Tài liệu Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương: LỜI MỞ ĐẦU
Theo Mac, lao động của con người là một trong ba yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của quá trình sản xuất. Lao động giữ một vai trò chủ chốt trong việc tái tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, có chất lượng và đạt hiệu quả cao là nhân tố đảm bảo sự phồn vinh của mọi quốc gia. Người lao động chỉ phát huy hết khả năng của mình khi sức lao động mà họ bỏ ra được đền bù xứng đáng. Đó là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để n... Ebook Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười lao động có thể tái sản xuất lao động đồng thời có thể tích luỹ được được gọi là tiền lương.
Tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội, là nguồn khởi đầu của quá trình tái sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hoá. Vì vậy, việc hạch toán phân bổ chính xác tiền lương vào giá thành sản xuất, tính đủ và thanh toán kịp thời tiền lương cho người lao động sẽ góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng xuất lao động, tăng tích luỹ và đồng thời sẽ cải thiện đời sống người lao động.
Gắn chặt với tiền lương là các khoản trích theo lương bao gồm: bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ). Đây là các quỹ xã hội thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đối với người lao động.
Chính sách tiền lương được vận dụng linh hoạt ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh và phụ thuộc vào tính chất của công việc. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế trả lương phù hợp, hạch toán đủ và thanh toán kịp thời có một ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế cũng như về mặt chính trị.Trong thời gian học tập vừa qua bản thân em đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên cùng sự hướng dẫn chu đáo của cô giáo Nguyễn Lan Anh, em chọn đề tài: "Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương".
Kết cấu bài viết gồm có:
Chương I: Lý luận chung về tổ chức công tác tiền lương và các khoản trích theo lương.
Chương II: Phương pháp hạch toán kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Chương III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Với khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn, tuy rằng bản thân em đã có nhiều cố gắng học hỏi , tìm tòi nhưng chuyên đề không thể không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì thế em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô giáo trong khoa để đề án của em ngày càng được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
1. KHÁI NIỆM VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
Tiền lương là biều hiện bằng tiền của một bộ phận sản phẩm xã hội mà người lao động được sử dụng để bù đắp hao phí lao động của họ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tiền lương (hay tiền công) gắn liền với thời gian và kết quả lao động mà người lao động đã tham gia thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài tiền lương (tiền công), để bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống lâu dài của người lao động, công chức, viên chức còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội, trong đó có trợ cấp BHXH, BHYT mà theo chế độ tài chính hiện hành, các khoản này doanh nghiệp phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
- Quỹ BHXH được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh nhằm trợ cấp cho trường hợp công nhân viên tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức, nghỉ hưu, bệnh nghề nghiệp.
- Quỹ BHYT được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám chữa bệnh, viện phí, thuốc thang, phòng bệnh và chăm sóc sức khoẻ của người lao động trong thời gian ốm đau, sinh đẻ.
- KPCĐ phục vụ chi tiêu cho hoạt động của tổ trong lo bảo vệ quyền lợi của người lao động.
2. CHỨC NĂNG CỦA TIỀN LƯƠNG
Tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp, bao gồm các chức năng sau:
- Tiền lương là công cụ để thực hiện các chức năng phân phối thu nhập quốc dân, chức năng thanh toán giữa người sử dụng sức lao động và người lao động.
- Tiền lương nhằm tái sản xuất sức lao động thông qua việc trao đổi tiền tệ do thu nhập mang lại với các vật dụng sinh hoạt cần thiết cho người lao động và gia đình họ.
- Kích thích con người tham gia lao động bởi lẽ tiền lương là một bộ phận quan trọng của thu nhập, chi phối và quyết định mức sống của người lao động.
Do đó, tiền lương là một công cụ quan trọng trong quản lý. Người ta sử dụng nó để thúc đẩy người lao động hăng hái lao động và sáng tạo, coi như là một động lực trong sản xuất kinh doanh.
3. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
Lịch sử xã hội loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một trong những đặc điểm của quan hệ sản xuất xã hội là hình thức phân phối. Phân phối là một trong những khâu quan trọng của tái sản xuất và trao đổi. Như vậy trong các hoạt động kinh tế thì sản xuất đóng vai trò quyết định, phân phối vào các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất và do sản xuất quyết định nhưng có ảnh hưởng trực tiếp, tích cực trở lại sản xuất.
Tổ sản phẩm xã hội là do người lao động tạo ra phải được đem phân phối cho tiêu dùng cá nhân, tích luỹ tái sản xuất mở rộng và tiêu dùng công cộng. Hinh thức phân phối vật phẩm cho tiêu dùng cá nhân dưới Chủ nghĩa xã hội (CNXH) được tiến hành theo nguyên tắc: "làm theo năng lực hưởng theo lao động". Bởi vậy, "phân phối theo lao động là một quy luật kinh tế". Phân phối theo lao động dưới chế độ CNXH chủ yếu là tiền lương và tiền thưởng.
Tiền lương dưới chế độ XHCN được hiểu theo cách đơn giản nhất đó là: số tiền mà người lao động nhận được sau một thời gian lao động nhất định hoặc sau khi đã hoàn thành một công việc nào đó. Còn hiểu theo nghĩa rộng: tiền lương là một phần thu nhập của nền kinh tế quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được Nhà nước phân phối kế hoạch cho công nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến.
Như vậy, nếu xét theo quan điểm sản xuất: tiền lương là khoản đãi ngộ của sức lao động đã được tiêu dùng để làm ra sản phẩm. Trả lương thoả đáng cho người lao động là một nguyên tắc bắt buộc nếu muốn đạt kết quả kinh doanh cao.
Nếu xét trên quan điểm phân phối thì tiền lương là phần tư liệu tiêu dùng cá nhân dành cho người lao động, được phân phối dựa trên cơ sở cân đối giữa quỹ hàng hoá xã hội với công sức đóng góp của từng người. Nhà nước điều tiết toàn bộ hệ thống các quan hệ kinh tế: sản xuất, cung ứng vật tư, tiêu hao sản phẩm, xây dựng giá thành và ban hành chế độ, trả công lao động. Trong lĩnh vực trả công lao động Nhà nước quản lý tập trung bằng cách quyết định mức lương tối thiểu, ban hành hệ thống thang lương và phụ cấp. Trong hệ thống chính sách của Nhà nước quy định theo khu vực kinh tế quốc doanh và được áp đặt từ trên xuống. Sở dĩ như vậy là xuất phát từ nhận thức tuyệt đối hoá quy luật phân phối theo lao động và phân phối quỹ tiêu dùng cá nhân trên pham vi toàn xã hội.
Những quan điểm trên đây về tiền lương đã bị coi là không phù hợp với những điều kiện đặc điểm của một nền sản xuất hàng hoá.
4. QUAN ĐIỂM VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚi
4.1. Theo quan điểm của Mỹ
Theo chuẩn mực kế toán của Mỹ, thanh toán tiền lương là một phần hành kế toán quan trọng, có liên quan đến cả hai báo cáo tài chính: Bảng cân đối kế toán và Báo cáo thu nhập. Chi phí phát sinh chủ yếu của các công ty là chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương. Trong một vài doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng và hàng không , chí phí tiền lương chiếm đến hơn một nửa trong tổng chi phí quản lý doanh nghiệp. Do vậy, kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại doanh nghiệp rất quan trọng bởi lẽ số tiền lớn và phải thích ứng với những quy định của luật liên quan đến việc điều chỉnh thuế thu nhập. Người chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính phải phản ứng các yêu cầu thanh toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Đồng thời hệ thống kế toán của doanh nghiệp phải phát hiện ra những hành vi gian lận trong việc khai báo thu nhập. Bởi lẽ, mỗi người lao động được thanh toán tiền lương và các khoản trích theo lương trên cơ sở thời gian công việc của họ, họ được nhận lương trên bảng kê thanh toán tiền lương và doanh nghiệp phải có trách nhiệm kiểm tra báo cáo chính xác cho chính phủ.
4.1.1. Kế toán tiền lương
Tiền lương là khoản thu nhập mà doanh nghiệp tạo điều kiện cho người lao động sinh sống, sinh hoạt, tái sản xuất và phát triển mọi mặt về vật chất và tính thần trong đời sống gia đình và xã hội. Nếu gọi sức lao động là hàng hoá thì tiền lương chính là giá cả của hàng hoá sức lao động. Nói cách khác tiền lương chính là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về mức độ trả công đối với một công việc cụ thể được thực hiện trong những điều kiện làm việc nhất định. Mặt khác tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo ra. Tuỳ theo cơ chế quản lý mà tiền lương có thể được xác định là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá thành sản phẩm hay được xác định là một bộ phận của thu nhập, kết quả tài chính của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Các khoản trích theo lương hiện nay bao gồm: BHXH, BHYT, KPCĐ.
a. Đặc điểm tiền lương
Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, tiền lương là yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Tiền lương là đòn bẩy kinh tế quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, có tác dụng động viên khuyến khích người lao động tích cực làm việc nâng cao hiệu quả công tác.
b. Ý nghĩa tiền lương
+ Đối với người lao động: Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu để họ có thể đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình.
+ Đối với doanh nghiệp: Tiền lương là yếu tố sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá trị của các loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Mặt khác tiền lương là công cụ tác động đến công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do đó tiền lương mà người lao động nhận được một cách thoả đáng, phù hợp với sức lao động mà họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất sẽ làm động lực kích thích tinh thần làm việc làm tăng năng suất lao động dẫn đến tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Với việc sử dụng hiệu quả sức lao động của người lao động sẽ giúp cho doanh nghiệp hoàn thành sản xuất kinh doanh của mình. Tổ chức hạch toán tốt lao động tiền lương giúp cho việc sử dụng lao động ở doanh nghiệp được thuận lợi, thúc đẩy người lao động chấp hành kỷ luật lao động đồng thời tạo cơ sở cho việc tính và trả lương theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động.
4.1.2. Kế toán các khoản nợ liên quan đến tiền lương
Tiền lương chính là khoản thù lao trả cho người lao động, ngoài tiền lương còn có các khoản trích theo lương. Ở Việt Nam, các khoản trích theo lương theo quy định của cơ chế tài chính hiện hành được thực hiện là 25%, trong đó doanh nghiệp trả 19% (gồm 15% BHXH, 2% BHYT, 2% KPCĐ), còn 6% trừ vào lương của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Trong đó kế toán thực hiện bằng cách:
+ Tiền lương phát sinh ở bộ phận nào thì nhân với tỷ lệ 19% trên tiền lương ở bộ phận đó
+ Tổng tiền lương nhân với 6% trừ vào tổng quỹ tiền lương của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Ngoài ra người lao động còn được trả lương làm ngoài giờ - là khoản lương phải trả cho người lao động khi họ làm việc ngoài giờ( có thể là làm thêm giờ hoặc làm việc vào ban đêm).
Đối với người lao động trả lương theo thời gian, nếu làm thêm ngoài giờ chuẩn thì doanh nghiệp phải trả lương làm thêm giờ theo công thức sau:
= x x
Mức 150% được áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày thường, mức 200% áp dụng đối với giờ làm thêm vào ngày nghỉ hàng tuần, mức 300% áp dụng đối với giờ làm thêm vào các ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương theo quy định cảu Bộ luật lao động, Trong trường hợp làm thêm giờ nếu được bố trí nghỉ bù những giờ làm thêm thì doanh nghiệp chỉ phải trả phần chênh lệch 50% tiền lương giờ thực tế phải trả của công việc đang làm.
Đối với lao động trả lương theo sản phẩm, nếu ngoài giờ tiêu chuẩn, doanh nghiệp có yêu cầu làm thêm số lượng, khối lượng sản phẩm, công việc ngoài định mức hoặc những công việc phát sinh nhưng chưa được xác định trong kế hoạch sản xuất, kinh doanh mà doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần làm thêm giờ thì đơn giá tiền lương của những sản phẩm, công việc làm thêm được trả bằng 150% so với đơn giá tiền lương của sản phẩm làm trong giờ tiêu chuẩn, nếu làm thêm vào ngày thường, bằng 200%, nếu làm thêm và ngày nghỉ hàng tuần, bằng 300% nếu làm thêm vào các ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương.
Đối với kế toán Hoa Kỳ, ngoài tiền lương và các khoản trích theo lương như hệ thống kế toán Việt Nam, con có thêm các khoản nợ liên quan đến bảng lương trong doanh nghiệp: Khoản bồi thường người làm thuê; khoản tiền lương giữ lại; và các khoản trích theo lương.
+ Khoản bồi thường người làm thuê: những doanh nghiệp sử dụng lao động có trách nhiệm với người làm thuê về tiền công và tiền lương của họ. Thuật ngữ tiền công có thời hạn là sự trả tiền phục vụ cho người làm thuê theo thời gian hoặc trả dựa trên tiền lương cơ bản. Thuật ngữ tiền lương có thời hạn là sư bồi thường cho người làm thuê mà người đó được trả lương hàng tháng hoặc hàng năm.
Ở Hoa Kỳ ngoài quy định của đạo luật Liên bang, từng tiểu bang sẽ có những đạo luật riêng. Chẳng hạn , một số tiểu bang khi người lao động làm việc vượt quá số giờ một tuần hoặc 8 tiếng một ngày thì phải trả tiền làm ngoài giờ cho người lao động. Trả tiền ngoài giờ ít nhất phải gấp 1,5 lần theo tiền lương làm việc bình thường. Nếu làm việc vào ngày thứ 7 hoặc Chủ nhật hoặc vào những ngày nghỉ cũng có thể gọi là làm việc ngoài giờ và được trả lương ngoài giờ, hoặc được thanh toán như là khoản tiền thưởng được trả dưới sự thoả thuận riêng biệt giữa người sử dụng lao động và người lao động ngoài tiền lương được nhận.
+ Nợ phải trả cho sự chiếm giữ lương của nhân viên
Giá trị thực trả cho nhân viên thông thường ít hơn mức lương họ kiếm được bởi vì theo quy định của pháp luật, người chủ doanh nghiệp giữ lại chút ít từ số tiền lương của nhân viên gửi trực tiếp chúng tới cơ quan chính phủ nộp thuế thu nhập cho người lao động. Trong khoản nợ phải trả gồm có phúc lợi xã hội và thuế dành cho chăm sóc sức khoẻ của chính phủ, thuế thu nhập Liên bang và thuế thu nhập tiểu bang. Hơn nữa sự chiếm giữ chút ít tiến đến lợi ích của nhân viên thường thì theo yêu cầu của họ, bao gồm trợ cấp, tiền đóng BHXH, BHYT và tiền đóng bảo hiểm nhân thọ, công đoàn thuế và đóng góp hội từ thiện, người chủ có trách nhiệm nộp cho cơ quan, quỹ hoặc tổ chức thích hợp.
Phúc lợi xã hội và khoản chăm sóc sức khoẻ của chính phủ: với sự thông qua chương trình phúc lợi ở Mỹ vào năm 1930, chính quyền Liên bang bắt đầu chịu trách nhiệm tình trạng hạnh phúc, sức khỏe của người dân thường. Chương trình phúc lợi xảy ra trong trường hợp về hưu và trợ cấp tàn tật, trợ cấp người còn sống và thời kỳ nằm viện và những phúc lợi y tế khác. Chương trình phúc lợi xã hội được tài trợ bởi thuế của nhân viên, người chủ và công nhân. Khoảng 90% người làm việc ở Mỹ chịu sự ảnh hưởng những định khoản của chương trình. Đạo luật về đóng góp bảo hiểm Liên bang( FICA) điều chỉnh thuế để nộp cho chương trình này. Năm 1992 tỷ lệ thuế phúc lợi xã hội là 6,20% và tỷ lệ thuế chăm sóc sức khoẻ của chính phủ là 1,45% cho mỗi người chủ và nhân viên. Những khoản nộp đó được nộp bởi nhân viên và người chủ trên tổng lương của nhân viên hoặc trên phần của cải của họ. Thuế phúc lợi xã hội có hiệu lực đầu tiên $55,500 được hưởng bởi nhân viên trong suốt 1 năm, thuế chăm sóc sức khoẻ của chính phủ có hiệu lực đầu tiên $130,200 được hưởng bởi nhân viên trong suốt 1 năm. Kế hoạch làm việc tuỳ theo sự thay đổi bởi quốc hội Hoa Kỳ.
Tỷ lệ thuế cho nhân viên và người chủ như nhau, người chủ khấu trừ tiền thuế của nhân viên từ tiền lương của họ và gửi tổng giá trị đó cùng với sự chiếm giữ khác của nhân viên như thuế phúc lợi xã hội và thuế chăm sóc sức khoẻ của
Chính phủ là kết hợp với thuế của người chủ để nộp cho chính phủ.
Bởi vì sự tăng trưởng lạm phát và quyền lợi trong hệ thống phúc lợi xã hội, những điều khoản này là luật kiến nghị bởi quốc hội Hoa Kỳ. Ở Việt Nam thì khó tránh khỏi sự thay đổi và sẽ được thẩm tra mỗi năm.
Tiền lương của người lao động sự khấu trừ nhiều nhất chính là thuế thu nhập từ Liên bang. Hệ thống thu thuế thu nhập Liên bang là chế độ trích trước tiền thuế trước khi nhận lương. Người chủ yêu cầu trích số tiền thuế thu nhập Liên bang mà người lao động nộp, doanh nghiệp giữ lại tiền thuế từ nhân viên và giao đến sở thu thuế địa phương.
Số lượng tiền thuế giữ lại phụ thuộc một phần vào thu nhập mà nhân viên kiếm được và đa số tiền thuế giữ lại là từ tiền thuế thu nhập của các nhân viên được miễn thuế. Hầu hết nhân viên được miễn thuế theo quy định của luật pháp và những người được miễn thuế hoàn tất đầy đủ các thủ tục theo quy định. Mỗi nhân viên có quyền được hưởng miễn thuế một lần cho chính họ và hoàn toàn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi người. Hầu hết các tiểu bang có thuế thu nhập và trong hầu hết các trường hợp thủ tục của sự chiếm giữ thì giống như thuế thu nhập của Liên bang.
Một vài sự chiếm giữ khác như là trường hợp về hưu hoặc kế hoạch lương bổng đựơc yêu cầu cho nhân viên. Những cái khác như sự chiếm giữ phí bảo hiểm hoặc kế hoạch tiết kiệm có thể được yêu cầu riêng biệt của từng nhân viên. Người chủ có trách nhiệm điều chỉnh tất cả sự chiếm giữ và các khoản tiền gửi thích hợp.
Lương và các khoản chiết khấu theo lương của từng người lao động được ghi nhận vào trong mỗi thời kỳ trả lương của sổ lương.Chí tiết về khoản thu nhập của từng người lao động trong sổ lương sẽ được chuyển qua báo cáo ghi nhận thu nhập của từng người. Cột tổng cộng trong sổ lương sẽ được ghi vào nhật ký chung để ghi nhận tổng số lương và các khoản phải thu chung. Thêm vào đó việc ghi vào sổ nhật ký chung là cần thiết để ghi nhận phần góp của doanh nghiệp cho BHXH, BHYT và bảo hiểm thất nghiệp ở quốc gia và Liên bang.
4.2. Quan điểm của Việt Nam về vấn đề tiền lương và các khoản trích theo lương
4.2.1. Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của chế độ kế toán tài chính Việt Nam
Hệ thống Tài chính kế toán Việt Nam phát triển qua ba giai đoạn chính:
- Trước năm 1990: đây là giai đoạn mà nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế bao cấp, các thành viên kinh tế chỉ có quốc doanh, tập thể và cá thể mà giữ thành phần chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh và không có các hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Do đặc điểm này mà hoạt động nghề nghiệp của các kế toán viên chủ yếu tuân thủ theo nội quy, quy định của Bộ tài chính - cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm quản lý tài sản XHCN.
- Từ năm 1991 đến năm 1994: Đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần đã tác động đến bản chất và đặc thù của nghề kế toán. Nhiều thuật ngữ trong lĩnh vực kế toán ra đời như khái niệm lãi, lỗ, lợi nhuận… mà đối với nhiều kế toán viên chỉ quen làm trong nền kinh tế bao cấp là khá trừu tượng và khó hiểu.
- Do thực tế khách quan nên giai đoạn từ năm 1995 đến nay chính là thời gian mà hệ thống kế toán tài chính nước ta có những bước phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Đặc biệt là từ năm 1995 đến nay hệ thống kế toán tài chính nước ta đã hình thành và phát triển lĩnh vực kiểm toán. Sự phát triển vượt bậc này được đánh dấu bởi sự ra đời của Luật kế toán Việt Nam do Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 3 thông qua cũng như những chuẩn mực về kế toán tài chính riêng của Việt Nam đã được ban hành.
Kế toán tài chính Việt Nam không còn phát triển một cách đơn lẻ tự phát nội bộ mà đã có hệ thống và liên kết với thế giới. Đánh dấu bước phát triển quan trọng này là vào năm 1996 Hội kế toán Việt Nam (VAA) ra đời và trở thành thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cũng như là thành viên của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 ở Việt Nam đã có 120 công ty kiểm toán độc lập.
4.2.2. Quy định của nhà nước Việt Nam về chế độ tiền lương
Năm 1960 lần đầu tiên nước ta ban hành chế độ tiền lương áp dụng cho công chức, viên chức, công nhân… thuộc các lĩnh vực của doanh nghiệp hoạt động khác nhau. Nét nổi bật trong chế độ tiền lương này là nó mang tính hiện vật sâu sắc, ổn định và quyết định rất chi tiết, cụ thể:
Năm 1985 với nghị định 235 HĐBT ngày 18/4/1985 đã ban hành một chế độ tiền lương mới thay thế cho chế độ tiền lương năm 1960. Ưu điểm của chế độ tiền lương này là đi từ nhu cầu tối thiểu để tính mức lương tối thiểu song nó vẫn chưa hết yếu tố bao cấp mang tính cứng nhắc và thụ động.
Ngày 23/5/1993 chính phủ ban hành các nghị định NĐ25/CP, NĐ 26/CP quy định tạm thời chế độ tiền lương mới đối với các doanh nghiệp với mức tiền lương tối thiểu là 144.000đ/người/tháng.
Những văn bản pháp lý trên đây đều xây dựng một chế độ trả lương cho người lao động, đó là chế độ trả lương cấp bậc.
Tiền lương cấp bậc là tiền lương áp dụng cho công nhân căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của công nhân.
Hệ số tiền lương cấp bậc là toàn bộ những quy định của Nhà nước mà doanh nghiệp dựa vào đó để trả lương cho công nhân theo chất lượng và điều kiện lao động khi họ hoàn thành một công việc nhất định.
Chế độ tiền lương cấp bậc tạo khả năng điều chỉnh tiền lương giữa các ngành, các nghề một cách hợp lý, hạn chế được tính chất bình quân trong công việc trả lương, đồng thời còn có tác dụng bố trí công việc thích hợp với trình độ lành nghề của công nhân.
Theo chế độ này các doanh nghiệp phải áp dụng hoặc vận dụng các thang lương, mức lương hiện hành của Nhà nước.
- Mức lương: là lượng tiền trả cho người lao động trong một đơn vị thời gian (giờ, ngày, tháng…) phù hợp với các cấp bậc theo thang lương. Thông thường Nhà nước chỉ quy định mức lương bậc I hoặc mức lương tối thiểu với hệ số lương của cấp bậc tương ứng.
- Thang lương: là biểu hiện xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa các công nhân cùng nghề hoặc nhiều nghề giống nhau theo trình tự và theo cấp bậc của họ. Mỗi thang lương đều có hệ số cấp bậc và tỷ lệ tiền lương ở các cấp bậc khác nhau so với tiền lương tối thiểu.
* Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật là văn bản quy định về mức độ phức tạp của công việc và yêu cầu về trình độ lành nghề cảu công nhân ở một bậc nào đó phải biết gì về mặt kỹ thuật và phải làm được gì về mặt thực hành.
Giữa cấp bậc công nhân và cấp bậc công việc có mối quan hệ chặt chẽ. Công nhân hoàn thành tốt ở công việc nào thì sẽ được xếp vào cấp bậc đó.
Cũng theo các văn bản này ý nghĩa cán bộ trong doanh nghiệp được thực hiện chế độ tiền lương theo chức vụ. Chế độ tiền lương chức vụ được thể hiện thông qua các bảng lương chức vụ do Nhà nước quy định. Bảng lương chức vụ gồm có nhóm chức vụ khác nhau, bậc lương, hệ số lương và mức lương cơ bản.
4.2.3. Phương pháp tính lương
Bộ luật lao động của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chương 2, điều 56 có ghi: "Khi chỉ số giá cả sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút thì chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để đảm bảo tiền lương thực tế".
Theo quy định tại nghị định 06/CP ngày 21/1/1997 áp dụng từ ngày 1/1/1997 tại Việt Nam, mức lương tối thiểu chung là 144.000đ/người/tháng.
Theo nghị định số 175/1999 NĐ-CP của Chính phủ nước Việt Nam ngày 15/12/1999 được tính bắt đầu từ ngày 1/1/2000 mức lương tối thiểu chung là 180.000đ/người/tháng đối với cơ quan hành chính sự nghiệp, ngày 27/3/2000 ban hành nghị định số 10/2000, NĐ-CP quy định tiền lương tối thiểu co các doanh nghiệp.
Tuỳ theo vùng ngành mỗi doanh nghiệp có thể điều chỉnh mức lương của mình sao cho phù hợp. Nhà nước cho phép tính hệ số điều chỉnh tăng thêm không quá 1,5n lần mức lương tối thiểu chung.
Hệ số điều chinhr được tính theo công thức:
Kđc = K1 + K2
Trong đó:
· Kđc: hệ số điều chỉnh tăng thêm
· K1: Hệ số điều chỉnh theo vùng (có 3 mức 0,3; 0,2; 0,1)
· K2: Hệ số điều chỉnh theo ngành (có 3 nhóm 1,2; 1,0; 1,8)
Sau khi có hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa (Kđc = K1 + K2), doanh nghiệp được phép lựa chọn các hệ số điều chỉnh tăng thêm trong khung của mình để tính đơn giá phù hợp với hiệu quả sản xuất kinh doanh mà giới hạn dưới là mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định (tại thời điểm thực hiện từ ngày 1/1/1997 là 144.000đ/người/tháng) giới hạn trên được tính như sau:
TLminđc = TLmin x ( 1+Kđc )
Trong đó:
· TLminđc: Tiền lương tối thiểu điều chỉnh tối đa doanh nghiệo được phép áp dụng.
· TLmin: Là mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định, cũng là giới hạn dưới của khung lương tối thiểu.
· Kđc: là hệ số điều chỉnh tăng thêm của doanh nghiệp
Như vậy khung lương tối thiểu của doanh nghiệp là TLmin đến TLminđc. Doanh nghiệp có thể chọn bất cứ mức lương tối thiểu nào nằm trong khung này, nếu đảm bảo đủ các điều kiện theo quy định sau:
- Phải là doanh nghiệp có lợi nhuận. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước mà không có lợi nhuận hoặc lỗ thì phải phấn đấu có lợi nhuận hoặc giảm lỗ.
- Phải làm giảm các khoản nộp ngân sách Nhà nước so với năm trước liền kề, trừ trường hợp Nhà nước có chính sách điều chỉnh giá ở đầu vào, giảm thuế hoặc giảm các khoản nộp ngân sách theo quy định.
- Không làm giảm lợi nhuận thực hiện so với năm trước liền kề, trừ trường hợp Nhà nước có chính sách điều chỉnh tăng giá, tăng thuế, tăng các khoản nộp ngân sách ở đầu vào. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chính sách kinh tế-xã hội thì phải giảm lỗ.
4.2.4. Các hình thức trả lương
4.2.4.1 Trả lương theo thời gian
Điều 58 Bộ luật lao động nước Việt Nam quy định các hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế và bậc lương của mỗi người.Người sử dụng lao động có quyền chọn các hình thức trả lương theo thời gian (giờ, ngày, tuần, tháng) nhưng phải duy trì hình thức trả lương đã chọn trong một thời gian nhất định và phải thông báo cho người lao động biết. Người lao động hưởng lương giờ, ngày, tuần được trả lương theo giờ, ngày, tuần làm việc ấy hoặc được trả gộp do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất 15 ngày phải được trả gộp một lần.
- Tiền lương tháng: là tiền lương trả cố đình hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động.
- Tiền lương tuần: là tiền lương trả cho một tuần làm việc xác định trên cơ sở tiền lương tháng nhân với 12 tháng và chia cho 52 tuần.
- Tiền lương ngày: là tiền lương trả cho một ngày làm việc xác định trên cơ sở tiền lương tháng chia cho 26.
- Tiền lương giờ: là tiền lương trả cho một giờ làm việc và được xác định bằng cách lấy tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn theo quy định của luật lao động (không quá 8 giờ/ngày).
Do những hạn chế nhất định của hình thức trả lương theo thời gian (mang tính bình quân, chưa thực sự gắn với kết quả sản xuất) nên để khắc phục phần nào hạn chế đó, trả lương theo thời gian có thể kết hợp chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc.
4.2.4.2. Tiền lương theo sản phẩm
Tiền lương theo sản phẩm là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm họ làm ra. Việc trả lương theo sản phẩm có thể tiến hành theo nhiều hình thức khác nhau như trả theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế, trả theo sản phẩm gián tiếp, trả theo sản phẩm có thưởng, theo sản phẩm luỹ tiến và được thoả thuận giữa hai bên.
4.2.4.3. Tiền lương khoán
Tiền lương khoán là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lương lao động mà họ hoàn thành. Nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hàng tháng được tạm ứng lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.
Ngoài chế độ tiền lương, các doanh nghiệp còn tiến hành xây dựng chế độ tiền thưởng cho các cá nhân, tập thể có thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiền thưởng bao gồm thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và thưởng trong sản xuất kinh doanh (thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh sáng kiến…).
Bên cạnh các chế độ tiền lương, tiền thường được hưởng trong quá trình kinh doanh, ngưòi lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc quỹ BHXH, BHYT trong các trưòng hợp ốm đau, thai sản… Các quỹ này được hình thành một phần do người lao động đóng góp, phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
4.2.5. Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp
Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương mà doanh nghiệp trả cho tất cả lao động thuộc doanh nghiệp quản lý. Thành phần quỹ lương bao gồm nhiều khoản như lương thời gian (tháng, ngày, giờ), lương sản phẩm, phụ cấp (cấp bậc, khu vực, chức vụ…), tiền thưởng trong sản xuất. Quỹ tiền lương bao gồm nhiều loại tuy nhiên về mặt hạch toán có thể chia thành tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động gián tiếp trong đó chi tiết thành tiền lương chính và tiền lương phụ.
4.2.6. Các khoản trích theo lương
Ngoài tiền lương, công nhân viên chức còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội, trong đó có trợ cấp BHXH, BHYT.
Quỹ BHXH được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số quỹ tiền lương cấp bậc và các khoản phụ cấp (chức vụ, khu vực,thâm niên…) của công nhân viên chức thực tế phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành tỷ lệ trích BHXH là 20%, trong đó 15% do đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động nộp được tính vào chi phí kinh doanh; 5% còn lại do người lao động đóng góp và được trừ vào lương tháng. Quỹ BHXH được chi tiêu cho các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Quỹ này do cơ quan BHXH quản lý.
Quỹ BHYT được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám chữa bệnh, viện phí, thuốc thang… cho người lao động trong thời gian ốm đau, sinh đẻ. Quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương của công nhân viên chức thực tế phát sinh trong tháng. Tỷ lệ trích BHYT hiện hành là 3%, trong đó 2% trích vào chi phí kinh doanh và 1% trừ vào thu nhập của ngưòi lao động.
Để có nguồn kinh phí cho hoạt động công đoàn hàng tháng doanh nghiệp còn phải trích theo tỷ lệ quy định với tồng số quỹ tiền lương, tiền công và phụ cấp (phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp độc hại,nguy hiểm, phụ cấp lưu động, phụ cấp thâm niên, phụ cấp phục vụ an ninh quốc phòng) thực tế phải trả cho người lao động kể cả lao động tính vào chi phí kinh doanh để hình thành kinh phí công đoàn. Tỷ lệ kinh phí công đoàn theo chế độ hiện hành là 2%.
CHƯƠNG II: Phương pháp hạch toán kế toán tiền ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12605.doc