Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương

LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam gia nhập WTO là một xu thế tất yếu, gia nhập WTO là một trong những phương tiện để ta phấn đấu đạt tới mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của đất nước. Trước mắt, đến năm 2010 Việt Nam cần phải vượt ra khỏi nhóm các nước kém phát triển. Về lâu dài, xây dựng nước nhà giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Gia nhập WTO mở ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội và thách thức, Việt Nam thắng hay bại phụ thuộc chủ yếu ở các doanh nhân Việt Nam. Trong thời buổi cạnh tranh t

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oàn cầu hiện nay, để thu hút được khách hàng, các Doanh nghiệp cần đưa chất lượng vào nội dung quản lý. Sự hoà nhập của chất lượng vào mọi yếu tố của Doanh nghiệp từ hoạt động quản lý đến tác nghiệp là điều phổ biến và tất yếu. Như vậy lãnh đạo Doanh nghiệp cần có tầm nhìn xa, xây dựng những giá trị rõ ràng cụ thể và định hướng vào khách hàng. Lãnh đạo phải chỉ đạo và xây dựng các chiến lược, hệ thống và các biện pháp huy động sự tham gia và tính sáng tạo của mọi nhân viên để nâng cao năng lực của Doanh nghiệp. Yếu tố con người trong Doanh nghiệp được phát huy chính là sử dụng được nội lực tạo ra sức mạnh trên con đường vươn tới mục tiêu chất lượng. Qua đó thấy được tầm quan trọng rất lớn của nhân tố con người trong sự thành công của doanh nghiệp nói riêng và trong công cuộc phát triển đất nước nói chung. Theo Mac, lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và là yếu tố quyết định nhất. Chi phi về lao động là một trong các yếu tố chi phí cơ bản cấu thành nên giá trị sản phẩm do Doanh nghiệp sản xuất ra. Sử dụng hợp lý lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh là tiết kiệm chi phí về lao động sống góp phần hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng doanh lợi cho Doanh nghiệp và là điều kiện để cải thiện nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho công nhân viên, người lao động trong Doanh nghiệp. Tiền lương (hay tiền công) là một phần sản phẩm xã hội được nhà nước phân phối cho người lao động một cách có kế hoạch, căn cứ vào kết quả lao động mà mỗi người cống hiến cho xã hội biểu hiện bằng tiền. Nó là phần thù lao lao động để tái sản xuất sức lao động, bù đắp hao phí lao động của công nhân viên đã bỏ ra trong một quá trình sản xuất kinh doanh. Tiền lương gắn liền với thời gian và kết quả lao động mà công nhân viên đã thực hiện, tiền lương là phần thu nhập chính của công nhân viên. Thực hiện tốt chế độ tiền lương sẽ kết hợp được nghĩa vụ và quyền lợi, nêu cao ý thức trách nhiệm của cơ sở sản xuất, nhóm lao động và người lao động đối với sản phẩm mình làm ra, đồng thời phát huy năng lực sáng tạo của người lao động, khắc phục khó khăn trong sản xuất và đời sống để hoàn thành kế hoạch. Ngoài tiền lương, để đảm bảo tái tạo sức lao động và cuộc sống lâu dài của người lao động, theo chế độ tài chính hiện hành Doanh nghiệp phải đưa vào chi phi sản xuất kinh doanh một bộ phận chi phí gồm các khoản trích theo lương như Bảo Hiểm Xã Hội, Bảo Hiểm Y Tế, Kinh Phí Công Đoàn. Nhằm đảm bảo quyền lợi và lợi ích cho người lao động. Từ vai trò và ý nghĩa trên của công tác tiền lương, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Lan Anh, em đã chọn đề tài: “Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương” làm đề tài cho đề án môn học của mình. Đề án của em gồm 3 phần: Phần I: Tổng quan về kế toán tiền lương. Phần II: Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương theo chế độ kế toán hiện hành. Phần III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán tiền lương. PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG I.Sơ lược sự ra đời của hệ thống kế toán tài chính thế giới và Việt Nam. Kế toán là một công cụ hữu hiệu giúp cho không chỉ các nhà quản lý nắm được thực trạng tài chính nhằm hoạch định kế hoạch phát triển cho tương lai của công ty mà còn là mối quan tâm của các nhà đầu tư tài chính,các ngân hàng,nhà nước…nhằm phục vụ cho những mục đích của mình. Hạch toán kế toán gắn liền với sản xuất do đó ngay từ thời kỳ nguyên thuỷ người ta đã sử dụng hạch toán kế toán để ghi chép theo dõi quá trình sản xuất. Các bản ghi kế toán đã xuất hiện từ năm 8500 trước công nguyên ở Trung Á,viết bằng đất sét thể hiện các hàng hoá như bánh mỳ, dê, quần áo…Bản ghi này được gọi là bullae, một dạng hoá đơn ngày nay. Bullae được gửi cùng với hàng hoá nhằm giúp người nhận kiểm tra lại chất lượng và giá cả của số hàng mình nhận được. Lúc này vẫn chưa có hệ số đếm khác nhau cho đến năm 850 trước công nguyên, hệ số đếm Hindus-Arabic ra đời và được sử dụng cho đến ngày nay. Việc giữ các bản ghi vẫn chưa được hình thức hoá cho tới mãi thế kỷ thứ 13, xuất phát từ các giao dịch kinh doanh và ngân hàng tại Florence, Vencie and Genoa. Tuy nhiên, các tài khoản không thực sự thể hiện được bản chất nghiệp vụ giao dịch và hiếm khi cân đối. Tuy nhiên phải đến năm 1299 con người mới phát triển hệ thống thông tin tái chính gồm tất cả các yếu tố cấu thành của hệ thống kế toán kép và vào năm 1494 Luca Pacioli tác giả cuốn Summa hệ thống kế toán kép mới được miêu tả một cách cụ thể và rõ nét. Sau đó 377 năm Josial Wedwood là người đầu tiên hoàn thiện hệ thống kế toán giá thành. Hệ thống kế toán từ đó đã ngày càng được hoàn chỉnh hơn với việc hoàn thiện hệ thống kế toán giá thành hiện đại của Donaldson Brown- Giám đốc điều hành của General Motor. Hiện nay trên thế giới đã có một tổ chức riêng ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế. Tổ chức thiết lập chuẩn mực kế toán gồm tổ chức uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế(IASCF), Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế(IASB), Hội đồng cố vấn chuẩn mực( SAC), Hội đồng hướng dẫn báo cáo tài chính quốc tế(IFRIC). * IASCF có trách nhiệm giám sát, là tổ chức ban hành chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). SAC có trách nhiệm tư vấn các vấn đề kỹ thuật và lịch làm việc cho IASB. IFRIC dưới sự quản lý của IASB, có trách nhiệm ban hành các hướng dẫn báo cáo tài chính quốc tế. * IASCF gốm mười chín (19) uỷ thác viên gồm sáu (6) từ Bắc Mỹ, sáu (6) từ Châu Âu, bốn (4) từ Châu Á- Thái Bình Dương, và ba (3) từ bất kỳ khu vực nào khác miễn là sự cân bằng về khu vực địa lý được giũ vững. *IASB có 14 thành viên đến từ 9 quốc gia có trách nhiệm thiết lập các chuẩn mực kế toán. Các thành viên của IASB được lựa chọn theo tiêu chuẩn trình độ chuyên môn chứ không phải theo khu vực bầu cử hay quyền lợi khu vực. Các thành viên của IASB có nguồn gốc là các kiểm toán viên thực hànhbáo cáo tài chính, và từ hàn lâm. Bảy trong 14 thành viên có trách nhiệm trực tiếp liên hệ với một hay nhiều hơn các nhà thiết lập chuẩn mực quốc gia. Việc công bố một chuẩn mực, dự thảo, hay hướng dẫn cần được sự tán thành của 8 trên 14 thành viên. Hội đồng cố vấn chuẩn mực (SAC) bao gồm các nhóm cá nhân có các nguồn gốc chức năng và khu vực địa lý khác nhau nhằm cố vấn cho IASB và đôi khi cho các uỷ thác viên. * Các thành viên của IFRIC đến từ các khu vực địa lý rộng rãi, có trình độ giao dịch cao, đại diện của các kế toán viên trong các ngành nghề và người sử dụng các báo cáo tài chính. * Thêm vào đó, tất cả các thành viên của IASB có trách nhiệm liên hệ với các nhà thiết lập chuẩn mực quốc gia không có thành viên của IASB trong tổ chức lập quy của họ. Ngoài ra, nhiều quốc gia này cũng có mặt trong Hội đồng cố vấn chuẩn mực. * Như vậy trên thế giới hệ thống tài chính kế toán đã có được sự thống nhất cơ bản để các nước dựa vào đó xây dựng các chuẩn mực tài chính kế toán của mình. * Tại Việt Nam hệ thống tài chính kế toán đã phát triển qua ba giai đoạn chính: Trước những năm 1990: Đây là giai đoạn mà nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế bao cấp, các thành phần kinh tế chỉ có quốc doanh, tập thể và cá thể mà giữ thành phần chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh và không có các hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Do đặc điểm này mà hoạt động nghề nghiệp của các kế toán viên chủ yếu tuân thủ theo nội quy, quy định của Bộ Tài Chính – cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm quản lý tài sản XHCN. Từ năm 1991 đến năm 1994: Đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự xuất hiện của nền kinh tế nhiều thành phần đã tác động đến bản chất và đặc thù của nghề kế toán. Nhiều thuật ngữ trong lĩnh vực kế toán ra đời như khái niệm lãi, lỗ, lợi nhuận… mà đối với nhiều kế toán viên chỉ quen làm trong nền kinh tế bao cấp là khá trừu tượng và khó hiểu. Do thực tế khách quan thay đổi nên giai đoạn từ năm 1995 đến nay chính là thời gian mà hệ thống kế toán tài chính nước ta có những bước phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Đặc biệt là từ năm 1995 đến nay hệ thống kế toán tài chính nước ta đã hình thành và phát tiển lĩnh vực kế toán. Sự phát triển vượt bậc này được đánh dấu bởi sự ra đời của Luật kế toán Việt Nam do quốc hội khoa XI kỳ họp thứ 3 thông qua cũng như các chuẩn mực về kế toán tài chính riêng của Việt Nam đã được ban hành. Kế toán tài chính Việt Nam không còn phát triển một cách đơn lẻ tự phát nội bộ mà đã có hệ thống và liên kết thế giới. Đánh dấu bước phát triển quan trọng này vào năm 1996 Hội kế toán Việt Nam (VAA) ra đời và trở thành thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cũng như là thành viên của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Tính đến ngày 31/12/2006 ở Việt Nam đã có 120 công ty kiểm toán độc lập. II. Quan điểm về tiền lương ở Mĩ: 1. Khái niệm – ý nghĩa của tiền lương: Tiền lương là khoản thu nhập mà doanh nghiệp tạo điều kiện cho người lao động sinh sống, sinh hoạt, tái sản xuất và phát triển mọi mặt về vật chất và tinh thần trong đời sống gia đình và xã hội. Nếu gọi sức lao động là hàng hoá thì tiền lương chính là giá cả của hàng hoá sức lao động. Nói cách khác tiền lương chính là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về mức độ trả công đối với một công việc cụ thể được thực hiện trong những điều kiện làm việc nhất định. Mặt khác, tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm do lao động tạo ra. Tuỳ theo cơ chế quản lý mà tiền lương có thể được xác định là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá tành sản phẩm hay được xác định là một bộ phận của thu nhập, kết quả tài chính của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Các khoản trích theo lương hiện nay gồm: Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tể (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ). 1.1 Ý nghĩa của tiền lương: Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, tiền lương là một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Tiền lương là đòn bẩy kinh tế quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, có tác dụng động viên khuyến khích lao động tích cực làm việc nâng hiệu quả công tác. Đối với người lao động, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Đối với doanh nghiệp, tiền lương là một yếu tố sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá trị các loại sản phẩm, lao vụ và dịch vụ. Mặt khác, tiền lương là công cụ tác động đến công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó tiền lương mà người lao động nhận được một cách thoả đáng phù hợp với sức lao động mà họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất sẽ là động lực kích thích tinh thần làm việc làm tăng năng suất lao động, dẫn đến tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Với việc sử dụng hiệu quả sức lao động của người lao động sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí tiền lương trong tổng chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý tốt lao động và tiền lương là một trong những yêu cầu của công tác quản lý sản xuất kinh doanh,là nhân tố giúp cho doanh nghiệp hoàn thành sản xuất kinh doanh của mình. Tổ chức hạch toán tốt lao động tiền lương giúp cho việc quản lý lao động ở doanh nghiệp được thuận lợi, thúc đẩy người lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động, đồng thời tạo cơ sở cho việc tính và trả lương theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động. 2. Kế toán các khoản nợ liên quan đến tiền lương: Đối với kế toán Hoa Kỳ, ngoài tiền lương còn có thêm các khoản nợ liên quan đến bảng lương trong doanh nghiệp là: khoản bồi thường người làm thuê; khoản tiền lương giữ lại; các khoản trích tiền lương. a. Khoản bồi thường người làm thuê: Những doanh nghiệp sử dụng lao động phải có trách nhiệm với người làm thuê về tiền công và tiền lương của họ. Thuật ngữ tiền công có thời hạn là sự trả tiền phục vụ cho người làm thuê theo thời gian hoặc trả dựa trên tiền lương căn bản. Thuật ngữ tiền lương có thời hạn là sự bồi thường cho người làm thuê mà người đó được trả lương hàng tháng hoặc hàng năm. Nói chung những người làm thuê này là những nhà quản trị hoặc giám đốc ngoài mức lương căn bản theo quy định của đạo luật liên bang (hay còn gọi là luật tiền lương và luật giờ công) điều chỉnh trả tiền quá giờ cho người lao động. Ở Hoa Kỳ, ngoài quy định của đạo luật liên bang, từng tiểu bang sẽ có những đạo luật riêng, chẳng hạn, một số tiểu bang khi người lao động làm việc quá 40 giờ một tuần hoặc hơn 8 giờ một ngày thì phải trả tiền làm ngoài giờ cho người lao động. Trả tiền ngoài giờ phải ít nhất gấp 1,5 lần theo tiền lương làm việc bình thường. Nếu làm việc vào ngày thứ 7 hoặc chủ nhật hoặc vào những ngày nghỉ cũng có thể gọi là làm việc ngoài giờ và được trả lươg ngoài giờ, hoặc được thanh toán như là khoản tiền thưởng và khoản tiền thưởng được trả dưới sự thoả thuận riêng biệt giữa người sử dụng lao động và người lao động ngoài tiền lương được nhận. b. Nợ phải trả cho sự chiếm giữ lương của nhân viên: Giá trị thực trả cho nhân viên thì thông thường ít hơn mức lương họ kiếm được vì theo quy định của pháp luật người chủ doanh nghiệp giữ lại chút ít từ số tiền lương của nhân viên và gửi trực tiếp chúng tới cơ quan Chính Phủ nộp thuế thu nhập cho người lao động. Trong khoản nợ phải trả gồm có phúc lợi xã hội và thuế dành cho chăm sóc sức khoẻ của Chính Phủ, thuế thu nhập liên bang và thuế thu nhập tiểu bang. Hơn nữa sự chiếm giữ chút ít tiến đến lợi ích của nhân viên thường thì theo yêu cầu của họ. Những khoản này bao gồm tiền trợ cấp, tiền đóng BHYT, tiền đóng bảo hiểm nhân thọ, công đoàn thuế và đóng góp hội từ thiện. Không có lý do quan trọng cho sự chiếm giữ tiền lương của nhân viên, người chủ có trách nhiệm nộp tiền cho cơ quan, quỹ hoặc tổ chức thích hợp. Phúc lợi xã hội và khoản thuế chăm sóc sức khoẻ của Chính Phủ: với sự thông qua chương trình phúc lợi xã hội ở Mỹ vào năm 1930, chính quyền liên bang bắt đầu chịu trách nhiệm tình trạng hạnh phúc khoẻ mạnh người dân thường. Chương trình phúc lợi xảy ra trong trường hợp về hưu và trợ cấp tàn tật, trợ cấp người còn sống và thời kỳ nằm viện và những phúc lợi y tế khác. Một trong sự mở rộng chủ yếu của chương trình chuẩn bị đầy đủ thời kỳ nằm viện và BHYT cho những người trên 65 tuổi. Chương trình phúc lợi xã hội thì được tài trợ bởi thuế của nhân viên, người chủ và công nhân. Khoảng 90% người làm việc ở Mỹ chịu sự ảnh hưởng những điều khoản của chương trình. Đạo luật về đóng góp bảo hiểm liên bang (FICA) điều chỉnh thuế để nộp cho trương trình này. Năm 1992 tỷ lệ thuế phúc lợi xã hội là 6.20% và tỷ lệ thuế chăm sóc sức khoẻ của Chính Phủ là 1.45% cho mỗi người chủ và nhân viên. Những khoản thuế đó được nộp bởi cả nhân viên và người chủ trên tổng lương của nhân viên hoặc trên phần của cải của họ. Thuế phúc lợi xã hội có hiệu lực đầu tiên $ 55.500 được hưởng bởi nhân viên trong suốt một năm. Thuế chăm sóc sức khoẻ của Chính Phủ có hiệu lực đầu tiên $ 130.200 được hưởng bởi nhân viên trong suốt một năm. Kế hoạch làm việc tuỳ theo sự thay đổi bởi Quốc Hội Hoa Kỳ. Tỷ lệ thuế cho nhân viên và người chủ như nhau, người chủ khấu trừ tiền thuế của nhân viên từ tiền lương của họ và gửi tổng giá trị đó cùng với sự chiếm giữ khác của nhân viên như thuế phúc lợi xã hội và thuế chăm sóc sức khoẻ của Chính Phủ là kết hợp với thuế của người chủ để nộp cho Chính Phủ. Bởi vì sự tăng trưởng lạm phát và quyền lợi trong hệ thống phúc lợi xã hội, những điều khoản này là luật kiến định bởi Quốc Hội Hoa kỳ. Một vài sự chiếm giữ khác như trường hợp về hưu hoặc kế hoạch lương bổng được yêu cầu mỗi nhân viên. Những cái khác như sự chiếm giữ bảo hiểm hoặc kế hoạch tiết kiệm có thể được yêu cầu bởi nhân viên. Vì thế hệ thống bảng lương phải cung cấp và ghi nhận phần chiếm giữ riêng biệt của từng nhân viên. Người chủ có trách nhiệm giải thích tất cả sự chiếm giữ chiếm giữ và các khoản tiền gửi thích hợp. Lương và các khoản chiết khấu theo lương của từng người lao động được ghi nhận vào trong mỗi thời kỳ trả lương của sổ lương. Chi tiết về khoản thu nhập của từng người lao động trong tổng sổ lương sẽ được chuyển qua báo cáo ghi nhận thu nhập của từng người. Cột tổng cộng trong sổ lương sẽ được ghi vào sổ nhật ký chung để ghi nhận tổng số lương và các khoản phải thu chung. Thêm vào đó việc ghi vào sổ nhật ký chung là cần thiết để ghi nhận phần đóng góp của doanh nghiệp cho BHXH, BHYT và bảo hiểm thất nghiệp ở quốc gia và liên bang. III.Quan điểm về tiền lương ở Việt Nam: 1. Khái niệm tiền lương: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động mà người lao động đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và được thanh toán theo kết quả lao động cuối cùng. Tiền lương của người lao động được xác định theo hai cơ sở chủ yếu là số lượng và chất lượng lao động của mỗi người. Tiền lương hình thành có tính đến kết quả cá nhân,của tập thể và của xã hội, nó quan hệ trực tiếp đến việc thực hiện lợi ích của cá nhân người lao động. Qua mối quan hệ phụ thuộc này cho phép thấy được vai trò của tiền lương là công cụ tác động của công tác quản lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, vừa là một yếu tố chi phí cấu thành nên giá trị của các loại sản phẩm lao vụ, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, do đó các doanh nghiệp sử dụng hiệu quả sức lao động nhằm tiết kiệm chi phí, tăng tích luỹ cho đơn vị, tăng thu nhập cho người lao động. 2. Các khoản trích theo lương: Ngoài tiền lương, người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong các trường hợp đau ốm, thai sản, tai nạn lao động, khám chữa bệnh… 2.1 Bảo hiểm xã hội: Là khoản tiền mà người lao động được hưởng trong trường hợp nghỉ việc do đau ốm, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, khó khăn….Để được hưởng khoản trợ cấp này, người sử dụng lao động và người lao động trong quá trình tham gia sản xuất kinh doanh tại đơn vị phải đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định. Quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ 20% trên tổng số lương cấp bậc phải trả hàng tháng (15% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, 5% còn lại do người lao động đóng góp). 2.2 Bảo hiểm y tế: Là khoản tiền hàng tháng của người lao động và người sử dụng lao động đóng cho các cơ quan bảo hiểm xã hội để được đài thọ khi có nhu cầu khám bệnh và chữa bệnh. Quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ 3% trên tổng số tiền lương cấp bậc (trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, 1% còn lại do người lao động đóng góp). 2.3 Kinh phí công đoàn: Là khoản tiền để duy trì hoạt động các tổ chức công đoàn đơn vị và công đoàn cấp trên. Các tổ chức này hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi và nâng cao đời sống của người lao động. Quỹ này hình thành bằng cách trích 2% trên tổng số lương phải trả cho người lao động và được tính vào chi phí sản xuất kih doanh của đơn vị. Quỹ này do công đoàn cơ quan quản lý. IV. Nguyên tắc kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Việt Nam: Việc kế toán chính xác chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương có vị trí quan trọng, là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm và giá bán sản phẩm. Đồng thời, nó còn là căn cứ để xác định các khoản nghĩa vụ phải nộp cho Ngân sách, cho các cơ quan phúc lợi xã hội. Vì thế, để bảo đảm cung cấp thông tin kịp thời cho quản lý, đòi hỏi kế toán phải quán triệt các nguyên tắc sau: 1. Phải phân loại lao động hợp lý: Do lao động trong doanh nghiệp có nhiều loại khác nhau nên để thuận lợi cho việc quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại. Về mặt quản lý và hạch toán lao động thường được phân theo các tiêu thức sau: Phân loại lao động theo thời gian lao động: Toàn bộ lao động có thể chia thành lao động thường xuyên và lao động tạm thời. Phân loại lao động theo quan hệ với quá trình sản xuất: có thể phân lao động thành hai loại như sau: + Lao động trực tiếp sản xuất: là bộ phận công nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Gồm những người điều khiển thiết bị máy móc để sản xuất sản phẩm, những người phục vụ quá trình sản xuất. + Lao động gián tiếp sản xuất: là bộ phận lao động tham gia gián tiếp vào quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm nhân viên kĩ thuật, nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính. Phân theo chức năng của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh: toàn bộ lao động trong doanh nghiệp có thể chia làm ba loại: + Lao động thực hiện chức năng sản xuất, chế biến. + Lao động thực hiện chức năng bán hàng. + Lao động thực hiện chức năng quản lý. 2. Phân loại tiền lương một cách phù hợp: Do tiền lương có nhiều loại với tính chất khác nhau, chi trả cho các đối tượng khác nhau nên cần phân loại tiền lương theo tiêu thức phù hợp. Để thuận lợi cho công tác hạch toán nói riêng và công tác quản lý nói chung, xét về mặt hiệu quả, tiền lương được chia làm hai loại: Tiền lương chính: là bộ phận tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế có làm việc, gồm cả tiền lương cấp bậc, tiền thưởng và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương. Tiền lương phụ: là bộ phận tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế không làm việc nhưng được chế độ quy định như nghỉ phép, hội họp, học tập, lễ, tết, ngừng sản xuất. V. Các hình thức tiền lương ở Việt Nam: 1. Trả lương theo thời gian: 1.1 Khái niệm: Là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế. - Ưu điểm: rất đơn giản, dễ tính toán. - Nhược điểm: chưa chú ý đến chất lượng lao động, đồng thời chưa gắn với kết quả lao động cuối cùng, do đó không có khả năng kích thích người lao động tăng năng suất lao động. Hình thức này được áp dụng đối với những công việc chưa định mức được, công việc tự động hoá cao, đòi hỏi chất lượng cao. 1.2 Các loại tiền lương theo thời gian: - Tiền lương tháng: là tiền trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động. Công thức: Lương tháng = Mức lương cơ bản (540,000đ) x (Hệ số lương + Hệ số phụ cấp) Tiền lương tuần: là tiền lương trả cho một tuần làm việc. Tiền lương tuần = Tiền lương tháng x 12 tháng 52 tuần - Tiền lương ngày: là tiền lương trả cho một ngày làm việc: Tiền lương ngày = Tiền lương tháng 26 ngày Tiền lương giờ: là tiền lương trả cho một giờ làm việc. Tiền lương giờ = Tiền lương ngày 8 giờ 1.3 Các hình thức tiền lương theo thời gian: - Tiền lương theo thời gian giản đơn: căn cứ vào thời gian làm việc, mức lương cơ bản, các khoản phụ cấp để tính lương cho người lao động. - Tiền lương theo thời gian có thưởng: hình thức này nhằm kích thích ngời lao động tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và chú ý đến khối lượng công việc được giao. Đây là hình thức tiền lương theo thời gian kết hợp với tiền thưởng. Tiền lương theo thời gian có thưởng được chia làm hai bộ phận rã rệt: Lương theo thời gian giản đơn gồm lương cơ bản và phụ cấp theo chế độ khi hoàn thành công việc và đạt yêu cầu về chất lượng. Thưởng là khoản chi trả cho người lao động khi họ vượt mức hoặc giảm tỉ lệ phế phẩm hay hoàn thành xuất sắc công việc được giao. 1.3.1 Trả lương khi làm thêm giờ: ( Khoản 1, 2 Điều 8 của Nghị Định số 197/CP ) Áp dụng cho mọi đối tượng, trừ những người làm việc theo sản phẩm, theo định mức, lương khoán hoặc trả lương theo thời gian làm việc không ổn định như: làm việc trên các phương tiện vận tải đờng bộ (kể cả lái xe con), đường sông, đường biển và đường hàng không, thu mua hải sản, nông sản, thực phẩm… + Khi làm việc thêm giờ vào ngày bình thường: Tltg = tiền lương giờ x Số giờ làm thêm x 150% + Khi làm thêm giờ vào ngày nghỉ hoặc ngày lễ: Tltg = tiền lương giờ x Số giờ làm thêm x 200% Nếu có nghỉ bù giờ làm thêm, người sử dụng lao động chỉ phải trả phần chênh lệch bằng: 50% tiền lơng giờ của ngày làm việc bình thường nếu làm thêm giờ vào ngày bình thường. 100% tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường, nếu làm thêm giờ vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ. 1.3.2 Trả lương làm việc ban đêm: (Theo Khoản 3, Điều 8 của Nghị Định số 197/CP ) Tiền lương trả thêm = Tiền lương giờ x Số giờ làm việc x Ít nhất 30% hoặc 35% Tiền lương giờ: Theo Khoản 1 Điều 5, Nghị Định số 197/CP 35%: mức ít nhất bằng 35% áp dụng cho trường hợp làm việc liên tục vào ban đêm từ 8 ngày trở lên trong 1 tháng, không phân biệt hình thức trả lương. 30%: mức ít nhất bằng 30%, áp dụng cho các trường hợp làm việc vào ban đêm còn lại, không phân biệt hình thức trả lương. 2. Trả lương theo sản phẩm: 2.1 Khái niệm: Là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm làm ra. Hình thức này thể hiện thù lao lao động được chi trả cho người lao động dựa vào đơn giá và sản lượng thực tế mà người lao động hoàn thành và đạt được yêu cầu chất lượng đã quy định sẵn. L = Qi x Đg Công thức: Trong đó: L là lương thực tế trong tháng. Qi là số lượng sản phẩm mà công ty i đạt được. Đg là đơn giá sản phẩm. Việc trả lương theo sản phẩm phải đảm bảo các điều kiện sau: Phải xác định và giao định mức một cách chính xác cho người lao động. Tuỳ theo thực tế mỗi xí nghiệp sẽ áp dụng đơn giá sản phẩm khác nhau. Tổ chức nghiệm thu và thống kê sản phẩm kịp thời, chính xác, kiên quyết loại bỏ những sản phẩm không đạt chất lượng trong khi tính lương. Phải đảm bảo công bằng tức là những công việc giống nhau, yêu cầu chất lượng giống nhau thì đơn giá và định mức sản phẩm phải thống nhất ở bất kì phân xưởng nào, ca làm việc nào. Ưu điểm của hình thức trả lương này là gắn thu nhập của người lao động với kết quả họ làm ra, do đó khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động. 2.2 Các hình thức tiền lương theo sản phẩm: - Tiền lương sản phẩm trực tiếp: hình thức này được áp dụng đối với những công nhân trực tiếp sản xuất, công việc của họ có tính chất độc lập, có thể định mức, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể, riêng biệt. Theo hình thức này, tiền lương phải trả cho người lao động được tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm hoàn thành đúng quy cách, phẩm chất và đơn giá sản phẩm đã được quy định. Công thức: Li = Qi x Đg Trong đó: Li là tiền lương thực tế của công nhân i lãnh trong tháng. Qi là số lượng sản phẩm sản xuất trong tháng của công nhân i. Đg là đơn giá sản phẩm. Đs là định mức sản lượng. Đg = Mức lương tháng theo tay nghề x (100+k ) Đs x 100 x 26 Đs = Tổng thời gian làm việc ( ca hay ngày ) Thời gian tạo ra một sản phẩm - Tiền lương sản phẩm gián tiếp: hình thức này được áp dụng để trả lương cho công nhân phụ, làm những công việc phục vụ cho công nhân chính như sửa chữa trong các phân xưởng, bảo dưỡng máy móc… Công thức: Lspgt = Số lượng thực tế do cntt sản xuất mà công nhân này phục vụ x Đơn giá lương gián tiếp Đơn giá lương gián tiếp = Mức ông nhân chính (100 + k ) N x đs x 26 x 100 Trong đó: Lspgt: lương sản phẩm của công nhân gián tiếp. K: tổng các khoản phụ cấp ngoài lương. N: số công nhân phục vụ. Đs: định mức sản lượng của một công nhân trực tiếp. 26: số ngày làm việc bình quân trong tháng. - Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến: đây là hình thức trả lương theo sản phẩm kết hợp với hình thức tiền thưởng khi nhân viên có số lượng sản phẩm thực hiện trên định mức quy định. Hình thức này áp dụng các đơn giá khác nhau: Đối với những sản phẩm thuộc định mức: áp dụng đơn giá sản phẩm được xây dựng ban đầu. Đối với những sản phẩm vượt định mức: áp dụng đơn giá cao hơn đơn giá ban đầu. - Trả lương khi làm thêm giờ: sau khi hoàn thành định mức số lượng, chất lượng sản phẩm tính theo giờ chuẩn ( giờ tiêu chuẩn theo quy định tại điều 3,Nghị Định số 195/CP, ngày 31/12/1994 của Chính Phủ ). Nếu người sử dụng lao động có yêu cầu làm thêm ngoài định mức giờ tiêu chuẩn, được tăng thêm: + 50% nếu sản phẩm được làm thêm vào ngày thường. + 100% nếu sản phẩm được làm thêm vào ngày nghỉ hàng tuần, vào ngày lễ. - Trả lương làm việc ban đêm: áp dụng đối với người lao động được trả lương theo sản phẩm, lương khoán nếu làm việc vào ban đêm. Đơn giá tiền lương được tăng thêm ít nhất 30% hoặc 35% so với giá tiền lương làm việc ban ngày. 3. Trả lương khoán: Đây là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc phải hoàn thành. VI. Tiền thưởng – Phúc lợi - Phụ cấp ở Việt Nam: Hiện nay, các chế độ về tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, phúc lợi được Nhà Nước rất chú trọng và thanh toán một cách rõ ràng, cụ thể như sau: 1. Tiền thưởng: Doanh nghiệp thực hiện việc trích thưởng từ lợi nhuận còn lại ( sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ với Nhà Nước) để thưởng cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp từ một năm trở lên. Tiền thưởng là một loại kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đến người lao động trong việc phấn đấu thực hiện công việc tốt hơn. Có các hình thức sau: Thưởng năng suất, chất lượng: Áp dụng khi người lao động thực hiện tốt hơn mức độ trung bình về số lượng, chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ. Thưởng tiết kiệm: Áp dụng khi người lao động sử dụng tiết kiệm các loại vật tư, nguyên liệu, có tác dụng giảm giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng theo yêu cầu. Thưởng sáng kiến: Áp dụng khi người lao động có sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, tìm ra các phương pháp mới có tác dụng làm nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Thưởng theo kết quả hoạt động kinh doanh chung của doanh nghiệp: Áp dụng khi doanh nghiệp làm ăn có lãi, người lao động trong doanh nghiệp sẽ được chia một phần tiền lời dưới dạng tiền thưởng. Hình thức này được áp dụng vào cuối quý, sau nửa năm hoặc cuối năm tuỳ theo cách thức tổng kết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thưởng tìm được nơi cung ứng, tiêu thụ, kí kết được hợp đồng mới: Áp dụng cho các nhân viên tìm thêm được địa chỉ tiêu thụ mới, giới thiệu khách hàng, ký kết thêm được hợp đồng cho doanh nghiệp hoặc có các hoạt động khác có tác dụng làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Thưởng đảm bảo ngày công: Áp dụng khi người lao động làm việc với số ngày công vượt mức quy định của doanh nghiệp. Thưởng về lòng trung thành, tận tâm với doanh nghiệp: Áp dụng khi người lao động có thời gian phục vụ trong doanh nghiệp vượt qu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30295.doc
Tài liệu liên quan