Chương I
cơ sở lý luận của tổ chức hạch toán tiền lương và các khoản trích theo trong doanh nghiệp
. Khái niệm và bản chất của tiền lương và các khoản trích theo lương trong doanh nghiệp
Khái niệm và bản chất của tiền lương
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp đồng thời cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố cơ bản: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó, sức lao động với tư cách là lao động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty công trình giao thông 422, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích phục vụ nhu cầu sinh hoạt của mình.
Đối với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, việc tìm kiếm lợi nhuận chủ yếu thông qua giá trị thặng dư. Mà theo Mác: “Sức lao động có đặc điểm là khi tiêu dùng sẽ tạo ra một giá trị mới lớn hơn. Vì thế có thể coi nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động”. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra bình thường và liên tục thì nhất thiết phải có yếu tố sức lao động, nếu thiếu nó thì quá trình sản xuất không thể diễn ra.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như hiện nay, sức lao động mang tính chất là một loại hàng hoá đặc biệt. Người lao động có quyền tự do làm chủ sức lao động của mình, có quyền đòi hỏi được trả công chính đáng với sức lao động mình bỏ ra. Với ý nghĩa đó, tiền lương (tiền công) chính là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền mà các doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc của họ. Về bản chất tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được thoả thuận hợp lý của người mua và người bán sức lao động. Trong xã hội phát triển, tiền lương trở thành một bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao động, đảm bảo nhu cầu sống và giải trí của họ. Mặt khác, tiền lương còn là đòn bẩy kinh tế. Để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ. Nói cách khác, tiền lương chính là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
Cũng như các loại hàng hoá khác trên thị trường, tiền lương cũng tuân theo quy luật cung cầu, quy luật giá cả trên thị trường vàtheo quy định của Nhà nước. Trước đây trong cơ chế kế hoạch tập trung, tiền lương không gắn chặt với số lượng và chất lượng lao động vì thế nó không tạo được động lực phát triển sản xuất. Chỉ từ khi đổi mới cơ chế nền kinh tế, nó mới thực sự đóng vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy, ta có thể tổng hợp khái niệm về tiền lương: “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng lao động phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước”. Tiền lương vừa là một phạm trù về phân phối vừa là một phạm trù của trao đổi và tiêu dùng.
Trên thực tế, tiền lương chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đáp ứng được nhu cầu của người lao động. Xã hội càng phát triển, trình độ và kỹ năng làm việc của người lao động ngày càng cao, tiền lương không chỉ đáp ứng được nhu cầu tinh thần của người lao động. Người lao động không quan tâm đến khối lượng tiền nhận được mà thực chất là họ quan tâm đến khối lượng hàng hoá dịch vụ mà họ có thể mua được bằng tiền của mình. Do vậy, đã tồn tại hai khái niệm là tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ lao động và kinh nghiệm của họ.
Tiền lương thực tế là số lượng mà các loại hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cần thiết mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Mối liên hệ giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa:
Tiền lương thực tế=
Vậy, tiền lương thực tế phụ thuộc nhiều vào tiền lương danh nghĩa và chỉ số giá cả hàng hoá, dịch vụ. Nếu tiền lương danh nghĩa cao mà chỉ số giá cả cũng cao thì tiền lương thực tế thấp. Chỉ khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn tốc độ tăng thêm của chỉ số giá cả thì thu nhập thực tế của người lao động mới tăng. Tiền lương thực tế là yếu tố quyết định khả năng tai sản xuất.
Theo điều 55 của bộ luật lao động ghi: “Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và trả theo năng suất lao động, chất lượng lao động và hiệu quả công việc”.
Khái niệm và bản chất của các khoản trích theo lương
Các khoản trích theo lương gồm có: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn.
Bảo hiểm xã hội
Theo khái niệm của tổ chức lao động quốc tế ILOS, Bảo hiểm xã hội được hiểu là sự bảo vệ của xã hội với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế – xã hội, bị giảm thu nhập do ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già...
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Nguồn hình thành quỹ BHXH:
Theo nghị định 43/ CP ngày 22/6/1993 và điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
- Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động...
- Các nguồn khác: được viện trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước...
Bảo hiểm y tế
Nhằm xã hội hoá việc khám chữa bệnh, người lao động còn được hưởng các khoản khám chữa bệnh không mất tiền bao gồm các khoản viện phí, thuốc men trong thời gian sinh đẻ... nếu họ có thẻ bảo hiểm y tế và các khoản khám chữa bệnh đó nằm trong phạm vi bảo hiểm. Thẻ BHYT được trích mua từ quỹ BHYT.
Theo nghị định 47- CP ngày 6/6/1994 quy định, tỷ lệ BHYT 3% tiền lương, trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp (người sử dụng lao động) trả, 1% tính trừ vào thu nhập của người lao động. BHYT mang tính chất bắt buộc với mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Kinh phí công đoàn
Công đoàn là một tổ chức của người lao động, do người lao động lập ra, hoạt động vì lợi ích của người lao động. Công đoàn đại diện cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, vừa bảo vệ quyền lợi vừa trực tiếp hướng dẫn và giáo dục thái độ lao động cho họ. Đây là một tổ chức cần thiết trong mọi doanh nghiệp. Để có nguồn kinh phí cho hoạt động của tổ chức công đoàn, hàng tháng doanh nghiệp phải trích theo 1 tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương (tiền công) và phụ cấp thực tế phải trả người lao động để hình thành kinh phí công đoàn.
Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích kinh phí công đoàn là 2% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp chịu. Trong 2% này thì 1% nộp cho hoạt động công đoàn cấp trên, 1% còn lại dành cho hoạt động công đoàn cơ sở.
1.1.3 Chức năng của tiền lương
Điều 55 của Bộ luật lao động có ghi rõ: “Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và trả theo năng suất lao động, chất lượng lao động và hiệu quả công việc”.
Để đảm bảo thực hiện theo đúng quy định này, tiền lương bao gồm các chức năng sau:
Chức năng tái sản xuất sức lao động
Sức lao động được duy trì và phát triền là nhờ có tái sản xuất sức lao động. Tiền lương phải đảm bảo được chức năng này tức là phải thực hiện được cả quá trình tái sản xuất đơn giản và quá trình tái sản xuất mở rộng. Điều này có nghĩa là tiền lương không chỉ đảm bảo mức sống cho người lao động mà còn đủ để họ nâng cao trình độ, năng lực cho bản thân, gia đình, thậm chí một phần để tích luỹ.
Chức năng thước đo giá trị
Chức năng này biểu hiện giá cả của sức lao động, là cơ sở để điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi có sự biến động. Nhờ vậy mà người lao động có thể hài lòng với các mức lương nhận được tương ứng với sức lao động bỏ ra.
Chức năng kích thích sức lao động
Với người lao động, tiền lương là thu nhập chính đảm bảo cuộc sống cho họ. Vì thế, tiền lương được trả phù hợp với sức lao động sẽ là động lực thu hút, kích thích người lao động phát huy tối đa năng lực của mình. Một chế độ lương được coi là hợp lý khi nó gắn được trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp. Đây là yếu tố tiên quyết trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển nâng cao năng suất lao động.
Chức năng là công cụ quản lý của Nhà nước
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mục tiêu cao nhất là tối đa hoá lợi nhuận. Các chủ doanh nghiệp luôn muốn tận dụng tối đa sức lao động của công nhân viên nhằm giúp đỡ phần nào chi phi sản xuất. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước đã ban hành một số chính sách, chế độ về tiền lương phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, buộc cả người sử dụng lao động và người cung cấp lao động phải tuân theo.
Chức năng điều tiết lao động.
Thông qua hệ thống bảng lương và các chế độ phụ cấp xác định cho từng nghành, vùng với mức lương hợp lý, người lao động sẽ sẵn sàng đón nhận công việc được giao. Như vậy, tiền lương đã tạo động lực thu hút lao động đến làm việc tại những vùng nghành kinh tế khác nhau, trở thành công cụ điều tiết lao động góp phần tạo cơ cấu lao động hợp lý giữa các vùng nghành.
.Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp khác nhau có những đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý khác nhau. Vì vậy, mà họ chọn hình thức trả tiền lương khác nhau, sao cho phù hợp với doanh nghiệp mình. Mục đích của chế độ tiền lương là nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động. Trên thựctế các doanh nghiệp sử dụng các hình thức trả lương phổ biến như tiền lương theo thời gian, tiền lương theo sản phẩm và tiền lương khoán. Trong một doanh nghiệp có thể áp dụng từng hình thức trả lương cho từng bộ phận khác nhau.
1.2.1 Tiền lương theo thời gian
Thường áp dụng cho lao động làm công tác văn phòng như hành chính quản trị, tổ chức lao động, thống kê, tài vụ... Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế, theo nghành nghề và trình độ thành thạo nghiệp vụ kỹ thuật chuyên môn của người lao động. Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau mà mỗi nghành nghề, nghiệp vụ cụ thể có một thang lương riêng. Trong mỗi thang lương lại tuỳ theo trình độ nghiệp vụ, chuyên môn mà chia thành nhiều bậc lương, mỗi bậc lương có mức tiền lương nhất định. Tiền lương theo thời gian có thể chia ra các loại sau:
-Trả lương thao tháng (lương tháng): Số tiền lương trả trong tháng được tính bằng mức lương theo thang bảng lương do Nhà nước quy định cộng với tiền phụ cấp (nếu có). Tiền phụ cấp ở đây có thể là: Phụ cấp chức vụ, phụ cấp nghành nghề, phụ cấp độc hại, phụ cấp khu vực...
+ Mức lương một ngày (ngày công): Theo Quyết định số 188 – 1999/ QDTTCP ngày 17 tháng 9 năm 1999 của Thủ tướng Chính Phủ quy định tuần làm việc 40h, vậy ngày công làm việc trong tháng được quy định trung bình là 22 ngày công.
Vậy mức lương một ngày = Số lương phải trả trong tháng/ 22.
Số tiền lương phải trả trong tháng = Số ngày làm việc x mức lương một ngày.
Lương này thường được áp dụng để tính lương trong những ngày hội họp, học tập, ngày làm nhiệm vụ khác hoặc để trả lương cho người lao động làm theo hợp đồng.
+ Lương giờ: Mức lương 1h = Mức lương 1 ngày/8
Số tiền lương phải trả trong tháng = Số giờ làm việc x Mức lương 1h
Mức lương 1h còn được sử dụng để tính ra đơn giá tiền lương cho một sản phẩm = Mức lương 1h/ Số sản phẩm.
- Lương công nhật: Là tiền lương trả cho người lao động trên cơ sở sự thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Do những hạn chế nhất định của hình thức trả lương theo thời gian (mang tính bình quân, chưa thực sự gắn với kết quả sản xuất), để khắc phục phần nào hạn chế đó, trả lương theo thời gian có thể được kết hợp với chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc. Trong đó:
Tiền lương phải trả
=
Tiền lương
+
Tiền
cho người lao động
theo thời gian
thưởng
1.2.2 Trả lương theo sản phẩm.
Tiền lương theo sản phẩm là hình thức trả lương theo số lượng và chất lượng công việc đã hoàn thành. Hình thức này đảm bảo thực hiện đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng với chất lượng lao động, động viên khuyến khích người lao động nhiệt tình, say mê lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Tiền lương theo sản phẩm phụ thuộc vào đơn giá tiền lương của từng sản phẩm, công đoạn chế biến sản phẩm và số lượng sản phẩm công việc mà người lao động hoàn thành đủ tiêu chuẩn quy định. Để thực hiện tính lương theo sản phẩm cần phải có:
- Xây dựng được đơn giá tiền lương.
- Phải tổ chức hạch toán ban đầu sao cho xác định được chính xác kết quả của từng người hoặc từng nhóm lao động (càng chi tiết càng tốt).
- Doanh nghiệp phải tổ chức, bố trí đầy đủ công việc cho người lao động.
- Phải có hệ thống kiểm tra chất lượng chặt chẽ.
Việc trả lương theo sản phẩm có thể tiến hành theo những hình thức sau:
+ Tiền lương trả theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế, theo hình thức này tiền lương phải trả cho người lao động được tính:
Số tiền lương phải trả
trong tháng
=
Số lượng sản phẩm
hoàn thành
x
Đơn giá tiền lương
cho 1 sản phẩm
Hình thức này được áp dụng đối với lao động trực tiếp, sản xuất hàng loạt và đã đánh giá đúng kết quả lao động.
+ Tiền lương trả theo sản phẩm gián tiếp: thường được áp dụng để trả lương cho công nhân phụ phục vụ cho công nhân chính và cùng sản xuất ra sản phẩm.
Cách tính như sau:
Tiền
lương
=
i%
x
Tiền lương của người lao động
sản xuất trực tiếp
Trong đó:
i%: Tỉ lệ tiền lương của công nhân phụ với tiền lương của công nhân sản xuất trực tiếp.
- Tiền lương trả theo sản phẩm có thưởng, có phạt: Là tiền lương trả
theo sản phẩm gắn với chế độ tiền thưởng trong sản xuất như: Thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng giảm tỷ lệ hàng hỏng... và có thể phạt trong những trường hợp người lao động làm ra sản phẩm hỏng, hao phí vật tư, không đảm bảo ngày công quy định, không hoàn thành kế hoạch được giao...
Cách tính như sau:
Tiền
lương
=
Tiền lương theo sản phẩm
trực tiếp (gián tiếp)
+
Tiền
thưởng
-
Tiền
phạt
- Tiền lương trả theo sản phẩm luỹ tiến, cách tính lương theo hình thức này gồm hai phần:
+ Phần thứ nhất: căn cứ vào mức độ hoàn thành định mức lao động, tính ra tiền lương phải trả theo sản phẩm trong định mức.
+ Phần thứ hai: căn cứ vào mức độ vượt định mức để tính tiền lương phải trả theo tỷ lệ luỹ tiến. Tỷ lệ hoàn thành vượt định mức càng cao thì tỷ suất luỹ tiến càng nhiều.
Hình thức này khuyến khích người lao động tăng năng suất và cường độ lao động đến mức tối đa do vậy thường áp dụng để trả lương cho người làm việc trong khâu trọng yếu nhất hoặc khi doanh nghiệp phải hoàn thành gấp một đơn đặt hàng.
1.2.3 Tiền lương khoán
Tiền lương khoán là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành. Hình thức này áp dụng cho những công việc nếu giao cho từng chi tiết, từng bộ phận sẽ không có lợi phải giao toàn bộ khối lượng công việc cho cả nhóm hoàn thành trong thời gian nhất định.
- Trả lương khoán gọn theo sản phẩm cuối cùng: là hình thức trả lương theo sản phẩm nhưng tiền lương được tính theo đơn giá tập hợp cho sản phẩm hoàn thành đến công việc cuối cùng. Hình thức này áp dụng cho từng doanh nghiệp mà quá trình sản xuất trải qua nhiều giai đoạn công nghệ nhằm khuyến khích người lao động quan tâm đến chất lượng sản phẩm.
- Trả lương khoán quỹ lương: theo hình thức này doanh nghiệp tính toán và giao khoán quỹ lương cho từng phòng ban, bộ phận theo nguyên tắc hoàn thành kế hoạch công tác hay không hoàn thành kế hoạch.
- Trả lương khoán thu nhập: tuỳ thuộc vào kết quả của doanh nghiệp hình thành quỹ lương để phân chia cho người lao động. Khi tiền lương không thể hạch toán lương cho từng lao động thì phải trả lương cho cả tập thể lao động đó, sau đó mới chia cho từng người. Tiền công có thể được chia dựa vào các yếu tố sau:
+ Dựa vào cấp bậc kỹ thuật và cấp bậc công việc (phương pháp này được áp dụng khi cấp bậc công việc được giao phù hợp với cấp bậc kỹ thuật)
+ Dựa vào cấp bậc kỹ thuật và cấp bậc công việc kết hợp với bình công điểm (áp dụng khi công việc được giao không phù hợp với cấp bậc kỹ thuật).
+ Dựa trên cơ sở số điểm để tính mức lương từng điểm (áp dụng khi không thực hiện việc trả lương theo sản phẩm vì khối lượng công việc hoàn thành thường không phụ thuộc vào chất lượng tay nghề mà phụ thuộc vào sức khoẻ và thái độ lao động của từng người).
Khi áp dụng hình thức này tiền lương thực tế của người lao động chỉ xác định khi kết thúc kỳ hạch toán. Vì vậy việc trả lương cho người lao động thực chất là tạo phân phối thu nhập.
1.2.4 Một số chế độ khác khi tính lương
Chế độ thưởng
Ngoài chế độ tiền lương các doanh nghiệp còn tiến hành xây dựng chế độ tiền thưởng cho các cá nhân, tập thể có thành tích trong sản xuất kinh doanh.
Tiền thưởng thực chất là khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong cơ cấu thu nhập của người lao động thì tiền lương có tính ổn định, thường xuyên, còn tiền thưởng chỉ là phần thu nhập thêm và phụ thuộc vào các chỉ tiêu thưởng, phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc thực hiện chế độ thưởng:
- Đối tượng xét thưởng:
+ Lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ một năm trở lên.
+ Có đóng góp vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Mức thưởng:
Mức thưởng của một năm không thấp hơn một tháng lương theo nguyên tắc sau:
+ Căn cứ vào kết quả đóng góp của người lao động đối với doanh nghiệp thể hiện qua năng suất, chất lượng công việc.
+ Căn cứ vào thời gian làm việc tại doanh nghiệp, người có thời gian nhiều thì được hưởng nhiều hơn.
+ Chấp hành nội quy kỷ luật của doanh nghiệp.ủ
- Các loại tiền thưởng: tiền thưởng bao gồm tiền thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh, sáng kiến...)
+ Tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thường xuyên): Hình thức này có tính chất lương, đây thực chất là một phần của quỹ lương được tách ra để trả cho người lao động dưới hình thức tiền thưởng theo một tiêu chuẩn nhất định.
ã Tiền thưởng về chất lượng sản phẩm: khoản tiền này được tính trên cơ sở tỷ lệ quy định chung (không quá 40%) và phần chênh lệch giá giữa sản phẩm cấp cao và sản phẩm cấp thấp.
ã Tiền thưởng về tiết kiệm vật tư: là khoản tiền thưởng tính trên cơ sở giá trị tiết kiệm được so với định mức và tỷ lệ quy định không quá 40%.
- Tiền thưởng thi đua (không thường xuyên): loại tiền thưởng này không thuộc quỹ lương mà được trích từ quỹ khen thưởng, khoản tiền thưởng này được trả dưới hình thức phân loại trong một kỳ (quý, nửa năm, năm).
Tiền thưởng được lấy từ quỹ tiền thưởng của doanh nghiệp: quỹ tiền thưởng trích từ lợi nhuận còn lại sau khi nộp lợi tức, thanh toán các khoản tiền phạt, công nợ… tối đa hóa không quá 50% quỹ tiền lương thực hiện của doanh nghiệp.
Để tiền thưởng trở thành công cụ khuyến khích vật chất phải kết hợp chặt chẽ các hình thức và các chế độ thưởng. Đồng thời trước khi chi trả phải xác định rõ quỹ tiền thưởng hiện có của doanh nghiệp.
=Chế độ phụ cấp.
Theo điều 4 của Nghị định số 205/2004/NĐCP quy định chế độ phụ cấp với người lao động trong doanh nghiệp nhà nước như sau:
- Phụ cấp khu vự: áp dụng đối với những người làm việc ở vùng xa xôi, hẻo lánh và khí hậu xấu.
Phụ cấp gồm 7 mức: 0.1; 0.2; 0.3; 0.4; 0.5; 0.7 và 1 so với mức lương tối thiểu chung.
- Phụ cấp trách nhiệm công việc: áp dụng đối với thành viên không chuyên trách Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm sát (không kể trưởng ban kiểm soát) và những người làm một số việc đòi hỏi trách nhiệm cao hoặc phải đảm nhiệm công tác quản lý không thuộc chức danh lãnh đạo.
Phụ cấp gồm 4 mức: 0.1; 0.2; 0.3 và 0.5 so với mức lương tối thiểu chung
- Phụ cấp đôc hại, nguy hiểm: áp dụng với người làm nghề hoặc công việc thường xuyên thay đổi địa điểm với làm việc và nơi ở.
Phụ cấp gồm 3 mức: 0.2; 0.4 và 0.6 so với mức lương tối thiểu chung.
- Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với người đến làm việc tại vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn.
Phụ cấp gồm 4 mức: 20%; 30%; 50% và 70% mức lương cấp bậc, chức vụ hoặc chuyên môn, nghiệp vụ.
1.3 Các khoản trích theo lương
Ngoài tiền lương cơ bản, công nhân viên chức được hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội trong đó có trợ cấp BHXH, BHYT. Tham gia vào BHXH, BHYT, hoạt động công đoàn là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người lao động hoạt động trong các lĩnh vực nghành nghề kinh tế khác nhau và các thành phần kinh tế khác nhau.
1.3.1 Bảo hiểm xã hội
Nhà nước quy định chính sách về BHXH nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn đinh đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, tai nạn lao động hoặc các rủi ro khác.
Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH, thành lập hệ thống tổ chức BHXH, ban hành quy chế về tổ chức, hoạt động của quỹ BHXH với sự tham gia của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:
Người sử dụng lao động đóng góp 15% so với tổng quỹ lương (tính vào chi phí sản xuất kinh doanh).
Người lao động đóng bằng 5% tiền lương.
Nhà nước hỗ trợ và đóng thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
Tiền sinh lời của quỹ.
Các nguồn khác.
Hiện nay ở Việt Nam BHXH đang thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm sau:
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thai sản.
Trợ cấp tai nạn lao động, và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp tàn tật.
Trong các doanh nghiệp đi đôi với quỹ tiền lương là quỹ BHXH. Quỹ BHXH dùng để đài thọ công nhân viên có đóng góp vào quỹ trong trường hợp:
Người lao động mất khả năng lao động: Hưu trí, trợ cấp thôi việc, tử tuất.
Người lao động mất khả năng lao động tạm thời: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, và bệnh nghề nghiệp.
Quỹ BHXH do cơ quan BHXH thống nhất quản lý. Khi các doanh nghiệp trích được BHXH theo quy định thì phải nộp hết cho cơ quan BHXH. Sau khi nộp được cơ quan BHXH ứng trước 3% để chi tiêu BHXH trong doanh nghiệp. Cuối kỳ kế toán tổng hợp chi tiêu BHXH lập báo cáo gửi cơ quan bảo hiểm cấp trên duyệt.
1.3.2 Bảo hiểm y tế.
BHYT thực chất là sự bảo trợ về y tế cho người tham gia bảo hiểm, giúp họ phần nào trang trải tiền khám, chữa bệnh, tiền viện phí, thuốc thang… Mục đích của BHXH là tập hợp một mạng lưới bảo vệ sức khoẻ cho toàn cộng đồng bất kể địavị xã hội, mức thu nhập cao hay thấp. Quỹ BHYT được hình thành bằng cách trích 3% trên số thu nhập phải trả cho người lao động trong đó người sử dụng lao động phải chịu 2% tính vào chi phí kinh doanh, người lao động nộp 1% trừ vào phần thu của người lao động.
Quỹ BHYT do cơ quan BHYT thống nhất quản lý và trợ cấp cho người lao động qua mạng lưới y tế. Khi tính được mức trích BHYT các doanh nghiệp phải nộp hết 3% cho cơ quan BHYT.
1.3.3 Kinh phí công đoàn.
Kinh phí công đoàn là quỹ tài trợ cho hoạt động công đoàn ở các cấp.
Đây là nguồn đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của công đoàn (trả lương cho cán bộ công đoàn chuyên trách, chi tiêu hội họp).
Các doanh nghiệp trích nộp kinh phí công đoàn bằng 2% tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động và các khoản phụ cấp lương (căn cứ thống nhất với trích nộp BHXH, BHYT). Các khoản phụ cấp bao gồm phụ cấp chức vụ, phụ cấp chức vụ bầu cử, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên, phụ cấp khu vực (nếu có).
Kinh phí công đoàn do doanh nghiệp trích lập cũng được phân cấp quản lý và chi tiêu theo chế độ quy định. Một phần quỹ này được nộp cho cơ quan công đoàn cấp trên là 1% và 1% còn lại để chi tiêu cho hoạt động công đoàn của doanh nghiệp.
Hàng tháng, khi đơn vị rút kinh phí trả lương, đồng thời lập giấy rút kinh phí công đoàn nộp cho cơ quan Công đoàn ở kho bạc Nhà nước. Khoản trích nộp kinh phí công đoàn được hạch toán vào giá thành hoặc phí lưu thông và quyết toán theo quy định hiện hành.
1.4. Tổ chức hạch toán tiền lương
Quản lý tiền lương là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nó là một nhân tố giúp doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Tổ choc công tác hạch toán lao động và tiền lương giúp doanh nghiệp quản lý tốt quỹ lương, đảm bảo được việc trả lương, BHXH đúng nguyên tắc, đúng chế độ, khuyến khích người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao đồng thời tạo cơ sở cho việc phân bổ chi phí nhân công vào giá thành sản phẩm được chính xác.
1.4.1 Hạch toán chi tiết tiền lương.
= Hạch toán số lượng lao động
Số lượng lao động của doanh nghiệp phản ánh trên sổ sách dựa vào số lao động hiện có của doanh nghiệp bao gồm số lượng tong loại lao động theo nghề nghiệp công việc và trình độ tay nghề, cấp bậc kỹ thuật, bao gồm cả số lao động dài hạn và số lao động tạm thời, cả lực lượng lao động trực tiếp và lao động thuộc khu vực ngoài sản xuất.
Hạch toán số lao động là việc theo dõi kịp thời chính xác biến động tăng giảm số lượng lao động theo từng loại lao động trên cơ sở đó là căn cứ cho việc tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động.
Việc hạch toán số lượng lao động được phản ánh trên sổ “Danh sách lao động” của doanh nghiệp và sổ “Danh sách lao động” ở từng bộ phận. Sổ này do phòng tổ chức lao động lập theo mẫu quy định và được lập thành 2 bản: 1 bản cho phòng tổ chức lao động, 1 bản cho phòng kế toán quản lý. Căn cứ để ghi vào sổ danh sách này là các hợp đồng lao động và các quyết định của cấp có them quyền duyệt theo quy định của doanh nghiệp (khi chuyển đổi công tác, thôI việc…)
Khi nhận được chứng từ trên phòng lao động, phòng kế toán phải ghi chép kịp thời đầy đủ vào sổ danh sách lao động của doanh nghiệp đến từng bộ phận phòng ban, tổ sản xuất trong đơn vị. Việc ghi chép này là cơ sở đầu tiên để lập báo cáo lao động và phân tích tình hình biến động về lao động trong doanh nghiệp vào cuối tháng, cuối quý tuỳ theo yêu cầu của quản lý cấp trên.
= Hạch toán thời gian lao động.
Hạch toán thời gian lao động là việc ghi chép kịp thời chính xác thời gian lao động của từng người lao động, trên cơ sở đó tính tiền lương phải trả cho người lao động được chính xác.
Hạch toán thời gian lao động phản ánh số ngày công, số giờ làm việc thực tế, số giờ ngừng sản xuất, nghỉ việc của từng lao động, từng bộ phận sản xuất, từng phòng ban trong doanh nghiệp.
Chứng từ hạch toán thời gian lao động bao gồm: “Bảng chấm công”, “Phiếu làm thêm giờ”, “Phiếu nghỉ hưởng BHXH”.
Bảng chấm công được lập hàng tháng, theo dõi hàng ngày trong tháng của từng cá nhân, từng tổ sản xuất, từng bộ phận. Tổ trưởng sản xuất, tổ công tác hoặc những người được uỷ nhiệm theo quy định. Cuối tháng căn cứ theo thời gian lao động thực tế (số ngày công), số ngày nghỉ để tính lương, thưởng và tổng hợp thời gian lao động của từng người lao động trong từng bộ phận. Bảng chấm công phải được treo công khai để mọi người kiểm tra và giám sát.
Phiếu làm thêm giờ (hoặc phiếu làm thêm) hạch toán chi tiết cho từng người theo số giờ làm việc.
Phiếu nghỉ BHXH dùng trong trường hợp ốm đau, con ốm, nghỉ thai sản, nghỉ tai nạn lao động. Chứng từ này do cơ quan y tế (nếu được phép) hoặc do bệnh viện và được ghi vào bảng chấm công.
=Hạch toán kết quả lao động.
Hach toán kết quả lao động là việc ghi chép kịp thời, chính xác số lượng, chất lượng sản phẩm của từng công nhân hoặc từng tập thể công nhân để từ đó tính lương, tính thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả lao động thực tế, tính toán xác định năng suet lao động, kiểm tra tình hình thực hiện định mức lao động của từng người, từng bộ phận và của cả doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp mà sử dụng các chứng từ ban đầu khác nhau. Các chứng từ có thể sử dụng là: “Phiếu khoán”, “Bảng kê khối lượng công việc hoàn thành”, “Bảng giao nhận sản phẩm”, “Giấy giao ca”, “Hợp đồng giao khoán”, “Bảng kê sản lượng từng người”… Chứng từ kết quả lao động phải do người lập (tổ trưởng) ký, cán bộ kế toán kiểm tra xác nhận, lãnh đạo y duyệt (quản đốc phân xưởng, trưởng bộ phận). Sau đó, chứng từ được chuyển cho nhân viên hạch toán phân xưởng để tổng hợp kết quả lao động của toàn đơn vị. Sau đó chuyển lên phòng lao động tiền lương xác nhận. Cuối cùng chuyển về phòng kế toán của doanh nghiệp làm căn cứ tính lương, tính thưởng.
Để tổng hợp kết quả lao động tại mỗi phân xưởng, bộ phận sản xuất, nhân viên hạch toán phân xưởng phải mở sổ tổng hợp kết quả lao động. Trên cơ sở các chứng từ hạch toán kết quả lao động do các tổ gửi đến, hàng ngày (hoặc định kỳ), nhân viên hạch toán phân xưởng ghi kết quả lao động gửi của từng người, từng bộ phận vào sổ và cộng sổ, lập báo cáo kết quả lao động gửi cho các bộ phận quản lý liên quan. Phòng kế toán doanh nghiệp cũng phải mở sổ tổng hợp kết quả lao động để tổng hợp kết quả chung của toàn doanh nghiệp.
=Thanh toán tiền lương cho người lao động.
Để thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ nhân viên, hàng tháng kế toán lập “Bảng thanh toán tiền lương” cho từng đội, từng tổ sản xuất, từng bộ phận sản xuất dựa trên kết quả tính lương. “Bảng thanh toán tiền lương” được lập dựa vào các chứng từ hạch toán về thời gian lao động kết quả sản xuất.
Với trả lương theo thời gian, phải có “Bảng chấm công”.
Với bộ phận lao động hưởng lương theo sản phẩm đó là “Bảng kê khối lượng công việc hoàn thành”, “Bảng giao nhận sản phẩm”.
“Bảng thanh toán lương” phải ghi rõ các khoản tiền lương (tiền lương sản phẩm, lương thời gian), các khoản khấu trừ và số tiền còn được lĩnh.
Sau khi kế toán trưởng kiểm tra xác nhận, giám đốc duyệt, “bảng thanh toán lương” sẽ làm căn cứ để tính lương cho người lao động.
Các bảng thanh toán lương, bảng kê, danh sách những người chưa lĩnh lương cùng các chứng từ khác về thu, chi tiền mặt phải chuyển kịp thời cho phòng kế toán ghi sổ.
Tại các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ để tránh có sự biến động trong cơ cấu chi phí tính vào giá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K-23.doc
- K-23.xls