Lời nói đầu
Với điều kiện phát triển nền kinh tế sản xuất nước ta hiện nay, xây dựng cơ bản luôn là một ngành kinh tế quan trọng nhiều thành phần. Vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong nền kinh tế đó, kế toán trở thành một bộ phận quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, có vai trò tích cực, quan trọng trong quản lý điều hành kiểm soát kinh tế của Nhà nước cũng như hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá,
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Đầu tư xây dựng Du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện đại hoá đất nước thì lĩnh vực xây dựng đã và đang là lĩnh vực đầu tư nhiều nhất. Vấn đề đặt ra là làm sao quản lý việc sử dụng các nguồn đầu tư xây dựng này có hiệu quả nhất khắc phục tình trạng lãng phí thất thoát vốn.
Vậy thì muốn thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo nguyên tắc lấy thu nhập bù đắp chi phí và có lãi. Do vậy, yêu cầu đặt ra với kế toán phải năng động, sáng tạo bám sát thị trường, giúp doanh nghiệp có đầy đủ thông tin cần thiết và có độ chính xác cao hơn để đưa ra phương án sản xuất kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Sức lao động là một trong ba yếu tố đầu vào không thể thiếu được của một đơn vị sản xuất kinh doanh. Do vậy các chế độ chính sách của Nhà nước luôn bảo vệ quyền lợi của người lao động được thể hiện bằng luật lao động, chế độ tiền lương, tiền công, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, mà doanh nghiệp phải trả cho người lao động.
Bên cạnh tiền lương trả cho người lao động, doanh nghiệp cần tạo ra mối yên tâm cho người lao động về sức khoẻ an toàn lao động … đó chính là đóng góp bảo hiểm lao động, bảo hiểm y tế cho người lao động của doanh nghiệp bù đắp những rủi ro trong lao động, bảo vệ sức khoẻ bảo vệ tư tưởng cho người lao động.
Do đó, tiền lương có vai trò tác động như đòn bẩy kinh tế tác động trực tiếp đến người lao động, nhận thức được điều đó doanh nghiệp luôn chú trọng công tác hạch toán tiền lương cho người lao động trong doanh nghiệp. Cũng là lý do em chọn đề tài: “Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương” ở công ty “Đầu tư xây dựng và du lịch ”với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu và học hỏi để có thể hoàn thiện công tác hạch toán kế toán cuả mình.
Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thu Hà cũng như sự nhiệt tình của Ban Giám Đốc và các anh, chị phòng kế toán trong suốt quãng thời gian thực tập đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập .
Nội dung chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 phần chính:
Phần 1: Những vấn đề chung về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong doanh nghiệp.
Phần 2: Thực trạng hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty “Đầu tư xây dựng và du lịch”.
Phần 3: Hoàn thiện hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty “Đầu tư xây dựng và du lịch”.
Phần 1:Những vấn đề chung về hạch toán tiền lươngvà các khoản trích theo lương trong doanh nghiệp
I. Bản chất tiền lương và các khoản trích theo lương:
1 Tiền lương :
Đối với người lao động trong bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào quy mô, đặc điểm của doanh nghiệp thì tiền lương vẫn đóng vai trò quan trọng trong đó không chỉ là khoản thu nhập để đảm bảo đối với đời sống và một phần tích luỹ trong cuộc sống. Nó chịu tác động của nhiều yếu tố như: kinh tế chính trị, xã hội lịch sử... Tiền lương cũng tác động tới việc sản xuất, cải thiện đời sống và ổn định chế độ chính trị xã hội. Chính vì thế không chỉ Nhà nước, chủ các doanh nghiệp và người lao động đều chú trọng quan tâm đến chính sách tiền lương. Bởi yếu tố tiền lương có tác động hai chiều cả phía người lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi tiền lương gắn liền với việc tăng hay giảm năng suât lao động có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất, đến lợi nhuận của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh .
Nói như vậy tiền lương là gì ?
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung tiền lương được hiểu như sau:
Tiền lương dưới chế độ chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc dân được hiểu dưới hình thức tiền tệ, được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên cho phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi con người đã cống hiến. Tiền lương phải phản ánh việc trả lương cho công nhân viên dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái sản xuất sức lao động.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quan điểm cũ về tiền lương không còn phù hợp với điều kiện nền kinh tế hàng hoá. Đòi hỏi nhận thức lại “Tiền lương là toàn bộ thu nhập quốc dân, là giá trị mới sáng tạo ra mà người sử dụng lao động trả cho người lao động với giá trị lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh ”Để có nhận thức đúng đắn về tiền lương phải đáp ứng một số yêu cầu sau:
Tiền lương phải là khoản tiền trả cho người đã bỏ sức lao động của mình phục vụ một công việc nào đó. Khi đó sức lao động trở thành một thứ hàng hoá của thị truờng yếu tố sản xuất. Tính chất của sức lao động có thể bao gồm không chỉ lực lượng lao động làm trong khu vực kinh tế tư nhân, lĩnh vực Nhà nước mà còn cả đối với công nhân viên chức trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Tiền lương trả cho sức lao động tức là giá trị của hàng ho sức lao động mà người sử dụng và người cung ứng sức lao động thoả thuận với nhau theo quy luật cung cầu của giá cả thị trường.
Tiền lương là khoản thu nhập chính đảm bảo cuộc sống và có phần tích luỹ xã hôi của người lao động. Đồng thời tiền lương là một trong những khoản chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua các yêu cầu của tiền lương đi đến định nghĩa tiền lương như sau: “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá của yếu tố sức lao động mà người sử dụng phải trả cho người cung ứng sức lao động tuân theo các nguyên tắc cung cầu giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước.
Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế:
Tiền lương danh nghĩa:
Tiền lương danh nghĩa là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử dụng sức lao động phải
trả cho người cung ứng sức lao động căn cứ vào hợp đồng lao động giữa hai bên trong việc thúc đẩy lao dộng. Trên thực tế mọi mức lương trả cho người lao động đều là tiền lương danh nghĩa. Lợi ích mà người cung ứng lao động nhận được còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ và số lượng thuế mà người lao động sử dụng tiền lương để mua sắm hoặc đóng thuế.
Tiền lương thực tế:
Tiền lương thực tế là lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương của mình sau khi đã đóng các khoản thuế theo quy định của Nhà nước. Số tiền lương thực tế tỷ lệ nghịch với chỉ số giá cả và tỷ lệ thuận với chỉ sốtiền lương danh nghĩa tại thời điểm xác định.
Trong đó :
:Chỉ số tiền lương thực tế
Chỉ số tiền lương danh nghĩa.
Chỉ số giá cả.
1.1.Chức năng của tiền lương:
- Chức năng thước đo giá trị: Biểu hiện giá cả sức lao động làm cơ sở để điều chỉnh lương cho phù hợp mỗi khi giá cả trên thị trường biến động.
- Chức năng kích thích sức lao động: Tiền lương là động lực chủ yếu khích lệ người lao động làm việc tích cực hơn, thúc đẩy người lao động cải tiến một cách có hệ thống các phương pháp tổ chức lao động nhằm làm việc có hiệu quả nhất với mức lương xứng đáng, ở một mức độ nhất định tiền lương thể hiện uy tín giá trị của người lao động củng như năng lực và lao động của họ đối với sự phát triển của đơn vị
- Chức năng tái sản xuất sức lao động: Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất, tức là nuôi sống người lao động, duy trì và phát triển sức lao động của chính bản thân người lao động trên cơ sở đó sản xuất ra sức lao động mới và hiệu quả tích luỹ kinh nghiệm hoàn thành kỹ năng lao động và tăng sức sáng tạo trong lao động.
- Chức năng quản lý của Nhà nước: Tiền lương với chế độ của nó là những đảm bảo có tính chất pháp lý của Nhà nước buộc người sử dụng lao động phải trả theo công việc đã hoàn thành của người lao động đảm bảo quyền lợi tối thiểu mà họ được hưởng. Căn cứ vào yêu cầu cơ bản này thông qua tình hình thực tiễn kinh tế xã hội mà Nhà nước định ra chế độ tiền lương phù hợp như một văn bản bắt buộc đối với người sử dụng lao động . Các cơ sở sản xuất kinh doanh trả lương cho người lao động được giới hạn giữa mức tối thiểu do Nhà nước quy định và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính điều đó buộc người sử dụng lao động một cách hợp lý cũng như các chi phí khác.
- Chức năng điều tiết lao động: Thông qua hệ thống thang lương, bảng lương và các chế độ phụ cấp được xác định cho từng ngành, từng vùng người lao động sẽ tự nguyện nhận công việc được giao với mức lương phù hợp và thoả đáng. Tiền lương tạo động lực và là công cụ điều tiết lao động giữa các nhành các vùng trên lãnh thổ góp phần tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý. Đó là điều kiện cơ bản để Nhà nước thực hiện kế hoạch cân đối vùng, ngành, lãnh thổ.
Tiền lương nhằm đảm bảo chi phí để tái sản xuất sức lao động. Đây là yêu cầu thấp nhất của tiền lương nuôi sống người lao động, duy trì sức lao động của họ.
- Chức năng kích thích của tiền lương: Tiền lương cao hay thấp có thoả đáng hay không sẽ thể hiện rất rõ ở trách nhiệm và hiệu quả làm việc của người lao động. Tiền lương phải tạo ra sự say mê nghề nghiệp. Không ngừng nâng cao trình độ về chuyên môn và các lĩnh vực khác.
- Vai trò điều phối của tiền lương: Tiền lương nhận được phải thoả đáng, người lao động sẵn sáng nhận mà công việc được giao dù ở đâu, làm gì hay bất cứ khi nào trong điều kiện sức lực và trí tuệ của họ cho phép.
- Vai trò quản lý lao động: Doanh nghiệp sử dụng công cụ tiền lương còn với mục đích khác là thông qua đó mà kiểm tra theo dõi người lao động làm việc đảm bảo tiền lương chi ra phải đem lại kết quả rõ rệt. Hiêụ quả tiền lương không chỉ tính theo tháng mà còn phải tính theo ngày, theo giờ, ở từng doanh nghiệp, bộ phận và từng người.
1.2.Nguyên tắc trả lương:
Nguyên tắc 1:
Trả lương ngang nhau cho người lao động như nhau từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Nguyên tắc này dùng thước đo lao động để đánh giá so sánh và thực hiện trả lương.
đây là nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo công bằng sự bình đẳng trong trả lương.Thực hiện đúng nguyên tắc này có tác dụng kích thích người lao động hăng hái tham gia sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh .
Nguyên tắc 2:
Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân .
Tiền lương là do trình độ tổ chức và quản lý lao động ngày càng hiệu quả hơn. Nă suất lao động tăng ngoài lý do nâng cao kỹ năng làm việc và trình độ tổ chức quản lý thì còn do nguyên nhân khác tạo ra như đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ, trang bị kỹ thuật ng lao động, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều đó cho thấy tăng năng suất lao động có khả năng khách quan tăng nhanh hơn tiền lương bình quân.Trong mỗi doah nghiệp việc tăng tiền lương dẫn đến tăng chi phí sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động lại giảm chi phí cho từng đơn vị sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp chỉ thực sự kinh doanh có hiệu quả khi chi phí cho từng đơn vị kinh doanh giảm đi và mức giảm chi phí đó do tăng năng suất lao động phải lớn hơn mức tăng chi phí do tiền lương bình quân.
Nguyên tắc 3:
Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này thì cần dựa trên các yếu tố sau:
+Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành.Do đặc điểm và trính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ ở các ngành khác nhau là khác nhau. Điều naỳ cho thấy trình đôh lao động giữa các ngành nghề khác nhau cũng khác nhau. Sự khác nhau này cần phải được phân biệt trong trả lương, như vậy mới khuyến khích được người lao động tích cực học tập , rèn luyện, nâng cao trình độ lành nghề và kỹ năng làm việc nhất là những nơi, những ngành đòi hỏi kiến thức, trình độ tay nghề cao.
+ Điều kiện lao động khác nhau: có ảnh hưởng đến mức hao phí sức lao động trong quá trình làm việc. Những người làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, hao tổn nhiều sức lực phải được trả lương khác so với người lao động làm trong điều kiện bình thường . Từ đó dẫn tới sự khác nhau về tiền lương bình quân trả cho người lao động làm việc ở những nơi có điều kiện lao động rất khác nhau.
+ Sự phân phối theo khu vực sản xuất: Một ngành có thể phân bố khác nhau về vị trí địa lý phong tục tập quán … Điều kiện đó ảnh hưởng tới đời sống người lao động làm việc ở những nơi có điều kiện khó khăn phải có chính sách tiền lương hợp lý đó là những khoản phụ cấp lương.
+ ý nghĩa kinh tế mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân: Nền kinh tế quốc dân có nhiều ngành nghề khác nhau đựơc xem là trọng điểm tuỳ từng giai đoạn kinh tế xã hội, do đó nó cần được ưu tiên để phát triển được cần tập trung nhân lực và biện pháp là tiền lương để thu hút lao động, đó là một biện pháp đòn bẩy kinh tế cần được thực hiện tốt.
1.3. Các hình thức trả lương:
Việc tính và trả lương cho người lao động có thể được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo đặc điểm kinh doanh, tính chất công việc vận dụng hình thức tiền lương hợp lý nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích chung của toàn xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và những người lao động. ở nước ta hiện nay thường áp dụng hình thức trả lương theo thời gian, theo sản phẩm hoặc theo khoán thu nhập.
- Hình thức trả lương theo thời gian: Hình thức trả lương theo thời gian thực hiện tính trả lương cho người lao động theo thời gian làm việc, theo ngành nghề và trình độ thành thạo nghiệp vụ , kỹ thuật , chuyên môn cả người lao động.
Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau mà mỗingành nghề cụ thể có một thang lương riêng như :
Thang lương công nhân cơ khí, thang lương công nhân lái xe, thang lương nhân viên văn phòng… Trong mỗi thang lương lại tuỳ theo trình độ thành thạo nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên môn mà chia ra làm thành nhiều bậc lương mỗi bậc lương có một mức lương nhất định . Tiền lương theo thời gian được chia ra: Tiền lương tháng, tiền lương ngày và tiền lương giờ.
+ Tiền lương tháng: Là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động. Thông thường tiền lương tháng được quy định sẵn đối với từng bậc lương trong các tháng lương. Lương tháng thường được áp dụng để trả lương cho nhân viên làm công tác quản lý kinh tế, quản lý hành chính và các nhân viên thuộc các ngành hoạt động không có tính chất sản xuất.
Số tiền lương phải trả trong tháng
=
Mức lương tháng theo hợp đồng lao đồng
Các khoản phụ cấp lương
+
+ Các khoản phụ cấp lương : khi nói đến các khoản phụ cấp lương không thể không nói đến chế độ phụ cấp lương, nó bao gồm ngững quy định của Nhà nước cá tác dụng bổ sung cho chế độ tiền lương nhằm tính đến đầy đủ những yếu tố không ổn định thường xuyên trong điều kiện lao động và diều kiện sinh hoạt mà khi xác định tiền lương chưa tính hết. Chế độ phụ cấp có các loại phụ cấp sau:
++ Phụ cấp khu vực: áp dụng với những nơi xa xôi, miền núi, miền cao ... có nhiều khó khăn và khí hậu xấu.
++ Phụ cấp độc hại, nguy hiểm: áp dụng với nghề hoậc công nhân có điều kiện lao động đọc hại, nguy hiểm chưa được xác định trong mức lương.
++ Phụ cấp trách nhiệm: áp dụng đối với một số ngành nghề hoặc công việc đòi hỏi trách nhiệm cao hoặc phải kiêm nhiệm công tác quản lý không thuộc chức vụ lãnh đạo.
++ Phụ cấp làm đêm: áp dụng với công nhân viên, viên chức làm việc từ 22h đêm đến 6h sáng hôm sau.
++ Phụ cấp lưu động: áp dụng đối với một số ngành nghề hoặc công việc phải thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc và nơi ở …
+ Tiền lương ngày: Là tiền lương trả cho người lao động theo mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng. Mức lương ngày được tính băng cách lấy tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc thực tế trong tháng theo chế độ. Lương ngày được áp dụng để trả lương cho lao động trực tiếp hưởng lương thời gian, tính trả lương cho người lao động trong những ngày hội họp, học tập, hoặc làm nghĩa vụ khác và làm căn cứ để tính trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Tiền lương phải = Mức lương x Số ngày thực tế
trả trong tháng một ngày làm việc trong tháng
Mức lương ngày =Mức lương tháng theo cấp bậc (chức vụ ) x (Hệ số lương + Hệ số phụ cấp )/Số ngày làm việc theo chế độ
+ Tiền lương giờ: Là tiền lương cho một giờ làm việc và được xác định bằng cách lấy tiền lương ngày chia cho số giờ làm việc trong ngày theo chế độ (không quá 8 giờ / ngày ) Lương giờ thường được áp dụng trả cho người lao động trực tiếp sản xuất trong thời gian làm việc không hưởng lương theo sản phẩm. Thường là những công việc mang lại kêt quả trong thời gian ngắn và đòi hỏi chất lượng cao.
Ngoài ra còn có hình thức trả lương theo công nhật : Là mức lương do thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao đông, thường áp dụng cho những lao động theo thời vụ và không thường xuyên.
Như vậy tiền lương theo thời gian căn cứ vào số lượng thời gian làm việc thực tế nhân với mức tiền lương của một đơn vị thời gian. Hình thức tiền lương theo thời gian không phát huy đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động vì nó mang tính bình quân, nhiều khi không phù hợp với kết quả lao động thực tế của người lao động. Để khắc phục phần nào hạn chế đó nên kết hợp với chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động làm việc. Nhìn chung, với những hạn chế của tiền lương theo thời gian thì những trường hợp nào chưa đủ điều kiện hình thức lương theo sản phẩm mới áp dụng tiền lương theo thời gian.
Hình thức tiền lương theo sản phẩm: Hình thức trả lương theo sản phẩm được thưc hiện việc tính chả lương cho người lao động theo số lượng và chất lượng sản phẩm hoăc công việc đã hoàn thành. Hình thức tiền lương này phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao đông, gắn chặt năng suất lao động với thù lao lao động có tác dụng khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động, góp phần tăng thêm sản phẩm cho xã hội. Trong việc chả lương theo sản phẩm, điều kiện quan trọng nhất là phải xây dựng đựơc các định mức kinh tế-kỹ thuật để làm cơ sở cho việc xây dựng đơn giá tiền lương đối với từng loại sản phẩm, từng công việc một cách hợp lý. Việc trả lương theo sản phẩm co thể tiến hành theo nhiều mưc khác nhau như trả theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế, trả theo sản phẩm gián tiếp, trả theo sản phẩm có mức thưởng… tuỳ theo tình hình cụ thể ở từng doanh nghiệp mà vận dụng theo từng hình thức tiền lương theo sản phẩm sau đây:
- Hình thức tiền lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế:
Tiền lương trả cho = Số lượng sản x Đơn giá tiền lương
người lao động phẩm hoàn thành đã quy định
đúng quy cách ,phẩm chất
Hình thức này được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến để trả lương cho người lao động trực tiếp.
- Hình thức trả lương theo sản phẩm gián tiếp:
Thường được áp dụng để trả lương cho người lao động gián tiếp ở các bộ phận sản xuất như lao động làm nhiệm vụ vận chuyển vật liệu, thành phẩm, bảo dưỡng máy móc thiết bị… Tuy lao động của họ không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng lại gián tiếp ảnh hưởng đến năng xuất lao động trực tiếp, nên có thể căn cứ vào kết quả của lao động trực tiếp mà lao động gián tiếp phục vụ để tính lương sản phẩm cho lao động gián tiếp.
- Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp:
áp dụng để trả lương cho công nhân phục vụ sản xuất (vận chuyển vật liệu, sản phẩm, bảo dưỡng máy móc …) Dựa vào năng suất lao động của lao động gián tiếp để tính lương cho bộ phận lao dộng gián tiếp. Nhờ đó lao động gián tiếp sẽ phục vụ tốt hơn và họ quan tâm đến kết quả phục vụ, kết quả sản xuất, từ đó có giải pháp cải tiến công tác phục vụ sản xuất. Song hình thức tính lương này như đã nói ở trên phải phụ thuộc vào thái độ và trình độ của lao động trực tiếp, vì vậy nó không khuyến khích lao động gián tiếp nâng cao chất lượng công việc mà chỉ khuyến khích lao động gián tiếp quan tâm đến việc phục vụ cho lao động trực tiếp.
Cách tính:
Tiền lương cuả = i% x Tiền lương của lao động
lao động gián tiếp trực tiếp sản xuất
Trong đó: i% là tỷ lệ tiền lương của lao động gián tiếp so với tiền lương của lao động trực tiếp sản xuất.
- Hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng, có phạt:
Theo hình thức này ,ngoài tiền lương theo sản phẩm trực tiếp, người lao động còn được hưởng trong sản xuất như thưởng về chất lượng sản phẩm tốt, thưởng về tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư. Trong trường hợp người lao động làm ra sản phẩm hỏng, lãng phí vật tư trên định mức quy định hoặc không đảm bảo đủ ngày cộng quy định …thì có thể phải chịu tiền phạt trừ vào lương của họ .
Cách tính:
Tiền lương =Tiền lương theo sản phẩm + Tiền thưởng – Tiền phạt
- Hình thức tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến:
Là việc trả lương trên cơ sở sản phẩm trực tiếp, đồng thời căn cứ vào mức độ hoàn thành định mức sản phẩm. Mức độ hoàn thành định mức sản xuất càng cao thì tỷ suất lương luỹ tiến càng lớn. Nhờ vậy, trả lương theo sản phẩm luỹ tiến sẽ kích thích được người lao động tăng năng suất lao động. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ xây dựng các đơn giá tiền lương tương ứng với các mức sản lượng khác nhau theo nguyên tắc: Đơn giá tiền lương ở mức sản lượng cao lớn hơn đơn giá tiền lương ở mức sản lượng thấp. Như vậy, theo hình thức này tiền lương bao gồm hai phần:
Phần 1: Căn cứ vào mức độ hoàn thành định mức lao động, tính tiền lương trả theo sản phẩm trong định mức.
Phần 2: Căn cứ vào mức độ hoàn thành vượt mức lao động để tính thêm tiền lương vượt mức cho người lao động theo tỷ lệ luỹ tiến .
- Hình thức khoán khối lượng hoặc khoán từng việc:
Hình thức này áp dụng cho những công việc đơn giản , có tính chất đột xuất như : Bốc dỡ hàng hoá, nguyên vật liệu … Trong trường hợp này, doanh nghiệp xác định mức tiền lương trả cho từng công việc mà người lao động phải hoàn thành .
- Hình thức khoán lương quỹ :
Là dạng đặc biệt của tiền lương sản phẩm được sử dụng để trả lương cho những người làm việc tại các phòng ban của doanh nghiệp. Theo hình thức này, căn cứ vào khối lượng công việc của từng phòng ban phụ thuộc vào mức độ hoàn thành công việc được giao. Tiền lương thực tế của từng nhân viên vừa phụ thuộc vào quỹ lương thực tế của phòng ban, vừa phụ thuộc vào số lượng nhân viên của phòng ban đó.
Hình thức lương khoán thu nhập:
Doanh nghiệp thực hiện khoán thu nhập cho từng người lao động, quan niệm thu nhập mà doanh nghiệp phai trả cho người lao động là một bộ phận nằm trong tổng thu nhập chung của doanh nghiệp. Đối với loại hình doanh nghiệp này, lương phải trả cho người lao động không tính vào chi phí sản xuât kinh doanh mà là một nội dung phân phối thu nhập của doanh nghiệp. Thông qua đại hội công nhân viên, doanh nghiệp thoả thuận trước tỷ lệ thu nhập dùng để trả lương cho người lao động. Vì vậy, quỹ tiền lương của người lao động phụ thuộc vào thu nhập thực tế của doanh nghiệp. Trong trong hợp nay, thời gian và kết quả của từng người lao động chỉ là căn cứ phân chia tổng quỹ lương cho từng lao động.
Hình thức trả lương này bắt buộc người lao động không chỉ quan tâm đến kết quả của bản thân mình mà còn phải quan tâm đến kết quả của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp, do vậy nó phát huy được sức mạnh tập thể trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, người lao động chỉ yên tâm với hình thức trả lương này khi họ có them quyền trong việc kiểm tra tài chính của doanh nghiệp, cho nên hình thức trả lương này thích ứng nhất với các doanh nghiệp cổ phần mà cổ đông chủ yếu là công nhân viên của doanh nghiệp.
2. Các khoản trích theo lương
2.1. Bảo hiểm xã hội:
Dùng để thanh toán cho công nhân vien khi họ bị mất khả năng lao động. Được trích lập theo tỷ lệ 20% so với quỹ tiền lương trong đó15% là người sử dụng lao động phải nộp và được tính vào chi phí khinh doanh , 5% người lao động phải nộp trừ lương .
2.2 Bảo hiểm y tế:
Dùng để thanh toán các khoản viện phí , thuốc men cho người lao động khi họ đi khám và chữa bệnh.
Được tính trích lập theo tỷ lệ 3% so với quỹ lương trong đó 2% người sử dụng lao động phải nộp và được tính vào chi phí sản xuất, 1% người lao động phải nộp trừ vào lương.
2.3 Kinh phí công đoàn:
Dùng để thanh toán cho các khoản chi tiêu của tổ chức công đoàn tại đơn vị và tổ chức công đoàn cấp trên.
Được trích lập theo tỷ lệ 2% so với tiền lương và đừoc toàn bộ kinh phí này người sử dụng laođộng phải chịu và thính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong đó 1% giữ lại cho công đoàn đơn vị, 1% nộp cho công đoàn cấp trên.
3. ý nghĩa, nhiệm vụ của hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương:
3.1. ý nghĩa việc hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương:
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người bất cứ chế độ nào việc tạo ra của cải vật chất đều không tách rời lao động. Lao động với tư cách là hoạt động, biến đổi đối tượng lao động thành các sản phẩm có ích phục vụ cho đời sống con người. Như vậy, lao động là điều kiện đầu tiên cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Để đảm bảo liên tục quá trình sản xuất, trước hết phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Điều đó có nghĩa là sức lực con người hao phí trong quá trình sản xuất phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động. Tiền công hay tiền lương là phần thù lao lao động biểu hiện bằng tiền doanh nghiệp trả cho ngưòi lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng sản phẩm mà họ làm ra. Thực chất, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động của người làm công. Ngoài tiền lương, công nhân viên chức còn được các khoản trợ cấp xã hội như: BHXH, BHYT, KPCĐ.
Như vậy, tiền lương cùng các khoản trích theo lương hợp thành giá thành chi phí lao động sống là một trong các yếu tố chi phí cơ bản cấu thành nên giá trị sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Quản lý, tổ chức tốt công tác hạch toán lao động sẽ tạo điều kiện tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng doanh lợi và nâng cao đời sống cho người lao động trong doanh nghiệp.
Tại các doanh nghiệp, hạch toán tiền lương là công việc phức tạp vì tính chất,đặc thù lao động không đơn nhất mà thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Để giúp cho việc quản lý và sử dụng lao động một cách hiệu quả cần tiến hành phân loại sức lao động hợp lý dựa trên các chỉ tiêu sau :
+ Phân loại theo thời gian lao động: Có thể chia thành lao động trong danh sách và lao động ngoài danh sách.
++ Lao động trong danh sách là lực lượng lao động do doanh nghiệp quản lý trực tiếp và chi trả lương.
++ Lao động ngoài danh sách là lực lượng lao động làm việc tại doanh nghiệp do các ngành khác trả lương như cán bộ chuyên trách đoàn thể, học sinh thực tập
+ Phân loại theo quan hệ với quá trình sản xuất: Bao gồm lao động trực tiếp sản xuất . Đây là bộ phận tham gia trực tiếp sản xuất như nhân viên kỹ thuật, tổ chức chỉ đạo hướng dẫn kỹ thuật, nhân viên quản lý hành chính …
+ Phân loại theo chức năng của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh:
++ Lao động thực hiện sản xuất chế biến.
++ Lao động thực hiện chức năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ như bán hàng, tiếp thị …
++ Lao động thực hiện chức năng quản lý.
Việc phân loại lao động trong doanh nghiệp có ý nghĩa trong việc nắm bắt thông tin về số lượng và thành phẩm lao động về trình độ chuyên nghiệp của người lao động trong doanh nghiệp, về sự bố trí lao động trong doanh nghiệp từ đó quy hoạch lao động, lập kế hoạch lao động hợp lý. Mặt khác giúp cho viêc lập dự toán chi phí nhân công trong chi phí sản xuất kinh doanh lập kế hoạch quỹ lương và lợi nhuận cho công tác kiểm tra tình hính thực hiện kế hoạch và dự toán.
3.2 Nhiệm vụ của hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương :
Trong doanh nghiệp hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương có nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi tiền lương là động cơ để người lao động có trách nhiệm và nhiệt tình trong công việc. Doanh nghiêp sử dụng công cụ tiền lương còn với mục đích khác là thông qua đó mà theo dõi người lao động làm, đảm bảo tiền lương chi ra phải đem lại kết quả.
Do đó, nhiệm vụ của kế toán tiền lương trong doanh nghiệp là phải xây dựng bảng lương, lựa chọn hình thức trả lương hợp lý để sao cho tiền lương vừa là khoản thu nhập để người lao động đảm bảo nhu cầu cả về vật chất lẫn tinh thần. Đồng thời làm cho tiền lương trở thành động lực thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn, có trách nhiệm hơn với công việc.
Bên cạnh đó, kế toán tiền lương phải bảo hàng tháng chi trả lương cho người lao động đúng thời gian quy định. Các chế độ của người lao động như BHXH, BHYT, BHXH trả thay lương, chế độ ốm đau , thai sản (đối với lao động là nữ) phải được thực hiện đầy đủ, đúng chế độ, đảm bảo quyền lợi thiết thực cho người lao động.
4. Hạch toán tiền lương trong các doanh nghiệp :
4.1.Thủ tục chứng từ và tài khoản sử dụng:
Tuỳ thuộc vào mỗi công ty mỗi chế độ quản lý tài chính khác nhau,với những hình thức trả lương khác nhau sẽ tổ chức vận dụng chứng từ cho phù hợp. Song dù doanh nghiệp có sử dụng các chứng từ như thế nào vẫn phải tuân theo quy định của Bộ tài chínhvà bộ lao động thương binh xã hội để làm sao theo dõi tình hình sử dụng thời gian lao động, các khoản thanh toán cho người lao động như: Tiền lương và các khoản phụ cấp, trợ cấp … Đồng thời cung cấp tài liệu cho việc hoạch toán chi phí sản suất và tính giá thành sản phẩm, hạch toán thu nhập và một số nội dung khác có liên quan . Những chứng từ theo quy định được sử dụng để hạch toán tiền lương gồm :
-Bảng chấm công:
Dùng để theo dõi mỗi ngày công thực tế làm việc, nghỉ việc, nghỉ BHXH… để có căn cứ tính trả lương, BHXH trả thay lương cho từng người và quản lý lao động trong đơn vị. Được lập riêng cho từng bộ phận, tổ, đội lao động sản xuất, trong đó ghi rõ ngày làm việc, ngày nghỉ việc của mỗi người lao động. Bảng chấm công do tổ trưởng hoặc trưởng phòng,ban trực tiếp ghi và để nơi công khai để CBCNV giám sát thời gian lao động của từng người lao động. cuối tháng bảng chấm công được dùng để tổng hợp thời gian lao động và tính lương cho từng bộ phận, đội sản xuất. Bên cạnh đó để hạch toán tiền lương cho cán bộ công nhân viên kế toán còn phải dựa trên số lượng, chất lượng sản phẩm hoàn thành từ đó tính toán chính xác tiền lương theo phương thức mà doanh nghiệp đã lựa chọn.
- Bảng thanh toán tiền lương:
Để thanh toán tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp , trợ cấp cho người lao động. Hàng tháng kế toán lập bảng thanh toán tiền lương trên bảng tính lương ghi rõ từng khoản tiền lương , các khoản phụ cấp, trợ cấp khấu trừ và số tiền đã tạm ứng, số tiền người lao động còn được lĩnh . Khoản thanh toán BHXH, BHYT cũng lập tương tự. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra, xác nhận và ký giám đốc duyệt bảng thanh toán tiền lương và BHXH, BHYT sẽ đư._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32460.doc