Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp muốn đảm bảo có lợi nhuận và phát triển lợi nhuận từ đó nâng cao lợi ích của người lao động thì các doanh nghiệp cần phải tìm mọi cách tiết kiệm chi phí trong quá trình kinh doanh. Chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm đóng vai trò then chốt trong vấn đề thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Dưới nề
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế toán tiền lương & các khoản trích theo lương tại Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế thị trường, sức lao động trở thành hàng hoá, nó nhận được một giá trị nhất định biểu hiện bằng tiền lương (tiền công) - Là thù lao trả cho người lao động để bù đắp và tái sản xuất sức lao động. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động do đó họ đòi hỏi một mức tiền lương xứng đáng với sức lao động họ đã bỏ ra và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ. Vì vậy đối với mỗi doanh nghiệp, lựa chọn hình thức trả lương nào cho hợp lý để thoả mãn lợi ích người lao động và trở thành đòn bẩy kinh tế, khuyến khích tăng năng suất lao động là một vấn đề quan trọng. Việc hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương khoa học; tính đúng, tính đủ tiền lương đảm bảo quyền lợi vật chất cho người lao động, mặt khác đảm bảo cho công tác thanh tra, kiểm tra được dễ dàng.
Gắn chặt với tiền lương là các khoản trích theo lương gồm bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ). Đây là quỹ xã hội thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đến từng thành viên. Các chế độ, chính sách về tiền lương và các khoản trích theo lương đã được nhà nước ban hành song nó được vận dụng linh hoạt ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh và phụ thuộc vào tính chất công việc.
Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức là một doanh nghiệp Nhà nước với nhiệm vụ chính là quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trong huyện Mỹ Đức đảm bảo tưới tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp đã và đang có những cố gắng trong công tác tổ chức hạch toán lao động - tiền lương.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, với sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô, chú trong Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức, đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo cặn kẽ của thầy giáo TS Nguyễn Viết Tiến đã giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp với đề tài:
“Hoàn thiện kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây ".
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây.
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp
1.1/ Khái quát chung về tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.1.1) Nội dung bản chất của tiền lương.
Con người là yếu tố quan trọng nhất, lao động là hoạt động chân tay và trí óc của con người nhằm tác động, biến đổi vật tự nhiên thành các vật phẩm đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt của con người. Trong mọi chế độ xã hội, việc sáng tạo ra của cải vật chất đều không tách rời lao động. Lao động là điều kiện đầu tiên cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người là yếu tố cơ bản nhất quyết định nhất trong quá trình sản xuất. Để cho quá trình tái sản xuất xã hội nói chung và quá trình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp nói riêng được diễn ra thường xuyên liên tục thì một vấn đề thiết yếu là phải tái sản xuất sức lao động. Vì vậy, khi họ tham gia lao động sản xuất ở các doanh nghiệp thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải trả thù lao lao động cho họ. Trong nền kinh tế hàng hoá, thù lao lao động được biểu hiện bằng thước đo giá trị gọi là tiền lương.
Tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo chức năng nghiệp vụ quy định. Tiền lương là cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động. Hai đối tượng trên chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, trong quy luật cung cầu và quy luật giá trị giữ vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó Nhà nước cũng tham gia một cách gián tiếp vào việc trả lương cho người lao động trong các lao động sản xuất, mỗi chế độ chính trị và các mức lương cụ thể đều do Nhà nước thống nhất ban hành để đảm bảo cho người lao động có nguồn thu nhập tối thiểu để họ thoả mãn nhu cầu tối thiểu như: ăn, ở, sinh hoạt, đi lại ở mức cần thiết.
Qua khái niệm và bản chất tiền lương như trên đã khắc phục được quan điểm cho rằng: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của sức lao động, là giá cả của sức lao động biểu hiện ra ngoài giá cả của lao động (trong xã hội TBCN). Hay có quan điểm cho rằng: Tiền lương là một phần thu nhập quốc dân và một phần tiêu dùng để phân phối cho người lao động. Chúng ta cũng đừng lầm tưởng rằng cứ có chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, nền kinh tế XHCN không thể là nền kinh tế thị trường hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung theo quan niệm chưa hoàn chỉnh của một số người.
Do vậy khi hiểu đúng bản chất của tiền lương thì ta có cơ sở để giúp Nhà nước ban hành được các chính sách về tiền lương mới đúng đắn, các doanh nghiệp lựa chọn được các phương thức trả lương phù hợp.
Tiền lương trả cho người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh hiện nay phần lớn dựa vào các yếu tố sau:
Khả năng đáp ứng của người lao động đối với công việc của doanh nghiệp.
Yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp.
Căn cứ vào mức lương tối thiểu của từng ngành, từng địa phương.
Các chế độ khác về tiền lương như các khoản phụ cấp, trợ cấp theo lương.
1.1.2) Chức năng của tiền lương
1.1.2.1, Chức năng thước đo giá trị.
Biểu hiện giá cả sức lao động, là cơ sở điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi giá cả biến động (bao gồm giá cả sức lao động).
1.1.2.2, Chức năng tái sản xuất lao động.
Đây là yêu cầu tối thiểu của tiền lương đúng theo nghĩa của nó. Tiền lương trước hết phải đảm bảo tái sản xuất tức là phải nuôi sống người lao động để duy trì sức, năng lực làm việc lâu dài, có hiệu quả trên cơ sở tiền lương đảm bảo bù đắp hao phí sức lao động đã bị hao phí trong quá trình sản xuất. Để tái sản xuất sức lao động tiền lương phải được tính toán đầy đủ trên ba mặt:
Duy trì và phát triển sức lao động của chính bản thân người lao động.
Sản xuất ra sức lao động mới.
Tích luỹ kinh nghiệm, hoàn thành kỹ năng lao động, nâng cao trình độ tay nghề, tăng cường chất lượng lao động.
1.1.2.3, Chức năng kích thích lao động.
Chính sách tiền lương là những đảm bảo có tính pháp lý của Nhà nước buộc người sử dụng lao động phải trả theo công việc đã hoàn thành của người lao động, đảm bảo quyền lợi tối thiểu mà họ được hưởng. Từ đó mới phát huy được chức năng kích thích sức lao động, căn cứ vào yêu cầu cơ bản này thông qua thực tiễn tình hình kinh tế xã hội mà Nhà nước định ra chế độ tiền lương phù hợp như một văn bản bắt buộc đối với người sử dụng lao động. Các cơ sở sản xuất kinh doanh lấy một phần thu nhập do kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình để trả lương. Người lao động hưởng lương được giới hạn mức lương giữa mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định và kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị, chính điều này có tác dụng buộc người lao động tự giác tiết kiệm lao động cũng như các chi phí khác trong quá trình sản xuất sản phẩm.
1.1.2.4, Chức năng điều tiết lao động.
Thông qua hệ thống bậc lương, thang lương và các chế độ phụ cấp theo lương được xác định cho từng vùng, từng ngành nghề nhất định, với mức tiền
lương đúng đắn và thoả mãn người công nhân tự giác hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiền lương chính là yếu tố tạo động lực trong sản xuất là công cụ điều tiết lao động giữa các vùng, các ngành trên toàn lãnh thổ tạo ra cơ cấu lao động hợp lý. Đó là điều kiện cơ bản để Nhà nước thực hiện kế hoạch phát triển cân đối giữa ngành và lãnh thổ.
1.1.3) Nguyên tắc trả lương trong doanh nghiệp.
Trả lương cho người lao động một mặt đem lại hiệu quả kinh tế cao, thể hiện năng suất lao động không ngừng được tăng lên, sử dụng lao động có hiệu quả nhất, phân phối lao động hợp lý giữa các ngành, các vùng, các đơn vị và các bộ phận của từng cấp quản lý bảo đảm khuyến khích người lao động. Mặt khác trả lương phải tuân thủ quy luật phân phối theo lao động có tính đến các yếu tố nhu cầu sức lao động được thoả thuận giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Bởi thế yêu cầu của vấn đề này phải tuân theo các nguyên tắc sau:
* Trả lương ngang nhau cho những người lao động ngang nhau:
Lao động như nhau là lao động của những người có cùng mức lương, chất lượng lao động. Trong doanh nghiệp phải vận dụng quy luật phân phối theo lao động, việc trả lương không phân biệt giới tính hoặc tuổi tác, tôn giáo.... phải đảm bảo trả lương công bằng cho người lao động giúp họ tích cực phấn đấu và yên tâm công tác, xây dựng doanh nghiệp ngày càng phát triển.
* Đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.
Do tiền lương là bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm và giá cả hàng hoá trong doanh nghiệp cho nên việc trả lương phải căn cứ vào năng suất lao động, gắn chặt tiền lương với năng suất lao động. Ngoài yếu tố tiền lương còn có các yếu tố về công nghệ, khoa học kỹ thuật, lao động, điều kiện làm việc... Do đó tiền lương phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển, không ngừng cải tiến khoa học kỹ thuật trong sản xuất.
Tiền lương bình quân chỉ tăng lên trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ tay nghề, giảm bớt thời gian lao động kém hiệu quả... nếu nguyên tắc này bị vi phạm thì sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản doanh nghiệp.
Các nguyên tắc trên phải đảm bảo đúng với những quy định đã ghi trong điều 55 của Bộ luật lao động.
Mức lương được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Mức lương trong hợp đồng phải lớn hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Người lao động phải được hưởng theo năng suất lao động, chất lượng và kết quả công việc. Tuy nhiên, cái mà người lao động yêu cầu không phải là một khối lượng yêu cầu tiền lương lớn mà thực chất họ quan tâm tới khối lượng tư liệu sinh hoạt mà họ nhận được thông qua tiền lương.
* Để đáp ứng vấn đề trên ta tìm hiểu xem về tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế như thế nào?
Tiền lương danh nghĩa:
Là khối lượng tiền trả cho người lao động dưới hình thức tiền tệ. Đó là số tiền thực tế người lao động nhận được, tuy vậy cùng với một số tiền như nhau, người lao động sẽ mua được khối lượng hàng hoá, dịch vụ khác nhau ở các thời điểm, các vùng khác nhau do sự biến đổi thường xuyên của giá cả.
Tiền lương thực tế:
Được sử dụng để xác định số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà người lao động nhận được thông qua tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương thực tế phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản:
Một là: Tổng tiền nhận được (Tiền lương danh nghĩa)
Hai là: Chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ.
Như vậy tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có mối quan hệ khăng khít với nhau. Mối quan hệ đó được biểu hiện qua công thức:
Wm
Wr =
CPI
Trong đó: Wr: Tiền lương thực tế
Wm: Tiền lương danh nghĩa
CPI: Chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ.
Khi chỉ số tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn chỉ số giá cả điều đó có nghĩa là thu nhập thực tế của người lao động tăng lên khi tiền lương không đảm bảo được đời sống của cán bộ CNV, khi đó tiền lương không hoàn thành chức năng quan trọng nhất của nó là tái sản xuất sức lao động. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải luôn quan tâm tới tiền lương thực tế, nhưng quyền quyết định lại từ phía người lao động, bởi vì nhà sản xuất trả lương cho công nhân dựa trên số lượng và chất lượng lao động của họ. Số lượng và chất lượng là hai mặt của một thể thống nhất trong mối liên quan chặt chẽ với nhau.
Số lượng lao động: Thể hiện mức hao phí thời gian dùng để sản xuất ra sản phẩm.
Chất lượng lao động: Thể hiện trình độ tay nghề của người công nhân.
Vì vậy, việc xác định số lượng, chất lượng lao động sẽ có quyết định đúng đắn về tiền lương trả cho mọi công việc.
Tóm lại, tiền lương có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thấy hết tác dụng của nó thì chúng ta phải nhận thức đúng, đầy đủ về tiền lương, lựa chọn hình thức trả lương thích hợp khi có người lao động mới hăng hái, sáng tạo đưa chất lượng lao động lên cao. Nhưng để người lao động thực sự yên tâm làm việc thì cần có một đảm bảo khác trong
những trường hợp người lao động gặp khó khăn, rủi ro, mất khả năng lao động, trong thời gian nghỉ thai sản, ốm đau... thì cần có chế độ Bảo hiểm xã hội.
1.1.4) Các khoản trích theo lương.
1.1.4.1, Bảo hiểm xã hội (BHXH).
BHXH là khoản trợ cấp bảo đảm quyền lợi vật chất cho người lao động khi họ gặp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản... không thể làm việc được góp phần ổn định đời sống cho người lao động trên cơ sở đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động với sự bảo hộ của Nhà nước.
Còn theo khái niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (TLO) thì: BHXH được biểu hiện là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng trệ hoặc bị giảm về thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, mất khả năng lao động... thêm vào đó BHXH bảo vệ việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khó khăn.
Về đối tượng: Trước đây BHXH chỉ được áp dụng đối với người lao động ở khu vực Nhà nước, nay theo quy định 45-CP chính sách BHXH được áp dụng đối với:
+ Mọi thành viên trong xã hội: Chủ yếu là người nghèo, người có thu nhập thấp, người tàn tật... được Nhà nước bảo trợ.
+ Đối với tất cả cán bộ CNV làm việc trong các thành phần kinh tế. Đây là đối tượng bắt buộc.
+ Đối với những người có thu nhập cao hoặc có điều kiện tham gia bảo hiểm để được hưởng mức trợ cấp BHXH cao hơn.
Đồng thời chính sách BHXH còn quy định nghĩa vụ đóng góp này góp phần tạo nên quỹ được gọi là quỹ BHXH. Quỹ này được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và một phần hỗ trợ của Nhà nước. Việc quản lý và sử dụng quỹ BHXH theo nguyên tắc hạch toán độc lập nhưng được Nhà nước bảo hộ.
Như vậy, BHXH là khoản thu nhập chủ yếu của người lao động được nhận sau một quá trình lao động từ hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đó, việc trả lương không chỉ căn cứ vào hợp đồng lao động mà còn căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài tiền lương trả cho người lao động nếu đơn vị hoạt động có hiệu quả, thu lãi nhiều thì phần này tiếp tục được phân phối cho người lao động trên cơ sở đóng góp lao động của từng người (gọi là tiền thưởng).
* Cách tính và phạm vi sử dụng quỹ BHXH.
Theo quy định hiện hành của Nhà nước, quyết định số 1141 TC/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ trưởng bộ tài chính: Các DN quốc doanh được phép tính 25% tổng quỹ lương của đơn vị để lập quỹ bảo hiểm và kinh phí công đoàn trong đó: 20% là quỹ bảo hiểm xã hội (15% tính vào chi phí sản xuất, 5% trừ vào thu nhập của công nhân viên, người lao động)
* Trợ cấp bhxh là một phần trong thu nhập của người lao động trong các trường hợp sau:
Chế độ bảo hiểm khi ốm đau:
Khi cán bộ CNV ốm đau tạm nghỉ để chữa bệnh được hưởng một khoản trợ cấp, số ngày được nghỉ tuỳ thuộc vào số năm đóng bhxh cụ thể là:
+ 30 ngày trong một năm, nếu đã đóng bhxh dưới 15 năm.
+ 40 ngày trong một năm, nếu đã đóng góp bảo hiểm từ 15 năm đến dưới 30 năm.
+ 50 ngày trong một năm, nếu đã đóng bảo hiểm từ 30 năm trở lên và được hưởng theo tỷ lệ 75% tiền lương.
Thủ tục thanh toán trợ cấp ốm đau do bác sỹ chứng nhận: ghi rõ tổng số ngày nghỉ và chữ ký của bác sỹ và dấu của bệnh viện đến khám hoặc điều trị.
Công thức tính bhxh:
Tiền lương làm căn cứ đóng bhxh
của tháng trước khi ốm
Mức trợ cấp = x 75%
1 ngày 22 ngày
Chế độ bhxh khi cán bộ CNV có thai, nghỉ đẻ.
Thời gian để khám thai được hưởng lương bình thường. Nếu sau khi khám được thầy thuốc đề nghị cho nghỉ để điều trị thì thời gian này được đãi ngộ chế độ ốm đau, thời gian nghỉ đẻ được quy định cho từng loại lao động:
+ Nghỉ 4 tháng đối với người lao động ở điều kiện bình thường.
+ Nghỉ 5 tháng đối với người lao động ở điều kiện nặng nhọc khó khăn.
Công thức tính bhxh:
Tổng số tiền lương làm căn cứ tính bhxh
của tháng trước khi nghỉ đẻ
Mức trợ cấp = x 100% ngày nghỉ
khi nghỉ 22 ngày
Ngoài ra, sản phụ còn được hưởng tiền bồi dưỡng bằng một tháng lương làm căn cứ đóng bảo hiểm trước khi nghỉ đẻ.
Chế độ bhxh về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Chế độ trợ cấp bảo đảm quyền lợi cho người lao động khi họ gặp rủi ro, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với người lao động trong các doanh nghiệp, giúp người lao động yên tâm điều trị để tiếp tục công tác. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, điều kiện cụ thể hay mức độ mắc bệnh nghề nghiệp mà họ được hưởng trợ cấp hay không. Trong thời gian điều trị mức độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bằng 100% lương tối thiểu (Lương tối thiểu hiện nay là: 290.000 đồng).
Chế độ hưu trí:
Chế độ này áp dụng đối với CNV đã và đang làm việc tại các doanh nghiệp trong thời gian nhất định thường thì nam đủ 60 tuổi và nữ đủ 55 tuổi và thời gian đóng bhxh từ 15 năm trở lên. Đối với người vừa đóng bhxh theo các mức tiền lương tháng trong các hệ thống bậc lương, tháng lương do Nhà nước quy định thì được tính như sau:
Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bhxh
của 5 năm cuối trước khi nghỉ
Mức bình quân của tiền lương =
để tính lương hưu 60 tháng
Ngoài ra trường hợp cụ thể cách tính lương hưu cho các đối tượng Nhà nước có những văn bản hướng dẫn rõ ràng để các cấp, các ngành thực hiện.
1.1.4.2, Kinh phí công đoàn (KPCĐ).
Là nguồn bù đắp chi phí hoạt động của công đoàn. KPCĐ được hình thành bằng cách trích theo tiền lương phải trả cho cán bộ CNV theo một tỷ lệ nhất định.
KPCĐ khi trích được phải nộp một phần cho công đoàn cấp trên. Theo quyết định số 1141TC/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ trưởng bộ tài chính: Trong số 25% tính từ tổng quỹ lương của đơn vị để lập quỹ bảo hiểm thì có 2% chi cho KPCĐ (tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp) trong đó 1% nộp lên công đoàn cấp trên còn lại 1% cho công đoàn doanh nghiệp.
1.1.4.3, Quỹ bảo hiểm y tế (bhyt).
Là quỹ đài thọ cho cán bộ CNV trong việc khám chữa bệnh, quỹ bhyT hình thành bằng cách trích tỷ lệ tiền lương nhất định.
Theo quyết định số 1141 TC/CĐKT ngày 01/11/1995 của bộ trưởng bộ Tài chính: Các doanh nghiệp quốc doanh được phép tính 25% trong tổng quỹ lương của đơn vị để lập quỹ bảo hiểm và KPCĐ. Trong đó có 3% quỹ bhyt gồm: 2% tính vào chi phí sản xuất và 1% trừ vào thu nhập của người lao động.
Như vậy toàn bộ số tiền bằng 25% tổng quỹ lương của doanh nghiệp để lập quỹ bảo hiểm và KPCĐ thì người sử dụng lao động đóng 19% còn người tham gia bảo hiểm và người lao động đóng 6% tổng quỹ lương của họ.
Sự đóng góp của người lao động thể hiện trên hai mặt:
Một là: Việc đóng góp có tính chất dự phòng, tính luỹ để khi gặp khó khăn còn sử dụng.
Hai là: Việc đóng góp này có tính tương trợ cộng đồng cho nên nó vừa là trách nhiệm nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của người lao động và xã hội.
1.1.5) Các khoản thu nhập khác.
1.1.5.1, Khái quát về chế độ tiền thưởng.
Để bổ sung cho tiền lương nhằm quán triệt hơn nữa nguyên tắc phân phối theo lao động, trả đúng giá trị sức lao động cho các doanh nghiệp để áp dụng nhiều hình thức tiền thưởng khác nhau căn cứ vào giá trị làm lợi của người lao động, từ đó Giám đốc xí nghiệp quyết định tỷ lệ và số lượng tiền thưởng cho phù hợp. Cụ thể những hình thức được áp dụng phổ biến như :
* Thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thưởng giảm tỷ lệ làm hỏng: Cho những người lao động hoàn thành hoặc giảm tỷ lệ hàng hỏng so với mức quy định. Mức và nguồn tiền thưởng trích tối đa không quá 50% số tiền tiết kiệm được để thưởng cho tổ chức, cá nhân có thành tích nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thưởng nâng cao tỷ lệ hàng có chất lượng cao (loại 1): Chỉ tiêu xét thưởng là hoàn thành và hoàn thành vượt mức sản phẩm loại 1 trong một thời gian nhất định. Mức nguồn và mức tiền thưởng dựa vào chênh lệch giữa sản phẩm các loại đạt tỷ lệ sản phẩm từng loại mặt hàng đã quy định. Mức trích tiền thưởng có thể đạt tối đa là 50% của giá trị chênh lệch đó.
* Thưởng thường xuyên từ quỹ lương:
Chỉ tiêu xét thưởng: Hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của cả công nhân trực tiếp sản xuất và công nhân gián tiếp sản xuất.
Nguồn và mức thưởng: Dựa vào tỷ lệ trích lập tiền thưởng trong quỹ lương là 10% lương cấp bậc tháng (không vượt quá 10%) đối với công nhân được trích thưởng hàng tháng nếu hoàn thành vượt mức nhiệm vụ sẽ được thưởng thêm nhưng không quá 30% lương cấp bậc tháng. Những công nhân làm sản phẩm cũng được thưởng nhưng định mức lao động phải được cơ quan quản lý cấp trên xét duyệt.
* Thưởng tiết kiệm nguyên vật liệu:
Chỉ tiêu xét thưởng: Hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu về tiết kiệm vật tư nhưng phải đảm bảo quy phạm kỷ luật, chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, an toàn lao động. Theo nguyên tắc trích từ 30% đến 40% giá trị vật tư tiết kiệm được, đối với loại vật tư thông thường mức thưởng cao nhất không quá 40% lương cấp bậc.
* Thưởng đột xuất:
Phần thưởng này không nằm trong kế hoạch khen thưởng của xí nghiệp, nó được áp dụng một cách linh hoạt trong các trường hợp như: Thưởng cho các phát minh, sáng kiến, thưởng cho người lao động khi họ hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao... Thưởng dưới hình thức này sẽ làm cho người lao động thấy mình được quan tâm đồng thời đây cũng là động lực thúc đẩy hăng say lao động.
* Thưởng của hãng:
Hình thức này được áp dụng trong trường hợp mà lợi nhuận của hãng tăng lên, lúc đó hãng quyết định trích ra tỷ lệ nhất định để thưởng cho người lao động. Thông thường thưởng của hãng bao gồm:
Trích một phần để thưởng tính đồng đều cho người lao động.
Phần còn lại sẽ thưởng tuỳ theo mức độ đóng góp của từng người.
Trên đây là những hình thức tiền thưởng đang được áp dụng phổ biến ở nước ta. Ngoài ra chúng ta đã và đang thực hiện thêm một hình thức tiền thưởng nữa là: Thưởng cho sản xuất hàng xuất khẩu. Biện pháp này nhằm khuyến khích các địa phương, các ngành, các xí nghiệp và người sản xuất hàng hoá tham gia thực hiện một trong ba chương trình kinh tế lớn của Đảng.
1.1.5.2, Khái quát về phụ cấp ca ba và phụ cấp độc hại.
Phụ cấp ca ba là khoản áp dụng đối với những người lao động làm đêm hoặc làm thêm giờ tại các doanh nghiệp. Dựa vào các phiếu báo làm thêm giờ mà kế toán làm căn cứ tính phụ cấp cho các đối tượng lao động được hưởng. Theo chế độ hiện hành phụ cấp làm đêm áp dụng đối với người lao động làm từ 22h hôm trước đến 6h hôm sau. Phụ cấp gồm hai mức:
+ 30% lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công việc không làm thường xuyên ban đêm.
+ 40% lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với người lao động thường xuyên làm việc theo ca hoặc chuyên làm về đêm.
Đối với phụ cấp làm thêm giờ: Khi làm việc ngoài giờ tiêu chuẩn thì giờ làm thêm được trả bằng 15% tiền lương giờ tiêu chuẩn nếu làm thêm vào ngày thường, hưởng 20% nếu làm thêm vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ.
Phụ cấp độc hại: Là khoản phụ cấp áp dụng đối với những người lao động làm việc trong các công việc nguy hiểm, có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người lao động như: Tại các mỏ khai thác than, nhà máy hoá chất... Tuỳ vào tính
chất từng công việc và cấp bậc chức vụ mà người lao động được hưởng mức phụ cấp khác nhau.
1.2/ Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp.
hình thức trả lương theo thời gian và theo sản phẩm là hai hình thức được áp dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp hiện nay, nó được kết hợp hoặc không kết hợp trong việc trả lương sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất cuả từng doanh nghiệp, đặc biệt tạo ra sự cân bằng trong phân phối thu nhập.
Hình thức trả lương theo thời gian.
Đây là hình thức trả lương căn cứ vào thời gian lao động, vào lương cấp bậc để tính cho công nhân. Hình thức áp dụng này chủ yếu cho các cán bộ CNV quản lý, y tế, giáo dục, sản xuất trên dây truyền tự động, trong đó có hai loại:
Trả lương theo thời gian giản đơn: Đây là số tiền trả cho người lao động căn cứ vào bậc lương và thời gian thực tế làm việc không xét đến thái độ lao động và kết quả công việc. Chế độ trả lương này chỉ áp dụng cho người lao động mà không thể định mức và tính toán chặt chẽ hoặc công việc của người lao động chỉ đòi hỏi đảm bảo chất lượng sản phẩm mà không đòi tăng năng suất lao động.
+ Lương tháng: áp dụng đối với cán bộ cnv làm bộ phận gián tiếp.
Mức lương = Lương cơ bản + Phụ cấp (nếu có)
+ Lương ngày: Đối tượng áp dụng như lương tháng, khuyến khích người lao động đi làm đều.
Lương cơ bản x Hệ số phụ cấp x Ngày làm việc thực tế
Mức lương =
Số ngày làm việc theo chế độ
Mức lương ngày
Lương giờ = Số giờ làm việc thực tế x
8 giờ
+ Lương giờ: áp dụng đối với người làm việc tạm thời và đối với từng việc cụ thể:
Hiện tại ở nước ta mới chỉ tính lương ngày và lương tháng. Tuy chế độ trả lương này dễ tính, dễ trả lương cho người lao động nhưng nhược điểm lớn nhất của nó là mang tính bình quân, cho nên không khuyến khích được người lao động tích cực trong công việc nên xu hướng trả lương này ngày càng giảm bớt mà nó được thay thế bằng hình thức trả lương khác phù hợp hơn.
Trả lương theo thời gian có thưởng:
Hình thức trả lương này thực chất là sự kết hợp giữa việc trả lương theo thời gian giản đơn và tiền thưởng khi công nhân vượt mức chỉ tiêu số lượng và chất lượng quy định. Hình thức này thường áp dụng cho công nhân phụ làm việc phụ như: Công nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị hoặc công chính làm việc ở những nơi có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá cao hay những công việc đòi hỏi phải chất lượng cao.
Mức lương = Lương theo thời gian + Tiền thưởng
Hình thức trả lương này có ưu điểm hơn hình thức trả lương theo thời gian giản đơn, nó vừa phản ánh được trình độ thành thạo trong chuyên môn vừa khuyến khích được người lao động có trách nhiệm trong công việc. Nhưng việc xác định lương bao nhiêu là hợp lý là rất khó, nó chưa đảm bảo được hình thức phân phối theo lao động.
1.2.2) Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương đang được áp dụng trong khu vực sản xuất vật chất hiện nay. Tiền lương mà công nhân nhận được phụ thuộc vào đơn giá để hoàn thành một đơn vị sản phẩm. So với hình thức trả lương theo thời gian nó có nhiều ưu điểm hơn vì thế một trong những phương hướng cơ bản của công tác tổ chức tiền lương ở nước ta là không ngừng mở rộng hình thức trả lương theo sản phẩm ở các đơn vị sản xuất hiện nay. Trả lương theo sản phẩm có tác dụng quán triệt đầy đủ hơn, nguyên tắc trả lương theo số lượng, chất lượng lao động, gắn thu nhập về tiền lương với kết quả sản xuất của mỗi công nhân. Do khuyến khích được người công nhân nâng cao nâng suất lao động, ra sức học tập văn hoá kỹ thuật nghiệp vụ để nâng cao trình độ tay nghề, ra sức phát huy sáng tạo cải tiến kỹ thuật, cải tiến phương pháp, sử dụng tốt máy móc thiết bị góp phần thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật, quản lý doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế.
Nếu một doanh nghiệp phân công, bố trí lao động chưa hợp lý, cung cấp vật tư chưa kịp thời... sẽ tác động trực tiếp đến kết quả lao động. Năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động giảm. Tuy nhiên, để phát huy đầy đủ tác dụng của công tác trả lương theo sản phẩm nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao còn phải phụ thuộc vào những điều kiện cơ bản sau:
Phải xây dựng được mức lương có căn cứ khoa học. Điều này tạo điều kiện để tính toán các đơn giá lương cho chính xác. Nếu như các mức lương lao động quá thấp sẽ dẫn đến tính đơn giá cao và do đó bội chi quỹ lương. Tổ chức sản xuất và tổ chức lao động phải tương đối hợp lý và ổn định, đồng thời tổ phục vụ tốt ở nơi làm việc tạo điều kiện cho người lao động hoàn thành mức lao động trong ca làm việc đạt kết quả cao.
Thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm xuất ra để đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra, tránh làm bừa, làm ẩu chạy theo số lượng.
Bố trí công nhân vào làm việc phù hợp với bậc thợ của họ. Theo quy định hiện nay: Giám đốc các doanh nghiệp có quyền lựa chọn các hình thức trả lương cho phù hợp với từng tập thể hay cá nhân người lao động trong các doanh nghiệp nhưng sự lựa chọn hình thức trả lương nào có hiệu quả hoàn toàn không đơn giản.
1.2.2.1, Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:
Chế độ trả lương này được áp dụng rộng rãi đối với công nhân trực tiếp sản xuất trong điều kiện quy trình lao động của người công nhân, mang tính độc lập tương đối, có thể định mức kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm một cách riêng biệt. Đơn giá tiền lương của cách trả lương này là cố định và theo công thức:
L
ĐG =
Q
Trong đó: ĐG: Đơn giá sản phẩm
L: Lương cấp bậc công nhân
Q: Mức sản lượng
ĐG = L x T
Hoặc: T: Mức thời gian
Tiền lương của công nhân được tính theo công thức:
L = ĐG x Q
Ưu điểm nổi bật của chế độ tiền lương này là: Mối quan hệ giữa tiền lương của công nhân nhận được và kết quả lao động thể hiện rõ ràng, người công nhân xác định được ngay tiền lương của mình. Do đó khuyến khích người lao động quan tâm đến năng suất, chất lượng sản phẩm của họ.
Nhược điểm: Người công nhân ít quan tâm đến máy móc, chạy theo số lượng không quan tâm đến chất lượng, tinh thần tập thể, tương trợ lẫn nhau trong quá trình sản xuất kém hay tình trạng dấu nghề, dấu kinh nghiệm.
1.2.2.2, Chế độ tiền lương trả theo sản phẩm tập thể:
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng đối với những công việc cần một tập thể công nhân trực tiếp thực hiện như lắp ráp thiết bị, sản xuất các bộ phận làm việc dây truyền.
Đơn giá ở đây tính theo công thức:
L
Đơn giá =
Q
Trong đó:
L: Tổng quỹ lương tính theo cấp bậc công việc của tổ.
Q: Mức sản lượng.
Tiền lương của tổ, nhóm sản xuất được tính theo công thức:
L = ĐG x Q
+ Ưu điểm: Khuyến khích công nhân trong tổ nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của tổ.
+ Nhược điểm: Sản phẩm của công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ do vậy ít kích thích nâng cao chất lượng năng suất lao động cá nhân, tiền lương vẫn mang tính bình quân.
1.2.2.3, Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp:
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng cho những công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả công việc của những công nhân chính, hưởng lương theo sản phẩm như: công nhân sửa ._.chữa, công nhân điều chỉnh thiết bị điện trong nhà máy... Đặc điểm của chế độ trả lương này là thu nhập về tiền lương của công nhân lại phụ thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính. Do đó đơn giá được tính theo công thức:
Trong đó:
L
ĐG = x Q
M
ĐG: Đơn giá tiền lương tính theo sản phẩm gián tiếp.
L: Lương cấp bậc của công nhân phụ.
M: Số máy móc công nhân phụ vụ.
Q: Sản lượng của công nhân chính.
Còn tiền lương của công nhân phụ tính theo công thức:
L = ĐG x Q
* Ưu điểm: Cách trả lương này đã khuyến khích được công nhân phụ phục vụ tốt hơn cho công nhân chính nhờ đó mà tăng năng suất lao động cho công nhân sản xuất chính.
* Nhược điểm: Vì phụ thuộc nhiều vào kết quả của công nhân chính do đó việc trả lương chưa thật chính xác, chưa thật đảm bảo đúng hao phí lao động mà công nhân phụ đã bỏ ra.
1.2.2.4, Chế độ trả lương khoán:
Chế độ trả lương khoán áp dụng cho những công việc nếu giao chi tiết bộ phận sẽ không có lợi bằng giao toàn bộ khối lượng cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định. Chế độ trả lương này thường áp dụng cho những công nhân khi làm việc đột xuất như: Sửa chữa, tháo lắp nhanh một số thiết bị để nhanh chóng đưa vào sản xuất (áp dụng cho cá nhân và tập thể).
Ưu điểm: Khuyến khích người lao động hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn, đảm bảo chất lượng công việc thông qua hợp đồng giao khoán chặt chẽ, tỷ mỉ để xây dựng đơn giá lương chính xác cho công nhân khoán.
1.2.2.5, Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng:
Cách trả lương này thực chất là kết hợp với hình thức tiền lương, tiền thưởng. Khi áp dụng cách trả lương này, toàn bộ sản phẩm được tính theo đơn giá cố định, còn tiền thưởng sẽ căn cứ vào mức độ hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đã quy định.
Tiền lương trả theo sản phẩm có thưởng tính theo công thức:
L + L(mh)
Lth =
100
Trong đó: Lth: Tiền lương trả theo sản phẩm có thưởng.
L: Tiền lương trả theo sản phẩm với đơn giá cố định.
m: Phần tiền thưởng cho 1% hoàn thành vượt mức chỉ tiêu tiền thưởng.
h: % hoàn thành vượt mức chỉ tiêu tiền thưởng.
Ưu điểm: Cách trả lương này là khuyến khích công nhân tăng năng suất lao động.
Nhược điểm: Người lao động ít quan tâm đến máy móc do quá quan tâm đến khối lượng sản phẩm làm ra, dễ dẫn đến sự quá tải của máy móc.
Tiền lương trong nền kinh tế thị trường là phạm trù kinh tế quan trọng và phức tạp, là giá cả sức lao động, nó không chỉ phụ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động mà còn phụ thuộc vào cuộc sống của người lao động có tác dụng tích cực tới việc lớn mạnh của doanh nghiệp. Trong các DNNN chủ doanh nghiệp (Giám đốc) trả lương cho người lao động thông qua hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể. Tiền lương và thu nhập của người lao động phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm dịch vụ thực hiện, năng suất, chất lượng hiệu quả kinh doanh, do đó mọi sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp đều phải có định mức lao động và đơn giá tiền lương, khi thay đổi công nghệ sản xuất, kinh doanh dịch vụ chất lượng vật tư nguyên liệu sản xuất thì định mức lao động và đơn giá tiền lương lại phải được xác định lại.
Căn cứ vào tính chất đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của năm trước và thực hiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể chọn các chỉ tiêu sau đây để xác định đơn giá tiền lương:
* Cách tính đơn giá tiền lương trong doanh nghiệp.
Đơn giá tiền lương tính theo đơn vị sản phẩm:
Phương pháp này tương ứng với chỉ tiêu kế hoạch, sản xuất kinh doanh được chọn là tổng sản phẩm bằng hiện vật, thường áp dụng với các doanh nghiệp ít mặt hàng, một loại sản phẩm hoặc một số sản phẩm có thể quy đổi được như: Vật liệu xây dựng, điện, thép...
Đơn giá tiền lương được tính theo công thức:
ĐG = T x Lcb
Trong đó:
ĐG: Đơn giá tiền lương tính cho một sản phẩm hoặc đơn vị sản phẩm quy đổi.
T: Thời gian hao phí lao động để sản xuất ra sản phẩm gồm: Hao phí thời gian lao động công nghiệp, thời gian lao động phụ trợ, thời gian lao động quản lý (trừ thời gian lao động của giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng).
Lcb: Lương cấp bậc (kể cả phụ cấp).
Quỹ lương thực hiện (Qlth) của doanh nghiệp được xác định thông qua:
- Đơn giá tiền lương và kết quả sản xuất kinh doanh.
Công thức tính:
Qlth = ĐG x Q x QLBS
Trong đó:
Q: Sản phẩm hàng hoá thực hiện.
QLBS: Quỹ lương bổ sung (đây là quỹ lương thời gian không tham gia sản xuất theo chế độ hưởng lương và tiền lương chức vụ của giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng).
* Đơn giá tiền lương xác định trên tổng doanh thu trừ tổng chi phí.
áp dụng cho các doanh nghiệp chưa có định mức lao động cho từng loại sản phẩm.
Đơn giá tiền lương này được xác định theo công thức:
VKH
Đơn giá =
Doanh thu kế hoạch - Chi phí kế hoạch (Chưa có V)
Trong đó:
VKH: Quỹ lương kế hoạch (không kể tiền lương của giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng) được xác định căn cứ vào tiền lương bình quân theo chế độ (kể cả phụ cấp) và định biên lao động hợp lý.
Qlth = ĐG x (Doanh thu thực hiện – Chi phí thực hiện) (Chưa có V)
Cách này đã loại trừ các yếu tố tăng, giảm doanh thu, chi phí do các nguyên nhân khách quan.
* Đơn giá xác định trên lợi nhuận của doanh nghiệp.
Phương pháp này tương ứng với chỉ tiêu sản xuất kinh doanh được chọn là lợi nhuận, thường áp dụng đối với doanh nghiệp quản lý tổng thu, tổng chi và xác định lợi nhuận kế hoạch sát với thực hiện.
Đơn giá tiền lương được xác định theo công thức:
VKH
ĐG =
PKH
Trong đó:
PKH: Lợi nhuận kế hoạch.
Cách tính quỹ lương thực hiện:
Doanh thu thực hiện - Chi phí thực hiện (trừ V)
Qlth = ĐG x PTH = ĐG x
1 + ĐG
Trong đó:
PTH: Lợi nhuận thực hiện.
* Đơn giá tiền lương xác định trên doanh thu.
áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất không ổn định, không xác định đơn giá tiền lương bằng các phương pháp trên.
Theo phương pháp này đơn giá tiền lương bằng:
VKH
ĐG =
DTKH
Qlth = ĐG x Doanh thu thực hiện
Việc trả lương, trả công người lao động trong các doanh nghiệp căn cứ vào hệ thống thang bảng lương thống nhất do Nhà nước quy định.
Tiền lương thực tế là cơ sở để tính mức lương cho mọi ngành nghề, chưa tính đến các yếu tố không ổn định so với điều kiện lao động và sinh hoạt bình thường. Vì vậy, cùng với hệ thống thang bảng lương còn có các chế độ phụ cấp.
. Phụ cấp chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm: áp dụng đối với giám đốc, phó giám đốc, ngoài lương chuyên viên được hưởng họ còn được hưởng phụ cấp này.
. Phụ cấp khu vực: áp dụng đối với những người làm việc ở vùng xa xôi hẻo lánh, trong điều kiện khó khăn để góp phần ổn định lao động ở những vùng có điều kiện địa lý tự nhiên không thuận lợi.
. Phụ trách trách nhiệm: Là khoản bù đắp cho những người vừa trực tiếp sản xuất hoặc làm công tác nghiệp vụ vừa kiêm chức vụ quản lý không thuộc chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm, hoặc những người làm việc đòi hỏi trách nhiệm cao mà chưa xác định trong mức lương.
. Phụ cấp lưu động: Phụ cấp cho những người có công việc phải thường xuyên thay đổi nơi ở và nơi làm việc, điều kiện sinh hoạt không ổn định có nhiều khó khăn.
Việc xác định các khoản phụ cấp này đảm bảo sự cân bằng trong phân phối thu nhập, người làm việc nặng nhọc hay trong điều kiện khó khăn thì tiền công của họ phải được nhiều hơn so với công việc bình thường ở điều kiện bình thường, chế độ phụ cấp này có tác dụng phân phối lao động hợp lý.
Như vậy, tại bất cứ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, để đảm bảo sự cân bằng về quyền lợi cho người lao động làm việc ở các điều kiện khác nhau, công việc khác nhau thì ngoài thu nhập chính như tiền lương cơ bản, các khoản phụ cấp kèm theo (phụ cấp khu vực, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thu hút...) cũng như những khoản trợ cấp bhxh bao giờ người lao động cũng được hưởng thêm các khoản về tiền lương, phụ cấp ca ba, phụ cấp độc hại, nguy hiểm... tương xứng với sức lao động mà họ bỏ ra.
1.3/ kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.3.1) Vai trò, nhiệm vụ của kế toán lao động tiền lương và các khoản trích theo lương.
Tiền lương đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp không chỉ trên phương diện đòn bẩy kinh tế mà tiền lương còn liên quan trực tiếp tới giá thành sản phẩm, nó là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng sản xuất kinh doanh, nó còn là một bộ phận cấu thành nên chi phí sản xuất.
Vì vậy, việc tính toán tiền lương cho người lao động sau mỗi kỳ sản xuất và phân bổ khoản tiền lương này vào giá thành sản phẩm và chi phí lưu thông chính xác, tránh hiện tượng lãi giả, lỗ thật là yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý lao động tiền lương của doanh nghiệp.
Từ công tác hạch toán tiền lương, BHXH giúp các nhà quản lý biết được tình hình sử dụng lao động quỹ lương và cách phân phối quỹ lương. Là cơ sở để tính toán chi phí lao động trong giá thành sản phẩm hoặc tính tổng chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. Thông qua các loại sổ sách, chứng từ kế toán về tiền lương, BHXH và các thành phần kinh tế khác giúp cho các nhà quản lý có kế hoạch sản xuất cụ thể cho thời kỳ sau và thông qua đó có biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí để tăng lợi nhuận. Hơn nữa, hạch toán tiền lương bhxh tạo điều kiện cho việc kiểm tra kiểm soát của cấp trên trong việc phân phối của doanh nghiệp đảm bảo sự công khai trong việc phân phối này, qua việc tính đúng, tính đủ thanh toán kịp thời tiền lương, tạo cho người lao động tin tưởng chắc chắn vào thành quả lao động của họ, khuyến khích họ làm việc hăng say hơn, phát huy cao nhất tính năng động sáng tạo của mình.
Như vậy, chức năng cơ bản nhất của kế toán lao động tiền lương là công cụ phục sự điều hành, quản lý lao động có hiệu quả để thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
* Đối với kế toán tiền lương:
Ghi chép, phản ánh tình hình sử dụng quỹ lương theo đúng nguyên tắc và chế độ hiện hành.
Kiểm tra tình hình biên chế số lượng và chất lượng của cán bộ CNV trong doanh nghiệp
Tính toán và phân bổ chính xác tiền lương vào chi phí sản xuất và chi phí lưu thông
Thanh toán kịp thời tiền lương và các khoản thanh toán khác cho cán bộ CNV.
* Đối với kế toán bhxh:
Tính chính xác, trích chính xác số bhxh được trích theo chế độ xã hội.
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình chi tiêu quỹ bhxh.
Thanh toán kịp thời bhxh đối với CNV cũng như đối với cơ quan bhxh cấp trên. Công cụ để thanh toán bhxh thực hiện các nhiệm vụ trên tiến hành hạch toán theo 2 phương pháp:
+ Kế toán chi tiết.
+ Kế toán tổng hợp tiền lương bhxh cùng các chứng từ sổ sách có liên quan.
1.3.2) Tài khoản sử dụng.
Tài khoản 334: Phải trả công nhân viên.
Tài khoản 335: Chi phí phải trả.
Tài khoản 338: Phải trả, phải nộp khác.
1.3.3) Phương pháp kế toán chi tiết.
* Kế toán chi tiết tiền lương và các khoản trích theo lương.
Trình tự kế toán chi tiết tiền lương diễn ra như sau:
Đối với các bộ phận lao động yêu cầu tính trả lương theo thời gian thì cơ sở để tính tiền lương là bảng chấm công. Bảng chấm công dùng để ghi chép thời gian làm việc thực tế và vắng mặt của cán bộ cnv, bảng chấm công lập cho từng tổ sản xuất, từng phòng ban, một tháng lập một tờ theo dõi từng ngày làm việc thực tế. Trong bảng chấm công ghi rõ những ngày được nghỉ theo quy định như ngày lễ, ngày chủ nhật, ngày tết... Mọi sự vắng mặt của cán bộ CNV đều phải có lý do rõ ràng. Cuối cùng tổ trưởng tổng hợp tình hình sử dụng lao động xem tổng số cán bộ CNVcó mặt, tổng số cán bộ CNV không có mặt theo từng nguyên nhân sau đó cung cấp tài liệu cho kế toán phân xưởng. Nhân viên kế toán phân xưởng kiểm tra xác nhận hàng ngày trên Bảng chấm công sau đó tập hợp số liệu báo cáo cho phòng lao động tiền lương, cuối tháng bảng này chuyển cho phòng kế toán để tính lương theo số ngày công. Khi công nhân nghỉ do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc nghỉ trông con đau ốm thì phải có phiếu nghỉ việc hưởng BHXH... do bác sĩ cấp. Sau đó chứng từ này chuyển lên phòng kế toán làm căn cứ tính trợ cấp bhxh.
Đối với bộ phận lao động hưởng lương theo sản phẩm thì căn cứ để trả lương là “bảng kê khối lượng hoàn thành” bảng này được kê chi tiết cho từng đối tượng tính trả lương có xác nhận của người kiểm tra, nghiệm thu.
Ngoài ra bảng chấm công còn sử dụng làm căn cứ tính lương những ngày nghỉ được hưởng lương theo chế độ và chế độ phụ cấp, trợ cấp khác. Ngoài bảng chấm công giấy báo có và tờ trình cũng là các chứng từ được sử dụng hạch toán kết quả lao động. Tuỳ đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng đơn vị mà các chứng từ này được xác định khác nhau. Đối với từng đơn vị có thể giao định mức sản lượng thì ta có thể sử dụng các chứng từ về số lượng sản phẩm hoàn thành nhập kho, sau khi đã được nghiệm thu hoặc có thể là bảng chấm điểm chất lượng công tác.
Đối với các đơn vị không định mức sản phẩm cụ thể, hàng ngày căn cứ vào phiếu giao việc hoặc chênh lệch sản xuất, tổ trưởng giao việc cho từng người ghi rõ nội dung công việc và thời gian hoàn thành. Sau đó cuối ngày căn cứ vào số lượng và chất lượng công việc đã hoàn thành được nghiệm thu để ghi vào chứng từ. Chứng từ này sau khi đã ký duyệt chuyển cho kế toán phân xưởng rồi chuyển cho phòng kế toán làm căn cứ tính lương trả cho công nhân. Trên cơ sở chấm công, bảng kê khối lượng hoàn thành kế toán lập bảng thanh toán lương cho từng tổ đội.
bảng thanh toán lương mỗi tháng lập một lần cho từng tổ, đội, phòng ban, mỗi công nhân ghi trên một dòng, căn cứ bậc lương thời gian làn việc, mức phụ cấp để tính lương cho từng công nhân. Sau đó kế toán lao động tiền lương lập bảng thanh toán lương tổng hợp cho toàn xí nghiệp và làm thủ tục để trả lương. bảng thanh toán lương tổng hợp này theo dõi toàn xí nghiệp, mỗi tổ, đội, phòng ban ghi trên một dòng, khi lập xong bảng tổng hợp thanh toán lương chuyển kế toán trưởng ký và thủ trưởng duyệt trên cơ sở đó kế toán thu chi viết phiếu thu, chi và thanh toán cho toàn xí nghiệp.
Việc thanh toán lương được chia làm hai thời kỳ trong tháng để đảm bảo cuộc sống cho người lao động:
Kỳ I: Tạm ứng.
Kỳ II: Thanh toán nốt phần còn lại sau khi trừ đi những khoản khấu trừ, những khoản khấu trừ vào lương theo chế độ quy định và có thể là những khoản nợ của cán bộ CNV được cơ quan pháp lý cho khấu trừ vào lương.
Tiền lương phải trả tận tay cho người lao động hoặc đại diện tập thể lĩnh lương cho tập thể do thủ quỹ phát và người nhận phải ký vào bảng thanh toán lương. Đối với công nhân nghỉ phép vẫn được hưởng lương, phần lương này vẫn tính vào chi phí sản xuất. Việc nghỉ phép này thường là đột xuất và không đều đặn giữa các tháng trong năm, do đó cần tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân vào giá thành sản phẩm. Như vậy, giá thành sản phẩm sẽ không bị biến đổi đột ngột.
Trích trước tiền lương nghỉ phép bằng công thức sau:
Mức trích tiền Tiền lương thực tế Tỷ lệ
lương nghỉ = phải trả cán bộ x trích
phép kế hoạch CNV trong tháng trước
Trong đó, tỷ lệ trích trước được xác định như sau:
Trong đó, tỷ lệ trích trước được xác định như sau:
Tỷ lệ Tổng số tiền lương 100% tổng số tiền
trích = nghỉ phép kế hoạch x lương chính kế hoạch
trước của cán bộ CNV của cán bộ CNV
* Trình tự kế toán chi tiết các khoản trích theo lương.
Đối với những khoản trợ cấp BHXH phải trả cho cán bộ CNV kế toán BHXH (thường là kế toán lao động tiền lương) dựa trên chứng từ có xác nhận của người có trách nhiệm về tình hình của người ghi trên giấy chứng nhận và căn cứ vào quy định của BHXH cho cán bộ CNV để tính kết quả trợ cấp BHXH cho từng trường hợp. Trên cơ sở đó lập bảng thanh toán BHXH cho từng bộ phận trong đó ghi rõ các khoản trợ cấp cho từng người sau đó chuyển cho kế toán trưởng và thủ trưởng đơn vị ký duyệt để làm căn cứ trả lương BHXH cho cán bộ CNV. Cuối tháng căn cứ chứng từ tính lương và BHXH để lập bảng phân bổ số 1 (Biểu số 1).
1.3.4) Kế toán tổng hợp tiền lương.
Hạch toán nhằm phản ánh tình hình sử dụng quỹ lương và phân bổ chi phí tiền lương, cũng như đối tượng hạch toán khác, hạch toán tiền lương cũng xuất phát từ đặc tính của nó, tiền lương vừa thể hiện mối quan hệ phân phối giữa người lao động và người sử dụng lao động, quan hệ phải trả, đã trả, số tiền còn lại phải trả vừa là một yếu tố chi phí.
Do hạch toán tổng hợp nhằm cung cấp thông tin đầy đủ cho đối tượng quản lý, vì vậy hạch toán cần phải phán ánh đầy đủ các mối quan hệ trên, đảm bảo cung cấp thông tin về số tiền phải trả, đã trả và số tiền còn phải trả cho công nhân. Đồng thời thể hiện được chi phí tiền lương trong từng đối tượng chịu chi phí. Theo chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành ngày 01/11/1995 theo QĐ 1141 TC/QĐKT của nước ta, để phản ánh tình hình thanh toán tiền lương và các khoản khác với công nhân, kế toán sử dụng tài khoản 334 “Phải trả công nhân viên” với kết cấu như sau:
TK 334 “Phải trả CNV “
- Các khoản tiền công, BHXH và - Các khoản tiền lương, BHXH và
các khoản khác đã trả cho cán các khoản khác phải trả cho cán
bộ CNV. bộ CNV.
- Các khoản đã trừ vào tiền công, - Các khoản tiền công, tiền lương,
tiền lương của cán bộ CNV. tiền thưởng và các khoản khác
còn phải trả cán bộ CNV.
Về trình tự hạch toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu, căn cứ vào tài liệu để tính lương hàng tháng cho cb - cnv như: bảng chấm công (Mẫu số 10 - LĐTL) và các bảng kê khối lượng sản phẩm, công việc hoàn thành, bảng kê danh sách làm đêm, làm thêm giờ... Kế toán lập bảng thanh toán tiền lương cho các bộ phận và ghi sổ:
Nợ TK 622 Chi phí nhân công trực tiếp
Nợ TK 627(6271) Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 641(6411) Chi phí bán hàng
Nợ TK 642(6421) Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 334 Phải trả cho cán bộ CNV
Các khoản khấu trừ vào tiền lương của cán bộ CNV như thuế thu nhập, tiền bồi thường vật chất, tiền do quyết định của toà án yêu cầu nộp tiền nuôi con, tiền điện nước, tiền tạm ứng... Kế toán căn cứ vào bảng thanh toán lương (cột khấu trừ) để ghi sổ:
Nợ TK 334
Có TK 331 Trừ tiền điện nước
Có TK 338 Các khoản phải trả, phải nộp khác
Có TK 141 Tạm ứng
Khi thanh toán tiền lương cho CBCNV, kế toán ghi:
Nợ TK 334
Có TK 111 Quỹ tiền mặt
Cuối tháng, trước khi khoá sổ, nếu số tiền lương và các khoản phải trả cho cán bộ CNV đã trả quá thì kế toán lập bút toán để chuyển sang tài khoản 138 (phải thu khác):
Nợ TK 138
Có TK 334
Trình tự kế toán tiền lương được khái quát theo sơ đồ sau:
TK 112 TK 111 TK 334 TK 622
(1) (2) (4)
(3)
TK 331 TK 627
(10) (5)
TK 333 TK 641
(11) (6)
TK 338 TK 642
(12) (7)
TK 141 TK 335
(13) (8)
TK 138 TK 338
(9)
(15)
* Giải thích sơ đồ hạch toán:
(1): Rút tiền về quỹ
(2): Chi lương kỳ I
(3): Chi lương kỳ II
(4): Tiền lương phải trả cho công nhân sản xuất sản phẩm
(5): Tiền lương phải trả cho nhân viên phân xưởng
(6): Tiền lương phải trả cho nhân viên bán hàng
(7): Tiền lương phải trả cho cán bộ quản lý doanh nghiệp
(8): Tiền lương nghỉ phép thực tế phải trả
(9): BHXH phải trả cho cán bộ CNV
(10): Khấu trừ điện, nước... qua lương
(11): Khấu trừ tiền thuế thu nhập phải nộp
(12): BHYT công nhân phải nộp, tiền cán bộ CNV chưa lĩnh
(13): Trích tiền lương từ tiền tạm ứng
(14): Khấu trừ khoản phải nộp
(15): Chênh lệch số đã trả và khấu trừ lớn hơn số phải trả
Đối với các đơn vị áp dụng hình thức chứng từ ghi sổ, số phát sinh bên có của TK 334 từ các chứng từ gốc được phân loại, tập hợp vào bảng phân bổ từ đó lập các chứng từ ghi sổ vào sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và vào sổ cái TK 334.
Đối với các doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán nhật ký chung thì các nghiệp vụ liên quan đến tình hình tính lương và các khoản khác cũng như việc chi trả các khoản trên cho công nhân được ghi theo từng chứng từ vào sổ nhật ký chung rồi chuyển số liệu để ghi vào sổ cái.
Đối với những doanh nghiệp áp dụng hình thức nhật ký chứng từ kế toán căn cứ vào bảng thanh toán tiền lương ở các bộ phận để lập bảng phân bổ số 1 (bảng phân bổ tiền lương - BHXH). Biểu số 1 căn cứ vào bảng phân bổ số 1 ghi vào Sổ cái.
Biểu số 1: Bảng phân bổ tiền lương - BHXH
Tháng.............
STT
Ghi có TK
Ghi nợ TK
(Đối tượng sử dụng)
TK 334 “ Phải trả CBCNV “
TK 338
Lương chính
Lương phụ
Các khoản khác
Cộng có TK 334
1
2
3
4
5
Cộng
1.3.5) Kế toán tổng hợp BHXH, BHYT, KPCĐ:
Cũng như tiền lương, BHXH trước hết là yếu tố của chi phí sản xuất và một phần thu nhập, đồng thời cũng mang quan hệ nhưng khác với tiền lương - BHXH gồm hai mối quan hệ thanh toán:
Thanh toán với cơ quan tài chính cấp trên (nay là cơ quan BHXH tỉnh, thành phố...) xác định khoản phải nộp, đã nộp và còn phải nộp.
Thanh toán với cán bộ CNV số tiền lương – BHXH phải trả và đã cho cán bộ CNV.
Để theo dõi BHXH được trích và quỹ BHXH, kế toán sử dụng TK 338 trong đó:
TK 3382: Kinh phí công đoàn (KPCĐ)
TK 3383: BHXH
TK 3384: BHYT
Kết cấu TK 338
TK 338 “ Phải trả, phải nộp khác “
BHXH phải trả cho cán bộ CNV - Trích BHXH, BHYT, KPCĐ vào
chi phí sản xuất kinh doanh.
KPCĐ chi tại đơn vị - Các khoản thanh toán với cán bộ
Số BHXH, BHYT, KPCĐ đã nộp CNV về tiền nhà, điện nước ở
cho cơ quan quản lý quỹ BHXH, tập thể.
BHYT, KPCĐ. - BHXH, KPCĐ chi quá được
cấp bù.
Dck: BHXH, BHYT, KPCĐ đã
trích chưa nộp đủ cho cơ
quan quản lý hoặc số quỹ
để lại cho đơn vị chưa chi
hết.
Tài khoản này có thể có số dư nợ phản ánh số đã trả, đã nộp nhiều hơn số phải trả, phải nộp số BHXH, KPCĐ vừa chi chưa được cấp bù.
Trình tự hạch toán các nghiệp vụ chủ yếu:
Hàng tháng trích BHXH, BHYT, KPCĐ kế toán ghi:
Nợ TK 241 XDCB dở dang
Nợ TK 622 Chi phí nhân công trực tiếp
Nợ TK 627 Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 641 Chi phí bán hàng
Nợ TK 642 Chi phí quản lý DN
Có TK 338 (3382, 3383, 3384) Phải trả, phải nộp khác
Trích số BHYT trừ vào lương cán bộ CNV ghi:
Nợ TK 334
Có TK 338
Nộp BHXH, BHYT, KPCĐ cho cơ quan quản lý ghi:
Nợ TK 338
Có TK 111
Có TK 112
Trích BHXH phải nộp cho cán bộ CNV ghi:
Nợ TK 338
Có TK 334
Tiêu quỹ BHXH, KPCĐ tại đơn vị, kế toán ghi:
Nợ TK 338
Có TK 111
BHXH, KPCĐ chi vượt được cấp bù ghi:
Nợ TK 111
Nợ TK 112
Có TK 338
Trình tự kế toán BHXH, BHYT, KPCĐ:
(2)
TK 334 TK 338 TK 241
(3)
TK 111,112 TK 622
(4) (1) TK627
TK641
TK 642
(6)
* Giải thích sơ đồ kế toán:
Trích BHXH, BHYT, KPCĐ
BHYT mà công nhân phải nộp trừ vào lương
BHXH phải trả cho cán bộ CNV
Nộp BHXH, BHYT, KPCĐ cho cơ quan quản lý
Chi phí công đoàn và BHXH
Quỹ BHXH và KPCĐ chi quá được cấp bù
1.3.6) Kế toán các khoản thu nhập khác.
Như đã trình bày ở trên, trong thu nhập của người lao động, tiền lương, BHXH thì người lao động còn được các khoản khác như: tiền thưởng phụ cấp ca ba, độc hại, nguy hiểm... Trong hạch toán ta chỉ đề cập đến trình tự hạch toán tiền thưởng thường xuyên, thưởng định kỳ tại các doanh nghiệp.
Đối với các khoản thưởng thường xuyên, áp dụng cho công nhân sản xuất trực tiếp và gián tiếp hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất sau mỗi kỳ sản xuất thì được phân bổ vào chi phí của đơn vị như một khoản chi phí nhân công.
Kế toán định khoản như sau:
Nợ TK 627
Nợ TK 622
Có TK 334
Đối với những cán bộ CNV được bình bầu là lao động giỏi hàng quý do hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao hoặc có phát minh sáng kiến trong quá trình làm việc sẽ được khen thưởng, phần tiền thưởng này nằm trong kế hoạch khen thưởng của xí nghiệp.
Kế toán định khoản:
Nợ TK 431 Quỹ khen thưởng
Có TK 334
Phòng tổ chức lập danh sách cán bộ CNV được thưởng từ các bộ phận phòng ban đưa về phòng tài chính kế toán thực hiện việc chi trả tiền thưởng cho cán bộ CNV thông qua bảng thanh toán tiền thưởng có chữ ký của từng người được thưởng. Khi chi thưởng kế toán ghi:
Nợ TK 334
Có TK 111
Biểu số 2: Bảng thanh toán tiền thưởng
Tháng............... năm .............
STT
Họ và tên
Bậc lương
Mức thưởng
Ghi chú
Xếp loại thưởng
Số tiền thưởng
Ký nhận
1
A
2
B
3
C
4
D
5
E
Cộng
Trên đây là những lý luận chung về tiền lương, BHXH và các khoản thu nhập khác, về cách tính cũng như phương pháp kế toán lao động tiền lương trong các doanh nghiệp. Để cụ thể hoá, tôi xin trình bày thực tế công tác quản lý hạch toán tiền lương, các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) tại Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây.
Chương II
Thực trạng kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây.
2.1/ Đặc điểm chung của công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây.
2.1.1) Quá trình hình thành và phát triển của Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức - Hà Tây.
Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức mà tiền thân là xí nghiệp thuỷ nông Mỹ Đức được UBND tỉnh Hà Tây ra quyết định thành lập số 414/QĐ-UB ngày 10/10/1974. Công ty có trụ sở chính tại thị trấn Tế Tiêu- Mỹ Đức, về danh giới địa chính của công ty:
Phía Bắc giáp đường 73 và huyện Chương Mĩ.
Phía Đông và phía Nam giáp sông Đáy tỉnh Hà Nam.
Phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình.
Đến tháng 12/1998 Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức được chuyển sang doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích theo quyết định 1461/1998 QĐ/UB ngày 31/12/1998 với nhiệm vụ chính là quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trong huyện đảm bảo tưới tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Là một doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức được nhà nước cấp vốn, vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh và vận hành toàn bộ hệ thống công trình thuỷ lợi tưới tiêu nước cho nông nghiệp và cung cấp nước cho cơ sở kinh tế khác trong huyện theo hợp đồng dùng nước giữa Công ty với các hợp tác xã trong huyện.
Toàn huyện Mỹ Đức có 22 xã và 1 thị trấn với tổng diện tích là 22.100 ha bao gồm sông, ngòi, đồi núi trong đó có 9.455 ha canh tác. Dân số có 160.000 người trong đó có 90% sống bằng nghề nông nghiệp, ngoài ra huyện còn có một số nghề phụ như trồng dâu nuôi tằm, dệt thêu...
Từ năm 1974 trở về trước huyện Mỹ Đức có 2 hồ chứa nước đó là hồ Tuy Lai và hồ Quan Sơn (xây dựng từ 1959 với khả năng tưới 600 ha) và hai trạm bơm dầu đó là trạm bơm Đức Môn và trạm bơm Kim Bôi với khả năng tưới tiêu cho Đoan Nữ (An Mỹ), Cống Ngánh (Phù Lưu Tế), cống đồng Dày (Đốc Tín), Cống Hội Xá Phú Yên (Hương Sơn) không có trạm bơm tiêu, việc quản lý công trình và điều hành do phòng thuỷ lợi đảm nhiệm.
Từ năm 1974 trở lại đây được nhà nước đầu tư vốn mở rộng hồ Quan Sơn và hồ Tuy Lai, đồng thời xây dựng mới hồ Vĩnh An, với tổng diện tích 3 hồ theo thiết kế là 11.410m nước năng lực tưới tiêu cho diện tích 1.880ha. Bên cạnh đó một số trạm bơm dầu chuyển thành trạm bơm điện và xây dựng mới trạm bơm Tân Hội, trạm bơm Bạch Tuyết, trạm bơm Hoà Lạc, trạm bơm Phù Lưu Tế, trạm bơm Đồi Mo, kênh tiêu Quán Quốc (Phú Lâm), Tảo Khê, Văn Giang.
Từ năm 1978 đến nay thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” đã xây dựng thêm trạm bơm Xuy Xá, trạm bơm Vạm Kim, trạm bơm Đại Nghĩa, trạm bơm Đốc Tín, trạm bơm Phú Hiền, trạm bơm Đục Khê, trạm bơm Hùng Tiến, trạm bơm An Tiến, trạm bơm Phùng Xá.
Tính đến hết năm 2002 ngoài 3 hồ chứa nước (Quan Sơn, Tuy Lai và Vĩnh An) trên địa bàn huyện đã xây dựng được 35 trạm bơm vừa và nhỏ với tổng số máy bơm các loại là 220 chiếc. Đồng thời đưa tổng số kênh chính (kênh cấp I) về tưới 53km, về tiêu 55km và hàng trăm mét tưới tiêu cấp II, cấp III và xây dựng hàng trăm cống điều tiết nội đồng trên kênh.
Với nguồn vốn xây dựng của Nhà nước và nhân dân tự làm nên tỉnh và huyện chỉ giao cho Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức quản lý 3 hồ chứa nước và 20 trạm bơm tưới tiêu các loại trong đó có 5 trạm bơm tưới, 9 trạm bơm tiêu và 6 trạm bơm liên kết với tổng số máy bơm các loại là 162 chiếc có công suất 1.000m³/h cho 9 cống tưới và 11 cống tiêu chính hoạt động liên tục.
Với sự cố gắng phấn đấu trong nhiều năm liên tục Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức đã đạt được những thành tích đáng kể như:
- Năm 1997:
+ UBND tỉnh tặng cờ thi đua sản xuất
+ Bộ thuỷ lợi tặng bằng khen
+ Ban chấp hành tổng LĐLĐ VN tặng bằng khen
+ UBND huyện Mỹ Đức tặng giấy khen.
- Năm 1998: Tập thể cá nhân đạt danh hiệu cấp tỉnh.
- Năm 1999: Đơn vị tập thể cá nhân đạt danh hiệu giỏi cấp tỉnh.
- Năm 2000:
+ Tập thể đạt lao động giỏi cấp ngành
+ Cá nhân lao động giỏi cấp ngành
+ BCH, LĐLĐ huyện Mỹ Đức tặng giấy khen.
- Năm 2001:
+ BCH, LĐLĐ tỉnh tặng giấy khen
+ Sở nông nghiệp và pháp triển nông thôn tặng giấy khen
+ BCH, LĐLĐ huyện Mỹ Đức tặng giấy khen
+ UBND huyện tặng gấy khen.
- Năm 2002: BCH, LĐLĐ tỉnh tặng bằng khen.
Đạt được những kết quả trên công ty đã phải có rất nhiều cố gắng trong các quá trình cũng như trong các hoạt động. Tiến tới Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Mỹ Đức đang có nhiều hướng mở rộng các công trình thuỷ lợi hội đồng để công ty ngày càng phát triển hơn nữa trong những năm tiếp theo.
* Những chỉ tiêu kinh tế quan trọng của công ty khai thác thuỷ lợi Mỹ Đức đạt được trong một vài năm gần đây.
Tính đến ngày 1/1/1993 công ty khai thác thuỷ lợi Mỹ Đức có tổng số vốn pháp định
Vốn sản xuất kinh doanh là: 1.905.000.000 đồng.
Với: - Vốn cố định: 1.828.000.000 đồng
- Vốn lưu động: 77.000.000 đồng
Trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh thì:
Vốn ngân sách nhà nước cấp: 1.811.000.000 đồng
Vốn tự bổ sung: 94.000.000 đồng
Một số chỉ tiêu kinh tế của công ty một vài năm gần đây:
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tổng vốn kinh doanh
3.187.313.744
5.425.722.938
7.319.141.970
7.557.290.854
12.829.611.809
Tổng doanh thu
2.921.037.900
3.010.328.286
2.827.125.324
2.511.641.480
2.587.835.289
Tổng lợi tức trước thuế
49.628.858
347.999.618
(170.082.162)
(1.380.114.701)
(759.172.220)
Thuế phải nộp
7.073.000
850.000
850.000
850.000
850.000
Tổng quỹ lương
696.342.558
648.773.100
792.114.611
1.027.377.816
979.315.977
Tổng CB CNV
123
125
137
136
135
Thu nhập bình quân/ tháng.
471.700
472.207
481.821
629.521
604.506
Với đặc thù là công ty khai thác tài nguyên nước nên nhiệm vụ chủ yếu của công ty là vận hành hệ thống tưới, tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cho 22 xã và một thị trấn. Hệ thống tưới tiêu được công ty chia làm 3 cụm, đó là:
- Cụm thuỷ nông Quan Sơn: Trụ sở tại hồ Quan Sơn (cầu Dậm, Hợp Tiến,Mỹ Đức) gồm 38 công nhân vận hành 8 trạm bơm.
- Cụm thuỷ nông Bạch Tuyết: Trụ sở tại trạm bơm Bạch Tuyết (xã Hùng Tiến, Mỹ Đức) có 34 công nhân vận hành 6 trạm bơm.
- Cụm thuỷ nông An Mỹ: Trụ sở tại trạm._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0510.doc