Kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại Xí nghiệp Gỗ Hà Nội

Lời nói đầu Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đất nước ta đã và đang chuyển dần từ kinh tế có kế hoạch sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo đã tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho nhiều nghành nghề phát triển, song cũng phát sinh những vấn đề mới đặt ra cho nền kinh tế cũng như các nghành, các cấp những yêu cầu và thách thức đòi hỏi phải có

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại Xí nghiệp Gỗ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển biến tích cực và mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu và đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh bền vững và đúng hướng. Đối với các doanh nghiệp, cơ chế thị trường mở cửa đã tạo điều kiện nhất định thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất, phát huy năng lực và tính chủ động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được chủ động trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất, tự trang trải, tự bù đắp chi phí, tự tiêu thụ sản phẩm và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của chính mình. Các điều kiện hoạt động nêu trên vừa là thuận lợi nhưng cũng vừa là thách thức, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có hướng đi đúng đắn để tồn tại trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Đối với doanh nghiệp sản xuất, vấn đề sống còn là phải sản xuất và bán được sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội và để bù đắp chi phí sản xuất thu hồi vốn và lãi nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn đạt được mục tiêu này, trước hết doanh nghiệp cần xác định rõ sản xuất cái gì? cho ai? Sản xuất như thế nào? giá bán ra làm sao và tiêu thụ ở đâu? hay nói cách khác là tìm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm đó. Doanh nghiệp trả lời được các câu hỏi nêu trên chỉ trên cơ sở thực hiện hiệu quả công tác tiêu thụ đảm bảo cho sản phẩm được lưu thông, góp phần tạo ra sự cân đối nghành và thẩm định gia vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Như vậy tiêu thụ là khâu then chốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đứng trước tình hình kinh tế hiện tại, cũng như các đơn vị sản xuất kinh doanh khác, Xí nghiệp Gỗ Hà Nội với mục đích nhằm tăng cường mức tiêu thụ hàng hoá luôn chú trọng đến công tác quản lý, công tác kế toán, đặc biệt là kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả sản xuất kinh doanh. Do nhận thức được tầm quan trọng của công tác tiêu thụ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn Trần Đức Vinh cùng các cán bộ kế toán phòng Tài vụ của Xí nghiệp Gỗ Hà Nội em đã chọn đề tài: “Kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại Xí nghiệp Gỗ Hà Nội”.Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 phần: Phần thứ nhất: “ Lý luận chung về kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất”. Phần thứ hai: “Thực trạng kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại Xí nghiệp Gỗ Hà Nội”. Phần thứ ba: “Những kiến nghị nhằm nâng cao kết quả công tác kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại Xí nghiệp Gỗ Hà Nội”. Phần thứ nhất Lý luận chung về kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất A - Những vấn đề chung về công tác tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh. I. Công tác tiêu thụ thành phẩm. 1. Khái niệm thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. a. Khái niệm thành phẩm Thành phẩm là những sản phẩm đã kết thúc giai đoạn chế biến cuối cùng của qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm do các bộ phận sản xuất kinh doanh chính và phụ của đơn vị tiến hành, được kiểm nghiệm đáp ứng mọi yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật quy định và được nhập kho hoặc giao trực tiếp cho khách hàng. Ngoài ra, được coi là thành phẩm còn bao gồm cả những sản phẩm thuê ngoài gia công chế biến đã hoàn thành. b. Tiêu thụ thành phẩm Bán hàng hay tiêu thụ sản phẩm là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị của hàng (thành phẩm), tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hiện vật (hàng) sang hình thái giá trị (tiền). Thông qua quá trình tiêu thụ, nhu cầu của người tiêu dùng về một giá trị sử dụng nhất định được thoả mãn và giá trị hàng hoá được thực hiện. Xét theo góc độ kinh tế, tiêu thụ là quá trình chuyển giao hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cho khách hàng và nhận về một lượng giá trị tương tương. Nếu theo nghĩa đó thì quá trình tiêu thụ có thể chia ra làm 2 giai đoạn: *Giai đoạn 1: Đơn vị bán căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết để xuất giao thành phẩm hàng hoá cho đơn vị mua. Về phương diện pháp lý thành phẩm gửi bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ khi nào đơn vị mua đồng ý trả tiền hoặc xác nhận trả tiền về số thành phẩm gửi đi thì số thành phẩm đó mới được coi là tiêu thụ và nó thuộc quyền sở hữu của đơn vị mua, khi đó kết thúc giai đoạn 2. *Giai đoạn 2: đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.Đây là giai đoạn doanh nghiệp đã tiêu thụ thành phẩm và đã thu tiền (hoặc sẽ thu được tiền). Kết thúc giai đoạn này cũng là lúc hoàn tất quá trình tiêu thụ. 2. Đặc điểm - Tiêu thụ là cầu nối giữa khâu sản xuất và khâu tiêu dùng. Tiêu thụ góp phần tăng cường vòng quay vốn kinh doanh, đẩy mạnh thu hồivốn và lãi; thực hiện được doanh lợi để bù đắp chi phí và tạo lãi kinh doanh. 3. Vai trò của công tác tiêu thụ thành phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất. Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở để tồn tại của xã hội loài người, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội và dân cư. Theo quy luật tái sản xuất quá trình sản xuất bao gồm : Sản xuất - trao đổi - phân phối - tiêu dùng, các giai đoạn này diễn ra tuần tự. Tiêu thụ khâu cuối cùng trong chu kỳ tái sản xuất. Sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm được đưa đến tay người tiêu dùng thông qua công tác tiêu thụ mang sản phẩm ra thị trường để bán tức là thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của nó, tiêu thụ chính là cầu nối giữa khâu sản xuất và tiêu dùng. Khi hoàn thành chu kỳ chế biến các yếu tố đầu vào của sản xuất sản phẩm, thì doanh nghiệp sản xuất mới tạo ra những sản phẩm mang tính hàng hoá; sản phẩm sản xuất ra không phải là để tồn trữ, nhiệm vụ quan trọng nhất là phải tiêu thụ được, tức là đưa sản phẩm của doanh nghiệp vào lưu thông và tiêu dùng nhằm chuyển hoá vốn từ hình thái hiện vật (hàng hoá) sang hình thái giá trị(tiền). Có thực hiện tốt công tác tiêu thụ thành phẩm, doanh nghiệp hoàn thành các quá trình kinh tế của sản xuất bảo đảm cho tái sản xuất luôn được thường xuyên, liên tục. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào đều nhằm mục tiêu là lợi nhuận. Chính vì vậy hoạt động trong nền kinh tế thị trường, cùng tồn tại và cạnh tranh dựa trên năng lực thực có của mình thì sản phẩm các doanh nghiệp sản xuất ra cần phải có người mua; cần phải bán với số lượng nhiều đó là mục tiêu đặt ra đối với công tác tiêu thụ nói riêng và yêu cầu với doanh nghiệp nói chung. Để thực hiện được mục tiêu của tiêu thụ thì sản xuất cũng phải quan tâm làm sao sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hợp lý, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như vậy sẽ giúp cho tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng; thông qua đó thu hút thêm nguồnkhách hàng mới, khơi dậy khách hàng tiềm năng, mở rộng thị phần nhằm khẳng định chỗ đứng của doanh nghiệp. 4. Các phương pháp hạch toán thành phẩm và tiêu thụ trong các doanh nghiệp sản xuất a. Hạch toán thành phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên Thành phẩm nhập, xuất, tồn kho được phản ánh theo giá thành thực tế. Đối với thành phẩm do các bộ phận sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ h oàn thành nhập kho, giá thành thực tế chính là giá thành công xưởng thực tế (giá thành sản xuất thực tế ). Trường hợp thành phẩm thuê ngoài gia công, giá thành thực tế bao gồm toàn bộ các chi phí liên quan đến việc gia công như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí thuê gia công và các chi phí khác liên quan đến việc thuê ngoài gia công (vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt…) Để tính giá thành thực tế thành phẩm xuất kho, có thể sử dụng một trong các phương pháp hạch toán như: phương pháp giá đơn vị bình quân, Phương pháp nhập trước xuất trước, phương pháp nhập sau xuất trước,… Tuy nhiên, do việc tính giá thành thực tế của thành phẩm nhập kho thường thực hiện vào cuối kỳ hạch toán (cuối tháng, cuối quý,…), nên để theo dõi chi tiết tình hình biến động thành phẩm trong kỳ, kế toán có thể sử dụng giá hạch toán. Giá hạch toán thành phẩm có thể là giá thành kế hạch hoặc giá nhập kho thống nhất quy định. Cuối tháng, sau khi tính được giá thành thực tế thành phẩm nhập kho, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế. Đồng thời, xác định giá thành thực tế thành phẩm xuất bán trong kỳvà tồn kho cuối kỳ theo công thức sau: Giá thực tế thành phẩm Giá hạch toán thành phẩm Hệ số giá Xuất bán trong kho = xuất bán trong kỳ x thành (hoặc tồn kho cuối kỳ) (hoặc tồn kho cuối kỳ) phẩm Trong đó: Hệ số giá Giá thực tế thành phẩm tồn kho đầu kỳ và nhập kho trong kỳ thành = phẩm Giá hạch toán thành phẩm tồn kho đầu kỳ và nhập kho trong kỳ Như vậy, khi dùng phương pháp giá hạch toán, việc hạch toán chi tiết thành phẩm trên các chứng từ nhập, xuất, các sổ (thẻ ) kế toán chi tiết thành phẩm được ghi theo giá hạch toán; còn việc hạch toán tổng hợp thành phẩm nhất thiết phải ghi theo giá thực tế. Kế toán chi tiết thành phẩm được mở theo từng kho, từng loại , từng nhóm và từng thứ thành phẩm. b. Hạch toán tiêu thụ theo phương pháp kê khai thường xuyên ở các doanh nghiệp tính thuế GTGT bằng phương pháp khấu trừ. Có nhiều phương thức tiêu thụ khác nhau được tiến hành trên thị trường. Tuỳ theo đặc điểm sản phẩm, khách hàng, theo sự linh hoạt trong tổ chức công tác tiêu thụ mà mỗi đơn vị lựa chọn một hoặc một vài phương thức tiêu thụ để áp dụng cho phù hợp với đặc điểm tiêu thụ của doanh nghiệp trong số các phương thức tiêu thụ sản phẩm sau: - Hạch toán tiêu thụ theo phương thức trực tiếp. - Hạch toán tiêu thụ theo phương thức chuyển hàng theo hợp đồng. - Hạch toán tiêu thụ theo phương thức bán hàng đại lý, ký gửi. - Hạch toán tiêu thụ theo phương thức bán hàng trả góp. Phương thức tiêu thụ trực tiếp. Là phương thức bán hàng cổ điển truyền thống. Theo phương thức này bên mua cử người đến bên bán nhận hàng trực tiếp. Khi đại diện bên mua ký vào hoá đơn bán hàng chính là lúc chuyển giao quyền sở hữu và ghi nhận doanh thu. Phương thức này rất thuận tiện cho bên bán theo dõi trực tiếp hàng xuất bán mà không cần qua trung gian. Chứng từ được sử dụng cho phương thức này hiện nay là “ Hoá đơn GTGT “ được lập thành 3 liên: liên 1 lưu, liên 2 giao cho khách hàng làm chứng từ thanh toán, liên 3 dùng thanh toán với doanh nghiệp. Phương thức tiêu thụ chuyển hàng theo hợp đồng. Trên cơ sở hợp đồng đã ký kết, bên bán xuất kho thành phẩm gửi cho bên mua bằng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài chuyển đến giao cho bên mua tại địa điểm hai bên đã thoả thuận. Theo hình thức này doanh nghiệp phải gửi cùng thành phẩm các chứng từ bán hàng ghi rõ lượng hàng kèm theo các điều kiện thanh toán….Số thành phẩm này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và chỉ được xác nhận là tiê u thụ khi có giấy báo của bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán hoặc nhận được giấy báo Có của ngân hàng đã thanh toán tiền hàng. Phương thức tiêu thụ qua đại lý. Theo phương pháp này doanh nghiệp không trực tiếp bán hàng mà chuyển hàng cho đơn vị kinh doanh nhận làm đại lý cho hợp đồng đã ký kết. Đại lý thực hiện khâu bán sản phẩm góp phần mở rộng thị phần của doanh nghiệp Phương thức bán hàng đại lý phải được tiến hành giữa hai bên: - Bên A : Đơn vị có hàng gửi đại lý - Bên B : Đơn vị nhận làm đại lý. Tại bên A khi xuất kho thành phẩm chưa được coi là tiêu thụ, số thành phẩm này vẫn được theo dõi như hàng gửi bán. Khi bên đại lý báo bán được hàng tức là thành phẩm được tiêu thụ thì lúc này mới phản ánh giá vốn và doanh thu. Ngay khi xác định là hàng đã bán doanh nghiệp phải trích một phần doanh số cho bên nhận đại lý theo phần trăm thoả thuận gọi là hoa hồng bán hàng. Khi xuất kho doanh nghiệp lập phiếu “Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ” làm cơ sở thanh toán và lập 3 liên : liên 1 lưu, liên 2 giao khách hàng, liên 3 thủ kho giữ và sau đó chuyển lên phòng kế toán. Bên B thực chất là bên bán thuê, số tiền nhận được coi là doanh thu. Số hàng nhận bán đại lý được coi là giữ hộ, bán hộ. Doanh thu của bên B có thể xác định ngay thời điểm tiêu thụ hoặc khi thanh toán với bên A, điều này được thoả thuận trong hợp đồng đại lý. Phương thức bán hàng trả góp. Đây là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Số tiền thu được của khách hàng bao gồm doanh thu gốc ( giá bán) và phần lãi xuất trả chậm. Phương thức này được áp dụng khá phổ biến nhằm phục vụ và đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng ngay cả khi họ không đủ tiền thanh toán tại thời điểm mua hàng. c. Hạch toán tiêu thụ theo phương pháp kê khai thường xuyên ở các doanh nghiệp tính thuế GTGT trực tiếp hoặc đối với các đối tượng không chịu VAT Trong những doanh nghiệp tính VAT theo phương pháp trực tiếp hoặc đối với các đối tượng không chịu VAT, việc hạch toán giá vốn hàng tiêu thụ cũng tương tự như doanh nghiệp tính VAT theo phương pháp khấu trừ nhưng chỉ khác: giá thực tế vật tư xuất dùng cho sản xuất kinh doanh bao gồm cả VAT đầu vào. Đối với bán hàng, doanh thu bán hàng bao gồm cả thuế VAT(hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt hay thuế xuất khẩu) phải nộp, còn hàng bán bị trả lại và giảm giá hàng bán cũng bao gồm cả thuế tiêu thụ trong đó. Số VAT cuối kỳ phải nộp được ghi nhận vào chi phí quản lý, còn thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế xuất khẩu được trừ vào doanh thu bán hàng để tính doanh thu thuần. d. Hạch toán thành phẩm và tiêu thụ ở các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ. Đối với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, hạch toán các nghiệp vụ về tiêu thụ và thành phẩm chỉ khác với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên trong việc xác định giá vốn thành phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành, nhập, xuất kho và tiêu thụ; còn việc phản ánh doanh thu và các khoản liên quan đến doanh thu (chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, doanh thu hàng bán bị trả lại,VAT…)hoàn toàn giống nhau. 5. Phương thức thanh toán. Để hỗ trợ cho công tác bán hàng đạt hiệu quả cao thì ngoài các phương pháp tiêu thụ doanh nghiệp còn sử dụng một số hình thức thanh toán khác nhau nhằm góp phần đẩy mạnh thu hồi vốn kinh doanh. Thanh toán tiền hàng có thể coi là khâu cuối cùng của nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm. Một phương thức thanh toán linh hoạt trước hết cần tạo thuận lợi cho người mua có thể thanh toán đúng kỳ hạn và phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Việc thanh toán tiền hàng chủ yếu theo các phương thức sau: - Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, ngân phiếu hoặc đổi hàng: Phương thức này có đặc điểm cơ bản là khoảng thời gian từ lúc ký kết tới lúc thanh toán là rất ngắn( có thể là đồng thời) - Thanh toán chậm: Hình thức này có đặc trưng cơ bản là từ khi giao hàng đến khi thanh toán có một khoảng thời gian nhất định tuỳ thuộc vào sự thoả thuận hợp đồng giữa hai bên. - Thanh toán qua ngân hàng: Hình thức này được thực hiện bằng cách trích chuyển vốn từ tài khoản người được trả sang tài khoản người được hưởng thông qua ngân hàng và có thủ tục phí cho ngân hàng. Sau khi bàn giao hàng xong bản thân người mua hoặc người bán ký phát đến ngân hàng, ngân hàng sẽ tiến hành chi trả. Đồng tiền phát sinh là đồng tiền ghi sổ chứ không phải đồng tiền thực tế. Hình thức này bao gồm: Thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng L/C… II. Công tác xác định kết quả kinh doanh tại doanh nghiệp sản xuất 1. Khái niệm, vai trò của công tác xác định kết quả sản xuất kinh doanh Khái niệm Kết quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động tài chính và kết quả hoạt động bất thường. Trong đó: kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là số chênh lệch giữa doanh thu thuần và giá trị vốn của hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. b. Vai trò của công tác xác định kết quả kinh doanh. Xuất phát từ mối quan hệ tác động qua lại giữa tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh trong đó tiêu thụ là cơ sở xác định kết quả đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc xác định kết quả kinh doanh. Kết quả tiêu thụ là mục đích cuối cùng còn tiêu thụ là phương tiện để thực hiện. Kết quả kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp có ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chính vì thế việc xác định kết quả kinh doanh đúng, chính xác là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác quản lý kinh tế nói chung và tronghoạt động của mỗi doanh nghiệp nói riêng 2. Xác định kết quả kinh doanh. Để đảm bảo cho việc xác định đúng kết quả tiêu thụ thành phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất cần xác định đúng đắn, đầy đủ và kịp thời các yếu tố sau: a. Doanh thu ban đầu: Doanh thu ban đầu (doanh thu bán hàng) là giá trị của sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán, đã cung cấp cho khách hàng (đã được thực hiện).Giá trị của hàng hoá được thoả thuận ghi trong hợp đồng kinh tế về mua bán và cung cấp sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ và đã được ghi trên hoá đơn bán hàng; hoặc ghi trên các chứng từ khác có liên quan đến việc bán hàng, hoặc là sự thoả thuận về giá bán hàng giữa người mua và người bán. Doanh thu bán hàng có thể thu được tiền hoặc chưa thu được tiền ngay(do các thoả thuận về thanh toán hàng bán) sau khi doanh nghiệp đã cung cấp sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cho khách hàng. b. Doanh thu bán hàng thuần. Doanh thu bán hàng thuần được xác định như sau: Doanh thu thuần = Doanh thu bán hàng - Các khoản giảm (doanh thu ban đầu) doanh thu Trong đó, các khoản giảm trừ gồm: Chiết khấu bán hàng: Là số tiền giảm trừ cho người mua hàng do việc người mua hàng đã thanh toán số tiền mua hàng(sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ) trước thời hạn thanh toán đã thoả thuận(ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán hoặc các cam kết thanh toán việc mua hàng), hoặc vì lý do ưu đãi khác. Hàng bán bị trả lại: Bao gồm trị giá của số thành phẩm,hànghoá, dịch vụ đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do các nguyên nhân vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồngkinh tế; hàng bị mất; kém phẩm chất; không đúng chủng loại, quy cách. Giảm giá hàng bán: Bao gồm các khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu. - Giảm giá: Là khoản giảm trừ được người bán chấp nhận một cách đặc biệt trên giá đã thoả thuận vì một lý do hàng kém phẩm chất hay không đúng quy cách theo quy định trong hợp đồng kinh tế. - Bớt giá: Là khoản giảm trừ trên giá bán thông thường vì lý do mua với số lượng lớn, tính theo một tỷ lệ nào đó trên giá bán. Người bán hàng thực hiện bớt giá cho người mua ngay sau từng lần mua hàng. - Hồi khấu: Là khoản giảm trừ tính trên tổng số các nghiệp vụ đã thực hiện với khách hàng trong một thời gian nhất định.Người bán thực hiện khoản hồi khấu cho người mua hàng ngay sau khi đã bán được hàng. c. Giá vốn hàng bán Là giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất ra sản phẩm cộng chênh lệch hàng tồn kho. Giá vốn hàng bán = Giá thành sản phẩm + Chênh lệch hàng tồn kho (đầu kỳ – cuối kỳ) Đối với doanh nghiệp sản xuất, thông qua quá trình sản xuất, giá vốn của thành phẩm bán ra được hình thành từ giá thành sản xuất sản phẩm. Để xác định đúng đắn giá vốn hàng bán ra trong kỳ, kế toán phải quan tâm đến việc tính đúng giá thành của thành phẩm nhập kho và xác định đúng trị giá xuất kho của thành phẩm xuất bán trong kỳ. Bởi trị giá xuất kho thành phẩm tiêu thụ trong kỳ là căn cứ để xác định trị giá vốn của thành phẩm tiêu thụ (bút toán kép ) Để tính giá trị thành phẩm xuất kho hình thành giá vốn thành phẩm bán ra có thể áp dụng một số phương pháp để tính giá sau đây: * Phương pháp tính giá bình quân gia quyền: Với phương pháp này trị giá thành phẩm xuất kho được xác theo công thức sau: Đơn giá bình quân Tổng giá trị hàng có thể bán trong kỳ một đơn vị = thành phẩm Số lượng hàng có thể bán trong kỳ (sản phẩm cùng loại, cùng quy cách) Giá thực tế thành + Giá thực tế thành Đơn giá bình phẩm tồn đầu kỳ phẩm nhập trong kỳ quân một đơn vị = thành phẩm Số lượng thành + Số lượng thành phẩm phẩm tồn đầu kỳ nhập trong kỳ Từ đó giá thành phẩm xuất trong kỳ được tính theo công thức: Giá thực tế Giá thực tế bình Số lượng thành phẩm = quân một đơn vị x thành phẩm xuất kho thành phẩm xuất kho * Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO) Theo phương pháp này có các nội dung chủ yếu sau: - Thành phẩm nhập trước thì xuất trước - Thành phẩm nhập sau thì xuất sau - Thành phẩm nhập theo giá nào thì xuất theo giá đó - Thành phẩm tồn kho tính theo giá lần nhập sau cùng Với phương pháp này, ta nhận thấy có ưu điểm là phù hợp với việc bảo quản hàng hoá, thành phẩm, giá bán ra và giá tồn kho được chính xác, song cũng có nhược điểm là hàng dễ bị lỗi mốt, khó cho việc hạch toán chi tiết hàng tồn kho và tổ chức kho. * Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO) Nội dung chủ yếu của phương pháp này gồm: - Thành phẩm nhập kho sau thì xuất trước. - Thành phẩm nhập trước thì xuất sau. - Thành phẩm nhập theo giá nào thì xuất theo giá đó. - Trị giá thành phẩm tồn cuối kỳ được tính theo lần nhập đầu tiên. * Phương pháp thực tế đích danh. Theo phương pháp này trị giá thành phẩm xuất bán được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập kho cho đến lúc xuất. Khi xuất thành phẩm nào thì tính giá thực tế của thành phẩm đó. Trong thực tế phương pháp này khó được áp dụng. * Phương pháp tính giá bình quân kỳ trước. Với phương pháp này giá thành phẩm xuất kho được tính theo công thức: Giá thực tế của thành = Số lượng thành phẩm x Đơn giá bình Phẩm xuất kho xuất kho quân đầu kỳ Trong đó: Đơn giá bình Giá thực tế tồn đầu kỳ = quân đầu kỳ Số lượng tồn đầu kỳ d. Chi chí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Để phục vụ tốt cho việc tiêu thụ thành phẩm, trong quá trình tiêu thụ còn có sự tham gia của các chi phí khác như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong các loại chi phí này gồm nhiều khoản mục chi tiết khác nhau góp phần phục vụ tiêu thụ sản phẩm. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là chi phí gián tiếp có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí bán hàng là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm , hàng hoá , lao vụ , dịch vụ. Chi phí bán hàng gồm: chi phí quảng cáo, lưu thông, giao dịch, hoa hồng bán hàng, lương nhân viên bán hàng, các chi phí gắn liền với kho bảo quản hàng hoá. Chi phí quản lý chung của doanh nghiệp bao gồm: Chi phí quản lý kinh doanh, chi phí quản lý hành chính, chi phí chung khác liên quan đến hoạt động của cả doanh nghiệp. Chi phí quản lý doanh nghiệp được hạch toán chi tiết theo nội dung khoản mục chi phí cụ thể như: chi phí tiền lương, các khoản phụ cấp, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn của nhân viên quản lý doanh nghiệp, chi phí vật liệu dụng cụ đồ dùng phục vụ cho văn phòng, thuế vốn, thuế môn bài… Về thực chất hai loại chi phí này mang tính chất điều chỉnh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, chi phí phát sinh nhiều hay ít cũng cần theo dõi chăt chẽ để có thể có được kết quả kinh doanh chính xác, kịp thời, sát thực tế. e. Kết quả tiêu thụ thành phẩm. Kết quả cuối cùng của hoạt động tiêu thụ được phản ánh bằng chỉ tiêu lãi, lỗ và được tính bằng công thức sau: Lợi nhuận thuần từ = Lợi nhuận - Chi phí - chi phí hoạt động SXKD gộp bán hàng QLDN Trong đó: Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán Doanh thu thuần = Doanh thu bán hàng - Các khoản giảm trừ Hạch toán các khoản dự phòng. - Hạch toán dự phòng phải thu khó đòi: Để dự phòng những tổn thất về các khoản phải thu khó đòi có thể xảy ra, bảo đảm phù hợp giữa doanh thu và chi phí trong kỳ, cuối mỗi niên độ, kế toán phải dự tính số nợ có khả năng khó đòi để lập dự phòng. Mức dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi tối đa không vượt quá 20% tổng số dư nợ phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm cuối năm và bảo đảm cho doanh nghiệp không bị lỗ. Mức dự phòng cần lập theo 2 phương pháp sau: Phương pháp ước tính trên doanh thu bán chịu (phương pháp kinh nghiệm): Số dự phòng phải thu = Tổng doanh thu x Tỷ lệ phải thu khó Cần lập cho năm tới bán chịu đòi ước tính Phương pháp ước tính đối với khách hàng đáng ngờ (dựa vào thời gian quá hạn thực tế: Số dự phòng cần phải lập Số nợ phải thu Tỷ lệ ước tính không cho niên độ tới của = của khách hàng x thu được ở khách khách hàng đáng ngờ i đáng ngờ i hàng đáng ngờ i Hạch toán dự phòng giảm giá hàmg tồn kho: Dự phòng này đươc lập vào cuối niên độ kế toán nhằm ghi nhận bộ phận giá trị dự tính giảm sút so với giá gốc ( giá thực tế) của hàng tồn kho nhưng chưa chắc chắn. Qua đó, phản ánh được giá trị thực hiện thuần tuý của hàng tồn kho trên báo cáo tài chính: Giá trị thực hiện thuần = Giá gốc của - Dự phòng giảm giá Tuý của hàng tồn kho hàng tồn kho hàng tồn kho Dự phòng giảm giá được lập cho các loại nguyên, vật liệu chính dùng cho sản xuất, các loại vật tư, hàng hoá, thành phẩm tồn kho để bán mà giá trên thị trường thấp hơn giá thực tế đang ghi sổ kế toán. Những loại vật tư, hàng hoá này là mặt hàng kinh doanh, thuộc sở hữu của doanh nghiệp có chứng cứ hợp lý chứng minh giá vốn vật tư, hàng hoá tồn kho. Cách xác định dự phòng giảm giá hàng tồn kho như sau: Mức dự phòng cần lập năm = Số lượng hàng tồn x Mức giảm giá tới cho hàng tồn kho i kho i cuối niên độ hàng tồn kho i g. Hạch toán thuế giá trị gia tăng phải nộp Có hai phương pháp tính thuế GTGT đó là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT - Phương pháp khấu trừ thuế: Các đơn vị, tổ chức kinh doanh khi áp dụng phương pháp này yêu cầu phải sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định và ghi rõ: giá bán chưa có thuế, kể cả phụ thu và phí ngoài giá bán nếu có, thuế GTGT, tổng giá thanh toán với người mua. Số thuế GTGT phải nộp được tính theo công thức sau: Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào Trong đó: Thuế GTGT Giá tính thuế của Thuế suất thuế GTGT = hàng hoá, dịch vụ x của hàng hoá, dịch đầu ra chịu thuế bán ra vụ tương ứng Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền mà người mua phải thanh toán. Trường hợp trên hoá đơn không ghi rõ các chi tiết trên, mà chỉ ghi tổng số tiền mà người mua phải thanh toán thì giá tính thuế là số tiền mà người mua phải thanh toán. Đồng thời, đơn vị mua hàng hoá, dịch vụ cũng không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với trường hợp này. Giá chưa có Giá thanh toán = Thuế GTGT 1 + Thuế suất của hàng hoá dịch vụ tương ứng Trường hợp hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù được dùng các chứng từ thanh toán là giá đã có thuế thì phải xác định giá chưa có thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ này. Thuế GTGT đầu vào được quy định khấu trừ như sau: Các cơ sở kinh doanh chỉ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. Thuế đầu vào này phát sinh mua vào trong tháng nào thì được kê khai khấu trừ toàn bộ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay chưa xuất dùng. - Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng: Các cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế: những cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ là những đối tượng áp dụng phương pháp tính trên gí trị gia tăng. Số thuế GTGT phải nộp được xác định như sau: Số thuế GTGT Giá trị gia tăng của Thuế suất thuế GTGT = hàng hoá, dịch vụ x của hàng hoá,dịch Phải nộp chịu thuế bán ra vụ tương ứng Căn cứ tính thuế ở đây là phần giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và được xác định theo công thức: Giá trị gia tăng của Giá thanh toán Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ = của dịch vụ,hàng - hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT hoá bán ra mua vào tương ứng Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng sử dụng hoá đơn bán hàng do Bộ Tài chính phát hành. Khi lập hoá đơn bán hàng, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố; giá bán các khoản phụ thu, phí ngoài giá bán (nếu có) và tổng giá đã thanh toán (đã có thuế GTGT). Như vậy giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực thanh toánđã có thuế GTGT. B - Kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh I-Tổng quan về kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh Nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường là nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với phương châm: “Mạnh thì sống, yếu thì chết”. Đứng trước thách thức về sự tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tích cực, năng động nhạy bén….Không ngừng nâng cao chất lượng quản lý kinh doanh. Hạch toán kế toán có một vị trí quan trọng trong việc phản ánh và cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ yêu cầu quản lý tài chính và quản trị doanh nghiệp. Với hoạt động sản xuất kinh doanh, kế toán được sử dụng như một công cụ sắc bén có hiệu lực nhất để phản ánh khách quan và giám đốc toàn diện mọi hoạt động của đơn vị. Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh là một trong những nội dung chủ yếu của kế toán doanh nghiệp sản xuất. Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh được thực hiện đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh toàn doanh nghiệp cũng như sự đóng góp của từng bộ phận. II. Chứng từ kế toán. Vận dụng chế độ chứng từ theo quy định của chế độ kế toán trong doanh nghiệp (ban hành theo quyết định số 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/95 của Bộ Tài chính) và căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, kế toán tiêu thụ sử dụng các chứng từ sau: - Phiếu xuất kho: nhằm theo dõi chặt chẽ vật tư, thành phẩm xuất kho cho các bộ phận sử dụng trong đơn vị làm căn cứ tính chi phí sản xuất, tính giá thành phẩm và kiểm tra sử dụng vật tư. - Thẻ kho: Theo dõi số lượng nhập, xuất, tồn của thành phẩm trong kho - Hoá đơn bán hàng theo mẫu “Hoá đơn GTGT “ - Biên bản kiểm kê hàng hoá nhằm xác định số lượng chất lượng và giá trị vật tư, thành phẩm tại kho vào thời điểm kiểm kê. - Phiếu thu tiền bán hàng mẫu số 01 – TT - Bảng kê nộp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1440.doc
Tài liệu liên quan