Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ----------------------- Nguyễn thuý Hoa Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 luận văn thạc sĩ luật Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Đình Thắng Hà Nội - 2006 G33 GGMở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Dùng pháp luật hoặc đạo đức để cai trị đã trở thành thuật trị nước, an dân từ ngàn xưa của các nhà nước. Dưới mỗi triều đại, tùy thuộc v

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1658 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù của mình mà các giai cấp cầm quyền lựa chọn một phương thức quản lý nhà nước thích hợp, hiệu quả, đó có thể là đức trị (quản lý xã hội bằng đạo đức), là pháp trị (quản lý xã hội bằng pháp luật) hoặc kết hợp cả hai phương thức đó. ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của các triều đại phong kiến, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quan điểm Phật giáo, Nho giáo nên phương thức cai trị xã hội bằng pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật còn bị xem nhẹ. Chính vì vậy, đạo đức giữ vai trò to lớn trong điều chỉnh các QHXH. Cùng với nền văn hóa lúa nước: tương thân, tương ái, đoàn kết, nhân hòa, khoan dung, trọng nghĩa... hàng loạt QHXH đã được điều chỉnh bằng hệ thống quy phạm đạo đức. Có thể nói, đạo đức đã len lỏi đến từng mối QHXH, thấm đẫm trong tư tưởng đối nhân xử thế của người Phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Khi các QHXH ngày càng phát triển đa dạng và phong phú thì bên cạnh việc sử dụng các chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh xã hội, các triều đại phong kiến đã từng bước để ý đến việc xây dựng pháp luật nhằm thể chế hóa những chuẩn mực đạo đức làm công cụ để điều chỉnh QHXH mang tính công quyền. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, chúng ta đặc biệt ghi nhận vai trò của triều Lê (Tiền Lê) với đại biểu Lê Thánh Tông (1442-1497) – Người đã kết hợp nhuần nhuyễn đạo đức với pháp luật trong thuật trị nước của mình. Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, sự tàn bạo và hà khắc của pháp luật đô hộ lại càng làm nhân dân có chung tâm lý xa luật, sợ luật bởi sự bóc lột và khai thác kiệt quệ sức người, sức của, bởi sự bất bình đẳng giữa địa vị của người mất nước và kẻ cướp nước. Đó là thứ pháp luật thống trị, xa rời những giá trị nhân văn bảo vệ quyền con người và tất yếu nó bị nhân dân phản đối. Bước ngoặt có tính lịch sử của thuật dựng nước, giữ nước, xây dựng đất nước phồn thịnh bằng pháp luật gắn liền với công lao và sự nghiệp giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. ở Người, đi tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân cũng đồng thời là quá trình nhận thức, khẳng định vai trò, giá trị của pháp luật trong dựng nước và giữ nước. Song, chính Người cũng là điển hình mẫu mực trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức. Quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhưng phát huy tối đa vai trò của đạo đức trong xây dựng đời sống mới. Đạo đức công dân giúp cho mỗi người tự giác nhận thức, tôn trọng và thực hiện pháp luật. Đạo đức công chức góp phần ngăn chặn sự thoái hóa của người thực thi quyền lực nhà nước. Đặc biệt, đạo đức XHCN chính là cơ sở xây dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam... Tư tưởng hiến trị, pháp trị kết hợp với đạo đức của Người là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển không ngừng của hệ thống pháp luật XHCN ở Việt Nam hiện nay. Tại Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992) khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"[9, tr.13]. Xây dựng NNPQ là nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Song không nên đề cao một chiều đến mức tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật, coi pháp luật là yếu tố duy nhất để điều chỉnh các QHXH, mà bỏ qua vai trò hỗ trợ của các quy tắc xã hội khác như đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp và các quy tắc tôn giáo tiến bộ... Bởi vì pháp luật chỉ tập trung đáp ứng được trong điều chỉnh những QHXH cơ bản và quan trọng liên quan tới lợi ích và vận mệnh của toàn bộ quốc gia. Đạo đức và các quy tắc xã hội khác sẽ bổ sung và lấp vào các khoảng trống trong các QHXH mà pháp luật chưa vươn tới được. ở mối quan hệ này ta thấy, trong pháp luật phải có đạo đức, thiếu đạo đức, pháp luật xơ cứng và khó có thể thực hiện trong đời sống thực tế bằng sự tự giác, bằng niềm tin, khó có thể đạt tới chuẩn mực của "văn hóa pháp lý". Trong đạo đức cũng phải có pháp luật, thiếu pháp luật đạo đức mất sự định hướng để phát triển các giá trị bên trong của mình, mất đi sự bảo hộ cho các chuẩn mực đạo đức tồn tại và phát triển lâu bền. Những năm gần đây, hàng loạt các văn bản pháp luật của nhà nước đã thể hiện sự pháp luật hóa những giá trị đạo đức thành chuẩn mực pháp luật để điều chỉnh những quan hệ phát triển không ngừng của đời sống xã hội như Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Luật Lao động (2002), Pháp lệnh cán bộ công chức (2003), Luật Dân sự (2005)... Bên cạnh đó, sự thừa nhận và khuyến khích của nhà nước đối với xây dựng hương ước mới, xây dựng bảo tồn những phong tục tập quán có ý nghĩa trong hình thành và phát triển nhân cách con người mới lại một lần nữa thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá của nhà nước về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Có thể thấy giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau. Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới" là một bằng chứng hết sức sâu sắc và rõ ràng trong việc Đảng và Nhà nước nhận định vai trò to lớn của sự kết hợp giữa pháp luật với đạo đức khi xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc xây dựng thành một hệ thống chuẩn mực các giá trị đạo đức mới-đạo đức cách mạng còn là công việc phức tạp và nhạy cảm trong đời sống chính trị hiện nay. Hiệu quả của sự kết hợp pháp luật và đạo đức trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội cũng là rất khác nhau, nó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách lâu dài, thống nhất cả về lý luận và thực tiễn để có thể đưa ra một cái nhìn tổng quát và hữu hiệu, đem lại lợi ích thiết thực cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ những lý do phân tích nêu trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: "Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay" để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong QLNN là một vấn đề đang được nhiều nhà khoa học quan tâm. Hầu hết các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu sự giống và khác nhau giữa pháp luật và đạo đức; sự tác động qua lại giữa chúng khi điều chỉnh các QHXH hoặc nghiên cứu mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội nói chung. ở góc độ này có thể kể ra một số công trình nghiên cứu khoa học sau đây. -Trần Hậu Thành, "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật", Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5-1998, tr.36-38. - Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh, "Về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật", Tạp chí Khoa học chính trị, số 6-2000, tr.46-49. - Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm) "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay", Đề tài khoa học cấp bộ, 2002. - Hoàng Xuân Châu, “Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ Luật học Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002. - Nguyễn Văn Năm, "Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học Đại học Luật Hà Nội, 2003. Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò, về những ảnh hưởng, tác động của đạo đức trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật giai đoạn hiện nay bao gồm: - Phan Văn Tỉnh, "Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật", Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. - Nguyễn Quốc Việt, "Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay", Đề tài nghiên cứu cấp khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002. - Công trình nghiên cứu của GS.Vũ Khiêu và PGS. Thành Duy "Pháp luật và đạo đức trong triết lý phát triển ở Việt Nam". Ngoài ra có một số tác giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nhưng giới hạn trong phạm vi tư tưởng Hồ Chí Minh như: - Triệu Vũ, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 11-1993, tr.17-21. - Thành Duy "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đạo đức và lợi ích công dân", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3-1995,tr 4-6. - Lê Thị Hoài Thanh "Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật", Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6-2000, tr.24-26. - Hoàng Thị Kim Quế, "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8-2002, tr.64-70. - Lương Hồng Quang, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002. Những công trình khoa học kể trên là nguồn tư liệu, là cơ sở lý luận cho tác giả nghiên cứu, kế thừa trong việc xây dựng và phát triển công trình khoa học của mình theo hướng kết hợp pháp luật với đạo đức với tư cách là một phương thức quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu, kiến giải vai trò của pháp luật, của đạo đức trong xây dựng và quản lý xã hội, từ đó đưa ra phương thức kết hợp giữa pháp luật và đạo đức để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quản lý nhà nước, đặc biệt là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Trên cơ sở lý luận về nhà nước và pháp luật, luận văn bước đầu nghiên cứu làm sáng tỏ sự cần thiết phải kết hợp pháp luật với đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức kết hợp giữa pháp luật với đạo đức. - Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Một là, trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về những vấn đề lý luận về QLNN, về pháp luật, về đạo đức, luận văn phân tích và lý giải vai trò to lớn của pháp luật và của đạo đức trong QLNN. Hai là, làm rõ sự thiết yếu phải kết hợp pháp luật với đạo đức trong điều kiện chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong điều kiện lịch sử kinh tế - chính trị - văn hóa đặc thù của Việt Nam. Ba là, phải đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự kết hợp khoa học - biện chứng này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về lý luận nhà nước, pháp luật và lý luận về QLNN. Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp tâm lý xã hội... 6. Những điểm mới của luận văn - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước, về pháp luật, về đạo đức. - Lý giải sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật với đạo đức trong QLNN đặc biệt là trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay. - Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng về sự kết hợp pháp luật với đạo đức trong QLNN ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo kết hợp pháp luật với đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1.1. Quản lý nhà nước, các công cụ cơ bản quản lý nhà nước 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước Thuật ngữ "quản lý" có nhiều nghĩa khác nhau. Theo “Từ điển tiếng Việt”, quản lý được hiểu dưới hai khía cạnh: "1. Trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu nhất định"; "2. Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định" [24, tr.772]. Còn theo sách gốc và nghĩa từ Việt thông dụng, quản lý được hiểu là "trông nom, sửa sang, sắp đặt công việc" [32, tr.695]. ở Phương Tây, từ "quản lý" (management) có nguồn gốc Italia (managiare) được rút ra từ chữ La tinh "manus" nghĩa là bàn tay [12, tr.597]. Như vậy, có thể thấy rằng, thuật ngữ quản lý có nhiều cách diễn đạt khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận. Tuy nhiên, quan điểm chung nhất về quản lý do các nhà điều khiển học đưa ra thì quản lý được hiểu là "sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định" [39, tr.83]. Trong khái niệm này, "sự tác động có định hướng" được hiểu là sự tác động có tính kế hoạch của người quản lý vào bất kỳ một thời điểm nào đó, hướng đến đối tượng là "một hệ thống nào đó". Hệ thống này được xác định là "tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất" [24, tr.418]. Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý lao động ở quá trình sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quản lý là một dạng hoạt động - một hiện tượng tất yếu trong xã hội loài người. Các Mác cho rằng: "quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động" [18, tr.29-30] và "lao động giám sát và quản lý cần thiết ở tất cả những nơi, mà hoạt động sản xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao động riêng lẻ của những người sản xuất độc lập" [20, tr.432]. Tuy những luận điểm trên đây nói về lao động sản xuất, nhưng có thể áp dụng đối với bất kỳ hoạt động chung nào của con người. Ăngghen khẳng định: "Quản lý là tất yếu khi nhiều người cần hoạt động chung với nhau, khi có sự hiệp tác của một số người" [19, tr.33-34]. Như vậy, ở đâu có sự hiệp tác của nhiều người thì ở đó có nhu cầu cần phải quản lý, đây là nhu cầu tự phát, nhu cầu bên trong của mọi quá trình, mọi sự vật hiện tượng. Chức năng quản lý là chức năng của một “nhạc trưởng" thể hiện ở sự điều hòa những hoạt động cá nhân. Cho nên theo một nghĩa nào đó quản lý còn được coi là loại hình nghệ thuật: Nghệ thuật điều khiển người khác. Từ khi xuất hiện nhà nước, một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà nước đảm nhiệm, tức là chủ thể nhà nước đứng ra quản lý những QHXH cơ bản nhất, bao trùm nhất của đời sống xã hội. Đó chính là quản lý nhà nước. Cùng với chủ thể quản lý đặc biệt là nhà nước, tham gia vào quản lý xã hội còn có một số chủ thể khác như các tổ chức xã hội, chính đảng, giai cấp, gia đình, các tổ chức tín điều tôn giáo... Tuy nhiên, đối tượng và phạm vi điều chỉnh nhỏ hẹp hơn nhiều. Vì thế có thể coi quản lý xã hội là một khái niệm rất rộng bao hàm QLNN và quản lý phần công việc còn lại của xã hội. Theo Ăngghen, QLNN là quản lý xã hội do giai cấp nắm quyền thống trị xã hội thực hiện thông qua nhà nước của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng cách phân chia dân cư theo "địa vực", trên cơ sở thiết lập một "quyền lực công cộng" tách rời khỏi dân cư bằng việc đặt ra pháp luật, bắt buộc mọi tổ chức, mọi thành viên của xã hội phải thi hành. Luận điểm trên của Ăngghen cho thấy rằng, để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, Nhà nước phải có một loại người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Loại chủ thể này được tổ chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy đại diện cho quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị. Nội hàm của QLNN thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, QLNN xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành chính của Chính phủ và hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp. Thông qua ba hoạt động đặc thù này mà QLNN có những điểm khác biệt so với quản lý xã hội nói chung của các loại chủ thể khác như đã kể trên. Đó là: - Chủ thể QLNN là các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Đối tượng QLNN là toàn thể nhân dân, tức toàn bộ dân cư sống và làm việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. - Vì tính đa dạng về lợi ích, hoạt động của các nhóm người trong xã hội, QLNN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa; xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của nhân dân. Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, lấy pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Từ những điểm khác biệt đã nêu trên, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Như trên đã trình bày, đối tượng của QLNN là các QHXH đầy nhạy cảm và biến động. Nó là các thực thể sống trong mối liên hệ đan xen, phức hợp, mà không tồn tại độc lập, riêng biệt. Chính vì vậy, tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử, văn hóa, tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà các chủ thể QLNN phải có sự linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng, kết hợp các phương thức quản lý khác nhau, nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất. Điều này lý giải tại sao trong cùng một giai đoạn, có quốc gia dùng pháp luật làm công cụ cơ bản để QLNN, có quốc gia lại chủ yếu dùng đạo đức, dùng các phong tục, tập quán, tiền lệ, các tín điều tôn giáo để điều chỉnh các QHXH. Hay trong chính một quốc gia, qua các giai đoạn lịch sử, tùy từng thời kỳ có thể dùng pháp luật (pháp trị) hoặc đạo đức (đức trị) hoặc kết hợp cả hai phương thức đó trong thuật dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, trong hoạt động QLNN, vấn đề kết hợp các yếu tố của hoạt động quản lý là rất phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải có năng lực cao cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ hiện đại. Cũng vì thế mà việc nghiên cứu phương thức QLNN trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam luôn là vấn đề cần được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn. Điều này hết sức quan trọng và cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [9, tr.13] trên nền tảng văn hóa dân tộc, đậm tính nhân bản, nhân văn. Đây tuy không phải là vấn đề mới song cần được lý giải một cách khoa học và biện chứng. 1.1.2. Các công cụ cơ bản quản lý nhà nước Trải qua chiều dài của lịch sử xã hội, đã có rất nhiều công cụ quản lý được các triều đại nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội nhằm đạt đến một trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn. Trong rất nhiều công cụ đó, nổi bật lên hai loại công cụ cơ bản mà nhân loại đã chấp nhận chúng như những phương thức quan trọng để duy trì quyền lực, đó là pháp luật và đạo đức hay còn gọi là pháp trị và đức trị. 1.1.2.1. Pháp luật Để tổ chức và quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, có nhiều công cụ, phương tiện khác nhau, trong đó pháp luật giữ một vai trò rất quan trọng. Là một hiện tượng xã hội phức tạp, cho nên ngay từ khi mới ra đời cũng như trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, pháp luật luôn được quan tâm, nghiên cứu. Tuy vậy, hiện nay khái niệm "pháp luật" vẫn chưa được nhận thức một cách thống nhất. Quan điểm truyền thống đang được các trường đại học, các nhà khoa học, luật gia thừa nhận cho rằng: "Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các QHXH" [4, tr.64]. Tuy nhiên, một số tác giả không hoàn toàn tán thành với cách hiểu trên. Từ việc phân tách câu từ, họ cho rằng: Nếu nói pháp luật là các "quy tắc xử sự" thì không đầy đủ, chính xác, không bao quát hết được nội hàm bên trong của khái niệm pháp luật, bởi trong pháp luật còn nhiều quy định khác do nhà nước ban hành mà không được coi là quy tắc xử sự - tức chúng không phải là những khuôn mẫu, những mô hình mà luật pháp dự liệu con người phải thực hiện nếu rơi vào trong những trường hợp đã được dự liệu trước. Đây là cách hiểu gò bó và cứng nhắc, thiếu biện chứng khi nhìn nhận đánh giá các sự vật hiện tượng. Thực tế là có một số không ít các quy định do Nhà nước ban hành chỉ để quy định cách hiểu về một thuật ngữ, giải thích, giới thiệu một khái niệm hay đưa ra những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo định hướng để thực hiện đúng, đủ một quy tắc xử sự cụ thể. Chúng không phải là những quy tắc xử sự, bởi chúng không đưa ra được "khuôn mẫu" xử sự, song thiếu chúng các chủ thể không thể thực hiện pháp luật một cách đúng đắn, đầy đủ như ý tưởng của các nhà lập pháp. Không có nó, chắc chắn việc nhận thức và thực hiện những quy tắc của hành vi sẽ không có sự thống nhất. Mặt khác, pháp luật không phải là phép cộng dồn giản đơn các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, ở đây chúng ta phải lưu tâm đến từ "hệ thống" những quy tắc xử sự. Chính những tư tưởng, những nguyên tắc hay những quy định về cách hiểu các khái niệm, thuật ngữ đó sẽ là sợi dây liên kết các quy tắc xử sự thành một thể thống nhất, thành một hệ thống hoàn chỉnh đồng bộ. Bên cạnh đó, cũng sẽ không là chính xác nếu hiểu pháp luật đơn thuần chỉ là ý chí của "giai cấp thống trị". Pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, do đó tất nhiên nó phải là ý chí của giai cấp cầm quyền. Bao giờ giai cấp này cũng thông qua nhà nước - tổ chức đại diện chính thức và hợp pháp cho toàn xã hội để buộc các thành viên phải phục tùng ý chí của mình. Nhà nước bằng sức mạnh cưỡng chế, bằng các biện pháp, nghiệp vụ quản lý có thể cho phép các thành viên trong xã hội được làm gì, không được làm gì và phải làm gì? Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức quyền lực chung của toàn thể xã hội, nhà nước còn phải đứng ra tổ chức và quản lý đời sống cộng đồng, vì sự ổn định trật tự và phát triển của cả cộng đồng, phải duy trì, củng cố và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Chính vì vậy, pháp luật do nhà nước ban hành không chỉ "thể hiện ý chí của giai cấp thống trị", mà trên cơ sở ý chí của giai cấp thống trị, ý chí chung của cộng đồng xã hội tập trung thành ý chí nhà nước, thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, ý chí nhà nước được thể hiện thành những quy định pháp luật cụ thể. Tính xã hội và tính giai cấp của pháp luật được thể hiện hết sức rõ ràng và sâu sắc trong hệ thống pháp luật XHCN. Trong nhà nước XHCN, quyền lợi của giai cấp cầm quyền cơ bản thống nhất với ý chí, quyền lợi của nhân dân lao động, do vậy mà "ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội" là ý chí chung thống nhất của toàn xã hội. Từ cách hiểu trên đây có thể thấy rằng: Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước XHCN ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trên cơ sở giáo dục thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện. Trong QLNN, pháp luật được xác định là công cụ quan trọng hữu hiệu để điều chỉnh các QHXH. So với các công cụ QLNN khác, pháp luật có ưu thế hơn hẳn như: tính xác định chặt chẽ về nội dung, hình thức, trình tự thủ tục ban hành và thực hiện, tính đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước... Vì vậy pháp luật là phương tiện có vai trò quan trọng nhất để tổ chức và quản lý đời sống xã hội. Pháp luật đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong ổn định, trật tự. Nhờ có pháp luật, các hành vi xâm hại trật tự, an toàn xã hội được hạn chế và từng bước bị loại bỏ khỏi đời sống xã hội. Nhờ có pháp luật, giai cấp thống trị có thể củng cố, duy trì địa vị thống trị xã hội, bảo vệ và phát triển các lợi ích của mình, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Bằng pháp luật, Nhà nước có thể quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội trên các lĩnh vực của cuộc sống. Nhờ có pháp luật, Nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình, kiểm tra, giám sát các hoạt động của con người, tổ chức trong xã hội. Pháp luật là cơ sở để tổ chức bộ máy nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, hình thức và phương pháp hoạt động của các cơ quan, nhân viên trong bộ máy nhà nước. Cũng nhờ có pháp luật mà bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, đồng thời pháp luật cũng là công cụ để đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện với sự kiểm soát chặt chẽ. Do vậy, các hiện tượng lạm quyền, vượt quyền, thiếu trách nhiệm... bị hạn chế và loại trừ. Do đó có thể nói, pháp luật là phương tiện hữu hiệu để bảo vệ và bảo đảm các quyền tự do dân chủ, lợi ích của các thành viên trong xã hội, góp phần tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác nhau trên thế giới. 1.1.2.2. Đạo đức Cũng như pháp luật, đạo đức là một hiện tượng xã hội phức tạp và đầy biến động. Triết học Mác-Lênin cho rằng: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức trước hết là những quan niệm, quan điểm, tư tưởng của một cộng đồng người, một giai cấp, một dân tộc về chân, thiện, mỹ, về hạnh phúc, về danh dự, về trách nhiệm và tình thương, về tính trung thực, lòng vị tha, về lẽ sống... Những quan niệm, quan điểm này thường tồn tại thành từng cặp đối lập nhau: Thiện-ác, tốt-xấu, thật-giả, đúng-sai, cao-thấp, sang-hèn... Chẳng hạn, nói dối là xấu; trung thực, thật thà là tốt; nịnh hót là hèn; thẳng thắn, cương trực là quý; hy sinh tính mạng cho Tổ quốc là vinh; quỳ gối khom lưng trước kẻ thù là nhục... Như vậy, đạo đức không chỉ là những quan niệm, quan điểm về chân, thiện, mỹ... Nó là tất cả những quan niệm, quan điểm, tư tưởng về "đạo làm người", về vai trò, trách nhiệm của mỗi người trước người khác và trước cả cộng đồng xã hội. Nói cách khác, những quan niệm, quan điểm đạo đức chính là những yêu cầu, đòi hỏi của cộng đồng xã hội đối với hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội. Con người sống trong xã hội dù ở cương vị nào, trong điều kiện hoàn cảnh nào cũng phải ý thức được về chính bản thân mình, ý thức được nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với người khác và đối với xã hội. Trên cơ sở các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đó, các quy tắc xử sự của con người được hình thành. Từ quan niệm về vinh nhục người ta thấy trong chiến tranh không được khom lưng quỳ gối trước kẻ thù, trong hòa bình không được đói, nghèo, dốt nát. Biết hy sinh tính mạng khi Tổ quốc bị xâm lăng thì cũng phải biết làm giàu chính đáng cho bản thân, cho Tổ quốc khi hòa bình lập lại. Từ quan niệm về thiện-ác, người ta thấy nhân đạo không chỉ là chia sẻ, cảm thông, cứu giúp người bị nạn mà còn phải ra tay trừng trị cái ác, đẩy lùi và loại bỏ cái xấu ra khỏi đời sống xã hội... Trên cơ sở các quy tắc xử sự, cộng đồng đánh giá về những hành vi xử sự của các chủ thể xẩy ra trong đời sống xã hội. Do vậy, đạo đức còn bao gồm thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về hành vi của các chủ thể trong xã hội. Một hành vi nào đó có thể được cộng đồng khen hay chê, được coi là ưu điểm hay khuyết điểm, được đánh giá là thiện hay ác, chân hay giả, tốt hay xấu... Sự đánh giá này được biểu hiện tập trung nhất thành dư luận xã hội. Bên cạnh sự đánh giá từ phía cộng đồng xã hội thì chính bản thân chủ thể cũng tự đánh giá về hành vi của mình. Lương tâm chủ thể thấy thanh thản hay bị vò xé, cắn rứt... từ đó mà hình thành nhiều xúc cảm, tình cảm trong mỗi người, chẳng hạn, người ta trắc ẩn, xót thương những nạn nhân của cái ác; khinh bỉ giận dữ, công phẫn trước những kẻ gây nên tội ác; vui mừng, tự hào khi đem lại hạnh phúc cho mọi người... Tóm lại, có thể thấy, đạo đức là tổng thể các quan niệm, quan điểm của một cộng đồng dân cư nhất định về chân, thiện, công bằng, danh dự... trên cơ sở đó hình thành lên các quy tắc xử sự nhằm điều chỉnh các QHXH, chúng được thực hiện bởi lương tâm, tình cảm cá nhân và sức mạnh của dư luận xã hội. Là một trong những công cụ nhạy cảm, có khả năng tác động, chi phối lên tất cả các loại QHXH, từ những mối quan hệ cơ bản như quan hệ chính trị giữa Nhà nước với công dân, các quan hệ về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quan hệ về tính mạng, sức khỏe, tài sản công dân cho đến cả những quan hệ tư tưởng, những ngóc ngách, tình cảm của đời sống xã hội như quan hệ tình yêu giữa nam nữ, quan hệ hàng xóm láng giềng, quan hệ anh em cọc chèo... đạo đức luôn được các quốc gia Phương Đông coi trọng và áp dụng trong thuật trị nước và giữ nước. Đạo đức có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối sống. Nó là những chuẩn mực để con người tự rèn luyện, tu dưỡng nhân cách. Đạo đức là những quan điểm, quan niệm, tư tưởng về đạo lý làm người, là "nguyên tắc sống chủ yếu của con người" [34, tr.13]. Không có đạo đức, người ta có thể vẫn là một nhà chuyên môn giỏi, nhưng không thể là một con người hoàn hảo. Hồ Chí Minh đã nói: Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không làm lợi cho loài người việc gì [22, tr 172]. Chính vì vậy đạo đức là những quy tắc đối nhân, xử thế trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ có đạo đức mỗi người đều tự xác định được vị trí, vai trò của mình trong xã hội để từ đó có những hành vi, xử sự cho phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích của cộng đồng. Đạo đức cũng có vai trò rất quan trọng trong việc củng cố và duy trì ổn định, trật tự xã hội. Trong xã hội nguyên thủy chưa có hệ thống QPPL, ở đó đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất để điều chỉnh các QHXH, giữ ổn định trật tự xã hội. Trong xã hội có giai cấp, để điều chỉnh các QHXH, pháp luật không phải là công cụ duy nhất, công cụ vạn năng. Ngoài pháp luật còn có những công cụ điều chỉnh khác như đạo đức, tín điều tôn giáo, tập quán, quy định của các tổ chức xã hội... mà trong đó đạo đức là công cụ quan trọng, thích ứng đượ._.c với việc điều chỉnh mọi loại QHXH, mọi đối tượng trong xã hội. Đạo đức điều chỉnh hầu hết các QHXH từ đơn giản đến phức tạp, nhạy cảm, từ hẹp đến rộng, từ biểu hiện bằng hành vi cho đến lẩn khuất bên trong mỗi suy nghĩ tư tưởng... Đây là những QHXH mà pháp luật và các công cụ khác khó có thể can thiệp, thậm chí nhiều khi pháp luật can thiệp vào còn đem lại kết quả ngược lại với mong muốn của chủ thể tác động. Đạo đức còn có vai trò bổ sung, thay thế cho pháp luật nhất là trong trường hợp pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều chỗ trống. Khi đó, để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tổ chức hay cá nhân, nhà chức trách phải áp dụng tương tự pháp luật bằng cách dựa vào ý thức đạo đức của mình, dựa vào những lẽ phải ở đời mà mọi người đều công nhận. 1.2. sự tương đồng, khác biệt giữa pháp luật và đạo đức, Tính tất yếu khách quan của việc kết hợp giữa chúng trong quản lý nhà nước Về lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ khăng khít, gắn bó. Trước khi nhà nước và pháp luật ra đời, xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội trong đó có quy phạm đạo đức. Khi pháp luật đã trở thành phương tiện chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội thì đạo đức vẫn giữ một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các QHXH. Điều này được lý giải là giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ hỗ trợ nhau, pháp luật hay đạo đức đều có những điểm mạnh, điểm yếu mà khi kết hợp lại chúng bổ sung cho nhau, điểm mạnh của pháp luật sẽ hỗ trợ cho điểm yếu của đạo đức, ngược lại điểm mạnh của đạo đức sẽ bổ sung cho những yếu điểm của pháp luật. Lịch sử phát triển của các nhà nước, đặc biệt là các nhà nước Phương Đông cho thấy, chỉ với sự bảo đảm bằng quyền lực nhà nước thôi, pháp luật khó đi vào và tồn tại vững chắc trong hiện thực của đời sống xã hội. Trước tiên không phải là bạo lực mà chính là đạo đức và các quy phạm xã hội khác đã giúp cho pháp luật được chấp hành nhanh chóng và triệt để. Nói cách khác, quyền lợi của giai cấp thống trị nếu không được lồng ghép ít nhiều vào quyền lợi của giai cấp bị trị trong các đạo luật, thì giá trị xã hội của các đạo luật ấy thấp, hiệu lực theo thời gian của các đạo luật ấy không cao. Những nhà nước chỉ thuần túy dùng pháp luật để áp đặt quyền lợi ích kỷ của giai cấp thống trị lên xã hội đều có lịch sử ngắn ngủi, xã hội do Nhà nước đó quản lý thường xuyên xảy ra xung đột, bạo loạn, kèm theo những cuộc đàn áp đẫm máu. Khi giai cấp bị trị tập hợp xung quanh ngọn cờ đòi quyền sống, quyền bình đẳng, quyền hạnh phúc ấm no... để đấu tranh, thì đó thường là một sức mạnh lớn, buộc nhà nước phải điều chỉnh pháp luật, hoặc có khi thay đổi cả chế độ nhà nước. Nhưng, pháp luật không chỉ dựa vào đạo đức để đi vào đời sống xã hội, pháp luật còn là một trong những phương tiện để nhà nước đưa các quan điểm, quan niệm đạo đức của giai cấp thống trị trở thành các quy phạm đạo đức chính thống trong xã hội, pháp luật hóa các quy phạm đạo đức đó. Bằng cách này, Nhà nước tạo ra cơ sở xã hội cho sự tồn tại "hợp đạo lý" của mình. Với nội dung trên cho thấy, giữa pháp luật và đạo đức có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong QLNN. Pháp luật bắt buộc người ta hành động bằng áp lực từ bên ngoài, còn đạo đức bắt buộc người ta hành động bằng áp lực từ nội tâm, hành vi con người sẽ đạt hiệu quả cao và vững bền nhất nếu nó phù hợp với động cơ nội tại bên trong. Chính vì vậy, xét trong cả quá trình lịch sử, với bất cứ kiểu nhà nước nào, kể cả trong nhà nước chuyên chế, độc tài, sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong QLNN đều được vận dụng ở các mức độ khác nhau. Để lý giải một cách khoa học về việc có thể kết hợp và phải kết hợp pháp luật đạo đức trong QLNN, chúng ta cần nghiên cứu sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và đạo đức, lấy đó làm cơ sở kết hợp chúng trong điều kiện QLNN ở Việt Nam hiện nay. 1.2.1. Sự tương đồng giữa pháp luật và đạo đức Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều là những công cụ điều chỉnh các QHXH. Con người, trong đời sống xã hội luôn có những nhu cầu, lợi ích, mục đích nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể có nhiều phương pháp, cách thức riêng. Trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, có thể có những chủ thể vì lợi ích của mình mà làm tổn hại đến lợi ích của người khác, đến lợi ích chung của cả cộng đồng, xã hội vì thế mà trở nên mất ổn định, trật tự xã hội sẽ bị xâm hại. Theo Tuân Tử: "Người ta sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm, tìm mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng" [13, tr.321]. Điều chỉnh các QHXH là đưa ra cách xử sự mẫu cho các chủ thể, để họ thực hiện theo khi ở trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Đó là việc xác định cho chủ thể những quyền, nghĩa vụ khi họ tham gia vào những QHXH cụ thể. Điều chỉnh các QHXH có nhiều công cụ, phương tiện khác nhau, trong đó, pháp luật và đạo đức là những công cụ rất quan trọng. Để điều chỉnh các QHXH, pháp luật và đạo đức phải tác động vào nhận thức của chủ thể nhằm hình thành ở chủ thể một ý thức nhất định, trên cơ sở đó, các chủ thể lựa chọn cách xử sự phù hợp. Con người là một thực thể có lý trí và có ý chí, hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Vì vậy, Nhà nước và xã hội không thể buộc một người phải thực hiện một hành vi nào đó nếu không tác động vào ý thức của họ. Chỉ trên cơ sở có sự tác động vào ý thức, con người mới nhận thức được trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, xác định mình được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào hay không được làm gì... Trên cơ sở nhận thức được nhu cầu đòi hỏi của xã hội, nhận thức được một hành vi nào đó là được khuyến khích hay bị ngăn cấm, nhận thức được hậu quả sẽ phải gánh chịu nếu có, cân nhắc giữa cái được, cái mất khi thực hiện một hành vi nhất định... chủ thể mới có thể kiềm chế không thực hiện những hành vi bị ngăn cấm hay không được khuyến khích; tích cực, chủ động, tự giác thực hiện những hành vi được cho phép, được khuyến khích hay có yêu cầu, đòi hỏi... Như vậy, điều chỉnh các QHXH bằng pháp luật hay đạo đức, thực chất là dùng chúng tác động lên nhận thức của chủ thể. Trên cơ sở lý trí và tự do ý chí, chủ thể sẽ tự lựa chọn và thực hiện một hành vi phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của nhà nước hay của cộng đồng xã hội. Điều chỉnh các QHXH, pháp luật và đạo đức đều mang tính quy phạm phổ biến, chúng đều là những mô hình, những khuôn mẫu xử sự cụ thể cho hành vi con người. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự của con người do Nhà nước ban hành, nó tác động đến tất cả các cá nhân, các tổ chức trong xã hội, tác động đến mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Bên cạnh đó, ở đâu có con người, ở đó có đạo đức. Đạo đức điều chỉnh hầu hết các QHXH kể cả những quan hệ nhạy cảm mà các phương tiện khác không thể điều chỉnh. Điều chỉnh các QHXH, pháp luật và đạo đức có sự thống nhất cơ bản mà trước hết sự thống nhất đó thể hiện ở mục đích điều chỉnh. Đặt ra pháp luật và đạo đức để điều chỉnh các QHXH, nhà nước và xã hội bao giờ cũng nhằm đạt được những mục đích nhất định. Một mặt, chúng bảo vệ và định hướng cho sự phát triển của các QHXH phù hợp với xu thế tất yếu của cuộc sống, mặt khác, hạn chế sự phát triển những QHXH không phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, lợi ích chung của cộng đồng, bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển trong ổn định trật tự. Pháp luật bao giờ cũng có sự phù hợp nhất định đối với đạo đức của giai cấp thống trị. Khi đó, cả pháp luật và đạo đức đều được xác định là vũ khí chính trị của giai cấp thống trị, là công cụ hướng hành vi của con người vào những khuôn khổ có lợi cho giai cấp này nhằm củng cố và bảo vệ vững chắc địa vị thống trị của họ. Pháp luật còn phù hợp với những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục và những giá trị đạo đức của dân tộc. Trong trường hợp đó, pháp luật và đạo đức có sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong việc giữ gìn trật tự, ổn định xã hội, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trong một số trường hợp, pháp luật cũng phản ánh ở mức độ nhất định, các quan niệm, quan điểm đạo đức của các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội, bởi vì sự hình thành các quan điểm, quan niệm đạo đức của giai cấp thống trị cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi quan niệm đạo đức của các giai cấp, tầng lớp khác. Pháp luật và đạo đức trong Nhà nước XHCN về cơ bản có sự thống nhất. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng những quan niệm, quan điểm đạo đức của nhân dân lao động, nhằm giữ gìn và phát huy những quan niệm, quan điểm đạo đức đó. Giữa pháp luật và đạo đức trong CNXH, "các quan niệm về công bằng, thiện ác, nhân đạo... về nguyên tắc là không có sự đối lập nào" [26, tr.13]. ở một góc độ nào đó, pháp luật còn được coi là những chuẩn mực đạo đức tối thiểu cần có: pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa. Thứ hai, pháp luật và đạo đức đều thuộc phạm trù ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Theo C.Mác, toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lĩnh vực lớn: lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Pháp luật và đạo đức thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nói cách khác chúng thuộc phạm trù ý thức xã hội, là những phương thức phản ánh đời sống xã hội. Pháp luật và đạo đức đều là sản phẩm của bộ óc con người, đều là kết quả quá trình con người nhận thức đời sống của chính mình, tuy nhiên pháp luật và đạo đức không phải là những bản sao máy móc đời sống kinh tế - xã hội. Hiện thực của đời sống tác động vào bộ óc con người, qua quá trình đánh giá, sàng lọc, tổng kết... cuối cùng khái quát hóa thành các quan niệm, quan điểm, quy tắc đạo đức hay pháp luật. Sự phản ánh đời sống hiện thực bằng pháp luật và đạo đức có thể trung thực, chính xác, nhưng cũng có thể sai lệch. Điều đó là do các yếu tố lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí của chủ thể... đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng nhất định đến kết quả nhận thức. Pháp luật trước tiên phản ánh các quan hệ kinh tế và đối sánh giai cấp. Nó phản ánh những QHXH đã tồn tại một cách khách quan, phổ biến, điển hình và tương đối ổn định. Trên cơ sở nhận thức thực trạng, xu hướng vận động cũng như nhu cầu, đòi hỏi của cuộc sống; trên cơ sở nhận thức về các loại lợi ích cần bảo vệ, về tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội... nhà làm luật khái quát thành những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong xã hội, đảm bảo để chúng phù hợp với những lợi ích của Nhà nước, của giai cấp thống trị, của cộng đồng. Như vậy, pháp luật phản ánh đời sống xã hội thông qua thiết chế nhà nước. Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất, nó phản ánh đời sống xã hội của con người không cần thông qua một thiết chế xã hội nào. Từ thực tế cuộc sống mà dần dần hình thành những quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xử sự giữa các thành viên trong đời sống chung của cộng đồng. Như vậy, pháp luật và đạo đức không phải là những cái có sẵn trong tự nhiên, không phải do một thế lực siêu nhiên nào bên ngoài xã hội "ấn vào" đời sống xã hội. Nó là sản phẩm của việc con người nhận thức đời sống của chính mình. Thông qua pháp luật, đạo đức, chúng ta hiểu được một mức độ nhất định thực trạng của đời sống xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Thứ ba, là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, pháp luật và đạo đức chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng song có sự tác động ngược trở lại cơ sở hạ tầng. Mỗi xã hội có một kết cấu kiến trúc đặc trưng, tức là một cơ sở hạ tầng nhất định, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng, trong đó có pháp luật và đạo đức. Tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội là một kiểu đạo đức. Cũng như vậy, tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội trong xã hội có giai cấp là một kiểu pháp luật. Là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế, vì vậy về cơ bản pháp luật quy định vấn đề gì, quy định như thế nào, điều đó trước tiên phụ thuộc vào nền móng kinh tế. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi thì đạo đức và pháp luật cũng bị đảo lộn ít nhiều. Mặc dù do cơ sở hạ tầng quyết định, song pháp luật và đạo đức đều có tính độc lập tương đối và đều có sự tác động trở lại ở những mức độ nhất định đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động này có thể diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Khi pháp luật và đạo đức phù hợp với quy luật phát triển của đời sống, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp với các loại lợi ích trong xã hội hay nói một cách khác là pháp luật và đạo đức phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế, xã hội thì chúng có tác động tích cực. Chúng củng cố, tạo môi trường pháp lý và đạo lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế - xã hội tồn tại và phát triển, đồng thời, chúng góp phần loại bỏ những quan hệ kinh tế - xã hội không phù hợp, đi ngược lại lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích chung của cộng đồng. ở chiều ngược lại, khi pháp luật và đạo đức không phù hợp với quy luật vận động phát triển của xã hội, không phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế chúng sẽ có tác động tiêu cực như cản trở, kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội làm cho đời sống xã hội trở nên mất ổn định. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng: sự tác động của pháp luật đối với cơ sở hạ tầng là tương đối mạnh mẽ và dễ nhìn thấy, còn sự tác động của đạo đức đến cơ sở hạ tầng không biểu lộ rõ nét như pháp luật, nên thường khó nhận thấy hơn, thường ẩn sau các quan điểm, tư tưởng hay tập quán đang thịnh hành. Là hai hiện tượng của kiến trúc thượng tầng, pháp luật và đạo đức đều có sự tác động nhất định đến những thành tố khác nhau của kiến trúc thượng tầng cũng như chịu sự tác động trở lại ở những mức độ nhất định của các yếu tố đó. Chẳng hạn cả pháp luật và đạo đức đều bị ảnh hưởng bởi các quan điểm chính trị của giai cấp cầm quyền. Ngược lại, cả pháp luật và đạo đức vừa là những hình thức thể hiện vừa là những công cụ, phương tiện thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền. Thứ tư, trong xã hội có giai cấp, pháp luật và đạo đức vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội. Do điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, nên ý thức của các giai cấp cũng khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trong xã hội nguyên thủy, mọi thành viên trong xã hội đều có địa vị và lợi ích như nhau, nên đạo đức của họ là thống nhất. Khi xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mỗi giai cấp có những quan niệm, chuẩn mực đạo đức phù hợp với lợi ích của giai cấp mình, vì vậy mà trong xã hội bao giờ cũng có hai hệ đạo đức song song tồn tại. Giai cấp thống trị nhờ nắm trong tay các phương tiện sản xuất vật chất và cả các phương tiện sản xuất tinh thần, lại có sự hỗ trợ của cả nhà nước và pháp luật, nên có điều kiện áp đặt những quan niệm, tư tưởng đạo đức của giai cấp mình lên toàn xã hội nhằm củng cố và bảo vệ địa vị thống trị xã hội của họ. Nhờ đó mà đạo đức của giai cấp thống trị trở thành phổ biến trong xã hội và được củng cố, lặp đi, lặp lại thành thói quen, thành phong tục, tập quán. Giai cấp bị trị do bị tước đoạt, mất tư liệu sản xuất nên ở vào địa vị phụ thuộc trong xã hội, do vậy họ không có điều kiện phát triển đạo đức của mình ngang tầm với đạo đức của giai cấp thống trị. Đạo đức của họ không có điều kiện ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội, nó tồn tại như cái không chính thống và dễ bị mai một trong khi đạo đức của giai cấp thống trị được sự "hậu thuẫn" thường có sức sống dai dẳng và lâu bền hơn. Cũng như nhà nước, pháp luật luôn thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Là công cụ trong tay giai cấp thống trị về kinh tế, pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp đó, ghi nhận, bảo vệ những lợi ích và là công cụ bảo vệ địa vị thống trị xã hội. Thông qua nhà nước, bằng con đường nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được tập trung thành ý chí nhà nước và được nâng lên thành pháp luật. Trong nhà nước XHCN, đạo đức và pháp luật vẫn mang tính giai cấp. Xã hội XHCN vẫn còn là xã hội có giai cấp, lợi ích của các giai cấp vẫn chưa hoàn toàn đồng nhất, lực lượng chống phá CNXH vẫn còn nhiều, do đó mà tính giai cấp của pháp luật và đạo đức vẫn biểu hiện rõ nét. Bên cạnh tính giai cấp, cả đạo đức và pháp luật đều mang tính xã hội, bởi chúng đều phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội như những điều kiện lịch sử, văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán, điều kiện tự nhiên. Pháp luật và đạo đức đều là những công cụ tổ chức và quản lý đời sống xã hội, điều chỉnh các QHXH, giữ gìn ổn định, trật tự xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Khi đó cả pháp luật và đạo đức đều là những chuẩn mực chung của xã hội, nó là kết quả của quá trình chọn lọc và đào thải một cách tự nhiên trong cách xử sự của con người, để giữ lại những cách xử sự hợp lý nhất, phù hợp với lợi ích của số đông trong xã hội, phù hợp với lợi ích của toàn thể dân tộc. 1.2.2. Sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức Thứ nhất, về con đường hình thành và hình thức biểu hiện. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Xã hội nguyên thủy chưa có nhà nước, cũng chưa có pháp luật. Để tổ chức và quản lý đời sống xã hội, người nguyên thủy dùng đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo. Những quy phạm này điều chỉnh rất có hiệu quả đối với QHXH trong điều kiện một xã hội thuần nhất và lợi ích của các thành viên trong xã hội là đồng nhất. Khi trong xã hội có kẻ giầu người nghèo, sự phân hóa giai cấp sâu sắc thì các quy phạm xã hội này dần mất đi tác dụng do tính đa dạng của các loại lợi ích khác nhau trong xã hội. Để điều chỉnh các QHXH trong một điều kiện mới, thông qua nhà nước, hình thành một loại quy tắc xử sự mới, đó là pháp luật. Những quy tắc xử sự mới này được hình thành bằng ba con đường: Một là, Nhà nước thừa nhận những quy tắc xử sự đang tồn tại phù hợp với điều kiện xã hội, không mâu thuẫn với lợi ích giai cấp cầm quyền và dùng quyền lực nhà nước đảm bảo cho nó được thực hiện trên thực tế. Hai là, Nhà nước thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể trên thực tế của các cơ quan nhà nước, lấy nó làm khuôn mẫu để giải quyết các việc có nội dung tương tự về sau. Ba là, Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước ban hành những văn bản trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật. Như vậy, pháp luật hình thành là kết quả của hoạt động tự giác, tư duy tích cực của nhà nước, tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội. Khi mới hình thành, pháp luật chủ yếu tồn tại ở dạng không thành văn. Sau này cùng với sự phát triển của xã hội, pháp luật ngày càng chủ yếu tồn tại dưới dạng văn bản QPPL. Cũng như pháp luật, đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả tất yếu của cuộc sống con người. Tuy nhiên, đạo đức chủ yếu hình thành bằng con đường tự phát. Chúng xuất hiện và tồn tại không cần qua một thiết chế xã hội nào mà chỉ cần sự thừa nhận của cộng đồng. Ban đầu chỉ là xử sự của một chủ thể nào đó, do nhu cầu, đòi hỏi của cuộc sống mà dần dần người ta ý thức được đó là điều nên làm, không nên làm, cần phải làm hay không được làm. Những quan niệm, quan điểm đầu tiên về cách thức xử sự giữa con người với nhau trong cuộc sống vì vậy mà từng bước được hình thành. Đạo đức cũng có thể được hình thành một cách tự giác, nó là kết quả hoạt động nhận thức thực tiễn và sáng tạo tích cực của những cá nhân tiêu biểu, những người có uy tín và địa vị trong cộng đồng xã hội. Xã hội nào cũng xuất hiện những cá nhân tiêu biểu, những vĩ nhân, những người có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội. Nhờ có những cá nhân ưu tú đó mà trí tuệ, nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân được đúc kết lại và được nâng lên một tầm cao mới. Khổng Tử, Thích Ca, Giê Su, Tôn Dật Tiên, Hồ Chí Minh... không chỉ là những tấm gương về đạo đức, mà còn là những người có đóng góp rất quan trọng vào việc hình thành những quan niệm, quan điểm, quy tắc đạo đức. Ngoài ra, những chuẩn mực đạo đức cũng có thể do các thiết chế xã hội đặt ra. Hình thành chủ yếu bằng con đường tự phát, đạo đức thường tồn tại ở dạng không thành văn và được truyền khẩu từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác. Cách biểu hiện thông thường nhất của đạo đức là qua tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, hò vè, qua những phong tục, tập quán, thói quen ứng xử của một cá nhân, một cộng đồng dân tộc. Đạo đức còn được thể hiện trong kinh thánh, trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật, trong các học thuyết về đạo đức, về chính trị - xã hội, trong các quy tắc, điều lệ, hương ước, khoán lệ của các thiết chế trong xã hội... Có thể nói, sự biểu hiện của đạo đức đa dạng và không có những hình thức đặc thù cho riêng mình. Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức bao gồm những quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức, trên cơ sở đó hình thành nên các quy phạm đạo đức, nó cũng bao gồm thái độ, tình cảm, sự đánh giá của cộng đồng xã hội cũng như bản thân chủ thể về hành vi đạo đức của họ... Như vậy yếu tố cơ bản của đạo đức, yếu tố cốt lõi hạt nhân của đạo đức là các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức, chính các yếu tố đó là cơ sở, là chất liệu làm nên mọi yếu tố còn lại của đạo đức. Giáo dục đạo đức trước hết và cơ bản là giáo dục quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức. Các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức bản thân nó không phải là những quy tắc xử sự, chúng không xác định rõ cách thức xử sự cho các trường hợp cụ thể, nhưng chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các QHXH. Chúng là những quan điểm chỉ đạo, những nhận thức chung cơ bản chi phối hành vi con người. Trên cơ sở các quan niệm, quan điểm này mà các quy phạm đạo đức được hình thành, hay nói cách khác, ẩn đằng sau những quan điểm, tư tưởng đạo đức ấy chính là những quy phạm đạo đức. Chẳng hạn với tư tưởng "đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại" cộng đồng xã hội muốn mọi người phải khoan dung độ lượng, mở ra con đường sống cho những kẻ lạc lối lầm đường, cho những kẻ ăn năn hối cải. Hoặc với quan niệm: "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao" thì lại hướng con người đến sự đoàn kết, tương thân, tương ái trong lao động, sản xuất, trong sinh hoạt đời thường cũng như trong gian nan, khổ cực, chiến tranh... Chỉ là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo giản dị ấy, nhưng trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, nó đã tạo nên sức mạnh vật chất khổng lồ. Đoàn kết dân tộc, cố kết làng xã chính là chìa khóa để giải đáp cho sức mạnh thần kỳ của dân tộc Việt Nam trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Pháp luật được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng xu hướng chung là tồn tại một cách phổ biến dưới dạng các văn bản QPPL. Dưới hình thức tồn tại này, pháp luật thể hiện một cách tập trung nhất ý chí của nhà nước, đồng thời, khi đó nó cũng đảm bảo tính minh bạch, chính xác của pháp luật trong điều chỉnh các QHXH. Nói đến pháp luật là nói đến các quy phạm pháp luật, dù tồn tại ở dạng thành văn hay không thành văn thì pháp luật cũng luôn được thể hiện dưới dạng các quy tắc xử sự - các quy phạm pháp luật. Chỉ trong một số trường hợp nhất định, khi thật cần thiết mà các QPPL chưa đầy đủ thì các quan niệm, quan điểm, tư tưởng pháp luật mới đóng vai trò bổ sung, thay thế cho các QPPL trong việc điều chỉnh hành vi con người. Như vậy có thể thấy, con đường hình thành và hình thức thể hiện của pháp luật và đạo đức có sự khác biệt căn bản: Pháp luật hình thành từ hoạt động tự giác, đó là quá trình các chủ thể được nhà nước giao quyền chủ động, tích cực xây dựng các quy tắc xử sự (QPPL) trên cơ sở khoa học lý luận, trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và phù hợp với điều kiện khách quan của cuộc sống. Nhờ vậy mà quá trình xây dựng các QPPL được thực hiện nhanh chóng, thể hiện chính xác ý chí của chủ thể quản lý trong quá trình điều chỉnh các QHXH phát triển theo định hướng thống nhất. Ngược lại đạo đức chủ yếu hình thành bằng con đường tự phát. Do vậy quá trình thành những quy phạm đạo đức phải trải qua thời gian lâu dài, mang tính dàn trải, tản mạn. Nhiều khi phải qua thực tế kiểm nghiệm rất lâu mới xác định được tính đúng đắn, hữu ích của loại quy phạm đạo đức đó. Mặt khác, với hình thức biểu hiện qua các loại hình văn hóa nghệ thuật, được truyền khẩu từ đời này sang đời khác, từ miền này sang miền khác, nội dung của các quy phạm đạo đức dễ bị sai lệch qua nhiều dị bản, người đọc có thể hiểu không thống nhất do tính đa nghĩa của loại hình ngôn ngữ này. Các quy phạm đạo đức không có hình thức biểu hiện đặc thù nên việc nghiên cứu, sưu tầm và hệ thống hóa loại quy phạm này là khó khăn, mất nhiều thời gian và công sức. Ngoài ra các quy phạm đạo đức thường không xác định rõ cách thức xử sự cho từng trường hợp cụ thể mà chỉ đưa ra định hướng chung cho hành vi của con người, chúng cũng không chỉ rõ điều kiện, hoàn cảnh tác động cũng như dự liệu được các biện pháp chế tài cụ thể. Trong khi đó, con đường hình thành và hình thức biểu hiện của QPPL lại khắc phục được các yếu điểm này của quy phạm đạo đức. Bởi vậy nếu các giá trị tư tưởng, quan điểm, quan niệm đạo đức được kết hợp với pháp luật, được thể hiện các giá trị tiến bộ, tích cực của mình ngay từ giai đoạn xây dựng pháp luật và trong cùng một phương thức biểu hiện của QPPL thì hệ thống pháp luật đó sẽ phát huy được sức mạnh nội lực của cả pháp luật và đạo đức khi điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Thứ hai, về biện pháp đảm bảo thực hiện. Biện pháp đảm bảo thực hiện được coi là một trong những điểm khác nhau rõ nét giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật do nhà nước ban hành nên nó được nhà nước đảm bảo thực hiện. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, Nhà nước có thể sử dụng một hay kết hợp nhiều biện pháp như tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, các biện pháp kinh tế, hành chính và cuối cùng là cưỡng chế nhà nước. Thông qua bộ máy tuyên truyền, phổ biến pháp luật của nhà nước, người dân nắm bắt được những quy định của pháp luật, từ đó họ chủ động điều chỉnh hành vi của mình đi theo một "hành lang pháp lý" mà Nhà nước định hướng sẵn. Nhà nước cũng trực tiếp tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật trong những trường hợp người dân không thể thực hiện được hoặc thực hiện không nghiêm chỉnh các quyết định của pháp luật. Bằng biện pháp khuyến khích về vật chất, tạo ra cho chủ thể sự quan tâm đến các lợi ích vật chất, Nhà nước làm cho các chủ thể tích cực tự giác thực hiện những quy định của pháp luật. Nhà nước cũng thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong xã hội nhằm thực hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các hành vi VPPL. Hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu do hành vi VPPL của họ có thể là về vật chất, về tinh thần, về tính mạng của chính chủ thể. Tuy nhiên, đó là những hậu quả bất lợi mà họ phải gánh chịu trong hiện tại và sự phán xét đánh giá từ phía nhà nước cũng chỉ trong một thời gian nhất định thông qua việc nhà nước quy định hiệu lực về thời gian của các QPPL. Tất cả những biện pháp nhà nước bảo đảm cho pháp luật thực hiện đều chỉ là sự tác động từ bên ngoài đối với chủ thể, thông qua một bộ máy chuyên môn với đầy đủ sức mạnh được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Ngoài các biện pháp đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, việc đảm bảo thực hiện pháp luật còn được thực hiện bằng một số biện pháp xã hội khác như giáo dục trong gia đình, nhà trường, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, bằng sự tự nguyện, tự giác của chủ thể khi đạt tới "văn hóa pháp lý" của công dân. Đối với đạo đức, Nhà nước cũng góp phần quan trọng làm cho nó được thực hiện, nhất là khi nó phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, của Nhà nước hay của cộng đồng xã hội; phù hợp với những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục của dân tộc mà Nhà nước thấy có ý nghĩa trong việc xây dựng nhân cách con người mới, trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc. Tuy nhiên, đảm bảo bằng nhà nước đối với việc thực hiện đạo đức không phải là biện pháp cơ bản và chủ yếu. Đạo đức được đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, cơ bản và chủ yếu là nhờ các biện pháp phi nhà nước. Khác với pháp luật, "đạo đức được đảm bảo trước hết nhờ vào những yếu tố kích thích nội tâm của con người - sức mạnh từ bên trong, từ lương tâm, từ thói quen xử sự và từ sức mạnh bên ngoài - dư luận xã hội" [26, tr.13]. Một trong các biện pháp đảm bảo cho đạo đức được thực hiện, trước tiên phải kể đến biện pháp tuyên truyền giáo dục - biện pháp đầu tiên tác động vào tư duy, tình cảm nhận thức của con người. Đây là biện pháp có thể tiến hành bởi nhiều chủ thể, tại nhiều địa điểm, hoàn cảnh và đem lại hiệu quả lâu dài bởi chỉ bằng sự tự ý thức, tự cảm nhận, các chủ thể mới có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình một cách lâu bền, đặc biệt trong các mối QHXH có gắn với yếu tố tình cảm, tâm linh... Chính thông qua giáo dục mà nhân cách con người được hình thành và xây đắp bổ sung. Môi trường xã hội chính là nơi để các chủ thể tự học hỏi và xây dựng "lương tâm" cho mình. Lương tâm của mỗi người không phải là phạm trù thiên bẩm có sẵn mà "phần nhiều do giáo dục mà nên" [21]. Có lương tâm, chủ thể nhận thức được ý nghĩa tích cực, tác dụng to lớn trong xử sự của mình, từ đó mà hào hứng, nhiệt tình hăng say, tự giác thực hiện một việc nào đó, hoặc kiềm chế không thực hiện một hành vi nào đó. Có thể ví lương tâm của chủ thể như một vị quan tòa công minh, phán xét một cách khách quan các hành vi của chủ thể, nó như một người "chiến sĩ cảnh sát" luôn theo sát mỗi việc làm, mỗi hành động của chủ thể mà không một cơ quan hay bộ máy nào có thể sánh bằng. Khác với các biện pháp cưỡng chế nhà nước, sự phán xét của "tòa án lương tâm" không chỉ diễn ra trong hiện tại mà nó "triền miên, day dứt, thậm chí trong suốt cả cuộc đời người vi phạm" [26, tr.17]. Vì thế mà trong dân gian luôn có câu: "Trăm năm bia đá thì mòn, Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ" Dư luận xã hội là biện pháp đảm bảo rất quan trọng của đạo đức. Dư luận xã hội có sức mạnh rất to lớn trong việc tác động đến ý thức và hành vi con người. Trên cơ sở các chuẩn mực đạo đức, dư luận đánh giá hành vi đó thiện hay ác, thật hay giả, tốt hay xấu... qua đó thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối một hành vi nào đó. Sống trong cộng đồng, không ai có thể xa lánh hoặc trốn chạy dư luận mãi mãi, mỗi người đều nằm trong mối quan hệ đan xen mà buộc phải chấp nhận để có thể tồn tại. Người nào chỉ thoát ra khỏi mối quan hệ ._.sự quản lý và phục vụ trong thời kỳ mới. Phải cải cách, tạo mô hình mới về tổ chức và hoạt động hợp lý của bộ máy hành chính nhà nước, tạo cơ chế để cán bộ, công chức có điều kiện làm tốt, cống hiến và phát huy hết năng lực của mình. + Loại giải pháp về đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ công chức như: Cải cách tiền lương đảm bảo cho cán bộ công chức không phải tìm việc kiếm sống thêm, hạn chế tham nhũng, sách nhiễu. Chế độ tiền thưởng, tiền lương phải phản ánh đúng giá trị cống hiến, lao động của cán bộ công chức, tạo cho họ động lực mạnh mẽ khi thực hiện công vụ của mình. + Loại giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ công chức, giám sát, ngăn ngừa và xử phạt vi phạm đạo đức công vụ. Loại giải pháp này đòi hỏi phải có quy định rõ, cụ thể các hành vi cán bộ, công chức không được làm, có chế tài đối với các hành vi vi phạm đạo đức. Tăng cường kiểm tra, thanh tra công vụ, tăng cường kỷ luật, chống tham nhũng, quan liêu. Xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và hoạt động công vụ. Hoàn thiện và thực hiện tốt quyền dân chủ, đặc biệt là quyền dân chủ cơ sở để dân thực hiện tốt quyền trực tiếp và gián tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, công chức. Hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, làm rõ thẩm quyền quản lý từng loại cán bộ, công chức của từng cấp, từng ngành, từng cá nhân đứng đầu để rõ quyền hạn, trách nhiệm trong quản lý và chịu trách nhiệm đối với hoạt động công vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền. + Tiếp tục hoàn thiện thể chế về đạo đức công vụ, có các quy định cụ thể, đầy đủ về tiêu chuẩn đạo đức cho từng đối tượng cán bộ, công chức như: Đạo đức công chức hành chính, đạo đức nghề nghiệp thầy giáo, thầy thuốc, đạo đức khoa học, đạo đức cán bộ tư pháp .... Trên cơ sở đó hình thành dần, hoàn thiện dần thể chế đạo đức công vụ để có thể xây dựng Luật đạo đức công chức, công vụ trong khoảng thời gian sắp tới. 2.2.3. Đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức, pháp luật trong gia đình, nhà trường, xã hội Giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức là là sự tác động tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người kiến thức pháp luật, tri thức đạo đức nhất định, để từ đó họ ý thức được yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước và xã hội và tự giác xử sự theo yêu cầu, đòi hỏi đó. Giáo dục đạo đức, pháp luật cho các tầng lớp dân cư trong xã hội là vấn đề cực kỳ quan trọng, đặc biệt là đối với đội ngũ cá nhân làm công tác quản lý-chủ thể của hoạt động QLNN. Con người ta sinh ra không phải "bản tính thiện" hay "bản tính ác" mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Thiện ác đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên" [21, tr.31]. Chỉ trên cơ sở thấm nhuần các quan niệm, quan điểm đạo đức, nắm vững các quy định của pháp luật thì mới có cơ sở cho việc thực hiện chúng một cách đúng đắn trên thực tế. Việc giáo dục pháp luật, đạo đức được tiến hành cho các đối tượng phải đạt được những mục đích cụ thể sau đây: Thứ nhất, giáo dục pháp luật, đạo đức phải nhằm hình thành sâu sắc và mở rộng hệ thống tri thức về pháp luật, về các giá trị, chuẩn mực về đạo làm người, về đối nhân xử thế (mục đích nhận thức). Thứ hai, giáo dục pháp luật, đạo đức phải nhằm hình thành tình cảm, lòng tin với pháp luật, với các giá trị đạo đức của dân tộc (mục đích cảm xúc). Thứ ba, giáo dục pháp luật, đạo đức nhằm hình thành ở mỗi con người những động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực trong cuộc sống (mục đích hành động). Để đạt được cả ba mục đích trên, công tác giáo dục pháp luật, đạo đức phải thực hiện những nội dung cơ bản sau: * Về nội dung giáo dục: Đối với pháp luật, cần phải hình thành ở mỗi con người sự hiểu biết những nội dung cơ bản của pháp luật, thái độ tôn trọng, sống và làm việc theo pháp luật, có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời không xâm phạm đến quyền và lợi ích người khác, bảo đảm quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng, lợi ích chung xã hội. Đối với đạo đức: Phải giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống tiêu biểu của dân tộc, phản đón bắt kịp thời những giá trị đạo đức tinh hoa của nhân loại, nhưng cao hơn hết là xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức XHCN. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) hai nhóm hệ thống giá trị đạo đức thời nay gồm có: Những giá trị chung, lý tưởng nhân đạo, chính sách nhân đạo, lối sống nhân đạo, vẻ đẹp tâm hồn, hòa bình - hòa hợp, bình đẳng - công lý, nhân quyền, dân quyền", còn những giá trị riêng là: "Lòng nhân ái, lòng vị tha, yêu thiên nhiên, thận trọng, sáng tạo, công bằng, sòng phẳng, tự giác, tự trọng ... [35, tr.258]. Muốn vậy công tác giáo dục pháp luật, đạo đức cần phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục trong gia đình, trường học, trong cơ quan Nhà nước hay ngoài cộng đồng dân cư. Một mặt, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật, mặt khác cần chú trọng việc giáo dục đạo đức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên. Cần đem đến cho họ những hiểu biết về các quan niệm đạo đức tốt đẹp của dân tộc, cần làm hình thành ở họ niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm. Qua đó tạo nên trong mỗi người phẩm chất, nhân cách tốt đẹp của con người. Bên cạnh đó cần có sự phê phán mạnh mẽ để từng bước đi tới loại bỏ các yếu tố lạc hậu trong các quan niệm, quan điểm đạo đức của dân tộc. Đồng thời có thái độ đúng đắn trong việc tiếp thu các giá trị đạo đức tiến bộ trong kho tàng văn minh nhân loại. Trong công tác này, cần chú ý từng đối tượng mà nhấn mạnh yếu tố đạo đức hay yếu tố pháp luật. Đối với độ tuổi mầm non, tiểu học và bậc học phổ thông cần chú ý giáo dục luân lý, gia phong, giáo dục cho các em nghĩa vụ, bổn phận của đạo làm con, làm em, làm học trò .... đối với thanh niên cần chú trọng giáo dục tư tưởng đạo đức cách mạng, tư cách công dân, đối với cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước trước tiên phải nhấn mạnh thái độ tôn trọng pháp luật, tinh thần sống làm việc theo pháp luật, làm đúng chức trách của mình và đồng thời coi trọng giáo dục, tuyên truyền đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. * Về hình thức giáo dục, tuyên truyền: Giáo dục pháp luật và đạo đức là việc làm không đơn giản, đòi hỏi phải kiên nhẫn, bền bỉ, đó là một quá trình lâu dài nhằm tác động vào tư duy, tình cảm để rồi có sự "chuyển hóa" thành các hành vi, lối ứng xử khác nhau của các chủ thể trong cuộc sống. Chính vì vậy việc giáo dục pháp luật, đạo đức cần phải tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, song có thể kể đến ba hình thức chủ yếu cơ bản sau đây: - Giảng dạy pháp luật và đạo đức: Là hình thức giáo dục pháp luật, đạo đức cơ bản. Nó đem lại những kiến thức căn bản và sâu rộng về pháp luật và đạo đức. Đây là hình thức giáo dục pháp luật, đạo đức tốt nhất do không chỉ tạo điều kiện cho việc thực hiện các quy tắc xử của pháp luật, của đạo đức mà còn giúp cho việc kiểm tra sự nhận thức đúng đắn về pháp luật và các giá trị đạo đức của các chủ thể thực hiện. Mặt khác những kiến thức sâu rộng và vững chắc về pháp luật, về đạo đức do hình thức này mang lại là cơ sở tốt nhất cho việc tuyên truyền rộng rãi các giá trị pháp luật, đạo đức trong các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên hình thức giáo dục này có nhược điểm là không đại chúng khi được triển khai sâu rộng trong nhân dân. - Tuyên truyền pháp luật, đạo đức cho nhân dân: Với hình thức này tuyên truyền pháp luật, đạo đức có thể được thực hiện thông qua việc đóng góp ý kiến xây dựng luật, xây dựng các hương ước, quy ước làng xã, xây dựng nội quy, quy chế sinh hoạt ở cơ quan; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua các hình thức sân khấu hóa; qua hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý; qua các phiên tòa xét xử lưu động ... Đặc điểm của hoạt động tuyên truyền này là nó theo sát đời sống thực tế, gắn bó với nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền dân chủ, đồng thời thực hiện sự giám sát của nhân dân, chống sự lạm dụng, cục bộ, phiến diện trong công tác xây dựng luật pháp. Nó cũng là phương thức hiệu quả nhất để chuyển tải các giá trị đạo đức thành giá trị pháp luật, làm cho văn bản pháp luật nhanh chóng đi vào đời sống sau khi ban hành. - Giáo dục pháp luật, đạo đức còn được thực hiện thông qua thực tiễn thực hiện pháp luật và đạo đức. Dưới góc độ tâm lý, những tri thức pháp luật được tiếp thu dưới hình thức này có khả năng cao cho việc hình thành thói quen xử sự tuân theo pháp luật như một nếp sống. Then chốt trong hình thức giáo dục pháp luật này là sự gương mẫu của cán bộ, công chức, trong việc chấp hành cũng như trong việc ban hành quyết định áp dụng pháp luật. Hình ảnh đọng lại trong tâm lý pháp lý của người dân về xử sự của những cán bộ này trực tiếp "vun đắp" hoặc ngược lại, làm "xói mòn" giá trị của pháp luật, làm méo mó hình ảnh của NNPQ. Đối với đạo đức, bên cạnh các hình thức nêu trên thì đây là hình thức giáo dục có hiệu quả nhất bởi đạo đức luôn được tiếp nhận từ trong nội tâm ra. Đối với đạo đức "Học thầy không tày học bạn" là có tác dụng hơn cả. Chính các tấm gương đạo đức mẫu mực, trong sáng, trung thực, thủy chung có giá trị giáo dục nhanh chóng và mạnh mẽ hơn là những quy định pháp luật khô cứng. Cần lưu ý là, giáo dục pháp luật và đạo đức trong tình hình hiện nay đòi hỏi nội dung của nó phải gắn liền với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật, về sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức. Không có thứ đạo đức và pháp luật chung chung, chỉ có đạo đức và pháp luật phù hợp với chế độ chính trị của ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật là sự đáp ứng tốt nhất cho yêu cầu đó trong hoàn cảnh đất nước có nhiều chuyển biến căn bản, có tính chất bước ngoặt như hiện nay. Bên cạnh đó, dù được tiến hành giáo dục pháp luật, đạo đức dưới loại hình nào, thì cũng phải chú trọng đến chủ thể tiến hành giáo dục. Họ phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, trong sáng, mẫu mực cho người khác noi theo. Không thể tuyên truyền đạt hiệu quả khi chính người có quyền "rao giảng" đạo đức, pháp luật lại không nắm vững pháp luật, bản thân và gia đình có hành VPPL, có lối sống xa hoa, ích kỷ, thực dụng, đi ngược lại với "luân thường, đạo lý". Trong trường hợp này công tác giáo dục pháp luật, đạo đức sẽ mang hiệu quả phản tác dụng. * Về công tác tổ chức phối kết hợp: Công tác giáo dục pháp luật, đạo đức, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các thiết chế khác trong xã hội. Gia đình có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giáo dục pháp luật và đạo đức. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách của con người, muốn có những con người tốt thì gia đình phải hòa thuận, yên ấm, các thành viên trong đó phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, gia đình có yên thì quốc gia mới thịnh vượng. Vì vậy cần phải nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách con người, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Cha mẹ, ông bà phải thực sự là những tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Đây cũng chính là lý do tại sao trong Luật hôn nhân gia đình (2000), quan điểm chủ đạo của Nhà nước khi xây dựng mô hình gia đình lại quay trở về với mô hình gia đình truyền thống đa thế hệ thay cho mô hình gia đình hạt nhân như trong Luật hôn nhân gia đình (1986). Đây là mô hình lý tưởng cho các thành viên trong gia đình có điều kiện chăm sóc yêu thương và dạy bảo lẫn nhau. Nhà trường là một thiết chế rất quan trọng trong công tác giáo dục, đạo đức, pháp luật, bởi nó thực hiện đồng thời các chức năng: Dạy chữ, dạy nghề và dạy người. Sau gia đình và đồng thời với gia đình, nhà trường là nơi giúp cho con người hình thành nhân cách lối sống. Vì vậy, trong nhà trường phải coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, coi trọng công tác giáo dục, truyền thống lịch sử của dân tộc. Khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" cần phải được thực hiện một cách triệt để trong các môn ở học đường. Công tác giáo dục pháp luật trong các trường học cần phải được chú trọng hơn. Nội dung chương trình phải phù hợp với từng cấp học, từng đối tượng khác nhau. Các thiết chế xã hội khác, đặc biệt là tổ chức Đảng Cộng sản, Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Đội thiếu niên tiền phong... cũng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục pháp luật, đạo đức đối với các thành viên, hội viên trong tổ chức đó nói riêng, các thành viên trong xã hội nói chung. Ngoài ra, cũng cần phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của các tôn giáo, vận động các tổ chức tôn giáo tham gia tuyên truyền giáo dục pháp luật và đạo đức trong giáo dân. Như vậy, giáo dục pháp luật, đạo đức cho công dân là một việc làm quan trọng có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta hiện nay. Thực hiện công tác này tốt chính là việc làm có hiệu quả để kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN. Tuy nhiên phải nhận thức rõ rằng: Đây là một quá trình lâu dài, khó khăn, trách nhiệm giáo dục pháp luật, đạo đức không chỉ thuộc về Nhà nước, các tổ chức xã hội mà trong đó phải phát huy vai trò nỗ lực của các cá nhân trong việc tự giáo dục nâng cao hiểu biết pháp luật, hoàn thiện nhân cách sống của mình. Có như vậy hiệu quả của công tác giáo dục mới thực sự có ý nghĩa lan rộng và bền vững. 2.2.4. Xử lý vi phạm pháp luật phải gắn liền với việc củng cố các giá trị đạo đức truyền thống và các giá trị đạo đức mới xã hội chủ nghĩa . Đấu tranh chống VPPL là một hoạt động trong quá trình xây dựng NNPQ, đồng thời cũng là một khâu quan trọng trong quá trình QLNN. Bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức cho nhân dân thực hiện pháp luật thì phải nghiêm khắc trong quá trình xử lý vi phạm. Đây là hai vấn đề có liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau bởi chỉ giáo dục mà không xử phạt vi phạm sẽ dẫn đến khinh nhờn phép nước, chỉ quan tâm xử phạt mà không giáo dục, hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật thì lại càng không thu phục lòng dân. Vì vậy, việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong phòng chống VPPL phải xuất phát từ một nguyên tắc căn bản: xử lý hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật và phát huy truyền thống dân tộc, xây dựng những giá trị đạo đức XHCN để ngăn chặn tận gốc hành vi VPPL. Thực tế cuộc đấu tranh chống tội phạm hiện nay cho thấy, trước đây mọi hành vi VPPL hầu như không có chỗ dựa trong dư luận xã hội, chúng nhanh chóng bị nhân dân với "Trăm tai, nghìn mắt" chủ động phát hiện và nhanh chóng lên án. Những vi phạm đó thường được coi là những hành vi phá hoại sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, sự nghiệp phấn đấu tất cả cho nền độc lập của Tổ quốc, cho công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Việc tội phạm có tổ chức ít xảy ra, hiện tượng phạm tội kiểu băng đảng xã hội đen là hiếm có. Còn hiện nay, hoàn cảnh xã hội đã khác trước. Hoàn cảnh này làm cho một số giá trị đạo đức truyền thống mất phương hướng, thậm chí bị biến dạng trong cuộc đấu tranh chống hành vi VPPL. Những khó khăn thường nhật khi phải tự lo cho cuộc sống, cộng với cơ chế xin cho bao cấp chưa thể khắc phục ngay trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã khiến cho một bộ phận không nhỏ cán bộ dao động và từ từ đi vào con đường tham nhũng với muôn vàn lý do "chính đáng" mà ban đầu thường là miếng cơm, manh áo. Những hành vi vi phạm khác như vi phạm kỷ luật lao động, trật tự trị an hầu như cũng tìm được lý do "chính đáng" nào đó về mặt xã hội, và nguy hại hơn là, xã hội có lúc hầu như mất "phản ứng tự vệ" đối với các hành vi vi phạm và tội phạm. Sự trù dập, đe dọa, thậm chí trả thù người khiếu nại tố cáo xảy ra phổ biến khó ngăn chặn. Ngay tại phiên tòa trừng trị băng nhóm tội phạm sừng sỏ Năm Cam vẫn có thể nhận, thấy dư luận xã hội chưa thực sự là chỗ dựa an toàn cho cuộc đấu tranh quyết liệt chống tội phạm. Rất nhiều nhân chứng là người dân lao động bình thường đã thay đổi lời khai theo hướng có lợi cho kẻ phạm tội vì lo sợ bị trả thù. Những hiện tượng trên càng cho thấy rằng, khi ngăn chặn VPPL chỉ xử phạt để trừng trị thôi thì không đủ, không thể loại trừ hết vi phạm nếu không dựa vào lực lượng quần chúng nhân dân. Để động viên lực lượng này chống vi phạm pháp luật đương nhiên không thể chỉ dựa vào những quy định của pháp luật được mà còn phải dựa vào những giá trị đạo đức, trong đó giá trị đạo đức truyền thống có vai trò quan trọng, còn giá trị đạo đức mới XHCN có vai trò quyết định. Muốn vậy, một mặt cần phải có biện pháp ngăn ngừa sự biến dạng của đạo đức truyền thống, khôi phục giá trị xã hội của nó, mặt khác phải tích cực xây dựng những giá trị đạo đức mới XHCN. Để giải quyết vấn đề này, xuất phát từ thực trạng VPPL và các tệ nạn xã hội hiện nay, một thực trạng đang được đánh giá chính thức là "nhức nhối”, cần phải kiên quyết thiết lập trật tự xã hội bằng pháp luật, trừng trị không khoan nhượng hành vi phạm tội, nhất là phạm tội có tổ chức, phạm tội kiểu xã hội đen. Phải từng bước động viên khuyến khích nhân dân tham gia phong trào đấu tranh chống tiêu cực xã hội, phát hiện và nêu gương "người tốt, việc tốt", đồng thời cần hết sức lưu ý việc đãi ngộ thỏa đáng về tinh thần và vật chất đối với những người tham gia tích cực trong cuộc đấu tranh này. Không có chỗ dựa ở chính sách xã hội thỏa đáng thì mọi hành vi tích cực sẽ chỉ là nhất thời, nhanh chóng bị thui chột. Hiện nay có rất nhiều gương, do dũng cảm dám đương đầu với hành vi vi phạm và tội phạm mà tổn hại đến sức khỏe, tính mạng, song mới chỉ được hỗ trợ vật chất mà không có danh hiệu nào về tinh thần, xét dưới góc độ Nhà nước. Sinh thời, Hồ Chí Minh rất chú trọng công tác này qua việc chỉ đạo xuất bản sách người tốt, việc tốt. Trong tám năm, từ năm 1959 đến năm 1966, Người đã đọc hết các báo xuất bản ở Trung ương và địa phương, cả bản tin của Việt Nam thông tấn xã. Thấy bài nào nêu gương người tốt, việc tốt, Người chỉ thị văn phòng phải thưởng huy hiệu Bác Hồ, đồng thời cắt những bài báo ấy dán vào bản tin, đóng lại thành tập. Tất cả gồm 4.300 gương người tốt, việc tốt trong 18 tập dầy. Sau này, Người giao cho Vụ xuất bản biên tập thành sách Người tốt việc tốt [1, tr.233]. Cuốn sách này thực sự phát động một phong trào thi đua sôi nổi trong cả nước, đã khơi dậy và kết hợp sức mạnh cá nhân thành sức mạnh dân tộc để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Đây thực sự là một bài học kinh nghiệm quý báu cho chúng ta về việc phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân trong phòng và chống tội phạm, bảo vệ các giá trị đạo đức nền tảng của dân tộc. Pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng không chỉ trừng trị, xử lý vi phạm mà còn phải khuyến khích, nâng đỡ và bảo vệ người dân trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, khen thưởng kịp thời, thỏa đáng những hành vi tích cực bảo vệ pháp luật, bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội. Xây dựng đạo đức không thể tách rời quá trình nêu cao vai trò pháp luật, coi xử lý vi phạm theo pháp luật là điều kiện cần để điều kiện đủ là đạo đức phát huy vai trò chống tận gốc đối với mọi hành vi VPPL. Kết luận chương 2 Đạo đức và pháp luật là hai loại quy phạm xã hội có tầm quan trọng rất lớn trong việc điều chỉnh các QHXH, duy trì một trật tự xã hội nhất định để tạo động lực cho sự phát triển. Đạo đức và pháp luật trong quá trình tác động lên các QHXH có mối quan hệ, tác động qua lại mật thiết với nhau. Đời sống pháp luật mang đậm màu sắc đạo đức và đời sống đạo đức chịu sự tác động không nhỏ của pháp luật. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đạo đức và pháp luật đang có xu hướng biến động rất phức tạp, đang có sự đan xen giữa nhiều giá trị cũ và những giá trị mới, giữa những cái tiến bộ và những cái lạc hậu. Do vậy, hoàn thiện pháp luật và định hướng phát triển đạo đức là việc làm cần thiết và tất yếu trong quá trình đổi mới đất nước ở giai đoạn hiện nay. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phải gắn liền với việc thực thi pháp luật một cách có hiệu quả. Nhờ đó mới tạo ra được một hành lang pháp lý vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ để các chủ thể trong xã hội yên tâm đóng góp công sức của mình cho công cuộc xây dựng đất nước. Việc định hướng đạo đức phải góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống mới phù hợp với thời đại và hạn chế, bài trừ những tàn dư tư tưởng lạc hậu. Có như vậy mới tạo ra một lớp người mới vừa có tài, vừa có đức để xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Hai việc làm này không độc lập mà được tiến hành song song với nhau. Việc hoàn thiện pháp luật sẽ góp phần định hướng đúng đắn cho đạo đức và ngược lại việc xây dựng những phẩm chất, đạo đức tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ nâng cao hiệu quả của quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Kết luận -Pháp luật và đạo đức là những công cụ quản lý quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động QLNN. Để sử dụng pháp luật cũng như đạo đức một cách có hiệu quả, trước hết đòi hỏi các cấp quản lý, các tổ chức chính trị-xã hội và mỗi công dân phải có sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về bản chất, vị trí, vai trò, những ưu điểm và hạn chế của từng yếu tố cũng như sự tác động qua lại, bổ sung cho nhau giữa chúng. Đồng thời, chúng ta phải nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phối kết hợp pháp luật và đạo đức trong hoạt động QLNN, đặc biệt ở giai đoạn hiện nay. Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ qua lại chặt chẽ, đạo đức là cơ sở của việc xây dựng và bảo vệ pháp luật, đồng thời nó cũng là nhân tố quan trọng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng luôn được xác định trên một nền tảng đạo đức nhất định, khi pháp luật không phù hợp với đạo đức xã hội, sớm muộn nó cũng phải bị thay đổi cho phù hợp. Ngược lại, pháp luật cũng có sự tác động mạnh mẽ đối với đạo đức. Nó ghi nhận, củng cố và phát huy những quan niệm, quan điểm đạo đức của giai cấp thống trị, những quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống tiến bộ, loại trừ những quan điểm đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, không phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, với lợi ích của cộng đồng dân tộc; nó góp phần ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, nó góp phần hình thành những quan niệm, quan điểm đạo đức mới. -Hiến pháp 1992 tại Điều 2 khẳng định: “ Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đây là sự tiếp nối, sự kế thừa thành quả cách mạng của dân tộc cũng như những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng về xây dựng một kiểu Nhà nước mới: Nhà nước do dân là chủ và dân làm chủ từ năm 1945 đến nay. Nói đến NNPQ là nói đến nhà nước mà trong đó, pháp luật là tối thượng, là chuẩn mực xử sự cao nhất của mọi hành vi con người, trong nhà nước đó, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đây là công cụ đảm bảo cho hoạt động QLNN được công bằng, công khai, dân chủ. Tuy nhiên, là một Nhà nước á Đông giàu truyền thống văn hóa, coi trọng đạo lý như Việt Nam thì phải xem xét đến vai trò điều chỉnh các QHXH bằng một hệ thống các quy phạm đạo đức nhân bản, tiến bộ. Đảng và Nhà nước ta đã rất sáng suốt khi xác định: Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, các quan niệm đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Đây chính là biểu hiện của sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại trên một nền tảng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, trong những năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã được xây dựng trên nền tảng đạo đức cách mạng, đạo đức của nhân dân lao động. Để bảo vệ và phát huy các giá trị đạo đức, Nhà nước đã luật hóa các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống, đạo đức cách mạng, đã góp phần loại bỏ nhiều quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu, định hướng và xây dựng những giá trị đạo đức trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân xử lý VPPL chưa thật sự nghiêm minh, nhanh chóng nên trong thời gian qua, đạo đức xã hội có những biểu hiện xuống cấp khiến cho VPPL có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Điều này lại một lần nữa cho chúng ta nhận thấy sự cần thiết phải kết hợp pháp luật và đạo đức trong xây dựng và thực hiện pháp luật, trong phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, công dân khi tố giác, đấu tranh chống lại các biểu hiện VPPL. Một môi trường xã hội trong sạch, an toàn, các thang bảng giá trị đạo đức được xây dựng và bảo vệ vững chắc sẽ giúp cho quá trình QLNN bằng pháp luật được nghiêm minh, chính xác. Đó chính là nhân tố quyết định cho quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân và vì dân ở nước ta. -Trong phạm vi nghiên cứu và khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ Luật học, rất nhiều vấn đề về kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN chưa thể đặt ra và đi sâu nghiên cứu. Chẳng hạn, kết hợp pháp luật với đạo đức trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội; đạo đức và pháp luật trong hoạt động tự quản ở làng, xã; sự phối kết hợp giữa các công cụ điều chỉnh xã hội ở nước ta hay vai trò của đạo đức trong việc xây dựng nền văn hóa pháp lý... Tác giả luận văn hy vọng sẽ tiếp tục khai thác đề tài, nghiên cứu và làm rõ bản chất của những vấn đề đó đồng thời tìm được giải pháp tối ưu nhất trong xây dựng và QLNN pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đây chính là hướng nghiên cứu tiếp theo của tác giả sau này.  Danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả liên quan đến luận văn 1. Nguyễn Thuý Hoa (5/2005), "Tìm hiểu phương thức kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Nội san Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên, (1). 2. Nguyễn Thuý Hoa (5/2006), "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay", Bản tin Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên, (1). 3. Nguyễn Thuý Hoa (9/2006), "Đạo đức với vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội", Tạp chí Đảng trong cuộc sống ngày nay. 4. Nguyễn Thuý Hoa (9/2006), "Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Nhà nước pháp luật, Viện Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Danh mục tài liệu tham khảo Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Hà Nội. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Xuân Châu (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước - Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo (2002), Đạo đức trong nền công vụ, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. Hiến pháp Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội Luật gia Việt Nam (2000), Nhà nước và pháp luật, Tập 3, Nxb Lao động. Đỗ Huy (2002), Đạo đức học - Mỹ học & đời sống văn hóa nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn (2002), Từ điển thuật ngữ hành chính, Nxb Lao động, Hà Nội. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Hình sự (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Dân sự (2005) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghị định 17/2000/NĐ-CP về chính sách cứu trợ xã hội. C.Mác (1960), Tư bản, quyển II, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.ăngghen (1960), Toàn tập, Tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1993), Nhật ký trong tù, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. PV (2005), "Con nhà giàu... đi ăn cướp!!”, Báo người cao tuổi, (327), tr.1. Hoàng Thị Kim Quế (1999), "Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (7), tr.17. Hoàng Thị Kim Quế (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta, Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục và nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (12), tr.31. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Xu hướng vận động và phát triển của pháp luật và đạo đức ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (7), tr 13. Quốc Triều hình luật (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Vũ Xuân Thái (1998), Gốc và nghĩa từ tiếng Việt thông dụng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Thông tấn xã Việt Nam (2003), Theo những vấn đề nóng bỏng của các cấp lãnh đạo Trung Quốc sau Đại hội XVI ( Phần 1), Tài liệu tham khảo đặc biệt, Hà Nội. Vũ Tình (1998), Đạo đức học Phương Đông cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trung tâm Khoa học và Xã hội nhân văn, Viện Triết học (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình lý luận Nhà nước- pháp lý, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Khổng Tử (2002), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội. Nguyễn Cửu Việt (1997), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Huỳnh Khắc Vinh (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Bình Yên (2002), ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2663.doc
Tài liệu liên quan