy, giá trị hiện tại của các dòng tiền hiện tại và tương lai được coi là tiêu chuẩn thích hợp để định giá doanh nghiệp. Từ đó, phương pháp chiết khấu dòng tiền có thể định nghĩa như sau: Phương pháp chiết khấu dòng tiền là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp bằng cách chiết khấu các dòng tiền doanh nghiệp sẽ thu được trong tương lai về thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Phương pháp chiết khấu dòng tiền đã xem xét doanh nghiệp trong trạng thái động, xem xét các tài sản trong doanh nghiệp trong một thể thống nhất, cùng nhau tạo nên giá trị của doanh nghiệp. 1.3.2 Các bước thực hiện định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền 1.3.2.1 Bước 1: Đánh giá môi trường và năng lực nội tại của doanh nghiệp Mục tiêu đánh giá: Việc đánh giá các yếu tố môi trường và năng lực nội tại của doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin để xây dựng các giả thuyết về dòng tiền trong tương lai và đánh giá độ rủi ro khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Yêu cầu của đánh giá: Khi đánh giá các yếu tố môi trường bên ngoài có tác động tới doanh nghiệp và các yếu tố thuộc về nội bộ doanh nghiệp phải đạt được các yêu cầu sau: - Chỉ ra được những cơ hội thuận lợi, những nguy cơ đe dọa từ phía môi trường kinh doanh - Xác định được các điểm mạnh, điểm yếu so với các đối thủ cạnh tranh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước sự tác động của các yếu tố môi trường. Phương pháp đánh giá: - Thu thập thông tin: Thông tin được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau: chính sách của Nhà nước, văn bản luật, tạp chí chuyên ngành, các tổ chức chuyên nghiệp, ngân hàng, báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán của doanh nghiệp… - Phương pháp đánh giá thường được sử dụng là phương pháp xếp hạng cho điểm hay còn gọi là phương pháp chuyên gia. Nội dung đánh giá Bước 1 gồm hai phần chính: Phần 1: Đánh giá môi trường bên ngoài doanh nghiệp bao gồm: Môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường ngành mà doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh. Phần 2: Đánh giá môi trường nội bộ của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố về tài sản, uy tín của doanh nghiệp, trình độ quản lý và trình độ của nhân viên, chất lượng của sản phẩm, mạng lưới phân phối… Phần 1: Đánh giá môi trường bên ngoài của doanh nghiệp. i) Môi trường vĩ mô Môi trường kinh tế Doanh nghiệp là một phần trong nền kinh tế do đó bối cảnh kinh tế luôn có tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất, các chỉ số trên thị trường chứng khoán… Sự thay đổi của các yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Môi trường chính trị Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động sản xuất và kinh doanh ổn định trong một môi trường chính trị ổn định. Môi trường chính trị ổn định liên quan mật thiết đến luật pháp, đến các quan điểm của nhà nước và ý thức của người dân. Môi trường kinh tế - chính trị là điều kiện thiết yếu để doanh nghiệp có thể hoạt động. Môi trường văn hóa – xã hội Môi trường văn hóa đặc trưng bởi những quan niệm, lối sống, đạo đức… ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng của dân cư, và sự đón nhận của họ đối với doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Môi trường xã hội thể hiện về mặt dân số, trình độ dân trí, cơ cấu dân số, mật độ, thu nhập bình quân… tác động đến nhu cầu, chiến lược marketing… của doanh nghiệp. Môi trường khoa học công nghệ Tác động của khoa học – công nghệ lên quy trình sản xuất, phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngày nay, yêu cầu của cuộc sống đòi hỏi các sản phẩm phải đa dạng, đảm bảo chất lượng, hình thức. Đây là một thách thức của doanh nghiệp để cạnh tranh, tồn tại phải thích ứng trước những bước phát triển mới của khoa học và công nghệ. ii) Môi trường ngành + Đánh giá cung cầu thị trường Cung cầu của thị trường cho biết độ lớn của thị trường hiện tại và tiềm năng phát triển của thị trường trong tương lai. Cung được xác định dựa trên số lượng các doanh nghiệp trong ngành, số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đang có trên thị trường. Cầu chủ yếu dựa trên nhu cầu của khách hàng đối với loại sản phẩm dịch vụ, khả năng thu nhập và sự sẵn sàng mua dành cho sản phẩm dịch vụ đó. + Phân tích mức độ cạnh tranh trong ngành Mức độ cạnh tranh hiện tại Thị trường không phải là độc quyền, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với những doanh nghiệp khác trong việc chiếm lĩnh thị phần. Đánh giá đối thủ cạnh tranh trên nhiều khía cạnh: số lượng, chất lượng, giá cả của sản phẩm dịch vụ, sự đa dạng sản phẩm, khả năng phát triển của các đối thủ… Từ đó, xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Ảnh hưởng của sự tham gia mới Thêm một tham gia mới, doanh nghiệp sẽ có thêm một đối thủ cạnh tranh. Dựa trên quy mô, xu hướng, tỷ suất lợi nhuận của ngành cho biết mức độ hấp dẫn gia nhập của ngành. Ngành nào có tỷ suất lợi nhuận càng cao, càng có nhiều doanh nghiệp muốn tham gia và sự gia nhập chỉ dừng lại khi thị trường đã bão hòa. Đánh giá sự tham gia mới còn phải tính đến các rào cản gia nhập ngành như: yêu cầu của người tiêu dùng, yêu cầu về công nghệ, vốn… Sự đe dọa của sản phẩm thay thế Nếu có nhiều sản phẩm thay thế và sản phẩm thay thế đang có lợi thế về giá hoặc chất lượng, cầu của sản phẩm dịch vụ sẽ giảm. Sức mạnh của người mua Sức mạnh của người mua được đánh giá dựa trên sở thích của khách hàng và lượng mua sản phẩm, dịch vụ trên một khách hàng. Nếu khách hàng mua một lượng lớn hoặc có ít người mua, doanh nghiệp sẽ bị khách hàng chi phối nhiều hơn. Đôi khi khách hàng tự liên kết với nhau để bảo vệ quyền lợi và chi phối doanh nghiệp. Ảnh hưởng của nhà cung ứng Tính ổn định của nguồn cung và sự chi phối của người cung cấp ảnh hưởng tới mức giá các nguyên liệu đầu vào, tới tính ổn định của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại và trong dài hạn. Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện ở sự khan hiếm của nguồn cung, số lượng và đặc quyền của các nhà cung cấp. Phần 2: Đánh giá môi trường nội bộ của doanh nghiệp Các yếu tố được đánh giá bao gồm 5 nhóm sau: + Cơ sở hạ tầng: là các tài sản của doanh nghiệp gồm có: Quy trình sản xuất Chế độ duy tu bảo dưỡng máy móc, thiết bị Mua và lưu trữ hàng tồn kho Địa điểm sản xuất kinh doanh Hệ thống cung cấp điện, nước Môi trường làm việc dành cho quản lý và người lao động. Đây là các tài sản vật chất thuộc về doanh nghiệp, nó cho biết hiện trạng tài sản, các điều kiện trực tiếp liên quan đến sản xuất kinh doanh sản phẩm dịch vụ, sẽ ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí hoạt động. + Cơ cấu quản lý Hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc Chính sách kinh doanh Bộ máy tài chính kế toán Chuyên gia kỹ thuật Bộ máy quản lý doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vì là cơ sở để quản lý, đưa ra các chiến lược sản xuất, kinh doanh, phân phối phù hợp. Các yếu tố này ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả kinh doanh hiện tại và dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp. + Các nguồn lực nội bộ: Nhân sự Quan hệ với nhà cung cấp Nhân sự là một tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào sở hữu một đội ngũ nhân lực trình độ cao, lành nghề, đáp ứng được yêu cầu của công việc hiện tại và những thay đổi trong tương lai sẽ đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển. Quan hệ với nhà cung cấp ảnh hưởng trực tiếp tới các biến đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. + Sản phẩm và dịch vụ Cơ cấu sản phẩm Đa dạng hóa sản phẩm Nghiên cứu phát triển Sản phẩm và dịch vụ là yếu tố quan trọng để tạo nên giá trị của công ty. Sản phẩm thỏa mãn được yêu cầu khách hàng, thường xuyên cải tiến thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sẽ giữ chân được khách hàng cũ và vươn đến những khách hàng tiềm năng. + Người tiêu dùng/ Khách hàng Thị trường tiêu thụ Nhãn hiệu, hình ảnh của công ty Chiến lược thị trường và thị phần. Tùy theo đặc thù của loại hình doanh nghiệp để xác định các yếu tố thuộc về môi trường nội bộ có khả năng ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó. 1.3.2.2. Bước 2: Tính dòng tiền và Phân tích tài chính a) Phương pháp tính dòng tiền Giá trị của doanh nghiệp luôn bằng giá trị của nợ cộng với giá trị của vốn chủ sở hữu. Hay nói cách khác, dòng tiền nhận được từ các tài sản của doanh nghiệp phải bằng dòng tiền của các chủ nợ cộng với dòng tiền của các chủ sở hữu. Dưới đây là ví dụ minh họa dòng tiền của doanh nghiệp và dòng tiền của chủ nợ, chủ sở hữu. Dòng tiền của doanh nghiệp Dòng tiền hoạt động 238 Dòng tiền đầu tư vào TSCĐ -173 Chênh lệch TSLĐ ròng -23 Tổng 42 Dòng tiền của các nhà đầu tư vào doanh nghiệp Chủ nợ (Trả lãi + Trả gốc - Huy động nợ mới) 36 Chủ sở hữu (Trả cổ tức + Mua lại cổ phiếu - Phát hành cổ phiếu mới) 6 Tổng 42 Cách tính dòng tiền của doanh nghiệp: Dòng tiền của doanh nghiệp gồm 2 bộ phận: Dòng tiền hoạt động và Dòng tiền đầu tư. i) Dòng tiền hoạt động Dòng tiền hoạt động: là dòng tiền được tạo ra từ các hoạt động kinh doanh, bao gồm bán hàng hóa và dịch vụ. Dòng tiền hoạt động bằng Lợi nhuận sau thuế cộng với Khấu hao TSCĐ vì khấu hao là chi phí nhưng không phải là thực chi, do vậy chi phí khấu hao được cộng trở lại dòng tiền của doanh nghiệp. Dòng tiền hoạt động = NOPLAT + Khấu hao NOPLAT là Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh sau thuế. NOPLAT được tính bằng hai cách: Cách 1: Từ trên xuống (Top down) Xuất phát từ doanh thu thuần, NOPLAT được tính bằng Doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh trừ đi Chi phí, Khấu hao TSCĐ và Thuế TNDN phải nộp tương ứng. NOPLAT = EBIT – Thuế TNDN Thuế TNDN chỉ tính đối với phần thuế doanh nghiệp đã nộp, không tính phần thuế trả chậm vì thuế trả chậm là khoản phải nộp chưa xuất quỹ. Cách 2: Từ dưới lên (Bottom up) Xuất phát từ lợi nhuận ròng, cộng thêm các khoản Tăng thuế trả chậm, tăng dự phòng khác, khấu hao tài sản vô hình, thu nhập hoạt động khác sau thuế. ii) Dòng tiền đầu tư Dòng tiền đầu tư là dòng tiền từ hoạt động đầu tư bao gồm có đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư vào tài sản lưu động ròng. + Đầu tư vào tài sản cố định = Bán TSCĐ – Mua TSCĐ Đầu tư vào TSCĐ = (GTCL TSCĐt - GTCL TSCĐt+1) – Khấu hao TSCĐt + Thông thường, bên cạnh việc đầu tư vào TSCĐ, doanh nghiệp còn phải đầu tư vào TSLĐ ròng. Ví dụ như đầu tư vào tiền để đáp ứng nhu cầu chi trả, đầu tư vào tồn kho ban đầu cần thiết để bắt đầu sản xuất và đầu tư vào các khoản phải thu trong lúc bán hàng chưa thu được. Lượng đầu tư này được tài trợ bằng các khoản nợ ngắn hạn, do đó doanh nghiệp chỉ phải đầu tư vào khoản vốn lưu động ròng – là chênh lệch giữa tài sản lưu động ngắn hạn trừ đi nợ ngắn hạn. Đối với dự án, đầu tư vào vốn lưu động ròng được coi là đầu tư ban đầu, sẽ được thu hồi khi dự án kết thúc. b) Phân tích tài chính Mục đích của phân tích tài chính là để xác định tình hình tài chính của công ty, sức mạnh tài chính của công ty trong mối tương quan với các công ty khác. Từ đó, làm cơ sở cho những dự báo tương lai. Sử dụng các tỷ số trong phân tích, ta có các nhóm tỷ số sau: + Các tỷ số về khả năng thanh toán Các tỷ số về khả năng thanh toán cho biết khả năng thanh toán của doanh nghiệp Tỷ số thanh toán hiện hành Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn = Tỷ số thanh toán nhanh TSLĐ – Tồn kho Nợ ngắn hạn = + Các tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau: tài sản lưu động, tài sản cố định. Không chỉ đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn quan tâm tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ số vòng quay hàng tồn kho Doanh thu thuần Hàng tồn kho = Kỳ thu tiền bình quân Các khoản phải thu Doanh thu bình quân một ngày = Hiệu suất sử dụng TSCĐ Doanh thu thuần Giá trị tài sản cố định = Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản Doanh thu thuần Tổng tài sản = + Các tỷ số về khả năng cân đối vốn Các tỷ số này cho biết mức độ sử dụng nợ và trả nợ của doanh nghiệp, từ đó cho biết hiệu quả của đòn bẩy tài chính và khả năng gặp rủi ro khi sử dụng nợ. Tỷ số nợ Nợ Tổng tài sản = Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay EBIT Chi phí trả lãi = + Các tỷ số về khả năng sinh lời. Tỷ số lợi nhuận thuần trên doanh thu Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần = Tỷ số lợi nhuận thuần trên tổng tài sản (ROA) Lợi nhuận thuần Tổng tài sản = Tỷ số lợi nhuận trên vốn cổ phân thường (ROE) Lợi nhuận thuần Vốn cổ phần thường = Trên đây là cách tính các tỷ số tài chính. Các tỷ số này là cơ sở để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, đồng thời đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành, so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác. 1.3.2.3. Bước 3: Dự báo tình hình tài chính Trong bước này, phải xem xét các kế hoạch sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư, đưa ra các giả thiết có thể về sự phát sinh các dòng tiền. Đồng thời, kết hợp với phân tích môi trường vĩ mô, môi trường ngành, môi trường nội bộ và phân tích tài chính từ trước để dự báo xu hướng phát triển của doanh nghiệp, xây dựng dự báo Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kết toán trong một thời kỳ nhất định. Từ Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kế toán, tính toán các dòng tiền thuần tự do của doanh nghiệp. 1.3.2.4. Bước 4: Xác định lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu (hay còn gọi là chi phí vốn bình quân gia quyền) là tỷ lệ chiết khấu được sử dụng để chuyển luồng thu nhập tự do của doanh nghiệp dự tính sẽ thu được trong tương lai về giá trị hiện tại của nó. Theo nguyên tắc thời gian của tiền, lãi suất chiết khấu đã tính đến những yếu tố rủi ro liên quan. Lãi suất chiết khấu dòng tiền phản ánh chi phí cơ hội đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp gồm hai phần: Nợ và Vốn chủ sở hữu. + Khi vốn đầu tư là Nợ: Lãi suất chiết khấu được sử dụng để chiết khấu các dòng tiền của dự án là chi phí nợ sau thuế. Chi phí nợ là lãi suất trên phần nợ mới của doanh nghiệp. Lãi suất chiết khấu = Kd (1-t) Trong đó: Kd: Chi phí của nợ vay t: Thuế TNDN + Khi vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu. Khi doanh nghiệp có dư tiền, có hai tình huống xảy ra: Doanh nghiệp có thể trả số tiền đó dưới dạng cổ tức, cổ đông có thể tái đầu tư cổ tức nhận được vào một tài sản tài chính cùng mức rủi ro. Doanh nghiệp sử dụng số tiền này để tái đầu tư và trả các dòng tiền tương lai dưới dạng cổ tức. Xét về phía cổ đông sẽ thích hình thức nào thu được lợi tức kỳ vọng cao nhất. Do vậy, doanh nghiệp chỉ có thể tái đầu tư vào dự án có lợi tức kỳ vọng lớn hơn lợi tức kỳ vọng của các tài sản tài chính có cùng mức rủi ro. Lợi tức kỳ vọng chính là chi phí của vốn chủ sở hữu. Vận dụng mô hình CAPM: Lợi tức kỳ vọng của cổ phiếu được xác định: Re= RF + Beta (RM – RF) Trong đó: RF: Lợi tức phi rủi ro RM – RF: Phần bù rủi ro thị trường, là chênh lệch giữa lợi tức kỳ vọng của danh mục thị trường và lợi tức phi rủi ro. Beta: Hệ số Beta của cổ phiếu Mô hình định giá cổ tức: Giá trị hiện tại (P) của các khoản thanh toán cổ tức kỳ vọng của doanh nghiệp được mô tả như sau: P = + + … + + …. rS là lợi tức yêu cầu của các cổ đông và chính là chi phí vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Nếu cổ tức tăng trưởng với một tỷ lệ không đổi g thì phương trình trên có thể thu gọn thành: P = => = + g được gọi là tỷ lệ lợi tức cổ phần trong năm tới Chi phí vốn chủ sở hữu ở trên là chi phí của lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư. Trong trường hợp doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu mới để tài trợ thì phải tính tới chi phí phát hành F: = + g + Khi vốn đầu tư bao gồm cả Nợ và Vốn chủ sở hữu. Chi phí vốn bình quân được xác định trên cơ sở trọng số của chi phí vốn chủ sở hữu và chi phí nợ, do vậy nó được gọi là chi phí vốn bình quân gia quyền của vốn WACC. Công thức xác định chi phí vốn bình quân gia quyền: Trong đó: WACC: lãi suất chiết khấu Kd: Chi phí của nợ vay Ke: Chi phí vốn cổ phần ( rS ) t: Thuế thu nhập doanh nghiệp D, E: Giá trị thị trường của nợ và vốn chủ sở hữu 1.3.2.5. Bước 5: Tính toán giá trị doanh nghiệp và Kết luận định giá Dựa trên Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kế toán được dự báo trong một giai đoạn sau thời điểm định giá để tính toán dòng tiền thuần tự do. Giả định rằng sau giai đoạn này, hoạt động của doanh nghiệp đã ổn định, công suất hoạt động được khai thác ở mức tối đa. Doanh nghiệp sẽ không đầu tư thêm mà chủ yếu tái đầu tư từ lợi nhuận và tài sản cố định và lưu động ở mức hợp lý để duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Dòng tiền mà doanh nghiệp tạo ra trong giai đoạn này được gọi là Giá trị của công ty trong giai đoạn trung hạn (Continuing Value). Continuing Value = Trong đó: T: số năm được dự báo chi tiết NOPLAT: lợi nhuận thuần sau thuế điều chỉnh ROIC: tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư g: tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư WACC: chi phí vốn bình quân gia quyền Các dòng tiền ở trên được chiết khấu về thời điểm xác định giá trị, cộng dồn cho kết quả giá trị doanh nghiệp tại thời điểm đó. 1.3.2.6. Bước 6: Phân tích độ nhạy cảm của giá trị định giá với các thay đổi. Phân tích về mặt lý thuyết cũng như thực tế cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và tác động đến dòng tiền của doanh nghiệp. Các yếu tố tác động đến dòng tiền được thiết lập trên cơ sở của sự phân bố xác suất và tính kỳ vọng toán chứ không phải được biết chắc chắn.Vì vậy, khi một biến quan trọng thay đổi sẽ dẫn đến dòng tiền thay đổi rất lớn, khi đó giá trị doanh nghiệp sẽ thay đổi theo. Trong bước này phải đưa ra các trường hợp làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện những ảnh hưởng đó qua các con số, trình bày những thay đổi của các kết quả được tính toán trong từng trường hợp, đồng thời chỉ ra điểm hòa vốn. 1.3.3 Đánh giá phương pháp chiết khấu dòng tiền 1.3.3.1 Một số phương pháp định giá doanh nghiệp khác Phương pháp tài sản ròng Phương pháp này được xây dựng trên cơ sở các nhận định: Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại hàng hóa thông thường Hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành trên cơ sở một lượng tài sản có thực thuộc về doanh nghiệp. Theo phương pháp này, giá trị doanh nghiệp bằng tổng giá trị thị trường của tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Phương pháp định giá tài sản thuần xem xét doanh nghiệp trong một trạng thái tĩnh. Các tài sản được xác định giá trị riêng lẻ mà không tính đến mối tương quan giữa chúng. Giống như nhìn thấy cây mà không thấy rừng, các tài sản để riêng có giá trị nhỏ nhưng khi hợp lại thành một thể thống nhất có thể có giá trị rất lớn. Phương pháp này chỉ xét các tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại, không đánh giá triển vọng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời bỏ qua các yếu tố phi vật chất nhưng lại có giá trị thực sự, có thể đóng góp rất lớn vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp như: trình độ quản lý, uy tín, thương hiệu… Phương pháp định lượng Goodwill Cơ sở của phương pháp xuất phát từ quan điểm cho rằng doanh nghiệp là một tổ chức có tài sản bao gồm cả hữu hình và vô hình. Ngoài việc sử dụng phương pháp tài sản ròng để đánh giá giá trị hữu hình, phương pháp này còn xác định giá trị vô hình, do đó có thể bù trừ sai sót xảy ra khi sử dụng phương pháp tài sản ròng. Giá trị mà các tài sản vô hình sinh ra được gọi là những khoản siêu lợi nhuận. Tuy nhiên, ngoài những hạn chế khi sử dụng phương pháp tài sản ròng, phương pháp này còn có những hạn chế riêng. Đó là trong cơ chế thị trường, tác động của các quy luật cạnh tranh, quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ làm xói mòn tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp khó có thể duy trì lợi nhuận một cách lâu dài. Các tác động bên ngoài sẽ có nguy cơ làm mất siêu lợi nhuận của doanh nghiệp và rất khó dự đoán. Phương pháp sử dụng chỉ số PER Phương pháp định giá này được dựa trên nguyên lý “ Hai doanh nghiệp giống nhau phải có giá trị giống nhau”. Nếu hai doanh nghiệp có quy mô giống nhau, cùng hoạt động trong một môi trường kinh doanh cụ thể thì phải có giá trị tương đương nhau. Là một phương pháp đơn giản, phương pháp cho phép ước lượng nhanh chóng về giá trị doanh nghiệp, được sử dụng phổ biến ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, phương pháp định giá theo tỷ số P/E là một phương pháp đòi hỏi điều kiện về thị trường chứng khoán hoàn hảo, tức là phải thỏa mãn 5 điều kiện: Có vô số người bán và người mua Các loại chứng khoán có thể thay thế được cho nhau Chứng khoán và thông tin được lưu thông tự do Việc mua bán chứng khoán có thể diễn ra bất kỳ không gian và thời gian nào Mọi thành viên tham gia thị trường đều nắm và tuân thủ các điều kiện giao dịch mua bán chứng khoán. Phương pháp này cũng k._.hông đưa ra được những cơ sở để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá về khả năng tăng trưởng và rủi ro tác động tới giá trị doanh nghiệp. 1.3.3.2 Ưu và nhược điểm của phương pháp chiết khấu dòng tiền Ưu điểm - Khác với phương pháp định giá tài sản thuần xem xét doanh nghiệp trong một trạng thái tĩnh, các tài sản được xác định giá trị riêng lẻ mà không tính đến mối tương quan giữa chúng. Phương pháp chiết khấu dòng tiền đã tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai dựa trên các dự báo về thu nhập hay tỷ lệ cổ tức mà doanh nghiệp phải chi trả. Do đó, doanh nghiệp được xem xét trong trạng thái động, tính toán tất cả các yếu tố tác động đến giá trị doanh nghiệp: môi trường vĩ mô, môi trường vi mô từ đó tác động đến doanh thu, chi phí, thuế thu nhập, vốn đầu tư, chu kỳ đầu tư, lãi suất chiết khấu… - Tùy từng góc nhìn của nhà đầu tư, giá trị doanh nghiệp có thể khác nhau. Nhà đầu tư mua doanh nghiệp để cải tổ doanh nghiệp theo những dự án, những ý tưởng của mình. Do vậy, những triển vọng, dự án đầu tư bổ sung đối với doanh nghiệp của từng nhà đầu tư là khác biệt làm cho giá trị doanh nghiệp không giống nhau. Giá trị doanh nghiệp có thể thay đổi rất lớn tùy theo những trù định của nhà đầu tư. - Định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền thực chất còn là sự lựa chọn phương án đầu tư tối ưu. Giá trị doanh nghiệp được tính toán sẽ là mức giá cao nhất mà nhà đầu tư có thể trả bởi vì mức giá đó đã phản ánh chi phí cơ hội đối với người mua, thể hiện lợi ích tối đa mà doanh nghiệp có thể đem lại theo những dự kiến của nhà đầu tư. Nếu tham gia đầu thầu, giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp DCF sẽ là giới hạn để bỏ thầu. - Quan niệm về dòng tiền cho phép các chuyên gia đánh giá tránh được một vấn đề phức tạp là phải điều chỉnh các số liệu kế toán phản ánh đúng thời điểm phát sinh các khoản tiền, không phải tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản và xác định giá trị của từng tài sản riêng lẻ. Nhược điểm Hạn chế lớn nhất của phương pháp xuất phát từ đặc thù của phương pháp chiết khấu dòng tiền bởi người ta phải tiến hành dự báo các luồng tiền trong tương lai. Để xác định được chính xác, phù hợp giá trị của doanh nghiệp, các dự báo phải chính xác tương đối. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi những sự kiện bất ngờ xảy ra trong tương lai. - Để thực hiện được phương pháp này yêu cầu người đánh giá phải có năng lực chuyên môn cao vì độ chính xác của phương pháp phụ thuộc khá nhiều vào kinh nghiệm và trình độ của người định giá. - Phương pháp này chỉ áp dụng được đối với doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh rõ ràng và khả thi. Đối với những doanh nghiệp nhỏ không có hoặc chiến lược kinh doanh không rõ ràng, hoặc môi trường kinh doanh quá rủi ro cũng rất khó có thể sử dụng phương pháp này để có được kết quả định giá chính xác. - Các số liệu thống kê trong ngành phải sẵn có trên thị trường làm cơ sở để so sánh và dự báo. Hệ số rủi ro (β) của từng ngành phải được các tổ chức tín nhiệm công bố. Các cổ phiếu niêm yết là những cổ phiếu đại diện cho ngành, là cơ sở tham chiếu trong quá trình định giá. 1.3.3.3 Khả năng áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền Áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền cần dựa trên các yếu tố sau: - Mục đích định giá - Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp - Sự ồn định của thu nhập và các dòng tiền trong tương lai - Sự Sự sẵn có về số liệu thống kê thị trường Mục đích định giá Phương pháp chiết khấu dòng tiền áp dụng trong trường hợp nhà đầu tư muốn đầu tư lâu dài vì các nhà đầu tư kì vọng vào thu nhập thu được trong tương lai của doanh nghiệp. Nếu người mua mua doanh nghiệp với mục đích đầu tư lâu dài thì sẽ quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai. Còn đối với người bán, nếu muốn tìm kiếm các khoản đầu tư dài hạn, muốn tìm đối tác chiến lược để tranh thủ sự đầu tư và ảnh hưởng của đối tác đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai thì đương nhiên sẽ quan tâm đến các yếu tố sinh lợi trong tương lai. Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ định giá doanh nghiệp theo phương phấp chiết khấu dòng tiền để xác định khả năng chi trả lãi, gốc cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi dòng thu nhập trong tương lai không đủ để chi trả lãi và gốc cho ngân hàng hoặc để thế chấp, cầm cố tài sản của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ sử dụng phương pháp tài sản ròng hoặc phương pháp nào đó khác. Trong trường hợp người mua chỉ quan tâm đến doanh nghiệp với mục đích chỉ để bán những tài sản hiện có hoặc cả người bán, người mua đều không hề có ý định tiếp tục vận hành, đầu tư hoặc trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp không đem lại lợi nhuận thì không thể sử dụng phương pháp DCF. Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể sử dụng chiết khấu dòng tiền. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, công nghiệp, thương mại… giá trị doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở tài sản thì có thể sử dụng phương pháp tài sản ròng. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực giá trị tài sản vật chất không nhiều như tài chính, bảo hiểm, tư vấn, kiểm toán… thì phương pháp tài sản ròng sẽ bộc lộ nhiều thiếu sót, bắt buộc chỉ có định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền mới khắc phục được. Sự ổn định của thu nhập và dòng tiền trong tương lai Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không chắc chắn trong tương lai, không có khả năng dự báo được chính xác kết quả hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định thì kết quả định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền sẽ không đáng tin cậy. Ví dụ như đối doanh nghiệp chế tạo phần mềm ở Việt Nam gặp phải khó khăn lớn khi Việt Nam là một quốc gia có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm lớn nhất trên thế giới, năm 2005 là 90% với giá trị vi phạm 38 triệu USD, kinh doanh trong lĩnh vực phần mềm do vậy hàm chứa rất nhiều rủi ro. Vì phương pháp DCF giả định doanh nghiệp là một sự đầu tư luôn tiếp diễn đến vô cùng, nên đối với những doanh nghiệp đang trong tình trạng thua lỗ, dòng tiền trong tương lai có khả năng bị âm làm cho giá trị chiết khấu bị âm. Trường hợp này nên sử dụng phương pháp định giá theo tài sản hoặc một phương pháp khác. Sự sẵn có về số liệu thống kê thị trường Để tính được rủi ro thị trường, hệ số rủi ro Beta của cổ phiếu phải dựa trên cơ sở dữ liệu thị trường, được thống kê đầy dủ. Hơn nữa, chỉ khi thị trường phát triển cao, chứng khoán trên thị trường chứng khoán đủ đại diện cho toàn thị trường thì các thông số tính toán được mới đảm bảo độ chính xác. Đồng thời, các số liệu về môi trường vĩ mô và môi trường ngành phải đầy đủ và đáng tin cậy, đủ để làm cơ sở dự báo tiềm năng của thị trường. Trong các điều kiện không đầy đủ và hoàn hảo, khi định giá doanh nghiệp không nhất thiết là chỉ sử dụng một phương pháp chiết khấu dòng tiền, mà có thể áp dụng nhiều phương pháp để đưa ra được giá trị thích hợp. CHƯƠNG 2 – ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾT KHẤU DÒNG TIỀN TRONG ĐỊNH GIÁ CÔNG TY CỔ PHẦN BIBICA 2.1 Giới thiệu tổng quan về công ty 2.1.1 Thông tin sơ lược về BIBICA Tên giao dịch đầy đủ bằng tiếng Việt: Công ty cổ phần Bibica Tên giao dịch đối ngoại: Bibica Confectionary Corporation Tên viết tắt: BIBICA Điện thoại: (84-61)836576 – 836240 Fax: (84-61) 836950 Website: www.bibica.com Trụ sở chính: Khu Công nghiệp Biên Hòa I, thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai. 2.1.2 Lịch sử quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hòa được thành lập ngày 01/12/1998 theo quyết định số 234/1998/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ từ việc cổ phần hóa 03 phân xưởng: bánh, kẹo, nha thuộc công ty Đường Biên Hòa. Theo giấy phép kinh doanh số 059167 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Nai cấp ngày 16/01/1999, ngành nghề kinh doanh chính của công ty là: sản xuất, kinh doanh các sản phẩm đường, bánh kẹo, nha, rượu (nước uống có cồn). Các mốc phát triển nổi bật của CTCP Bánh kẹo Biên Hòa Năm 1998 Công ty Cổ phần Bánh kẹo Biên Hoà được thành lập vào tháng 12/1998 với vốn điều lệ 25 tỷ đồng. Năm 2001 Sau hơn hai năm hoạt động, tháng 03/2001, công ty tăng vốn điều lệ từ 25 tỷ đồng lên 35 tỷ đồng từ vốn tích lũy, sau đó tiếp tục nâng vốn điều lệ lên 56 tỷ đồng . Tháng 11/2001, Công ty chính thức trở thành thành viên thứ 9 niêm yết trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2002 Tháng 04/2002, Nhà máy Bánh kẹo Biên Hoà II tại Hà Nội với vốn đầu tư 24 tỷ đồng đi vào hoạt động. Công ty tiếp tục đầu tư vào dây chuyền Chocolate, snack, kẹo mềm.. Năm 2003 BIBICA bắt đầu triển khai Hợp đồng Hợp tác kinh doanh 12 tháng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia trong việc nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm cho bà mẹ có thai, cho trẻ sơ sinh và cho người ăn kiêng. Năm 2005 Công ty vẫn tiếp tục đầu tư vào dây chuyền sản xuất, đồng thời bổ sung ngành nghề kinh doanh, triển khai các sản phẩm bột ngũ cốc, bột dinh dưỡng, nước giải khát, các sản phẩm chức năng, hợp tác sản xuất với Công ty Cổ phần Công nghiệp Thực phẩm Huế. Năm 2006 Xây dựng hệ thống nhà máy mới tại khu công nghiệp Mỹ Phước thuộc tỉnh Bình Dương. Bibica đầu tư xây dựng phân xưởng kẹo cao cấp đạt tiêu chuẩn HACCP, dây chuyền kẹo cao cấp để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và phục vụ xuất khẩu. Năm 2007 Với mong muốn ngày càng trở nên gần gũi và năng động hơn trong mắt người tiêu dùng, Công Ty Cổ phần Bánh Kẹo Biên Hòa chính thức đổi tên thành "Công Ty Cổ Phần Bibica" kể từ ngày 17/1/2007. Từ năm 1997 đến nay, liên tục 10 năm liền Bibica được bình chọn “Hàng Việt Nam chất lượng cao”. Cùng với việc khẳng định vị thế của một thương hiệu mạnh trong nước, Bibica từng bước xúc tiến quảng bá sản phẩm bánh kẹo ra nước ngoài và trong năm 2006 đã thực hiện kim ngạch xuất khẩu 500 USD sang 20 nước với các loại bánh kẹo phong phú về mẫu mã, phù hợp với các đối tượng tiêu dùng và đạt chất lượng về an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong năm 2006, doanh thu của Bibica đạt hơn 340 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2005. 2.1.3 Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức của công ty hiện nay bao gồm: Trụ sở công ty và 4 chi nhánh tại các thành phố lớn: Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hà Nội và hai nhà máy trực thuộc Biên Hòa 1 và Biên Hòa 2. Bộ máy quản lý - Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan quyết định cao nhất, đưa ra những chính sách về chiến lược phát triển và bầu ra bộ máy quản lý cao nhất. - Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền quyết định nhân danh công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông. - Giám đốc công ty: điều hành hoạt động hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị về mọi hoạt động kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh. - Khối hành chính nhân sự: quản lý hoạt động quản trị nhân lực, hành chính, đội xe. - Khối thị trường: quản trị marketing, nhãn hàng, thiết kế bao bì, mẫu mã. - Khối bán hàng: quản lý hoạt động hệ thống phân phối, xuất khẩu, các chi nhánh - Khối Tài chính – Kế toán: hạch toán kế toán các nghiệp vụ, phân tích tình hình tài chính, lập dự toán ngân sách, tìm nguồn tài trợ… - Khối mua hàng: cung ứng vật tư, nguyên vật liệu. - Khối Nghiêm cứu phát triển: nghiên cứu cải tiến chất lượng, nghiên cứu sản xuất các sản phẩm mới. - Khối sản xuất: quản lý hệ thống chất lượng, lập kế hoạch sản xuất, quản lý hoạt động sản xuất. - Khối kỹ thuật: Quản lý thiết bị, máy móc, nguồn nước, nguồn điện… Sơ đồ 2.1 Sơ đồ bộ máy quản lý 2.2 Cơ sở lựa chọn phương pháp, Mục đích định giá, các giả thiết Cơ sở lựa chọn phương pháp chiết khấu dòng tiền Công ty cổ phần Bibica là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có uy tín lâu năm trong ngành bánh kẹo. Là một trong những doanh nghiệp niêm yết sớm nhất trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, do vậy, BIBICA có thông tin sẵn có và minh bạch, đồng thời có chiến lược kế hoạch kinh doanh rõ ràng trong các năm tới là một thuận lợi để sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền. Nếu sử dụng phương pháp tài sản ròng, là một doanh nghiệp sản xuất Bibica có khối lượng tài sản hữu hình rất lớn, tuy nhiên để xác định được giá trị thị trường của các tài sản này rất khó khăn vì công ty có rất nhiều dây chuyền đã sử dụng thời gian dài, hiện không bán trên thị trường. Hơn nữa, là một công ty bánh kẹo có uy tín lâu năm trên thị trường, cùng với các sản phẩm có ích cho sức khỏe, BIBICA đã có được thương hiệu lớn, với mạng lưới nhà cung cấp và một số khách hàng lâu năm. Do vậy, sẽ có sự thiếu hụt lớn khi sử dụng phương pháp tài sản ròng. Dựa trên sự sẵn có của thông tin, bản chất của ngành và lĩnh vực kinh doanh, tính chất dòng tiền của công ty, mục đích định giá là để đánh giá tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai, do vậy phương pháp DCF áp dụng phù hợp trong trường hợp này. Mục đích định giá BIBICA Mục đích của định giá BIBICA trong bài viết này chỉ mang tính chất minh họa cho cách thức áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền trong thực tế. Tuy nhiên, tất cả các thông tin và dữ liệu sử dụng trong bài đều là dữ liệu có thật, được lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Kết quả định giá có thể được sử dụng cho mục đích góp vốn liên doanh, mua bán sáp nhập… Đồng thời, giá trị cổ phiếu được tính toán là giá trị tham khảo cho giá cổ phiếu BBC trên thị trường chứng khoán. Hạn chế và giả thiết - Do hạn chế về nguồn thông tin được cung cấp, giả thiết rằng tất cả các thông tin trong Bản cáo bạch năm 2006 (do công ty chứng khoán Vietcombank thực hiện) là chính xác hoàn toàn. - Do các số liệu thống kê về thị trường không sẵn có nên giá trị vốn chủ sở hữu và vốn vay khi tính lãi suất chiết khấu được lấy theo giá trị sổ sách kế toán. 2.3 Định giá công ty theo phương pháp chiết khấu dòng tiền 2.3.1 Phân tích thị trường 2.3.1.1 Phân tích môi trường kinh tế vĩ mô a) Tốc độ tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế là một biến quan trọng ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp. Kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ tác động mọi mặt đến nền kinh tế, đến cơ hội kinh doanh, đến doanh thu, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp. Việt Nam được coi là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới. Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á năm 1997, tốc độ tăng trưởng GDP bị giảm từ 8.5% xuống 4.8% năm 1999, kinh tế Việt Nam đã hồi phục trong giai đoạn 2001-2005 với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 7.5%/năm. Đặc biệt năm 2005, GDP tăng 8.5%, mức cao nhất trong vòng 8 năm qua (1998-2005).. Theo các chuyên gia kinh tế dự báo, trong năm 2006- 2010 tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Việt Nam là 8- 8.5%. Năm 2007, mục tiêu tăng trưởng của kinh tế Việt Nam là 8.5%, GDP đạt 70 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 820USD/năm. Biểu đồ 2.2 Tốc độ tăng trưởng kinh tế (2000- 2007f) (Nguồn: Tổng cục thống kê) Trong bảng dưới đây, có thể thấy ngành công nghiệp – xây dựng, đặc biệt là ngành công nghệ chế biến có tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định qua các năm. Bảng 2.3 Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005 Tốc độ tăng GDP 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 7,51 Công nghiệp – xây dựng 10,39 9,48 10,48 10,22 10,65 10,24 Công nghiệp chế biến 11,35 11,60 11,53 10,86 13,14 11,70 Nguồn: Tổng cục Thống kê và Viện quản lý Kinh tế Trung Ương b) Cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế được chia làm ba bộ phận chính: công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp, dịch vụ . Tỷ trọng các ngành thay đổi theo xu hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ. Cụ thể ngành nông nghiệp tỷ trọng giảm từ 24.5% năm 2000 xuống còn 19% năm 2005, tỷ trọng ngành dịch vụ ổn định 39%, ngành công nghiệp tỷ trọng tăng từ 36.7% năm 2000 lên 42% năm 2005. Biểu đồ 2.4 Tỷ trọng đóng góp các ngành vào GDP 24.5% 39% 36.7% 19% 39% 42% Nông nghiệp Dịch vụ Công nghiệp 2000 2005 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Trong những năm vừa qua, tăng trưởng sản lượng công nghiệp ổn định 15,4%/năm, cao hơn 2,5% so với kế hoạch, giá trị sản lượng công nghiệp tăng trung bình 10%/năm. Khu vực công nghiệp đóng góp 60% tổng giá trị xuất khẩu, trong đó cao nhất là dệt may, dầu thô, da giầy và hàng nông sản đã qua chế biến. c) Dân số Việt Nam Dân số ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô thị trường. Dân số Việt Nam tăng 27%, từ 65 triệu người năm 1990 lên 83 triệu người năm 2005. Tổng dân số ước tính cho năm 2015 là hơn 94 triệu người, tăng 44% so với năm 1990 và khoảng 21% so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng dân số được dự báo ổn định 1,2% mỗi năm. Biểu đồ 2.5 Dự báo dân số 78 84 90 96 102 2000 2005 2010f 2015f 2020f Dân số (triệu người) Nguồn: Niên giám thống kê - Cơ cấu dân số: Năm 2005, Việt Nam có dân số 83 triệu người, trong đó 39% dân số dưới 16 tuổi, 16% dân số trong độ tuổi 16-24, 45% dân số trên 24 tuổi. Cơ cấu tuổi có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tiêu dùng bánh kẹo, giảm dần theo tuổi. Với quy mô lớn, kết cấu dân số trẻ, Việt Nam có một thị trường tiềm năng đối với hàng hóa và dịch vụ đặc biệt là ngành bánh kẹo. Biểu đồ 2.6 Cơ cấu dân số (2005) < 16 16 - 24 > 24 d) Tình hình vốn đầu tư tại Việt Nam Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2005 đã tăng gần 40%, đạt 5.8 tỷ USD, trong đó đầu tư mới 4 tỷ USD, đầu tư thêm 1.9 tỷ. Gia nhập WTO, Việt Nam đã có nhiều chính sách tự do hóa thương mại, cùng với sự ổn định về chính trị và kinh tế, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm nóng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.Trong giai đoạn 2006 – 2010, tổng giá trị đầu tư dự kiến đạt 38.5% GDP. e) Lạm phát Nguyên nhân gây ra lạm phát chủ yếu do tăng giá dầu mỏ, do tăng lương. Tuy nhiên, với sự kiểm soát của chính phủ và sự tự điều chỉnh của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát qua các năm đang có xu hướng giảm dần. Năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng ở mức 9%, giảm xuống còn 8.4%(2005), 6.6%(2006), dự báo năm 2007 chỉ số giá tiêu dùng sẽ giảm xuống chỉ còn 6%. Lạm phát là nhân tố ảnh hưởng đến giá cả và sức mua của người tiêu dùng. f) Lãi suất Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cũng phải sử dụng vốn vay từ ngân hàng. Yếu tố lãi suất ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Lãi suất còn là nhân tố kinh tế vĩ mô tác động đến nhiều yếu tố khác, đến nhà cung cấp, người tiêu dùng. Lãi suất huy động nội tệ kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng năm 2006 tăng khoảng 0,07-0,1%/tháng (0,84%/năm-1,2%/năm). Lãi suất cho vay ngắn hạn tăng khoảng 0,08-0,1%/tháng (0,96%-1,2%/năm). Lãi suất cho vay trung dài hạn tăng khoảng 0,1%-0,25%/tháng (1,2%-3%/năm). Lãi suất huy động ngoại tệ (USD) tăng mạnh từ mức 2,75%/năm lên 4,2%/năm đối với kỳ hạn 12 tháng. Các kỳ hạn khác cũng biến động tương ứng. Lãi suất cho vay tăng khoảng 2-2,5 điểm phần trăm/năm. g) Thu nhập Tính chung cả nước, thu nhập trung bình tháng của một lao động làm công ăn lương năm 2005 là 973 nghìn VNĐ, tăng 15,14% so với năm 2004; ở khu vực thành thị là 1.028 nghìn VNĐ, tăng 14,34% so với năm 2004; ở khu vực nông thôn là 822 nghìn VNĐ, tăng 18,87% so với năm 2004. Do tốc độ tăng mức thu nhập trung bình tháng của một lao động làm công ăn lương ở khu vực nông thôn nhanh hơn so với ở thành thị nên chênh lệch giữa thu nhập của lực lượng lao động này ở thành thị và nông thôn đã giảm bớt, từ 1,3 lần năm 2004 xuống còn 1,25 lần năm 2005. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu từ 120.000 đồng/ tháng lên 190.000 đồng/ tháng năm 2000 và 450.000 đồng/ tháng năm 2006. h) Lao động và việc làm Quy mô việc làm năm 2005 tiếp tục tăng, cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo chiều hướng tích cực trên nhiều mặt. Tính chung cả nước, tại thời điểm 1/7/2005 có 43.456,6 nghìn người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, tăng 1.145,5 nghìn người hay 2,7% so với thời điểm 1/7/2004. Đây là mức tăng lớn hơn mức tăng trung bình hàng năm giai đoạn 2001-2005 (tăng 1.017,9 nghìn người làm việc/năm với tốc độ tăng 2,5%). Tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể trong giai đoạn 2001 – 2005 2.3.1.2 Thị trường bánh kẹo a) Khái quát về thị trường Triển vọng phát triển của ngành bánh kẹo Trên thế giới, bánh kẹo là ngành có tốc độ tăng trưởng ổn định (khoảng 2%/năm) và là ngành công nghiệp năng động nhất trong ngành công nghiệp thực phẩm thế giới. Đối với Việt Nam, được đánh giá là thị trường lớn thứ 2 khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia), tốc độ tăng trưởng ngành bánh kẹo luôn cao hơn tốc độ trung bình của thế giới, khoảng 7-8%/năm. Trong năm 2005, thị trường bánh kẹo Việt Nam tăng 11% về giá trị và 6% về khối lượng. Cuối năm 2005, sản lượng bánh kẹo là 79.500 tấn và doanh thu từ bánh kẹo là 4.844 tỷ đồng. Thị trường bánh kẹo tại Việt Nam được đánh giá là thị trường đã phát triển do mức tiêu thụ trên đầu người là khá cao. Dân số hơn 80 triệu người, mức độ tiêu thụ trung bình hàng năm khoảng 1kg/ 1 người. Nhìn chung, giá bánh kẹo, đặc biệt là các loại kẹo đường, khoảng $2/kg trong năm 2005. Mức độ tiêu thụ bánh kẹo tại các khu vực ngoại thành (khu vực tập trung hơn 70% dân số) cao, do mức sống đã được cải thiện. Cung Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tăng liên tục khiến cho giá nguyên liệu chế biến bánh kẹo tăng khoảng 10% đến 15% hàng năm. Giá bột mỳ và đường tăng trung bình khoảng 12%. Tương tự, giá điện tăng khoảng 10%. Giá đầu vào khác như lương nhân công, đóng gói cũng tăng. Các loại vật tư có nguồn gốc từ dầu mỏ tăng đột biến như bao bì nhựa (năm 2005, tăng 15 đến 40% so với tháng 01 năm 2004), xăng dầu cũng tăng giá mạnh từ 5 đến 17% đã làm tăng chi phí chuyên chở, do đó, làm giá thành sản phẩm. Một số vật tư có nguồn gốc nhập khẩu khác như lúa làm bột mỳ tăng 35%, dầu thực vật tăng 50%, sữa bột tăng gần 1,5 lần so với đầu năm 2004. Do tăng chi phí sản xuất, các nhà sản xuất bánh kẹo cũng tìm cách tăng giá bán để chi trả chi phí. Một số doanh nghiệp giữ nguyên giá bán nhưng giảm khối lượng sản phẩm trong mỗi gói sản phẩm. Một số doanh nghiệp tăng giá trong các dịp như lễ, tết. Các công ty lớn như Kinh Đô, Công ty Bánh kẹo Biên Hoà (Bibica), và Công ty Bánh kẹo Hải Hà đã thực hiện tăng giá bán. Tuy nhiên, do đặc điểm cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp trong nước, tỷ lệ tăng giá trung bình vẫn nhỏ hơn tốc độ tăng của chi phí sản xuất. Ngoài ra, trên thị trường có rất nhiều bánh kẹo xuất khẩu mẫu mã đẹp, chất lượng tốt. Tuy nhiên, giá của các mặt hàng này khá cao và phần lớn được bán trong các siêu thị. Cầu Mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân Tỷ lệ tiêu thụ bánh kẹo bình quân đầu người Việt Nam hiện nay thuộc loại thấp nhất thế giới, khoảng 1.25 kg/năm. Trong khi mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân ở một số nước như sau: Đan Mạch 16.3 kg/năm, Anh 14.5 kg/năm, Trung Quốc 1.4 kg/năm. Do dân số lớn, và đời sống người dân ngày càng được cải thiện nên nhu cầu của thị trường là rất lớn. Thói quen Mặc dù người Việt Nam vẫn chuộng dùng đồ ăn tươi, tuy nhiên, đồ ăn đóng hộp và đồ ăn nhanh đang dần thông dụng trên thị trường, đặc biệt là tại khu vực thành thị. Chịu ảnh hưởng từ cách sống phương tây và ngày càng có ít thời gian để đi mua sắm và nấu nướng, người dân thành thị sử dụng nhiều các đồ ăn đóng hộp, đồ đã chế biến và đồ ăn nhanh. Đặc biệt, đồ ăn đóng hộp và đồ ăn nhanh đã giúp phụ nữ dành nhiều thời gian hơn cho công việc, do đó, số lượng và chủng loại đồ ăn này ngày càng nhiều trên thị trường, đặc biệt là các loại bimbim, đồ ăn nhẹ, bánh quy, bánh ngọt… Trong tương lai, chủng loại các đồ ăn này sẽ tiếp tục tăng do thay đổi về thói quen và ảnh hưởng từ lối sống công nghiệp. Bảng 2.7 Khối lượng tiêu thụ đồ ăn nhanh trên đầu người năm 1998 và 2003 Gam/đầu người 1998 2003 % tăng trưởng 1998-2003 Chips/crisps 5.1 14.2 177.77 Đồ ăn nhẹ 10.8 28.5 162.66 Bánh quy 241.5 515.0 113.29 Kẹo sôcôla 85.2 100.0 17.39 Kẹo ngọt 395.4 738.0 86.66 Bánh mỳ 2,289.5 2,934.1 28.15 Bánh làm từ bột (vd: bánh bao) 12.7 29.8 134.75 Bánh ngọt 26.2 51.5 96.94 Đồ ăn trẻ em 14.1 31.8 125.12 Bánh mặn 43.0 84.3 96.09 Nguồn: Euromonitor International Sức khoẻ Tại Việt Nam, tỷ lệ béo phì hiện nay ngày càng tăng. Trong năm 2003, khoảng 4% người ở độ tuổi 15 và trên 15 mắc bệnh béo phì. Nguyên nhân của bệnh này một phần là do tâm lý các bậc phụ huynh lo con mình bị thiếu chất, không đủ sức khỏe để học tập, một phần là do trẻ em ngày nay ít luyện tập thể thao do chương trình học ở trường khá nặng. Ngoài ra, trẻ em hiện nay thích ngồi chơi các trò chơi điện tử hơn là tập thể thao. Để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng, các công ty chế biến bánh kẹo đã thực hiện nghiên cứu và đưa vào thị trường các sản phẩm dinh dưỡng như: bột ngũ cốc dinh dưỡng cho người muốn giảm cân, sữa dinh dưỡng cho người mắc bệnh tiểu đường, kẹo không đường…Hiện tại, Bibica là doanh nghiệp đầu tiên nghiên cứu và phát triển dòng sản phẩm dinh dưỡng này. Bibica kết hợp với Viện Dinh dưỡng Quốc gia đã đưa ra thị trường như: Quasure Light, Bột ngũ cốc dinh dưỡng, Bánh bông lan kem – Hura Light… b) Phân tích cạnh tranh Bảng 2.8 Đánh giá tình hình cạnh tranh thị trường bánh kẹo Thấp Khá thấp Trung bình Khá cao Cao Mức độ cạnh tranh hiện tại ü Ảnh hưởng của sự tham gia mới ü Sự đe dọa của sản phẩm thay thế ü Sức mạnh của người mua ü Sức mạnh của người cung ứng ü Kết luận: Mức độ cạnh tranh trong ngành bánh kẹo Việt Nam là Trung bình b1. Mức độ cạnh tranh hiện tại Số lượng các doanh nghiệp trong ngành bánh kẹo Hiện nay, cả nước có khoảng 30 đơn vị sản xuất bánh kẹo công nghiệp. Các đơn vị trong nước chiếm 70% thị phần, 30% thị phần còn lại là nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Hongkong, Malaysia. Khi Việt Nam gia nhập WTO và áp dụng khung thuế suất AFTA thì thuế suất một số mặt hàng bánh kẹo nhập khẩu sẽ giảm xuống (từ 50% đến 20%). Ba doanh nghiệp dẫn đầu về thị phần là Kinh Đô, Bibica và Hải Hà. Trong đó thị phần của Kinh Đô năm 2005 là 40%, Bibica là 14,4%, Hải Hà là 10,2%. Như vậy, 3 doanh nghiệp lớn nhất trong ngành nắm giữ 64,54% thị phần bánh kẹo trong nước. Thị trường bánh kẹo được coi là tập trung, ít cạnh tranh. Tốc độ tăng trưởng của thị trường bánh kẹo: Tốc độ tăng trưởng của thị trường bánh kẹo ở mức (8%). Các doanh nghiệp có thể tăng doanh thu do sự mở rộng của thị trường thay vì cạnh tranh lẫn nhau.. Sự khác biệt của các dòng sản phẩm Các sản phẩm bánh kẹo có sự khác biệt về chủng loại, mẫu mã hơn nữa mỗi doanh nghiệp trong ngành lại có thế mạnh về một mảng sản phẩm như Hải Hà mạnh về bánh xốp, Đức Phát bánh tươi, Kinh Đô bánh biscuit, Bibica kẹo và bánh bông lan…Cùng với sự nhận thức của người tiêu dùng đối với các thương hiệu này khiến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành giảm. Rào cản rút lui khỏi ngành Máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất bánh kẹo tuy là các thiết bị chuyên dụng, song khi doanh nghiệp muốn rời khỏi ngành bánh kẹo thi khả năng bán lại các máy móc này cho các đối thủ cạnh tranh hiện tại là khả thi. Kết luận 1: Mức độ cạnh tranh hiện tại: Khá yếu b2. Ảnh hưởng của sự tham gia mới Quy mô, xu hướng và tỷ suất lợi nhuận ngành bánh kẹo: - Quy mô thị trường: Tổng giá trị thị trường bánh kẹo Việt Nam vào năm 2005 là 5300 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng trung bình là 8%/năm. Thị trường tiêu thụ bánh kẹo Việt Nam có quy mô lớn và nhiều tiềm năng phát triển do dân số lớn trên 80 triệu, cơ cấu dân số trẻ và thu nhập của người dân ngày càng tăng nên chi tiêu tăng. - Quy mô ngành: Có nhiều thay đổi trong việc lựa chọn các sản phẩm bánh kẹo. Các sản phẩm cao cấp, có nhãn hiệu, có uy tín về vệ sinh an toàn thực phẩm được tiêu thụ mạnh. Các sản phẩm tiện dụng và có lợi cho sức khoẻ được ưa thích hơn. Nhu cầu bánh kẹo tăng mạnh trong các dịp lễ tết, vào mùa lạnh, cho các mục đích biếu tặng. - Tỷ suất lợi nhuận trong ngành: Lợi nhuận sau thuế của Kinh Đô năm 2005 là 99,1 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2004. Lợi nhuận sau thuế của Bibica là 12,3 tỷ đồng, tăng 33, 6% so với năm 2004. Những con số này cho thấy triển vọng về lợi nhuận của ngành sản xuất bánh kẹo tại nước ta. Rào cản gia nhập ngành Ngành sản xuất bánh kẹo đòi hỏi đầu tư lớn vào dây chuyền sản xuất cũng như công nghệ sản xuất phải hiện đại. Các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là một trong những rào cản cho các doanh nghiệp muốn gia nhập thị trường này. Các doanh nghiệp trong ngành đều đã xây dựng được những thương hiệu riêng, nổi tiếng và cũng đã xây dựng được một hệ thống phân phối rộng khắp, gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn gia nhập ngành. Đối với bánh kẹo nhập khẩu, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thuế suất thuế nhập khẩu bánh kẹo giảm mạnh làm tăng nguy cơ hàng nhập khẩu tăng thị phần thị trường. Kết luận 2: Ảnh hưởng của sự tham gia mới: Trung bình b3. Sự đe dọa của sản phẩm thay thế Bánh kẹo là sản phẩm không có sản phẩm thay thế trực tiếp vì nó là một chủng loại riêng biệt, nhu cầu ít phụ thuộc vào các sản phẩm khác. Sản phẩm thay thế chủ yếu là sản phẩm bánh kẹo của các hãng cùng ngành. Công nghệ: Công nghệ sản xuất bánh kẹo theo mô hình công nghiệp hiện đại và thay đổi nhanh có khả năng tạo ra những sản phẩm mới được ưa chuộng hơn làm tăng tính cạnh tranh trong ngành. Sự sẵn sàng mua sản phẩm thay thế của người tiêu dùng: Người tiêu dùng luôn sẵn sàng chuyển qua sử dụng các sản phẩm thay thế có chất lượng và có lợi cho sức khỏe. Chủng loại và giá cả của sản phẩm thay thế: Các sản phẩm thực phẩm thay thế bánh kẹo ngày càng được sản xuất nhiều, với công nghệ hiện đại, giá cả hợp lý nên có xu hướng làm giảm nhu cầu về bánh kẹo, kết quả là tăng cạnh tranh trong ngành. Kết luận 3: Sự đe dọa của sản phẩm thay thế: Khá cao b4. Sức mạnh của người mua Lượng mua của khách hàng: Số lượng khách hàng lớn làm giảm tính cạnh tranh trong ngành do các doanh nghiệp không phải cạnh tranh nhau để giành giật một số lượng hạn chế khách hàng. Các khách hàng không có khả năng liên kết với nhau để tác động lên giá cả và sản lượng của nhà sản xuất trong ngành bánh kẹo. Mỗi khách hàng chỉ mua một số lượng nhỏ trong toàn thị phần. Sở thích của người mua: Cảm nhận của khách hàng về các loại sản phẩm bánh kẹo khác nhau là khác nhau làm giảm tính cạnh tranh trong ngành. Tuy nhiên khách hàng lại có nhiều sự lựa chọn do sản phẩm không đồng nhất, do nhà sản xuất nhiều, đại lý phân phối rộng khắp nên làm tăng tính cạnh tranh trong ngành. Kết luận 4: Sức mạnh của người mua: Trung bình b5. Sức mạnh của người cung ứng S._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36621.doc
Tài liệu liên quan