Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------------
ĐỖ THỊ HƯỜNG
KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT
LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
THỂ LOẠI NGÂM KHÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN, NĂM 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------------
ĐỖ THỊ HƯỜNG
KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT
LỤC BÁT TRONG TIẾ
122 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2099 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Kết cấu vận luật của thể song thất lục bát trong tiến trình phát triển thể loại ngâm khúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N TRÌNH PHÁT TRIỂN
THỂ LOẠI NGÂM KHÚC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã Số:60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn:TS.Phạm Thị Phương Thái
THÁI NGUYÊN, NĂM 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do khoa học
Thể thơ song thất lục bát (STLB) là một trong những sáng tạo đáng tự
hào của văn học trung đại nói riêng và của nền văn học Việt Nam nói chung.
Từ bƣớc chập chững, “ngập ngừng” dần dần đi đến ổn định và trở thành một
thể thơ cách luật, từ lúc chỉ đƣợc dùng để ngâm nga, ca tụng đến khi trở thành
một thể tài hữu hiệu để diễn tả sâu sắc, tinh tế thế giới nội tâm của con ngƣời,
STLB đã trải qua hành trình mấy thế kỷ, với sự góp công của biết bao thế hệ
thi sĩ. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu, chúng tôi thấy đã có một số bài viết,
công trình khoa học tìm hiểu những vấn đề về đặc trƣng, nguồn gốc và quá
trình hoàn thiện thể STLB. Hầu hết ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trƣớc
đều đã đƣợc biện giải khá thuyết phục. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điểm cần
nhìn nhận lại và bàn thêm. Chẳng hạn, đành rằng, ngọn nguồn của thể STLB
là văn học dân gian. Nhƣng đó không phải là nguồn gốc duy nhất của thể thơ
này. Có thể thoát thai từ câu hát dân gian nhƣng chắc chắn phải nhờ sự “thi
công” của nhiều thế hệ thi sĩ tài hoa, tinh tế thì STLB mới trở thành một thể
thơ cách luật, mới có thể tỏa sáng với những tác phẩm Ngâm khúc ở thế kỷ
XVIII – XIX. Và nhƣ vậy, sẽ thấy rõ hơn công lao của nhiều thế hệ thi sĩ
trong việc tìm tòi và sáng tạo một lối thơ riêng cho dân tộc.
Nghiên cứu STLB về kết cấu vận luật và tiến trình phát triển từ những
dấu hiệu đầu tiên cho đến bƣớc hoàn tất với các khúc ngâm ở thể kỷ XVIII –
XIX, không những có dịp bàn thêm về đặc trƣng thể thơ STLB mà còn có thể
nhìn nhận quá trình vận động, phát triển của thể thơ STLB từ hình thức đến
nội dung nhƣ lẽ tất yếu, nhằm thỏa mãn nhu cầu phản ánh của thời đại.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Kết cấu vận luật của thể
song thất lục bát trong tiến trình phát triển thể loại Ngâm khúc”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 2 -
1.2 Lý do thực tiễn
Hiện nay, các tác phẩm viết bằng thể thơ STLB (Chinh phụ ngâm, Cung
oán ngâm, Văn chiêu hồn, Khóc Dương Khuê...) chiếm số lƣợng đáng kể
trong chƣơng trình giảng dạy ở các cấp học … Vì vậy, việc tìm hiểu đặc trƣng
kết cấu vận luật và tiến trình phát triển thể loại là việc làm cần thiết và hữu
ích đối với những ngƣời làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học. Thực
hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ trau dồi thêm những kiến thức về thi
pháp thể loại, tạo cơ sở chắc chắn về một hƣớng tiếp cận tác phẩm văn
chƣơng và góp thêm một tiếng nói nhằm xác định đúng giá trị của tác phẩm
văn học trong chƣơng trình giáo dục phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đáp ứng đƣợc nhu cầu tình cảm của con ngƣời trong bối cảnh lịch sử
nên ngay từ khi mới ra đời, STLB đã chiếm đƣợc lòng yêu mến của công
chúng thƣởng thức văn học. Với tƣ cách là một thể thơ dân tộc, hơn nữa lại là
thể loại có thành tựu rực rỡ trong văn học Việt Nam thời trung đại, STLB đã
thu hút đƣợc sự quan tâm đánh giá của các nhà nghiên cứu. Từ những thập
niên đầu thế kỷ XX đến nay, thể thơ này thực sự trở thành nội dung nghiên
cứu, tìm hiểu của các nhà văn học sử học và lý luận thơ ca.
2.1 Về nguồn gốc của thể STLB
Do hầu hết các thể thơ, thể văn trong văn học trung đại Việt Nam đều
có nguồn gốc từ Trung Quốc nên xung quanh vấn đề nguồn gốc của thể STLB
đã có rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Có quan điểm cho rằng thể thơ
STLB là thể thơ thuần túy của Việt Nam, quan điểm khác lại khẳng định thể
STLB là một hiện tƣợng lắp ghép giữa cặp thất ngôn của Trung Hoa và cặp
lục bát của Việt Nam. Gần đây, hầu hết giới chuyên môn đều thừa nhận STLB
là thể thơ của dân tộc ta. Tác giả Bùi Kỷ đã khẳng định đó là “lối văn riêng
của ta mà Tàu không có” [44, 82]. Nhà nghiên cứu Phƣơng Lựu cũng tán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 3 -
đồng quan điểm này. Ông đã khẳng định: “Thể thơ STLB được hình thành
trên cơ sở thể lục bát và thể thơ bảy chữ vốn có sẵn trong thơ ca dân gian
Việt Nam” [31, 452].
Trong bài viết “Đi tìm ngọn nguồn của cặp thất ngôn trong thể song
thất lục bát”, tác giả Phan Diễm Phƣơng đã tiến hành so sánh cấu trúc âm luật
của cặp thất ngôn Trung Hoa và cặp thất ngôn Việt Nam để từ đó rút ra kết
luận: “Điệu STLB là điệu hoàn toàn Việt Nam” [42, 38]. Sau đó, tác giả đƣa
ra cách lí giải và chứng minh thể thơ STLB có ngọn nguồn từ văn học dân
gian. Điều này chứng tỏ quan điểm cho rằng thể STLB thuần túy Việt Nam là
hoàn toàn chính xác.
Không dừng lại ở đó, Phan Diễm Phƣơng tiếp tục làm rõ nguồn gốc của
thể thơ này qua bài “Thử tìm hiểu những điều kiện hình thành hai thể thơ lục
bát và Song thất lục bát”. Từ những căn cứ đầy sức thuyết phục, tác giả thêm
một lần nữa khẳng định chắn chắn rằng “dân tộc Việt có đủ mọi điều kiện để
tạo nên thể thơ đó” [43, 33].
Về thời điểm xuất hiện những dòng STLB thành văn, tác giả Phan
Diễm Phƣơng, tác giả Ngô Văn Đức đều khẳng định những dòng STLB đầu
tiên đƣợc bắt đầu từ tác phẩm “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của
Lê Đức Mao. Tác giả Phan Ngọc lại cho rằng “Bồ Đề thắng cảnh thi” tƣơng
truyền của Lê Thánh Tông mới là tác phẩm khởi thảo của thể STLB. Chính vì
vậy, thời điểm xuất hiện thể STLB cũng là vấn đề cần phải xem xét.
2.2 Về đặc trưng kết cấu vận luật của thể STLB
Tiếp theo những công trình nghiên cứu về nguồn gốc của thể STLB,
các nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu đặc trƣng của thể loại này. Một trong
những đặc trƣng đó là kết cấu vận luật.
Tác giả Dƣơng Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu ngoài việc
chỉ ra những đặc điểm hình thức của thể thơ, tác giả còn trình bày một số vấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 4 -
đề cơ bản về vần luật bằng trắc trong cặp câu thất của thể STLB: “trừ chữ thứ
nhất không kể, muốn đặt tiếng gì cũng được, còn sáu chữ sau chia làm ba
đoạn mỗi đoạn hai chữ. Trong câu 7 thì có đoạn đầu trắc trắc; đến câu 7
dưới thì luật trái lại: đoạn đầu bằng bằng” [16, 206]. Những vấn đề mà ông
đã đề cập tới sẽ là sự gợi mở cho các tác giả ở giai đoạn sau khi nghiên cứu về
đặc trƣng kết cấu vần luật của thể STLB.
Viết về thể STLB, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả
cũng đã chỉ ra một số đặc điểm về hình thức, cách gieo vần, nhịp điệu của thể
STLB. Nhƣng những nhận định này vẫn mang tính chất khái quát và hết sức
sơ lƣợc.
Trong cuốn Lí luận văn học, tác giả Phƣơng Lựu chủ yếu tập trung vào
tìm hiểu về mặt hình thức của thể thơ STLB: “Song thất lục bát là thể thơ cứ
hai dòng bảy chữ (song thất) lại một dòng sáu chữ và một dòng tám chữ “(lục
bát)” [31, 452]. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến đặc trƣng kết cấu vận
luật của thể này. Ông đã chỉ ra cách hiệp vần và phối thanh của thể STLB:
“Chữ cuối của dòng bảy thứ nhất hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy thứ
hai. Hai chữ hiệp vần đều thuộc thanh trắc. Chữ thứ bảy của dòng thứ hai
hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng sáu tiếp theo và đều thuộc thanh
bằng….Như vậy, mỗi khổ thơ có một vần chân trắc và ba vần chân bằng…”
[31, 452]. Tuy nhiên, những đặc trƣng khác về nhịp điệu, về phép đối… của
thể thơ thì chƣa đƣợc các tác giả đề cập tới.
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt
Nam hình thức và thể loại đã chú ý hơn tới vấn đề đặc trƣng kết cấu vận luật
của thể STLB. Đóng góp của hai tác giả là đã khẳng định thể thơ này là sự tổ
hợp của lục bát và thất ngôn. Tuy nhiên, họ cũng mới chỉ đề cập đến đặc
trƣng vần luật của thể STLB một cách chung chung, chƣa có sự lí giải cụ thể.
Khác với những công trình nghiên cứu đi trƣớc, Lục bát và song thất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 5 -
lục bát (Lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại) của Phan Diễm Phƣơng đã chỉ
ra cụ thể một số đặc trƣng của thể thơ STLB về: gieo vần, ngắt nhịp, phối
thanh điệu… Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra cách lí giải về ngọn nguồn của
thể thơ lục bát và thể STLB “Đó là hai thể thơ dân tộc, được hình thành trên
những điều kiện cụ thể là tiếng Việt và văn hóa Việt, trong mối liên hệ rất mật
thiết với văn vần dân gian của dân tộc Việt” [44, 123]. Đây là một công trình
có giá trị lớn trong việc làm sáng tỏ đặc trƣng kết cấu vần luật của thể STLB.
Tiếp thu thành quả của công trình này chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu và
chỉ ra sự vận động về mặt hình thức và mặt nội dung của thể STLB trong tiến
trình phát triển của thể loại Ngâm khúc.
Tác giả Ngô Văn Đức trong cuốn Ngâm khúc, quá trình hình thành
phát triển và đặc trưng thể loại cũng có nói đến thể thơ STLB trong tƣơng
quan so sánh với thể lục bát và Đƣờng luật. Từ đó, tác giả bƣớc đầu chỉ ra giá
trị của thể STLB trong việc diễn tả nội tâm con ngƣời và khẳng định thể thơ
này là hình thức tối ƣu của thể loại Ngâm khúc. Nhƣng những vấn đề này vẫn
còn rất chung chung, mới chỉ dừng lại ở mức độ đặt vấn đề. Đây là một trong
những tiền đề gợi mở để chúng tôi thực hiện đề tài này.
Trong những năm gần đây, giới chuyên môn đã quan tâm nhiều hơn tới
đặc trƣng kết cấu vận luật của thể STLB. Nhờ có sự quan tâm này, mà một số
vấn đề cơ bản của thể thơ này đã đƣợc giải quyết ở những mức độ khác nhau.
Từ đó giúp ta có thể nhận diện thể thơ STLB một cách dễ dàng.
2.3 Lịch sử nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể
STLB trong Ngâm khúc
Vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá những giá trị nội dung và nghệ
thuật của các tác phẩm Ngâm khúc có một lịch sử khá lâu dài, nhƣng việc
nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể STLB thì lại là vấn đề
khá mới mẻ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 6 -
Ở giai đoạn đầu (giữa thế kỷ XX), hầu nhƣ các tác giả mới chỉ tập trung
tới việc giới thiệu, khảo đính và giải thích điển cố mà chƣa chú ý đúng mức
tới quá trình vận động của thể STLB trong các tác phẩm Ngâm khúc. Có thể
kể đến các công trình nhƣ : Chinh phụ ngâm khảo thích và giới thiệu (Nhà
xuất bản văn hóa HN 1964) của Lại Ngọc Cang; Cung oán ngâm khúc khảo
thích chú giải (Hà Nội 1931) của Đinh Xuân Hội; Cung oán ngâm khúc dẫn
giải (Tân Việt Sài Gòn 1953) của Tôn Thất Lƣơng; Cung oán ngâm khúc dẫn
giải (Quốc học thƣ xã, HN 1953) của Lê Văn Hòe; Cung oán ngâm khúc hiệu
đính chú giải (Bộ giáo dục HN 1957) của Hoàng Ngọc Phách, Lê Thƣớc, Vũ
Đình Liên; Cung oán ngâm khúc khảo thích giới thiệu (Nxb văn hóa HN
1959) của Nguyễn Trác và Nguyễn Đăng Châu; Tự tình khúc và Trần tình
văn – chú thích và giới thiệu (Nxb văn hóa HN 1958) của Đái Xuân Minh,
Nguyễn Tƣờng Phƣợng. Trong các công trình trên, các tác giả tuy đã đƣa ra
những nhận xét đánh giá ngắn gọn nhƣng chỉ nhằm thâu tóm đƣợc cái tài, cái
thần của tác phẩm về phƣơng diện nội dung chứ không hƣớng vào làm rõ quá
trình vận động phát triển của thể STLB trong thể loại Ngâm khúc.
Giai đoạn sau (từ thập kỷ 70), các nhà nghiên cứu đã soi chiếu tác
phẩm từ những góc độ khác nhau nhƣng chỉ dừng lại ở việc phân tích văn bản
hoặc khai thác giá trị của hình tƣợng nghệ thuật. Các công trình này thƣờng
có quy mô nhỏ lẻ chƣa thật chuyên sâu nhƣng ở đó đã có những ý kiến mới
mẻ. Đó là quan niệm Ngâm khúc nhƣ là một thể loại với những đặc điểm
riêng: Thử đặt lại vị trí của Cao Bá Nhạ (Đặng Thị Hảo), Từ bản Nôm mới
phát hiện góp phần xác định thêm tác giả và thời điểm ra đời của Ai tư vãn
(Nguyễn Cẩm Thúy), Thể loại ngâm và “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia
Thiều (N.I.Niculin), Tiếng khóc nhân loại trong tiếng khóc Nguyễn Gia Thiều
(Vũ Khiêu), các bài viết của các tác giả Phạm Luận, Đặng Thanh Lê, Nguyễn
Lộc… trong các giáo trình văn học Việt Nam về Chinh phụ ngâm khúc và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 7 -
Cung oán ngâm khúc… Những khúc ngâm chọn lọc của Lƣơng Văn Đang,
Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc.. .Các tác phẩm ở giai đoạn này, tuy đã có
bƣớc tiến hơn giai đoạn trƣớc, nhƣng vấn đề về sự vận động của thể STLB
vẫn chƣa đƣợc đề cập đến.
Cuối thế kỷ XX, trên các tạp chí văn học, đã có một số bài viết về sự
vận động và phát triển của thể STLB trong tác phẩm Ngâm khúc.
Trong bài nghiên cứu “Cung oán ngâm khúc trên bƣớc đƣờng phát triển
của thể song thất lục bát” của Đặng Thanh Lê đã chỉ ra sự phát triển của STLB
“khác với các thể kỷ trước, các tác phẩm song thất lục bát của thế kỷ thứ XVIII
đưa thể thơ này vào chức năng phản ánh nội dung tâm trạng có tính chất bi
kịch…” [26, 47]. Nhƣng nhận định này mới chỉ đƣợc rút ra từ việc khảo sát
một tác phẩm cụ thể nên nó chƣa khách quan và đủ sức thuyết phục.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang trong bài viết “Tìm hiểu quá trình vận
động phát triển của thể loại song thất lục bát” trên Tạp chí Văn học số 5 –
2000 đã chỉ ra đƣợc ba giai đoạn phát triển của thể thơ này dựa trên hai căn
cứ điều kiện lịch sử và quá trình vận động nội tại của thể thơ STLB. Khi tiến
hành nghiên cứu sự vận động của thể thơ ở giai đoạn thứ nhất (Giai đoạn thứ
nhất từ trƣớc nửa đầu thế kỷ XVIII), tác giả cũng có đề cập tới sự vận động
của thể STLB qua một số tác phẩm Ngâm khúc. Nhƣng tác giả mới chỉ ra sự
vận động về mặt hình thức còn sự vận động về mặt nội dung thì chƣa đƣợc
nhắc đến.
Có thể thấy, từ nửa cuối thế kỷ XX giới chuyên môn đã dành cho thể
STLB một sự quan tâm đặc biệt. Vấn đề nguồn gốc ra đời của thể thơ STLB
hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là thể thơ của dân tộc Việt có
ngọn nguồn từ văn học dân gian. Song, theo chúng tôi thì thể thơ này có thể
còn có ngọn nguồn từ trong văn học viết. Trong lịch sử nghiên cứu về kết cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 8 -
vận luật của thể thơ STLB ta thấy đã có một số công trình đề cập đến, nhƣng
nghiên cứu về kết cấu vận luật của thể STLB trong tiến trình phát triển của thể
loại Ngâm khúc thì cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào đề cập đến. Với
mong muốn làm sáng rõ bƣớc chuyển biến của thể STLB từ ngâm vịnh đến
diễn tả tâm tình của con ngƣời. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Kết
cấu vận luật của thể STLB trong tiến trình phát triển của thể loại Ngâm khúc.”
Tất cả những công trình nghiên cứu trên đều là những cơ sở quan trọng,
những kiến thức quý báu giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề
tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Để làm rõ tiến trình lịch sử và kết cấu vận luật của thể thơ STLB,
chúng tôi tiến hành khảo sát một số khúc Ngâm chọn lọc và những tác phẩm:
Hạnh Thiên Trường hành cung của Trần Thánh Tông; Cư trần lạc đạo phú
của Trần Nhân Tông; Vịnh Hoa yên tự phú của Huyền Quang; Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi; Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải; Đại nghĩ bát giáp
thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao; Bồ Đề thắng cảnh thi (khuyết danh),
Thiên Nam minh giám (khuyết danh). Qua đó chỉ ra những tiền lệ cho sự ra
đời của thể thơ STLB.
Để hiểu rõ giá trị của thể STLB trong việc diễn tả tâm trạng của nhân
vật trữ tình và thấy đƣợc sự hoàn thiện về diện mạo của thể thơ ở cuối thế kỷ
XVIII, chúng tôi tiến hành khảo sát và phân tích một số khổ thơ trong các
khúc Ngâm tiêu biểu nhƣ: Bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm – tƣơng truyền của
Đoàn Thị Điểm (giữa thế kỉ XVIII); Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều
(cuối thế kỉ XVIII); Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân (cuối thế kỉ XVIII); Văn
chiêu hồn của Nguyễn Du (cuối thế kỉ XVIII); Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ
(cuối thế kỉ XVIII). Đây là những tác phẩm tiêu biểu có thể đáp ứng yêu cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 9 -
lý giải những vấn đề của luận văn ở những góc độ cụ thể khác nhau.
Trong số tác phẩm này chúng tôi đặc biệt chú ý đến Chinh phụ ngâm và
Cung oán ngâm. Đây là hai tác phẩm có vai trò lớn trong việc hoàn chỉnh thể
loại STLB ở văn học trung đại Việt Nam.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát tiến trình vận động phát triển của thể STLB trong
Ngâm khúc, luận văn bƣớc đầu đi đến kết luận về tiền lệ ra đời của thể STLB;
bàn thêm về kết cấu vận luật độc đáo của thể STLB; sự chuyển biến về hình
thức và nội dung nhằm đáp ứng nhu cầu biểu đạt.
Trên cơ sở đó luận văn sẽ góp thêm lời khẳng định công lao đóng góp
của các thế hệ thi sĩ trong quá trình hoàn thiện STLB – một trong những thể
thơ dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp khảo sát và thống kê: để có đƣợc những số liệu, chúng
tôi đã tiến hành khảo sát những sáng tác của các tác giả theo trình tự thời gian,
trong đó có yếu tố vần luật tƣơng đồng với vần luật của STLB. Từ đó bƣớc
đầu có ý kiến về tiền lệ ra đời của thể song thất lục bát.
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: chúng tôi tiến hành so sánh tác phẩm
của các tác giả, đối chiếu giữa các tác phẩm để chỉ ra những bƣớc tiến hay lụi
tàn của nó.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: phân tích đặc trƣng của thể STLB
và từ việc phân tích dẫn chứng để thấy đƣợc sự chuyển biến trong việc ngâm
vịnh đến “ngâm buồn” diễn tả nội tâm của con ngƣời.
- Phƣơng pháp lịch sử: sự xuất hiện của song thất lục bát gắn liền với một
hoàn cảnh xã hội văn hóa cụ thể. Việc vận dụng phƣơng pháp lịch sử để
nghiên cứu giúp chúng tôi xác định một cách đúng đắn vị trí, vai trò và những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 10 -
đóng góp của thể thơ STLB trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
6. Những đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn:
+ Bƣớc đầu chỉ ra những tiền lệ của việc hình thành thể thơ STLB
+ Làm rõ bƣớc chuyển biến của thể STLB từ ngâm vịnh đến diễn tả
tâm tình của con ngƣời.
+ Góp phần khẳng định công lao của nhiều thế hệ thi sĩ trong việc xây
đắp và hoàn thiện một thể thơ dân tộc.
+ Góp phần làm sáng tỏ thêm những đặc trƣng dân tộc của thể STLB
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn baogồm 3 phần:
Phần mở đầu gồm 6 phần:
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của luận văn
7. Cấu trúc luận văn
Phần nội dung gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Kết cấu vận luật của thể song thất lục bát
Chương 2. Những cơ sở hình thành thể song thất lục bát
Chƣơng 3. Sự chuyển biến từ ngâm vịnh đến diễn tả nội tâm
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 11 -
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT
1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm loại thể và thể loại
1.1.1.1 Loại thể
Trong cuốn phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể)
nhà xuất bản Giáo dục đã đƣa ra cách hiểu về loại thể văn học: “loại thể văn
học là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học có liên quan khăng
khít đến nội dung” [6, 3].
Về quan niệm cụ thể với từng thuật ngữ chúng ta rất khó thống nhất và
cũng rất khó có một ranh giới rạch ròi tuyệt đối. Khi nói loại ta cũng hay nói
“loại thể”, khi nói thể ta lại hay nói “thể loại”. Việc gọi tùy tiện nhƣ vậy sẽ
làm rối khái niệm.
Các nhà nghiên cứu đã chia tác phẩm văn học thành các loại và các thể
(hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Nhƣng cũng có
trƣờng hợp thể có thể thuộc về nhiều loại ví nhƣ thơ ta có: thơ tự sự, thơ trữ
tình, kịch thơ. Vì vậy, chúng ta không nên đi tìm ranh giới tuyệt đối giữa các
loại thể. Theo tác giả Trần Thanh Đạm sự phân chia loại thể văn học gồm có
hai mức độ: loại và thể “Theo chúng tôi nên dùng thuật ngữ loại thể bao gồm
loại (loại hình) và thể (hay chỉ thể tài)” [17, 9].
Dựa vào các phƣơng thức sáng tác mà ngƣời ta phân chia thành các loại
thể văn học khác nhau. Theo tác giả Trần Thanh Đạm: “tiêu chuẩn và căn cứ
hợp lí nhất để phân chia loại thể văn học chính là phương thức kết cấu tác
phẩm văn học, trước hết là kết cấu hình tượng hoặc hệ thống hình tượng của
tác phẩm” [17, 7]. Nhƣ vậy có nghĩa là muốn phân chia loại thể chúng ta cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 12 -
chú ý tới sự cấu tạo bên trong và hình tƣợng văn học chứ không phải chỉ dựa
vào một số biểu hiện về hình thức bên ngoài.
Khi đi vào vấn đề loại thể, thế giới tầng bậc của nó và thiên về cấu trúc
hình thức thể hiện, ta có ba loại: tự sự, trữ tình, kịch và từng loại có từng thể
nhỏ. Cụ thể:
Loại tự sự: Là loại tác phẩm dùng lời kể tái hiện lại những việc làm,
biến cố nhằm dựng lại một dòng đời nhƣ đang diễn ra một cách khách quan,
qua đó bày tỏ một cách hiểu và một thái độ nhất định. Tác phẩm đó bao giờ
cũng phải có một sự kiện (một câu chuyện) làm nòng cốt, trong đó có những
sự việc đang diễn ra có sự tham gia của con ngƣời với những hoạt động ngôn
ngữ, tính cách… của họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh, xã hội và trong mối
quan hệ lẫn nhau. Loại tác phẩm tự sự bao gồm: thần thoại, sử thi, truyện cổ
tích, truyện cƣời, ngụ ngôn, truyện thơ, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn,
kí sự, bút kí…
Loại trữ tình: Là loại tác phẩm văn học thông qua sự bộc lộ tình cảm
của tác giả mà phản ánh hiện thực, đó là sự bộc lộ trực tiếp những tƣ tƣởng
cảm xúc của tâm hồn con ngƣời đối với thế giới. Loại tác phẩm trữ tình bao
gồm: thơ trữ tình, thơ trào phúng, ca dao trữ tình, các khúc ngâm, tùy bút,
trƣờng ca hiện đại. Phú, văn tế, thơ ca trù cũng có thể xem là dạng đặc biệt
của tác phẩm trữ tình.
Loại kịch: Là loại nghệ thuật sân khấu, mang tính chất tổng hợp của
nhiều loại hình nghệ thuật nhƣ: văn học, âm nhạc, hội họa…Kịch là phƣơng
thức đặc biệt để tái hiện hiện thực cuộc sống và biểu hiện tƣ tƣởng nhà văn,
tức là phản ánh và biểu hiện bằng ngôn ngữ và hành động trực tiếp của nhân
vật trong các tình huống của cuộc sống. Loại tác phẩm kịch bao gồm: bi kịch,
hài kịch, kịch, kịch thơ, các kịch bản chèo, tuồng cải lƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 13 -
Nhƣ vậy, muốn nắm đƣợc những đặc điểm chung của thể loại cụ thể
trƣớc tiên ta phải xác định đƣợc thể loại ấy nó nằm trong loại nào để từ đó có
hƣớng tiếp cận phù hợp.
1.1.1.2 Thể loại
Nói tới thể loại văn học là đề cập tới “Dạng thức của tác phẩm văn
học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển
lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm,
về đặc điểm các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của
mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy” [17, 299].
Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng luôn đƣợc xem xét và xác định
xem nó thuộc thể loại nào, bởi lẽ không có tác phẩm nào lại tồn tại ngoài hình
thức quen thuộc của thể loại. Mỗi thể loại thể hiện một kiểu quan hệ đối với
cuộc sống và đối với ngƣời đọc, tức là một kiểu quan hệ giao tiếp. Giáo sƣ
Trần Đình Sử cũng đã có lần nhận xét đó là kiểu quan hệ giao tiếp kép: Vừa
giao tiếp với ngƣời đọc lại vừa giao tiếp với đời. Qua giao tiếp với cuộc sống
trong tác phẩm, tác giả và ngƣời đọc hiểu nhau.
Từ thời Arixtot đến nay, ngƣời ta vẫn thống nhất phân loại tác phẩm
văn học thành ba loại hình (phƣơng thức phản ánh) là: tự sự, trữ tình, kịch.
Đây là ba phƣơng thức cơ bản nhất của phản ánh hiện thực cuộc sống và biểu
hiện nội tâm của tác giả. Mỗi phƣơng thức phản ánh lại bao gồm nhiều loại
mà “trong lòng mỗi loại và trên biên giới của các loại sẽ nảy sinh rất nhiều
thể khác nhau của sự sáng tác văn học” [7, 9]. Ví dụ: ở phƣơng thức trữ tình
có thơ trữ tình và văn xuôi trữ tình. Mỗi loại lại chia ra làm nhiều thể và thể
loại là cấp độ nhỏ hơn nằm trong loại. Cùng một loại nhƣng ta có các thể loại
khác nhau. Chẳng hạn, trong loại tự sự có tự sự dân gian và tự sự cổ trung đại
và hiện đại. Trong tự sự dân gian lại chia thành: thần thoại, truyền thuyết, cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 14 -
tích, ngụ ngôn, truyện cƣời.
Thể loại văn học phản ánh những khuynh hƣớng lâu dài và hết sức
bền vững trong sự phát triển văn học.
Mỗi loại hình văn học đều có cách thức riêng để xây dựng hình tƣợng
phản ánh hiện thực đời sống và tâm tƣ tình cảm. Nhƣng nếu cùng một thể loại
thì những tác phẩm đó ngoài những điểm khác biệt sẽ có sự tƣơng đồng. Ví
nhƣ truyện ngắn của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… có thể có nội
dung truyện khác nhau nhƣng ý thức phản ánh khách quan chân thực cuộc
sống của con ngƣời bằng những chất liệu phong phú của cuộc sống xã hội,
cách kể chân thực những sự kiện của các tác giả…thì tƣơng đối giống nhau.
Nhà nghiên cứu văn học Nga Bakhtin đã nói: “Mỗi thể loại (nhất là những
thể loại lớn) thể hiện một thái độ thẩm mĩ đối với hiện thực, một cách cảm thụ
nhìn nhận, giải minh về thế giới và con người. Thể loại là vị trí nhớ siêu cá
nhân của nghệ thuật với tích lũy, đúc kết những kinh nghiệm nhận thức thẩm
mĩ thế giới” [1, 125].
Tác phẩm văn học là sự thống nhất và quy định lẫn nhau của các yếu tố
chủ đề, đề tài, tƣ tƣởng nhân vật, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức lời
văn và kết cấu. Sự thống nhất này bao giờ cũng phải đƣợc thực hiện theo
những quy luật nhất định. Trong quá trình sáng tác, tác giả dùng các phƣơng
thức chiếm lĩnh đời sống khác nhau để thể hiện quan điểm thẩm mĩ của mình
đối với hiện thực và mang những khả năng khác nhau để tái hiện đời sống. Từ
đó tác giả có những cách thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật phù hợp với
thể loại văn học mà mình đã chọn.
Sự xuất hiện các thể loại văn học trong lịch sử là cả một quá trình. Vì
vậy, thể loại văn học là một phạm trù mang tính lịch sử mà nó chỉ xuất hiện ở
những giai đoạn phát triển nhất định của văn học, sau đó thƣờng xuyên biến
đổi và thay thế nhau. Khi nghiên cứu thể loại bao giờ chúng ta cũng phải đặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 15 -
nó trong những điều kiện lịch sử cụ thể, có nhƣ vậy ta mới lí giải đƣợc sự
thay đổi của thể loại không phải là ngẫu nhiên mà nó có cơ sở.
1.1.2 Khái niệm thể thơ
Qua khảo sát của chúng tôi, hiện nay các nhà nghiên cứu chƣa có một
định nghĩa thật đầy đủ về khái niệm thể thơ. Nhƣng từ những khái niệm riêng
lẻ về các thể thơ cụ thể, chúng tôi mạnh dạn đƣa ra cách hiểu của mình về
khái niệm thể thơ nhƣ sau: Thể thơ là cách thức làm thơ. Hay nói cách khác,
cách thức tổ chức ngôn từ khác nhau sẽ tạo nên những bài thơ khác nhau xét
về hình thức biểu đạt.
Thông thƣờng cách đặt tên các thể thơ luôn gắn với đặc điểm cơ bản
của thể thơ đó. Hay đó chính là cách gọi tên cách thức để tạo ra bài thơ xét về
mặt hình thức. Ví dụ: Thể thơ lục bát: Là thể thơ có cấu trúc trên 6, dƣới 8
(lục bát), bắt đầu bằng câu 6, tiếp là câu 8, cứ thế diễn đạt cho đến hết ý; thể
song thất lục bát: Là thể thơ cách luật có hai câu trên đều 7 tiếng (song thất),
hai câu dƣới là câu lục và câu bát (lục bát), mỗi khổ thơ 4 câu và cứ thế trình
tự diễn đạt cho đến hết ý.
Thể thơ đƣợc nhận diện qua các tiêu chí cơ bản sau:
+ Số chữ trong một câu thơ
+ Số câu trong một khổ thơ
+ Số câu thơ trong một bài thơ
+ Cách gieo vần
+ Cách phối thanh B- T
+ Cách ngắt nhịp
+ Cách tạo phép đối
VD: Thể STLB: Là thể thơ cách luật của Việt Nam có những đặc điểm sau:
- Hai câu trên đều 7 tiếng, hai câu dƣới là câu lục và câu bát. Mỗi khổ
thơ 4 câu và cứ thế diễn đạt cho hết ý.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 16 -
- Nhịp điệu: Hai câu thất có nhịp 3/4 hoặc 3/2/2. Câu sáu có nhịp 3/3
hoặc 2/2/2. Câu tám có nhịp 4/4 hoặc 2/2/2/2
- Cách gieo vần: Tiếng thứ 7 câu thất trên và tiếng thứ 5 câu thất dƣới
hiệp vần lƣng với nhau. Tiếng thứ 7 câu thất dƣới có vần chân với tiếng thứ 6
câu lục. Câu 8 chữ gieo vần nhƣ thơ lục bát.
- Thơ STLB có thể dùng lối bình đối ở hai câu 7 tiếng, tiểu đối trong câu
6 và trong câu 8. Song cách đối nhau không phải là bắt buộc nhƣ trong thơ
Đƣờng luật.
Tuy nhiên, tầm quan trọng của các tiêu chí có thể khác nhau ở những
dạng bài thơ khác nhau. Chẳng hạn, khi nhận diện thể thơ lục bát và song thất
lục bát thì tiêu chí về số lƣợng chữ trong một câu thơ, số câu thơ trong một
khổ là quan trọng nhất. Sau đó mới đến các tiêu chí về cách gieo vần và ngắt
nhịp. Ví nhƣ, thể STLB có quy định chặt chẽ về số câu thơ trong một khổ (4
câu) nhƣng thể lục bát lại không có quy định chặt chẽ nhƣ vậy. Hay trong thể
STLB ngoài câu lục và câu bát còn có hai câu thất mở đầu mỗi đoạn.
1.1.3 Khái niệm thể loại Ngâm khúc
Các thể tài Ngâm, Khúc, Ca, Hành, Thán, Vãn…có nguồn gốc từ Trung
Hoa đƣợc du nhập vào nƣớc ta từ bao giờ đến nay vẫn chƣa có tài liệu để xác
định một cách chính xác. Chúng ta chỉ biết rằng qua quá trình giao lƣu văn
hóa thì các thể tài trong văn học Trung Quốc đã du nhập vào Việt Nam.
Khoảng thế kỉ XV nƣớc ta có tác phẩm Cung oán ngâm của Thái Thuận làm
theo thể thất ngôn bát cú bằng chữ Hán. Đến khoảng đầu thế kỉ XVIII bên
cạnh những tác phẩm Khúc làm theo nguyên mẫu chuẩn mực của Trung Hoa
thì nƣớc ta đã có những tác phẩm trƣờng thiên với dung lƣợng hàng trăm câu
thơ nhƣ: Tứ thời khúc vịnh (340 câu thơ), Thiên Nam minh giám (940 câu
thơ). Nếu nhƣ những ngày đầu ta thấy Khúc kết hợp với Vịnh thì từ giữa thế
kỉ XVIII Khúc đã kết hợp với Ngâm làm thành thể loại Ngâm khúc. Với tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 17 -
phẩm Cung oán ngâm khúc Đặng Trần Côn – bản dịch nôm tƣơng truyền của
Đoàn Thị Điểm (viết bằng chữ nôm và thể song thất lục bát) đã đƣa thể loại
Ngâm khúc ở nƣớc ta lên đỉnh cao.
Tuy có chịu sự ảnh hƣởng của những thể tài từ Trung Quốc nhƣng
Ngâm khúc của ta vẫn mang những sắc thái riêng của dân tộc. Nếu nhƣ trong
văn học Trung Hoa tâm trạng của nhân vật trữ tình chỉ là những khoảnh khắc
cô đơn thoáng qua thì tâm trạng của nhân vật trữ tình trong các tác phẩm
Ngâm khúc là tâm trạng buồn sầu, đau đớn đƣợc miêu tả trên một diện rộng
với nhiều cung bậc khác nhau. Ngâm khúc thƣờng xoay quanh nh._.ững con
ngƣời bất hạnh mà thƣờng là những ngƣời phụ nữ.
Tác phẩm Ngâm khúc thƣờng đƣợc dùng để điễn tả tâm trạng u buồn
nỗi giận hờn ai oán của con ngƣời trƣớc những cảnh ngộ của cuộc đời. “Để
tải trở một nội dung lớn như vậy cần phải có những áng thơ trường thiên để
cho nó đến được và thấm sâu vào tâm hồn công chúng độc giả người Việt
Nam, cần phải viết bằng ngôn ngữ dân tộc để phản ánh tâm trạng chung của
nhân vật trữ tình là buồn rầu, đau đớn…” [9, 15]. Đồng thời những tác phẩm
Ngâm khúc cũng rất chú trọng tới việc khai thác âm thanh và nhịp điệu của
ngôn ngữ. Chính vì vậy sau một thời gian dài gia công sáng tác các tác giả
dân gian đã lựa chọn thể thơ song thất lục bát – thể thơ dân tộc đế sáng tác tác
phẩm Ngâm khúc. Bởi lẽ chỉ có thể thơ song thất lục bát mới đáp ứng đƣợc
những yêu cầu của thể loại Ngâm khúc đề ra. Và cũng chính thể STLB đã
giúp Ngâm khúc có sức xuyên thấm mạnh mẽ vào lòng ngƣời đọc.
Do xuất phát từ các góc độ khác nhau mà các nhà nghiên cứu đã đƣa ra
khá nhiều định nghĩa về Ngâm khúc. Các cách định nghĩa ít nhiều có sự khác
nhau nhƣng đều nêu lên đƣợc tiêu chí cơ bản của thể loại Ngâm khúc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 18 -
Dƣơng Quảng Hàm định nghĩa về thể loại này nhƣ sau: “Ngâm là một bài
văn tả những tình cảm ở trong lòng, thứ nhất là những tình buồn, sầu đau, thương.
Các Ngâm khúc trong văn ta vẫn làm theo thể song thất lục bát” [15, 139].
Nhóm biên soạn Những khúc ngâm chọn lọc cho rằng: “Ngâm khúc là
những tác phẩm hoàn toàn trữ tình – có thể gọi là những trường thiên trữ tình
được viết bằng thể song thất lục bát” [12, 14].
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả cho rằng: “Ngâm
khúc: thể thơ trữ tình dài hơi thường được làm theo thể song thất lục bát để
ngâm nga than vãn nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn phiền đau
xót triền miên day dứt. Vì vậy thể Ngâm khúc thường được gọi là thán hay
vãn” [16, 137].
Tác giả Ngô Văn Đức trong đề tài cấp bộ Nghiên cứu đặc trưng thi
pháp của thể loại thơ trữ tình Ngâm khúc khẳng định: “Ngâm khúc là ca khúc
trữ tình dài hơi phản ánh tâm trạng bi kịch của con người đã có ý thức về cá
nhân trong một giai đoạn lịch sử nhất định được viết bằng ngôn ngữ dân tộc
(chữ nôm) và thể thơ song thất lục bát” [9, 17]. Có thể thấy đây là một định
nghĩa tƣơng đối đầy đủ và khá chặt chẽ về thể loại Ngâm khúc.
Nhìn chung ta có thể hiểu Ngâm khúc là những ca khúc trữ tình trƣờng
thiên phản ánh những bi kịch không thể giải quyết đƣợc trong đời sống nội
tâm của con ngƣời, trong một giai đoạn lịch sử nhất định đƣợc viết bằng thể
STLB và chủ yếu bằng ngôn ngữ dân tộc.
Qua khảo sát một số khúc ngâm ta thấy phạm vi cuộc sống mà Ngâm
khúc lựa chọn để phản ánh là thế giới tâm trạng của những số phận nhỏ bé
trong xã hội. Bao trùm lên toàn bộ khúc ngâm là âm hƣởng buồn bã về sự mất
mát tuyệt vọng đến chán chƣờng. Các nhân vật trữ tình tuy mỗi ngƣời một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 19 -
hoàn cảnh ngƣời thì nghèo, ngƣời thì cảnh oan khiên tù đày, ngƣời thì ở quê
ra…nhƣng tất cả đều đang trong cảnh ngộ hết sức thƣơng tâm.
1.1.4 Khái niệm vần luật
1.1.4.1 Khái niệm vần
“Vần là một phương tiện tổ chức văn bản thơ ca dựa trên cơ sở lặp lại
không hoàn toàn các tiếng ở vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính
hài hòa và liên kết giữa các dòng thơ” [ 44, 38].
Chúng ta có thể nhận diện vần qua các ví dụ sau:
Xưa kia ta đi liễu đương xanh tốt,
Chim hoàng oanh mới hót ba câu.
Mà nay cúc nở vàng thâu
Liễu kia nghĩ cũng âu sầu vì ve.
(Thu dạ lữ hoài ngâm - Đinh Nhật Thận)
Khi tác giả mới rời xa quê hƣơng thì cây liễu đang “xanh tốt”, con chim
hoàng anh mới chỉ “hót ba câu” nhƣng khi tác giả trở về thì cúc đã nở “vàng
thâu” cây liễu cũng đã “âu sầu”. Dƣờng nhƣ thời gian tác giả xa quê hƣơng
mọi thứ đã thay đổi và thời gian là khá lâu. Nhờ có vần mà câu thơ trở nên
gắn kết liền mạch và nỗi sầu li biệt của tác giả trở nên da diết hơn. Có thể
khẳng định vần có vị trí rất quan trọng trong thơ.
Để câu thơ trở nên gắn kết và hài hòa hơn trong bài thơ thì vần có vị trí
rất quan trọng. Vần có thể đƣợc phân biệt từ những góc độ khác nhau:
+ Về chất lƣợng của tiếng có vần, ngƣời ta phân biệt vần chính (vần
hoàn toàn trùng hợp với nhau) và vần thông (vần không hoàn toàn trùng hợp
nhau). Ví dụ:
.Vần chính: Là sự hoà phối âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng
đƣợc gieo vần, trong đó phần vần (âm chính và âm cuối) hoàn toàn trùng
khớp:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 20 -
Để truyền bia miệng kiếp nào mòn,
Cao thấp cùng xem sự mất còn.
Thương cá thác vì câu uốn lưỡi,
Ngâm trai nào chết bát mồ hòn
(Quốc âm thi tập, bài 182 - Nguyễn Trãi)
.Vần thông: Đƣợc tạo nên bởi sự hoà hợp phối âm thanh giữa các tiếng
đƣợc gieo vần nhƣng trong đó bộ phận vần không lặp lại hoàn toàn mà có sự
khác biệt chút ít:
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái,
Người thì sa nanh sói ngà voi.
(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)
Hoặc :
Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
(Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều)
+ Về vị trí của tiếng có vần trong câu thơ, ngƣời ta phân biệt vần chân
(tiếng có vần đứng cuối câu thơ, còn gọi là cƣớc vận) và vần lưng (tiếng có
vần đứng ở giữa câu thơ là yêu vận).
Vần chân đƣợc gieo vần ở cuối dòng thơ, có tác dụng đánh dấu sự kết
thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết với các dòng thơ tiếp theo, “vần chân
rất đa dạng: khi liên kết, khi gián cách, khi ôm nhau, khi hỗn hợp các loại
trên” [ 16, 363].Ví dụ:
Ai yêu như tôi yêu nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh
Chung nhau dựng một trường đình
Thờ riêng một vị thần linh là Nàng.
(Lòng yêu đương – Nguyễn Bính)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 21 -
. Vần lưng là vần đƣợc gieo ở lƣng chừng dòng thơ.
Thu sang trên những cánh bàng,
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi.
Hôm qua đã rụng một rồi,
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn.
(Cây bàng cuối thu – Nguyễn Bính)
+ Về mức độ trầm bổng, cao thấp của âm tiết mang vần, ta có vần bằng
và vần trắc.
.Vần bằng là vần nằm ở âm tiết gieo vần mang thanh bằng (thanh
không, thanh huyền).
Ví dụ:
Cơn gió đìu hiu lướt mặt hồ,
Thổi rơi xuống nước chiếc hoa khô.
Giật mình, làn nước cau mày giận,
Tan cả vừng trăng tỏa lững lờ.
(Đìu hiu – Đỗ Huy Nhiệm)
.Vần trắc là vần ở âm tiết gieo vần mang thanh trắc (thanh sắc, hỏi, ngã,
nặng).
Ví dụ:
Xưa ta đi liễu dương xanh tốt,
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
(Thu dạ lữ hoài ngâm – Đinh Nhật Thận)
Hay:
Tình rầu rĩ khôn khuây nhĩ mục
Chốn phòng không như giục mây mưa.
(Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều )
Thanh điệu trong tiếng Việt rất phong phú điều đó làm cho tính nhạc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 22 -
trong thơ đƣợc tăng lên. Thông thƣờng khi sử dụng thanh bằng thƣờng đem lại
cảm giác buồn, lâng lâng, chơi vơi và ấn tƣợng về một không gian dàn trải.
Thanh trắc thƣờng diễn tả nhịp điệu chắc khỏe nhƣng cũng gợi lên cái gì đó trắc
trở. Bởi vậy, thanh điệu có vai trò rất quan trọng trong các âm tiết gieo vần.
1.1.4.2 Khái niệm luật
Luật là “Toàn bộ những quy tắc tổ chức ngôn từ trong sáng tạo thơ, như
phân dòng, số tiếng, ngắt nhịp, gieo vần. bằng trắc,…” [17, 189]. Có nghĩa là
khi sáng tác các tác phẩm theo thể loại chúng ta cần phải tuân thủ những quy
tắc của thể loại đó.
Ví dụ: Khi làm thơ lục bát ta phải tuân thủ về những luật lệ của thể thơ
lục bát nhƣ luật: về “tiếng”, về cách hiệp vần, về nhịp và về thanh điệu.
+ Về tiếng: Câu trên có 6 “tiếng” (câu lục), câu dƣới có 8 “tiếng” (câu
bát), và cứ thế tiếp tục.
Ví dụ:
Xưa sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
+ Về hiệp vần: các tiếng trong từng đôi câu thơ hiệp vần nhƣ sau: tiếng
cuối câu lục vần với tiếng thứ 6 câu bát (vần lƣng ở câu bát); tiếng cuối câu
bát vần với tiếng cuối câu lục (vần chân ở câu lục).
Ví dụ:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du )
Tài sắc của chị em Thúy Kiều đƣợc đại thi hào Nguyễn Du giới thiệu
một cách tự nhiên mà cũng rất sinh động. Vần chân và vần lƣng kết hợp tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 23 -
nên sự hài hòa gắn kết chặt chẽ giữa các câu thơ.
+ Về ngắt nhịp: Nhịp chẵn là chủ yếu, trong đó nhịp đôi là cơ sở cũng
có khi linh hoạt theo nhịp lẻ ví nhƣ: Làn thu thuỷ /nét xuân sơn
+ Về thanh điệu có thể chia thành ba loại “tiếng”:
. Thanh bằng ở các tiếng 2, 6, 8.
. Thanh trắc ở tiếng thứ 4.
. Các tiếng lẻ 1, 3, 5 thì tự do hay còn gọi là “nhất, tam, ngũ bất luận”
Nếu ở câu lục có tiểu đối (đối bên trong câu) thì có thể đối thanh:
Ví dụ:
Người quốc sắc/ kẻ thiên tài,
Tình trong như đã/ mặt ngoài còn e.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Theo đúng luật thì tiếng thứ hai của câu lục phải mang thanh bằng,
nhƣng ở đây dùng thanh trắc vì có tiểu đối (về nghĩa) trong câu lục.
1.2 Những yếu tố cơ bản của thể thơ STLB
Thể lục bát, STLB và hát nói là những thể thơ do ngƣời Việt sáng tạo
ra. Đó là những thể thơ hết sức độc đáo của văn học trung đại nói riêng và văn
học Việt Nam nói chung. “STLB là thể thơ cứ hai dòng bảy chữ (song thất)
lại có dòng sáu chữ (lục bát). Nếu mở đầu bằng hai dòng sáu chữ và tám chữ
rồi mới tiếp hai dòng bảy chữ, người ta gọi là lục bát gián thất. STLB được
hình thành trên cơ sở thể lục bát và thể thơ bảy chữ vốn có sẵn trong thơ ca
dân gian Việt Nam” [31, 452].
Trong suốt một thời gian dài xung quanh vấn đề nguồn gốc của thể thơ
STLB, ngƣời ta đã đƣa có nhiều ý kiến khác nhau thậm chí đối lập nhau. Do
chƣa tìm đƣợc tiếng nói chung về hai câu thất trong ngôn của khổ STLB, nên
có ngƣời cho rằng thể STLB là thể thơ thuần túy của dân tộc, nhƣng cũng có
ý kiến cho rằng đây là thể thơ có sự kết hợp giữa thất ngôn của Trung Hoa và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 24 -
thể lục bát của Việt Nam. Tại sao thể STLB lại đƣợc các thi sĩ thời trung đại
lựa chọn để viết tác phẩm trữ tình trƣờng thiên? Để lí giải điều này chúng tôi
tiến hành tìm hiểu về ba yếu tố là vần, nhịp và luật phối thanh của thể STLB
đặt trong sự tƣơng quan so sánh với các thể thơ khác đặc biệt thơ Đƣờng luật
của Trung Hoa từ đó làm sáng tỏ thêm nguồn gốc dân tộc của thể thơ.
1.2.1 Cách gieo vần trong thể thơ STLB
Nếu nhƣ trong thể thơ lục bát chỉ có 2 cú thức là câu sáu và câu tám thì
ở thể STLB có tới 3 kiểu câu với lối kiến trúc thành từng khổ, mỗi khổ bốn
câu, hai câu bảy, một câu sáu và một câu tám. Vì STLB có ba cú thức là câu
bảy, câu sáu và câu tám nên số lƣợng vần trong STLB nhiều hơn so với lục bát.
Với lối gieo vần rất riêng, thể STLB tỏ ra hữu hiệu trong việc bộc lộ, diễn tả
tình cảm nội tâm của con ngƣời. Trong hai câu thất mở đầu: chữ cuối của câu
thất trên hiệp vần với chữ thứ năm câu thất dƣới vì chúng đều là vần trắc (câu
thất trắc). Ở các câu tiếp theo: chữ cuối câu thất dƣới vần với chữ cuối câu lục
vì chúng mang vần bằng (câu thất bằng). Chữ cuối câu lục vần với chữ thứ sáu
câu bát do chúng cùng mang vần bằng. Chữ cuối câu bát hiệp vần với chữ thứ
năm của câu thất vì chúng đều là âm tiết gieo vần bằng. Nhƣ vậy, mỗi khổ bốn
câu có từ năm tới sáu vần, gồm cả: vần lƣng (yêu vận) và vần chân (cƣớc vận);
cả vần bằng và vần trắc. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy hai câu lục và câu bát
trong thể STLB không có gì khác so với hai câu lục bát trong thể lục bát. Nó
vẫn tuân thủ theo luật lệ về cách gieo vần của thể lục bát.
Ví dụ:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Chinh phụ ngâm – Bản dịch Đoàn Thị Điểm )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 25 -
Trong ví dụ trên ta thấy có tới năm chỗ gieo vần: Hai vần trắc “thấy”,
“mấy” và ba vần bằng “dâu”, “màu”, “sầu”. Trong khổ thơ trên ta thấy chữ
cuối câu thất trên vần với chữ thứ năm câu thất dƣới.
Ví dụ:
câu bát Dạ thường quanh quất mắt thường ngóng trông.
câu thất trên Trông mái đông lá buồm xuôi ngược,
câu thất dƣới Thấy mênh mông những nước cùng mây.
câu lục Đông rồi thì lại trông tây,
câu bát Thấy non ngân ngất thấy cây rườm rà.
(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân )
Ở ví dụ này ta thấy từ “trông” ở câu bát hiệp vần với từ “đông” ở câu
thất trên (đây là trƣờng hợp xuất hiện nhiều ở giai đoạn đầu nhƣng ít gặp
trong giai đoạn sau) vì thƣờng thì vần kết thúc của câu bát (vần chân) sẽ hiệp
vần lƣng với tiếng thứ năm của câu thất trên và là thanh bằng. Sau đó lại tiếp
tục hiệp vần bình thƣờng ở những câu tiếp theo. Có thể nói đây là trƣờng hợp
biệt lệ bởi lẽ thông thƣờng thì tiếp vần lƣng ở chữ thứ năm nhƣng cũng có thể
tiếp vần lƣng ở từ thứ ba mà vẫn giữ vần bằng (từ thứ ba vốn là thanh trắc).
Theo TS Phan Diễm Phƣơng, ta có thể hình dung cách gieo vần của
STLB nhƣ sau:
Dòng thất trên (1) (2) (3) (4) 5 (6) (7)
Dòng thất dƣới (1) (2) (3) (4) (5) (6) 7
Dòng lục (1) (2) (3) (4) (5) 6
Dòng bát (1) (2) (3) (4) (5) 6 (7) 8
Dòng thất trên (1) (2) (3) (4) 5 (6) (7)
Trong bài “Bàn thêm về đặc trƣng kết cấu vận luật thể thơ Song thất
lục bát”, (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4, 2009) Phạm Thị Phƣơng Thái đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 26 -
mô hình hóa sơ đồ cấu trúc khổ STLB nhƣ sau:
Nhƣ vậy, nếu ta đem so sánh với bài thơ thất ngôn Đƣờng luật của
Trung Hoa thì thấy cả bài chỉ có một loại vần là vần chân.
Ví dụ:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
Vì thể thơ lục bát chỉ có hai cú thức là câu sáu và câu tám, nên số lƣợng
vần trong STLB nhiều hơn so với lục bát. Tiếng thứ sáu của dòng lục hiệp
vần với tiếng thứ sáu dòng bát. Nếu văn bản dài hơn một khổ gồm hai dòng
thì vần đƣợc tiếp tục bằng cách tiếng thứ tám dòng bát hiệp vần với tiếng thứ
sáu dòng lục (vần chân) tiếp theo và tiếng thứ sáu này lại hiệp vần với tiếng
thứ sáu của dòng bát tiếp theo đó. Trong đó các tiếng tham gia hiệp vần mang
tiếng vần
tiếng vần
tiếng vần
vần chân bằng
tiếng vần
vần lưng bằng
vần lưng bằng
5
vần lưng
trắc
6
6 8
8
7
7
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 27 -
thanh bằng.
Ví dụ:
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Rõ ràng, vần và cách gieo vần trong STLB là rất phong phú. Câu thơ
vừa có vần bằng lại vừa có vần trắc đan xen lẫn nhau tạo nên sự chuyển biến
nhịp nhàng, diễn tả đƣợc mọi cung bậc tình cảm của con ngƣời. Điều này
khiến cho thể STLB có những ƣu thế riêng mà thể lục bát không thể có đƣợc.
1.2.2 Cách ngắt nhịp trong thể thơ STLB
Tác giả Phan Ngọc đã từng nói “nhịp điệu là xương sống của thơ. Thơ
có thể bỏ vần, bỏ quan hệ đều đặn về số chữ, bỏ mọi quy luật bằng trắc,
nhưng không thể vứt bỏ nhịp điệu”. [35, 213]. Nhận định này đã cho thấy vai
trò quan trọng của nhịp điệu trong thơ. Nếu nhƣ câu thơ thất ngôn của Trung
Hoa có lối ngắt nhịp phổ biến là chẵn trƣớc lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3) thì câu thất
của STLB có lối ngắt nhịp ngƣợc lại 3/4 hoặc 3/2/2 hoặc 1/2/2/2 bởi lẽ ta có
thể ngắt ba chữ đầu của câu thơ thành 1/2, bốn chữ sau thành 2/2. Nhƣng phổ
biến thì ta thấy hai câu thất đƣợc ngắt thành nhịp 3/4. Có nghĩa là cách ngắt
nhịp lẻ trƣớc chẵn sau.
Ví dụ với nhịp 3/4 ta có:
Thủa trời đất / nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng / lắm nỗi truân chuyên.
(Chinh phụ ngâm – Bản dịch Đoàn Thị Điểm)
Nếu chia nhỏ ra ta có thể ngắt nhịp nhƣ sau:
Nhịp 3/2/2:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 28 -
Giờ sao bỗng / thờ ơ / lặng lẽ,
Tình cô đơn / ai kẻ / xét đâu!
(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân )
Nhịp 1/2/2/2:
Ngòi / Đức Thủy / khơi dòng / kinh sử,
Phả / Cao Đường/ treo chữ / tấn thân.
(Tự tình khúc – Cao Bá Nhạ )
Với câu lục bát, lối ngắt nhịp cũng khá sinh động. Ngƣời ta có thể có
cách ngắt nhịp phổ biến là nhịp đôi. Ngoài ra, các tác giả cũng biến thái nhịp
đôi này thành những cách ngắt nhịp khác. Chẳng hạn trong các ví dụ sau:
Nhịp 4/2: Đa mang chi nữa / đèo bòng,
Nhịp 4/2/2: Vui gì thế sự / mà mong / nhân tình.
(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều )
Nhịp 2/4: Ruột rà / không kẻ chí thân,
Nhịp 3/3/2: Dẫu làm nên / để dành phần/ cho ai.
(Văn chiêu hồn – Nguyễn Du)
Nhịp 3/5: Đỉnh trầm hương / khóa một cành mẫu đơn.
Nhịp 3/3: Trên gác phượng / dưới lầu oanh
Nhịp 4/4: Gối du tiên vẫn / rành rành song song
(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều )
Đặt trong sự so sánh với thể lục bát và thể hát nói, ta thấy nhịp điệu của
thể STLB phong phú hơn so với thể lục bát vì nhịp điệu cơ bản trong thể lục
bát là nhịp đôi. Nhịp này thể hiện thành 2/2/2 trong câu lục và 2/2/2/2 trong
câu bát và đôi khi cũng đƣợc chia làm hai vế cân đối là 3/3 hay 4/4. Nhƣng
nếu cả bài thơ cứ lặp đi lặp lại nhịp điệu nhƣ vậy sẽ khó tránh khỏi sự đơn
điệu, nhàm chán. Ngoài những nhịp điệu giống nhƣ trong thể lục bát, ta còn
thấy trong thể STLB xuất hiện nhịp 3/4 hay 3/2/2 hay 1/2/2/2.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 29 -
Nhƣ vậy, thể STLB khá đa dạng về nhịp điệu. Điều này phù hợp với việc
diễn tả các cung bậc tình cảm trong tâm trạng con ngƣời. Nhƣng nếu đem so
sánh với thể hát nói thì ta thấy nhịp điệu của STLB lại không phong phú
bằng. Bởi lẽ, trong thể hát nói số câu thơ không cố định, có thể thiếu khổ, dôi
khổ. Số chữ trong câu có thể ngắn dài có những câu lên tới 16, 17 chữ nên
cách ngắt nhịp rất linh hoạt. Chính cách ngắt nhịp này đã tạo cho thể hát nói
có những ƣu thế riêng để phù hợp với lối diễn xƣớng.
1.2.3 Luật phối thanh của thể thơ STLB
Qua tìm hiểu về vần và nhịp điệu trong STLB ta có thể rút ra kết luận
lối hiệp vần và cách ngắt nhịp của STLB khác với thơ Đƣờng luật nên dẫn
đến hệ quả là cách phối thanh của STLB cũng không giống với thơ Đƣờng
luật. Bởi lẽ các chữ thứ hai, thƣ tƣ, thứ sáu trong câu thất đƣợc quy định chặt
chẽ về thanh điệu còn chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm lại tự do về thanh điệu.
Ví dụ:
Khuê trung(b) thiếu phụ(t) bất tri(b) sầu,
Xuân nhật(t) ngưng trang(b) thướng thúy(t) lâu.
Hốt kiến(t) mạch đầu(b) dương liễu(t) sắc,
Hối giao(b) phu tế(t) mịch phong(b) hầu.
(Khuê oán - Vƣơng Xƣơng Linh)
Triêu từ(b) Bạch Đế(t) thái vân(b) gian,
Thiên lí(t) Giang Lăng (b) nhất nhật(t) hoàn.
Lưỡng ngạn(t) viên thanh(b) đề bất(t) trú,
Khinh châu(b) dĩ quá(t) vạn trùng(b) san.
(Tảo phát Bạch Đế thành – Lí Bạch)
Nhƣ vậy ta thấy thanh điệu của thơ Đƣờng luật sẽ có mô hình nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 30 -
Chữ
Dòng
1
2
3
4
5
6
7
1 0 B 0 T 0 B T
2 0 T 0 B 0 T B
3 0 T 0 B 0 T T
4 0 B 0 T 0 B B
Khi xét những dòng STLB ở thời kì phồn thịnh (khoảng thế kỉ XVIII),
ta thấy thanh điệu trong hai câu thất ngôn của khổ STLB ngƣợc lại với thơ
Đƣờng luật. Các chữ ở vị trí thứ nhất, thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu của các câu là
những chữ tự do về thanh điệu. Còn các chữ thứ ba, thứ năm và thứ bảy thì
đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu. Trong đó, các chữ thứ năm và thứ bảy
của hai câu thất đối nhau từng đôi một theo đúng luật bằng - trắc, riêng chữ
thứ ba không bảo đảm tính chất ấy. Bởi lẽ có trƣờng hợp chữ thứ ba của câu
thất trên là thanh bằng chứ không phải là thanh trắc (vần có thể gieo ở vị trí
này). Hai câu lục bát thì ngƣợc với hai câu thất các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ
năm và thứ bảy tự do về thanh điệu còn các chữ thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu
đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu.
Ví dụ:
Từ nắng hạ (t) mưa thu (b) trái tiết,(t)
Xót mình rồng (b) mệt mỏi (t) chẳng yên.(b)
Xiết bao(b) kinh sợ(t) lo phiền,(b)
Miếu thần(b) đã đảo(t) thuốc tiên(b) lại cầu.(b)
(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân)
Ai ngờ bỗng (t) một năm (b) một nhạt(t)
Nguồn cơn kia (b) ai tát (t) mà vơi(b)?
Suy đi (b) đâu biết (t) cơ trời (b)?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 31 -
Bỗng không(b) mà hóa (t) ra người(b) vị vong!(b)
(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều)
Có thể khái quát về cách phối thanh của thể thơ STLB theo mô hình sau:
Chữ 1 2 3 4 5 6 7 8 Ghi chú
Câu thất
trắc
0
0
Trắc
0
Bằng
0
Trắc
Có khi
chữ thứ 3
là bằng
Câu thất
bằng
0
0
Bằng
0
Trắc
(vần)
0
Bằng
(vần)
Câu lục
0
Bằng
0
Trắc
0
Bằng
(vần)
0
Có khi
chữ thứ 2
là trắc
Câu bát 0 Bằng 0 Trắc 0 Bằng
(vần)
0 Bằng
(vần)
Nhìn vào mô hình phối thanh điệu của thơ Đƣờng luật và thơ STLB, rõ
ràng nhận thấy luật phối thanh trong thơ STLB tự do, uyển chuyển hơn thơ
Đƣờng luật.
*Tiểu kết
Qua tìm hiểu về vần, nhịp và cách phối thanh điệu của thể thơ STLB
chúng ta có thể khẳng định rằng thể thơ STLB của ta khác xa so với thể thơ
thất ngôn Đƣờng luật của Trung Hoa. Nhìn bề ngoài, hai câu thất ngôn của
thể thơ STLB và hai câu thất của thể thơ thất ngô n Trung Hoa có hình thức
giống nhau về số lƣợng chữ trong câu nhƣng lại khác nhau về mọi phƣơng
diện. Trƣớc tiên là về cách ngắt nhịp, nếu nhƣ câu thất ngôn của thể thất ngôn
Đƣờng luật đƣợc ngắt nhịp là 4/3 (chẵn trƣớc lẻ sau) thì hai câu thất của song
thất lục bát l ại ngắt nhịp 3/4 (lẻ trƣớc chẵn sau). Nhịp điệu của câu thơ xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 32 -
hiện trên cơ sở lặp lại và luân phiên âm luật theo cấu tạo đơn vị của ngôn ngữ.
Xét về vần thì câu thất ngôn của Trung Hoa chỉ có một loại vần chân (cƣớc
vận) và tất cả là vần bằng còn vần trắc nếu có chỉ là ngoại lệ. Trong khi đó hai
câu thất của ta có tới hai loại vần là vần chân (cƣớc vận) và vần lƣng (yêu
vận), đồng thời có cả vần bằng và vần trắc. Về luật phối thanh cũng vậy, câu
thất ngôn Đƣờng luật phối thanh theo quy luật: nhị, tứ, lục, phân minh (chữ
thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu) còn câu thất
của ta thì ngƣợc lại chữ thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu tự do còn chữ thứ ba, thứ
năm và thứ bảy đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu.
Có thể trong quá trình giao thoa văn hóa giữa hai nƣớc, dân tộc ta đã học
tập thể thơ thất ngôn Đƣờng luật của Trung Hoa nhƣng chúng ta đã cải biến về
cách thức sử dụng vần luật để làm nên thể thơ riêng của dân tộc. Chính sự khác
biệt về tính nhạc điệu trong hai câu thất của ta đã làm nên sự giàu có và độc
đáo cho câu thơ . Cũng nhờ có tính nhạc mà thể STLB có lợi thế ƣu trội hơn
hẳn thể song thất của Trung Hoa trong việc biểu đạt tiếng nói của tình cảm, tâm
tƣ con ngƣời. Bất kỳ hình thƣ́c nào cũ ng nhằm biểu đạt một nội dung nào đó ,
thậm chí còn phải biểu đạt sâu sắc nội dung nếu muốn tồn tại và phát triển lâu
bền. STLB cũng vậy , khi thể thơ mới ra đời nó đòi hỏi phải có nội dung mới
phù hợp với nó. Vì vậy STLB cũng đã nhanh chóng tìm ra nội dung mới: “Nội
dung của song thất lục bát là một ca khúc nội tâm” [35, 210]. Cũng chính tác
giả Phan Ngọc đã từng nói: “Cần phải có hình thức đó thì tình cảm mới có thể
mang hình thức một đợt sóng đi lên với hai câu thất, dừng lai ở một câu lục
ngắn gọn, để tỏa ra trong câu bát dài nhất, rồi lại vươn lên trong một khổ mới
và cứ thế, đợt sóng tình cảm lên xuống ăn khớp với hình thức của ngôn ngữ”
[35, 210]. Phải chăng thế mà nhóm tác giả cuốn Những khúc ngâm chọn lọc
(tập1) đã khẳng định: “Trong các thể thơ dân tộc của ta không có thể thơ nào
phù hợp với ngâm khúc bằng STLB. STLB là thể thơ duy nhất mà đặc điểm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 33 -
nó là nhịp điệu có tính chất chu kỳ, điều đó thích hợp với việc miêu tả một đối
tượng có tính chất đứng yên, ít biến động” [35, 16].
Quả thật STLB với những đặc trƣng độc đáo của mình đã góp phần tạo
nên sự phong phú về nhạc điệu, sƣ̣ diễn tả sâu sắc nội tâm con ngƣời trong
nhƣ̃ng hoàn cảnh đặc biệt , tạo nên sự đặc sắc hiếm có c ủa thể lo ại Ngâm
khúc. Điều này đã khẳng định tài năng của thế hệ các thi sĩ, họ đã sáng suốt
lựa chọn những hình thức thơ phù hợp để chuyển tải “nội dung của thời đại”
(lời của Biêlinxki).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 34 -
CHƢƠNG 2:
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH THỂ SONG THẤT LỤC BÁT
Trong suốt một thời gian dài, xung quanh vấn đề nguồn gốc của thể thơ
song thất lục bát (STLB), ngƣời ta đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Tựu
chung lại, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng thể thơ này là thể thơ
thuần túy Việt Nam. Nhƣng ngọn nguồn của nó đƣợc bắt đầu từ đâu? Hầu hết
giới nghiên cứu đều khẳng định thể thơ STLB có tiền lệ từ văn học dân gian.
Vậy thể STLB chỉ đơn thuần có tiền lệ từ văn học dân gian hay còn có tiền lệ
nào khác? Vấn đề này sẽ đƣợc chúng tôi giải quyết trong Chƣơng 2.
2.1 Những cơ sở từ văn học dân gian
Đã từ lâu văn học dân gian luôn đƣợc coi là nền tảng cho việc hình
thành và phát triển của văn học viết. Qua quá trình tìm hiểu, hầu hết các nhà
nghiên cứu đã đi đến thống nhất và cho rằng lục bát và song thất lục bát hai là
hai thể thơ “thuần túy dân tộc”, có nguồn gốc từ văn học dân gian. Thể STLB
sau này đƣợc các tác giả văn học viết sử dụng để sáng tác các tác phẩm trữ
tình trƣờng thiên nổi tiếng nhƣ: Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn, Đoàn
Thị Điểm), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Văn chiêu hồn
(Nguyễn Du), Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân) …
Sở dĩ các nhà nghiên cứu cho rằng thể thơ STLB có nguồn gốc từ văn
học dân gian nói chung và ca dao, dân ca nói riêng là vì hai câu thất ngôn
trong thể STLB có nhiều nét tƣơng đồng với các thể thức văn vần dân gian
của dân tộc. Ta thấy dù những câu thơ dân gian ngắn nhất vẫn đƣợc tạo bởi
hai vế song hành, có gieo vần ngắt nhịp và phối thanh điệu. Đây cũng là
những nét đặc trƣng của thể STLB vì vậy, các tác giả cho rằng rất có thể ca
dao, dân ca chính là cái nôi cho sự ra đời của thể này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 35 -
Ví dụ 1:
Đầu tắt, ( B- T)
Mặt tối. ( T – B)
[39, 405]
Hay :
Cơn đàng đông,/
Vừa trông/ vừa chạy;
Cơn đàng tây/
Vừa chạy/ vừa ăn.
[39, 196]
Trƣớc tiên xét về cách gieo vần: Điểm nổi bật trong những câu ca dân
gian mà chúng ta dễ dàng nhận ra đó là các vần vừa đƣợc tạo ở giữa câu (vần
lƣng), vừa đƣợc tạo ở cuối câu (vần chân).
VD1:
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba bò chín Trâu.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy Trâu,
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè,
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim,
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi,
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi,
Phú ông xin đổi hòn xôi Bờm cười.
[ 39, 423]
Ví dụ 2:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 36 -
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre non đủ lá nên chăng hỡi chàng.
[39, 232]
(ký hiệu in đậm VD: ôi Vần chân ; ký hiệu in đậm, gạch chân VD: im: vần
lưng)
Nhƣ vậy, ta thấy trong các thể thức văn vần dân gian nhƣ ca dao, dân
ca (VD2), hò vè, đồng dao (VD1)…thì kiểu gieo vần chân và vần lƣng vẫn
đƣợc các tác giả dân gian sử dụng phổ biến. Kiểu gieo vần trong những câu
lục bát của bài ca dao trên (VD2) giống hệt cách gieo vần của thể lục bát. Đây
cũng là kiểu gieo vần đƣợc các tác giả sáng tác theo thể thơ STLB sau này lựa
chọn.
Về cách ngắt nhịp, ở những câu thất thì câu ca dân gian thƣờng chuộng
cách ngắt nhịp lẻ trƣớc chẵn sau.
Ví dụ:
Mồ côi cha/ ăn cơm cá,
Mồ côi mẹ/ liếm lá đầu chợ.
[39, 379]
Ngắt bông sen/ còn vương tơ óng,
Cắt dây tình/ nào có dao đâu.
[39, 248]
Câu dưỡng nhi/ chờ khi đại lão
Cha mẹ già/ nương náu nhờ con.
[24, 374]
Sư tu đâu/ tiểu tôi tu đấy.
Oản với chuối/ ta cùng ăn chung
Rục tùng xòe/ ta tung não bạt,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 37 -
Dốc một lòng/ thế phát đi tu…
[39, 122]
Qua những câu thất ngôn dân gian trên, ta nhận thấy lối ngắt nhịp lẻ
trƣớc, chẵn sau dƣờng nhƣ là sở thích và xu hƣớng thẩm mĩ riêng của ngƣời
dân Việt Nam. Mô hình nhịp ngắt 3/4 hay 3/2/2 cũng rất phổ biến trong
những câu thơ thất ngôn Việt Nam.
Mặt trời vàng/còn in bóng thỏ,
Đầu non bạc/ đã chật cây chim.
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 42 – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Rượu đối cầm/ đâm thơ một thủ,
Ta cùng bóng/ lẫn nguyệt ba người.
(Quốc âm thi tập, bài 76 – Nguyễn Trãi)
Về luật phối thanh: Để tạo nên những câu thơ dồi dào nhạc điệu, bên
cạnh cách gieo vần, ngắt nhịp, luật phối thanh cũng có vị trí rất quan trọng.
Ở đây, ta thấy tất cả các tiếng không kể bằng hay trắc đều tham gia vào
hoạt động tạo vần. Chính nhờ có sự phối thanh mà các câu thơ dân gian trở
nên mềm mại uyển chuyển, dễ đi vào lòng ngƣời.
Ví dụ :
Tay cầm con dao,
Làm sao cho sắc, (B)
Để mà dễ cắt, (T)
Để mà dễ chặt, (T)
Chặt lấy củi cành,
Trèo lên rừng xanh, (B)
Chạy quanh sườn núi, (B)
Một mình thui thủi, (T)
Chặt cây chặt củi, (T)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 38 -
Tìm trốn ta ngồi, (T)
Ngồi mát thảnh thơi…
[39, 199]
Cách gieo vần chân xen lẫn vần lƣng cùng với sự trầm bổng của thanh
điệu đã tạo nên sự uyển chuyển nhịp nhàng cho bài ca ca dao. Hình ảnh ngƣời
lao động hiện lên một cách tự nhiên với những hành động và cử chỉ của ngƣời
hái củi trong rừng.
Nhƣ vậy, từ lối gieo vần, ngắt nhịp đến luật phối thanh trong thể thơ
STLB đều có nhiều điểm tƣơng đồng với các thể văn vần của văn học dân
gian. Nhƣ Phan Diễm Phƣơng đã nhận xét: “Rõ ràng lối gieo vần chân kết
._.ên tử/ dƣỡng tôi thiên tử
23 65 4 Đời thái bình/ ca khúc thái bình
25 71 1 Càng một ngày/ càng ngặt đến xƣơng
26 71 3 Ngƣời hiềm rằng/ cúc qua trùng cửu
27 71 4 Kẻ hãy bằng/ quỳ hƣớng thái dƣơng
28 71 5 Trà thuở tiên/ thời mình kín nƣớc
29 71 6 Cầm khi đàn/ khiến thiếp thiêu hƣơng
30 75 3 Đám cúc thông/ quen vầy bậu bạn
31 75 4 Cửa quyền quý/ ngại liễm chân tay
32 75 5 Qua đòi cảnh/ chép câu đòi cảnh
33 75 6 Nhàn một ngày/ nên quyển một ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 102 -
34 76 5 Rƣợu đối cầm/ đâm thơ một thủ
35 76 6 Ta cùng bóng/ lẫn nguyệt ba ngƣời
36 81 3 Trúc Tƣởng Hủ/ nên them tiết cứng
37 81 4 Mai Lâm Bô/ đâm đƣợc câu thần
38 82 1 Lọ chi tiên/ bụt nhọc tầm phƣơng
39 83 1 Phú quý lòng/ hơn phú quý danh
40 83 8 Bui một ta/ khen ta hữu tình
41 84 5 Quyển thi thƣ/ những màng quen mặt
42 84 6 Tiếng thị phi/ chăng dóng đến tai
43 85 1 Lòng ngƣời Man/ Xúc nhọc đua hơi
44 85 3 Thoi nhật nguyệt/ đƣa qua mỗ phút
45 85 4 Áng phồn hoa/ họp mấy trăm đời
PHỤ LỤC 2
Bảng thống kê chi tiết cách gieo vần 100 bài thơ đầu tiên trong
Quốc âm thi tập
STT Bài Câu Vị trí gieo vần
1 4 Áo mặc nài chi gấm là
Nƣớc dƣỡng cho thanh đìa thƣởng nguyệt
Vị trí 5
2 6 Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lặn
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai
Vị trí 3
3 6 Khôn biết lòng ngƣời ngắn dài
Sự thế dữ, lành ai hỏi đến
Vị trí 3
4 9 Hàu chất chất so le, khóm cuối làng
Ngâm sách thằng chài trong thủa ấy
Vị trí 3
5 9 Ngâm sách thằng chài trong thủa ấy
Tiếng trào dậy khắp Thƣơng Lang
Vị trí 3
6 10 Ít nhiều tiên sái lòng ngoài thế
Năng một ông này đẹp thú này
Vị trí 5
7 12 Duyên xƣa hƣơng hỏa tƣợng ba thân
Nhan Uyên nƣớc chứa bầu còn nguyệt
Vị trí 5
8 12 Đỗ Phủ thơ nên bút có thần
Nợ quân thân chƣa báo đƣợc
Vị trí 3
9 15 Bát cơm xoa nhò ơn xã tắc
Gian lều cỏ, đội đức Đƣờng, Ngu
Vị trí 5
10 16 Phần du lẽo đẽo thƣơng quê cũ, Vị trí 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 103 -
Tùng cúc bù trì nhớ việc hằng.
11 18 Đột xung biếng tới án can qua
Thích lều ta dƣỡng tính ta
Vị trí 3
12 18 Song nhật hằng lễ phiến sách cũ
Hôm đao đủ bữa bát cơm xoa
Vị trí 3
13 19 Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu
Nguyệt mọc đầu non, kình dõi tiếng
Vị trí 3
14 19 Giang sơn dạm đƣợc đồ hai bức
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Vị trí 5
15 27 Say minh nguyệt, trà ba chén
Thích thanh phong, lều một gian
Vị trí 5
16 27 Ngỏ cửa nho, chờ khách đến,
Trồng cây đức, để con ăn
Vị trí 3
17 32 Không hết, kể chi tay trí thuật
Để dòi khi ngã, thắt khi eo
Vị trí 5
18 34 Chỉn sá lui mà thủ phận,
Lại tu thân khác mặc thi thƣ
Vị trí 3
19 41 Vƣơng Chất tình cờ ta ƣớm hỏi
Diều phơi phới thấy tiên đâu
Vị trí 3
20 42 Mua đƣợc thú mầu trong thủa ấy
Thế gian hay một khách văn chƣơng
Vị trí 3
21 45 Ngƣời sinh ở thế mỗ nhàn thay
Lan đình tiệc họp, mây huyễn
Vị trí 5
22 46 Cửa mận tƣờng đào chân ngại chen
Chơi nƣớc chơi non đeo tích cũ
Vị trí 5
23 51 Mây tuôn phủ rợp thƣ phòng
Thức nằm nghĩ ngợi còn mƣờng tƣợng
Vị trí5
24 55 Sống bao lâu, đáo để màng
La ỷ dập dìu, hàng chợ họp
Vị trí 5
25 56 Xuân tĩnh, đƣờng hoa, gấm phong
Ai có của thông phòng thiết khách
Vị trí 5
26 58 Say mùi đạo, trà ba chén
Tả lòng phiền, thơ bốn câu
Vị trí 3
27 62 Rày biên tuyết đã nên ông
Đành hay thƣơng hải đòi thời biến
Vị trí 3
28 64 Dầu lòng đi bắc lẫn về nam
Trƣờng thiên định, hùm nằm chực
Vị trí 5
29 65 Rày mừng thiên hạ hai của
Tể tƣớng hiền tài, chúa thanh minh
Vị trí 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 104 -
30 66 Khó khăn thì mặc, có màng bao
Càng khó bao nhiêu chí mấy hào
Vị trí 3
31 67 Tựa cội cây, ngồi hóng mát
Đìu hiu ta hãy một đìu hiu
Vi trí 5
32 69 Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh, phát cỏ ƣơng sen
Vị trí 5
33 69 Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen
Vị trí 3
34 75 Phải lụy về danh đã hổ thay
Đám cúc thông quen vầy bậu bạn
Vị trí 5
35 80 Già hòa lủ, tủi nhiều hành
Chông gai nhẹ đƣờng danh lợi
Vị trí 5
36 86 Nào của cởi buồn trong thủa ấy
Có thơ đầy túi, rƣợu đầy bình
Vị trí 5
37 89 Cầm khua hết ngựa cờ khua tƣợng,
Chim bắt trong rừng, cá bắt ao
Vị trí 3
38 89 Chim bắt trong rừng cá bắt ao
Còn có anh hùng bao nả nữa
Vị trí 5
39 90 Dại hòa vụng nết lừ khừ
Lừa tìm ngạn Bá nhƣ mai bảo
Vị trí 5
40 90 Lừa tìm ngạn Bá nhƣ mai bảo
Thuyền nổi dòng thu có nguyệt đƣa
Vị trí 5
41 91 Đƣờng đi saqs tránh chông gai
Miệng ngƣời tựa mật mùi qua ngọt
Vị trí 5
42 94 Đầu kết lăng căng những hổ,
Thân nhàn lục cục mỗ già
Vị trí 5
43 95 Ngày xem hoa nở chăng cài cửa
Tối rƣớc chim về mựa lạc đàn
Vị trí 5
44 97 Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực,
Dòng nƣớc Liêm Khê lục nữa lam,
Vị trí 5
45 98 Non tây bóng ác đã màng tang
Nhìn đỉnh tùng thu vắng chừng
Vị trí 5
46 100 Tôi ngƣơi hết tấc lòng trung hiếu
Ai há liệu nơi thịnh suy
Vị trí 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 105 -
PHỤ LỤC 3
Bảng thống kê chi tiết cách gieo vần lƣng
I – Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào
STT Gieo vần lƣng ở câu thất trên Vị trí gieo vần
1 Vui lòng hy hạo tụng ân binh hòa
Thơ Thiên bảo dâng ca chúc hỗ
Vị trí 5
2 Thƣởng đào hai chữ phụ khang mừng làng
Xuân nhị nguyệt huyên hòa lệnh tiết
Vị trí 5
3 Sân thiều múa phƣợng, gió nhân bay cờ
Phụng tam linh sau nhờ phúc hỗ
Vị trí 5
4 Phụ tài đàn Thuấn, trại thần ca Chu
Vạn vạn tuế tung hô ba tiếng
Vị trí 5
5 Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm
Mừng thế trị năm năm xuân tịch
Vị trí 5
6 Cổ vũ thái bình dân
Mở tiệc hát thờ thần kỳ phúc
Vị trí 5
7 Ngón đàn cấp túc, dịp sênh thăng bình
May gặp hội hà thanh hải án
Vị trí 5
8 Nhị nguyệt thục hòa xuân
Xuân kỳ phúc thừ thần tiệc hát
Vị trí 5
9 Say chăng chén ngọc hô tung sân rồng
Tề thanh chúc Thánh cung vạn tuế
Vị trí 5
10 Cổ vũ thái bình dân
Xuân kỳ phúc, vui xuân tiệc hát
Vị trí 5
11 Nhà đàn cửa hát noi ca đƣờng cù
Mừng nay tiệc ca trù thị yến
Vị trí 5
12 Bốn dân mƣa huệ trăm nhà gió huân
Rồi từ đó nhờ ân cấp túc
Vị trí 5
13 Thập đình cổ vũ xuân
Tiệc mở hát thờ thần kỳ phúc
Vị trí 5
14 Thọ trăm chén chúc, phúc ngàn câu ca
Rồi tiệc đó “bình hòa vĩnh nhạ”
Vị trí 5
15 Thanh miếu dâng ca
Trên tam vị nguy nga ngự tọa
Vị trí 5
16 Trăm câu túy bão, muôn vần tuy tƣơng
Mừng từ đó ngô hƣơng khang phụ
Vị trí 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 106 -
17 Nguyệt lệnh tứ dƣơng xuân
Cung phụng thần tàng câu kỳ phúc
Vị trí 3
18 Nhân ngâm túy bão, họ canh sùng thành
Tứ ca diên trai thanh chúc hỗ
Vị trí 5
II – Tứ thời khúc vịnh
STT Gieo vần lƣng ở câu thất trên( câu 8/câu 7) Vị trí gieo vần
1 Giúp tay tạo hóa sửa quyền âm dƣơng
Nhớ hồng hoang khi còn trùng trục
Vị trí 3
2 Xem trăng tựa hối, xem mùa tựa đông
Bà Thái xung tự sinh thái cực
Vị trí 3
3 Dƣới thời là đất, giữa ngƣời là ba
Cao hòa xa đạo trời cực thẳm
Vị trí 3
4 Thủa vua Thái Hiệu, thủa thần Câu Mang
Lò đề thất rẽ sang hơi ống
Vị trí 5
5 Thày lay sớm đã tỏ tƣờng sự xuân
Khéo thay bấy hồng quân chuốt vật
Vị trí 5
6 Muôn tía nghìn hồng thức thức đua tƣơi
Thiều quang đến lòng ngƣời hớn hở
Vị trí 5
7 Cửa giao lừng lẫy đón xuân rƣớc về
Khắp bốn bề non sông hoa cỏ
Vị trí 3
8 Tú mi là thiếp, nghi xuân là bùa
Quát tháo khua bao nhiêu khí lạnh
Vị trí 3
9 Cửa xum ngọc trắng, tay dầm tơ xanh
Suốt năm canh đèn cay con mắt
Vị trí 3
10
Thƣ dâng đền quế, tung bài hoa tiêu
Khắp trong triều biểu dâng chính đán
Vị trí 3
11 Áo xiêm Nghiêu Thuấn, đai cân Cao Quì
Vẳng đan trì thiều tâu mấy chặp
Vị trí 3
12 Nụ vàng nhị ngọc nở đơm vội vàng
Chén nổi dâng nửa tô nửa bách
Vị trí 3
13 Đào phù cấm quỉ, phòng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà, cửa treo thiếp yểm
Vị trí 3
14 Thƣợng nguyên tiết đã dƣ sang khi nào
Cầu đã sao thì cây lại cửa
Vị trí 3
15 Kìa non kết vẻ nọ lâu xem đèn
Quáng thức sen hào quang vằng vặc
Vị trí 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 107 -
16 Đào đào mận mận vội vàng tranh xuân
Lọn mƣời phần tiết lành cảnh hảo
Vị trí 3
17 Trang cốc lò ngày đã đến tháng hai
Thần cao môi đỉnh non khao tế
Vị trí 3
18 Xã tắc có thiện phong vân có đàn
Thẻ đầu ngàn lƣỡi mềm bố cốc
Vị trí 3
19 Nguyệt kia đã quán hoa kia lại thành
Thức nhân tình thơ bài lá đỏ
Vị trí 3
2o Cửu quan cửa ấy có cài cánh chăng
Giữa phân bằng thiều quang vẹn vẹn
Vị trí 5
21 Thƣợng kỷ là ngày đã đến tháng ba
Khắp nhà nhà lan chìm chén nổi
Vị trí 3
22 Trăm yêu nghìn dấu dốc đày thơ ca
Bếp bằng tờ nhà nhà ăn nguội
Vị trí 5
23 Long xà chƣơng ấy nghĩ thì lại thƣơng
Nức mùi hƣơng long hoa một hội
Vị trí 3
24 Ngẫm hay thời tiết lại về thanh minh
Hé mành mành mƣời hai con triện
Vị trí 3
25 Tiểu nhi hớn hở hứng sôi thƣởng vàng
Cụi xênh xang áo đơn mong mỏng
Vị trí 3
26 Có đƣờng lừa ngựa có thành xem hoa
Một khắc là ngàn vàng khôn chuộc
Vị trí 3
27 Trƣợng phu lòng sắt dễ mềm vậy vay
Cớ chi mày hỡi con đỗ vũ
Vị trí 3
28 Xanh phô màu liễu lục trƣơng tán hòe
Bến thủy đình cầm ve mới gảy
Vị trí 5
29 Trần ai rửa sạch non tiên sớm vào
Gió hiu hiu trƣớng cao song bắc
Vị trí 5
30 Ngẫm hay chẳng khác ngƣời vua Hi hoàng
Rất yêu đƣơng Lan đình một hội
Vị trí 3
31 Nắng nôi chi nữa luống hƣ tháp đài
Diễn ngày dài cờ tiêu một cuộc
Vị trí 3
32 Kim phù xạ nổi thủy tinh nƣớc dầm
Năm chập năm tiết lành Đoan ngọ
Vị trí 3
33 Ngƣời bồ hùm ngải hăm hăm trấn tà
Địch doàn La hò ran thủy quốc
Vị trí 3
34 Thủ cung buông nƣớcthói thƣờng học xƣa
Ơn cả nhờ cửu trùng ban phát
Vị trí 3 Bài Câu
35 Cởi hờn giàu của thói dân Ngu Đƣờng Vị trí 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 108 -
Sáng đầu tƣờng lựu lòe phun lửa
36 Ngồi dầm hoa nở chén dầm nguyệt bay
Tán lửa xây lòng ngƣời dễ khiếp
Vị trí 3
37 Chén doành vì nƣớc gỏi mềm vì sen
Dũ bên thềm chung tƣ thon thót
Vị trí 3
38 Khiến ngƣời thiên hạ biết ngày là thu
Thần Nhục thu sớm giong yến trắng
Vị trí 3
39 Ngày sâu tựa bể tháng dài tựa năm
Thức chẳng nằm ngồi nghe tiếng dế
Vị trí 3
40 Lòng ngƣời cải bắc thiết thay khôn hàn
Kình Hàn-sơn chuông ai sớm đóng
Vị trí 3
41 Chiều ai Trƣờng – tín lâm dâm chong đèn
Thơ mấy thiên mất lòng chàng Tống
Vị trí 3
42 Chúa Tƣơng mơ mết thiếu thừa chiêm bao
Địch chốn nao hóng dài một tiếng
Vị trí 3
43 Bãi ngô đã tƣới, ngàn Tƣơng lại thuyền
Thơ mấy thiên hay lòng Trang Tích
Vị trí 3
44 Rau thuần gỏi vƣợc chốc mòng thú quê
Vạc bốn bề trong đêm thất tịch
Vị trí 3
45
Kẻo lòng ngƣu nữ lo âu cách lìa
Ban nữ nhi xâu kim xin khéo
Vị trí 3
46 Cửa buồng cài chốt, ngăn phòng khóan ngâu
Kìa kìa đâu lên lầu Bách- tử
Vị trí 3
47 Thể âu Vƣơng Xán có tình cùng trăng
Sự có chăng khá cƣời chúa Hán
Vị trí 3
48 Tay phàm bẻ đƣợc đào tiên ba lần
Cảnh mƣời phần đâu hơn Xích- bích
Vị trí 3
49 Hứng thừa lai láng sự đời đã quên
Lạc ngàn tiên kìa trông Tạ Thựơng
Vị trí 3
50 Trời thu mấy trƣợng bể thu mấy trùng
Tiết thu trung đã về quá nửa
Vị trí 3
51 Lầu cao mấy trƣợng đòi lần gấm phong
Một bầu nồng ba nghìn thế giới,
Vị trí 3
52 Bốn bề bằng một ai ngờ rằng đêm
Gió cung thiềm mảy hơi thoảng đến
Vị trí 3
53 Xanh kia mấy trƣợng dễ hòa khá lên
Dƣới lẫn trên lần bằng vằng vặc
Vị trí 3
54 Hay đâu là nƣớc hay đâu là trời
Khói hơi hơi ngàn lau lác đác
Vị trí 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 109 -
55 Đã chuông quán bắc lại chày thành nam.
Nhạn đã về, tiết sang trùng cửu
Vị trí 3
56 Chén anh chén chú đầy vơi mặc dầu
Nể gió thu thẹn mình càng lánh
Vị trí 3
57 Hòa hay nhủ khách đều cùng lên cao
Đắc thú bao ngƣời Đào Bành-trạch
Vị trí 3
58 Nửa tô nửa bách nửa thông nửa ngƣời
Tuần tháng mƣời đã về dƣơng nguyệt
Vị trí 3
59 Nấu hênh rƣợu giọt mƣời phân đêm dài
Chí khí trai Tô khanh thờ Hán
Vị trí 3
60 Ấy gan hay sắt, ấy lòng hay son!
Giá Tôn Khang hé song đọc sách
Vị trí 5
61 Hăm hở những dè số kiếp nhƣờng cao
Mạnh Công Giao thủa vào non Bá
Vị trí 3
62 Lừa gầy đủng đỉnh hứng màng thích ngâm
Giá căm căm thẳng vào thành thái
Vị trí 3
63 Danh lừng họ Lý, tiếng bay đời Đƣờng
Vua Nghệ hoàng đến nhà trung lệnh
Vị trí 3
64 Nào toan sang khó nào kiềng hiềm nghi
Hứng thờ ơ chiếc thuyền ngòi Diệm
Vị trí 3
65 Nƣớc trời nghi ngút bạn thơ than tìm
Giá chẳng hiềm cửa Trình chăm chắm
Vị trí 3
66 Chân đầy phiến tuyết mặt thừa gió xuân
Đông nửa phần tháng về mƣời một
Vị trí 3
67 Gẫm hay đông chí ấy điềm đã sang
Thủa nhị dƣơng là tuần phục tạp
Vị trí 3
68 Bảng xuân sơ chiếm danh khôi ở đầu
Trời riêng đâu mảy tơ mảy phút
Vị trí 3
69 Đâu đâu mừng thấy tiết xuân đã về
Năm cũ đi thì năm mới lại
Vị trí 3
70 Gió nhân hây hẩy khí hòa hây hây
Tám bức vầy dƣơng hòa đầm ấm
Vị trí 3
72 Đào thơ thƣợng uyển, gió mềm ngự câu
Khắp đâu đâu thủa trong trời đất
Vị trí 3
73 Vào cảnh xuân đài, lên cõi sống lâu
Gót lẫn đầu đội ơn vị dục
Vị trí 3
74 Trị dài Trịnh chúa, Lê quân muôn đời
Hễ đạo trời rất công rất chính
Vị trí 3
75 Đức kiền rộng rãi, lòng nhân vỗ về Vị trí 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 110 -
Hè lệnh hè đức hay muôn vật
76 Đã có lạnh lùng lại có dƣơng xuân
Khắp xa gần ơn nhờ đức đội
Vị trí 3
77 Huyền-trân lọ đến, Cƣ-tƣ lọ vào
Hầu no nao nỗi lòng ngay thảo
Vị trí 3
78 Thịnh bằng tùng bách, thọ bằng non sông
Đã kính dâng Hoa phong tam chúc
Vị trí 3
79 Trăm trai đầy rẫy khác gì Lạc Long
Phúc trùng trùng con rồng cháu phƣợng
Vị trí 3
80 Hiền hòa nối thánh sau hòa nối xƣa
Trị có thừa đời đời thêm rộng
Vị trí 3
81 Vƣơng thì khá bốn, đế thì khá ba
Mừng quốc gia chi dâng thƣợng thọ
Vị trí 3
82 Trời phúc dân triền năm dõi muôn muôn
Tài mọn này chẳng khôn chẳng dại
Vị trí 5
III - Thiên Nam minh giám
STT Gieo vần lƣng ở câu thất trên( câu 8/câu 7) Vị trí gieo
vần
1 Trổ sinh một bọc trăm trai khác thƣờng.
Xƣng Hùng Vƣơng cha truyền con nối
Vị trí thứ 3
2 Khỏe thay ngựa sắt vững thay việt vàng.
Kìa Tân Lang một nhà trọn nghĩa,
Vị trí thứ 3
3 Vị ngon sắc tốt dễ say lòng ngƣời.
Khó hòa vui khá khen họ Chử,
Vị trí thứ 3
4 Chẳng cầu hòa gặp chẳng nài hòa nên.
May cậy duyên có lòng kiêu xỉ,
Vị trí thứ 3
5 Lại trồng nên giống tây qua lạ nhƣờng!
Khắp bốn phƣơng mảng danh tìm hỏi,
Vị trí thứ 3
6 Xanh xanh đã định giữ phần ấm no.
Đấng trƣợng phu khá khen ông Lý,
Vị trí thứ 3
7 Bỗng chiều tiếng sấm phới dây nghìn vàng.
Nối Hồng Bàng tới tuần họ Thục,
Vị trí thứ 3
8 Phụ nhà phụ nƣớc tội chừa mấy thân.
Nƣớc phiên phân năm hầu trăm lẻ,
Vị trí thứ 3
9 Doành nho tự ấy chúng truyền đến nay.
Gái cao tay mấy tài gái Triệu,
Vị trí thứ 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 111 -
10 Chỉn hiềm Công Tiện một lòng tội nhi.
Vận tới khi lửa Ngô bừng dậy
Vị trí thứ 3
11 Những tài khoáng đạt những tay cao vời.
Mạnh ấp đời ai bằng Phụng Hiểu,
Vị trí thứ 3
12 Đức đua ngƣời Doãn tài tầy ngƣời Quang.
Kìa họ Dƣơng vả danh quốc tế,
Vị trí thứ 3
13 Rủ lòng hào kiệt kết vây anh hùng.
Thấy chín trùng hãy còn xung ấu
Vị trí thứ 3
14 Mộng lừa tiết bạc mong lay nhà vàng.
Biến trong tƣờng ra tay mong sửa,
Vị trí thứ 3
15 Nào còn đoái đến cần vƣơng là gì.
Nết nữ nhi khá chê Lan Hậu,
Vị trí thứ 3
16 Lại xui hai rể tranh nhìn một con.
ấy là hồn nàng thành ả rợ
Vị trí thứ 3
17 Say ai lòng dạ nào còn tiếc ai?
Hay ý trời xui lòng nàng muốn,
Vị trí thứ 3
18 Trong tay đến nỗi nát cam chẳng ngờ,
Chữ bày cờ Đền ơn phá giặc.
Vị trí thứ 3
19 Buông oai hùm sói nộp hồn kình nghê.
Lời dám khoe đành lòng đƣợc trọn
Vị trí thứ 3
20 Lâm ly Trƣơng Tử ƣớc ao Vũ hầu.
Lo nhiệm màu thiên khuy ai sánh?
Vị trí thứ 3
21 Dại khôn chẳng kể khen chê chẳng nài.
Công mình làm chi ngƣời nhƣờng chúng,
Vị trí thứ 3
22 Dại hơn Phùng Dị kính bề Phần Dƣơng.
Duyên khác thƣờng ai bằng ứng mộng,
Vị trí thứ 3
23 Dạ kia chƣa định điềm này là ai.
Các xe hàng ngoài ngọc khuyết,
Vị trí thứ 3
24 Đà kham ngẫm thấy những đồ tiểu nhân.
Luận gian thần tội Canh đã quá.
Vị trí thứ 3
25 Giống hùm chẳng nép mình đà ngăn vua
Lòng cong từ cảm thờ tiên thánh
Vị trí thứ 3
26 Nghĩa trên chẳng phụ mặt tăng chẳng nhìn.
Khá không khen Khâm Từ có đức,
Vị trí thứ 3
27 Tuy chê xào xạc khá khen ngó ngàng.
Nỗi nàng Dƣơng khôn tin cách trở,
Vị trí thứ 3
28 Đã đành gian kế quên phƣơng lo về.
Dù biết nghĩa gái không canh giá,
Vị trí thứ 3
29 Dậy cơn ân ái nào lòng Nam vô? Vị trí thứ 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 112 -
Vận đến Hồ thì trời còn đợi,
30 Thể lòng Kỷ Tín sánh gan can thành.
Kìa ngƣời Thạch sánh gan dũng nghĩa,
Vị trí thứ 3
31 Lý Liêm nối gót Bành Hàn sánh vai.
Tôi can nài khen ngƣời Hƣụ Tƣớc,
Vị trí thứ 3
32 Mấy tìm rồng thực đứng nơi hào càn.
Tôi trong màn Văn Linh cũng khá,
Vị trí thứ 3
33 Sao chẳng một chƣớc thênh thang năm hồ?
Đấng danh nho khá khen Thiên Tích,
Vị trí thứ 3
34 Tƣởng bề tiết ngọc đòi lần lệ châu.
Tiết trƣợng phu kia nhƣ ngựa ký,
Vị trí thứ 3
35 Hãy còn khắm nắm ra lòng trảo qui!
Tham đến nỗi đời chê bạn dẻ,
Vị trí thứ 3
36 Chín trùng đã ắt ba lần bày đƣa.
Nƣớc nào rửa sạch nhơ ngƣơi Huệ
Vị trí thứ 3
37 Dân đà chung khổ còn gì hòa đau
Khi ra sứ lo nghèo toan đói
Vị trí thứ 3
38 Chẳng can khi lỗi chẳng lơi khi nhầm.
Chỉn khá ngẫm Khuyển Diêm Khang Sủng…
Vị trí thứ 3
39 Có đâu mặt nhẹ có đâu lòng vì.
Ghét những loài treo dê bán chó,
Vị trí thứ 3
40 Hôm chơi bạn nọ sớm đƣa khách nào.
Nƣớc nài bao gặp vần quái gở,
Vị trí thứ 3
41 Thập thu hào kiệt mở mang cõi bờ
Vận thiên cơ ra uy thần vũ,
Vị trí thứ 3
42 Chín thân đều trọng một nhà đều sang.
Hợp triều công văn chƣơng khác giá,
Vị trí thứ 3
43 Nhƣờng bằng chớp giật mau bằng sấm vang.
Thuở dẹp đông cùng thì đánh bắc
Vị trí thứ 3
44 Khiêm vƣơng trả mặt Mạc đồ lòi gan.
Nết đa đoan khá chê Vi Quốc,
Vị trí thứ 3
45 Nào lời tánh huấn thể đà bỏ đâu?
Tới tuần sau Thái vi sáng ánh,
Vị trí thứ 3
46 Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài.
Vâng mệnh trời vì dân đánh tội,
Vị trí thứ 3
47 Trên phù vầng đỏ dƣới an thành vàng.
Sánh Thiếu Khang mƣu gài đức sửa,
Vị trí thứ 3
48 Đột nham oai lửa nài khuyên nhà vàng.
Còn những đấng văn chƣơng biết lý,
Vị trí thứ 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 113 -
49 Đấng dùng ích nƣớc đấng dùng chăn dân,
Loài nghịch thần khá chê Đoan Vũ,
Vị trí thứ 3
50 Làm sao ngƣời chẳng đoái nghì quân thần?
Vận tới tuần đẩu ngƣu sáng cả,
Vị trí thứ 3
51 Chút công chƣa thấy mảy công chƣa đền.
Ai bạc tiền phỉnh phờ chào hỏi,
Vị trí thứ 3
52 Nào kinh phép nƣớc nào ghê đạo trời!
Ai gửi lời cƣu lòng trổ oán.
Vị trí thứ 3
53 Khác nào lớn vu nặng đè miệng thơ.
Nào chẳng hổ hiền xƣa mỗ chút,
Vị trí thứ 3
54 Phần vì tiền bạc phần vì cháu con.
Rẽ Vũ Môn ra tay hiền sĩ,
Vị trí thứ 3
55 Hổ chăng những đấng trên đời có danh.
Lộc nƣớc danh nuôi quân thƣởng sĩ
Vị trí thứ 3
56 Vào toan luồn lọt ra lo hiếp ngƣời
Ấy những trai gian ăn khôn nói,
Vị trí thứ 3
57 Áo cơm chƣa trả bóng dâu chƣa đền.
Phúc gặp trên nửa nghìn có thánh,
Vị trí thứ 3
58 Hai cờ phen Hán ba gƣơng sánh Đƣờng.
Mở lƣớiThang thập thu hào kiệt,
Vị trí thứ 3
IV - Chinh phụ ngâm
STT Gieo vần lƣng ở câu thất trên( câu 8/câu 7) Vị trí gieo
vần
1 Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ.
Vị trí thứ 3
2 Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Vị trí thứ 3
3 Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc.
Vị trí thứ 3
4 Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại
Vị trí thứ 3
5 Lòng nào chẳng động lòng bi thương.
Chàng từ sang đông nam khơi nẻo,
Vị trí thứ 3
6 Tên reo đâu ngựa giáo đan mặt thành.
Áng công danh trăm đƣờng rộn rã
Vị trí thứ 3
7 Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Vị trí thứ 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 114 -
8 Khiến người thôi sớm thì hôm những rầu.
Khách phong lưu đƣơng chừng niên thiếu
Vị trí thứ 3
9 Quan san để cách hàn huyên bao đành.
Thuở lâm hoành oanh chưa bén liễu
Vị trí thứ 3
10 Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Vị trí thứ 3
11 Phù dung lại rã bên sông ba sòa
Hẹn cùng ta Lũng Tây nam ấy,
Vị trí thứ 3
12 Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ.
Vị trí thứ 3
13 Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai
Thử tính lại diễn khơi ngàn ấy
Vị trí thứ 3
14 Dậy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Này một thân nuôi già dạy trẻ,
Vị trí thứ 3
15 Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Vị trí thứ 3
16 Trăng khuya sương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai hồn day bóng lẫn
Vị trí thứ 3
17 Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô miệng càng biếng nói,
Vị trí thứ 3
18 Khuê li mới biết tận toan dường này.
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ.
Vị trí thứ 3
19 Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng.
Vị trí thứ 3
20 Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về
Trông bốn bề chân trời mặt đất
Vị trí thứ 3
21 Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
Vị trí thứ 3
22 Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
Vị trí thứ 3
23 Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần đòi chén,
Vị trí thứ 3
V - Văn chiêu hồn
STT Gieo vần lƣng ở câu thất trên( câu 8/câu 7) Vị trí gieo
vần
1 Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng Vị trí thứ 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 115 -
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
2 Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Vị trí thứ 3
3 Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở,
Vị trí thứ 3
4 Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nước chảy,
Vị trí thứ 3
5 Trên thờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Vị trí thứ 3
VI - Tỳ bà hành
STT Gieo vần lƣng ở câu thất trên( câu 8/câu 7) Vị trí gieo
vần
1 Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Vị trí thứ 3
PHỤ LỤC 4
Bảng thống kê những câu không phải ngắt nhịp 3/4
I/ Nghĩ hộ tám giáp giải thƣởng hát ả đào
STT Câu Ngắt nhịp
1 Xuân nhật/ tảo khai/ gia cát hội 2/2/3
2 Hạ đình/ thông xƣớng/ thái bình âm 2/2/3
3 Tề thanh chúc Thánh /cung vạn tuế 4/3
4 Lễ nhạc bách niên/ tu miếu diển 4/3
II/ Tứ thời khúc khúc vịnh
STT Câu Ngắt nhịp
1 Đắc thủ bao ngƣời/ Đào Bành-trạch 4/3
2 Kìa Hán, Đƣờng, Tấn, Tống làm chi 2/1/1/3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 116 -
III/ Thiên Nam minh giám
STT Câu Nghắt nhịp
1 Chút hiềm chẳng đợi /lòng phụ mệnh 4/3
2 Dƣới dại ngây khôn/ cốc tay trên 4/3
3 Đời rằng có bụt/ đâu ở thế 4/3
4 Tên đặt thờ cúng/ Phật mấy nơi 4/3
5 Ấy là hồn nàng/ thành ả rợ 4/3
6 Tay chƣa hề khỏi/ quyển lƣợc thao 4/3
7 Trong trần ai lọ/ biết đâu nên 4/3
IV/ Chinh phụ ngâm
STT Câu Ngắt nhịp
1 Sƣơng nhƣ búa bổ/ mòn gốc liễu 4/3
2 Một năm một nhạt/ mùi son phấn 4/3
3 Xuân thu /để giận quanh ở dạ 2/5
4 Hợp li/ đành buồn quá khi vui 2/5
5 Quân trƣớc đã gần/ ngoài doanh Liễu 4/3
6 Mƣa dƣờng cƣa xẻ/ héo cành khô 4/3
7 Xin chàng /xếp bào cởi giáp, 2/5
8 Xin chàng/ rũ bỏ phong sƣơng 2/5
V/ Cung oán ngâm
STT Câu Ngắt nhịp
1 Ai ngờ tiếng dế/ ran ri rỉ 4/3
2 Ai ngờ tiếng quyên/ kêu ra rả 4/3
VI/ Văn chiêu hồn
STT Câu Ngắt nhịp
1 Hƣơng lửa/ đã không nơi nƣơng tựa 2/5
2 Đổi mình /vào lấy ấn nguyên nhung 2/5
3 Hoặc là/ nƣơng thần từ Phật tự 2/5
4 Hoặc là/ nhờ đầu chợ cuối sông 2/5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 117 -
VII/ Tỳ bà hành
STT Câu Ngắt nhịp
1 Lần tiếng sẽ hỏi/ ai đàn tá 4/3
2 Dƣờng than/ niềm tấm tức bấy lâu 2/5
3 Ngừng đứt/ nên phút bặt tiếng tơ 2/5
4 Rằng/ “ Xƣa vốn là ngƣời kẻ chợ” 1/6
5 Đêm khuya sực nhớ/ vòng tuổi trẻ 4/3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 118 -
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................ - 1 -
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. - 1 -
1.1 Lý do khoa học .............................................................................. - 1 -
1.2 Lý do thực tiễn .............................................................................. - 2 -
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................... - 2 -
2.1 Về nguồn gốc của thể STLB ........................................................... - 2 -
2.2 Về đặc trƣng kết cấu vận luật của thể STLB ................................... - 3 -
2.3 Lịch sử nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể STLB
trong Ngâm khúc .................................................................................. - 5 -
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... - 8 -
4. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... - 9 -
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................... - 9 -
6. Những đóng góp của luận văn ........................................................... - 10 -
7. Cấu trúc luận văn .............................................................................. - 10 -
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................. - 11 -
CHƢƠNG 1: ............................................................................................ - 11 -
KẾT CẤU VẬN LUẬT THỂ SONG THẤT LỤC BÁT........................... - 11 -
1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài ............................................ - 11 -
1.1.1 Khái niệm loại thể và thể loại ................................................... - 11 -
1.1.2 Khái niệm thể thơ ...................................................................... - 15 -
1.1.3 Khái niệm thể loại Ngâm khúc ................................................. - 16 -
1.1.4 Khái niệm vần luật .................................................................... - 19 -
1.2 Những yếu tố cơ bản của thể thơ STLB ........................................... - 23 -
1.2.1 Cách gieo vần trong thể thơ STLB .......................................... - 24 -
1.2.2 Cách ngắt nhịp trong thể thơ STLB .......................................... - 27 -
1.2.3 Luật phối thanh của thể thơ STLB ............................................. - 29 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 119 -
CHƢƠNG 2: ............................................................................................ - 34 -
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH THỂ STLB ......................................... - 34 -
2.1. Những cơ sở từ văn học dân gian ................................................... - 34 -
2.2 Những cơ sở từ văn học viết ............................................................ - 40 -
2.2.1 Tiền lệ trong văn học viết từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ................ - 45 -
2.2.2 Tiền lệ trong văn học viết từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII ......... - 52 -
CHƢƠNG 3: ............................................................................................ - 57 -
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT TỪ NGÂM VỊNH
ĐẾN DIỄN TẢ NỘI TÂM ....................................................................... - 57 -
3.1 Quá trình vận động và chuyển biến về mặt hình thức của thể thơ STLB
trong thể loại Ngâm khúc ...................................................................... - 57 -
3.1.1 Vần ............................................................................................ - 57 -
3.1.2 Thanh điệu ................................................................................ - 61 -
3.1.3 Ngắt nhịp ................................................................................... - 63 -
3.2 Sự chuyển biến về mặt nội dung của thể thơ STLB từ ngâm vịnh đến
diễn tả nội tâm ....................................................................................... - 66 -
3.2.1 Những đặc trƣng về nội dung của thể thơ STLB ở giai đoạn sơ khai -
66 -
3.2.2 Giai đoạn xuất hiện những dấu hiệu chuyển biến từ ngâm vịnh đến
diễn tả nội tâm .................................................................................... - 70 -
3.2.3 Những đặc điểm nội dung của thể STLB ở giai đoạn phát triển cực
thịnh của thể loại Ngâm khúc ............................................................. - 75 -
3.3 Nguyên nhân và ý nghĩa của sự chuyển biến từ ngâm vịnh đến diễn tả nội
tâm con người……. ………………………………………………………………….-88-
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................. - 93 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ - 96 -
PHỤ LỤC ............................................................................................. - 100 -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 120 -
Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới T.S Phạm Thị Phương
Thái – Cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình làm
luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học dân gian
– trung đại, các thầy cô trong khoa ngữ văn và trường Đại học Sư phạm –
Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn
này.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên
giúp đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn.
Học viên
Đỗ Thị Hường
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9128.pdf