Tài liệu Kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San - Thái Bình: ... Ebook Kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San - Thái Bình
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1581 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San - Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trêng ®¹i häc n«ng nghiÖp hµ néi
khoa kÕ to¸n vµ qu¶n trÞ kinh doanh
¶
LuËn v¨n
Tèt nghiÖp ®¹i häc
§Ò tµi
“Kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San - Thái Bình”
Gi¸o viªn híng dÉn : pgs.ts. nguyÔn thÞ t©m
Sinh viªn thùc hiÖn : nguyÔn thÞ mai
Líp : KEB – K50
Hµ Néi - 2009
PHẦN THỨ NHẤT
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ chế mới, với sự hoạt động của nhiều thành phần kinh tế thì tính độc lập, tự chủ trong doanh nghiệp ngày càng cao hơn, mỗi doanh nghiệp phải năng động sáng tạo trong kinh doanh, phải chịu trách nhiệm trước kết quả kinh doanh của mình, bảo toàn được vốn vốn kinh doanh và quan trọng hơn là kinh doanh có lãi. Muốn như vậy, các doanh nghiệp phải nhận thức được vị trí của khâu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa vì nó quyết định đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, và là cơ sở để doanh nghiệp bù đắp được những chi phí bỏ ra, thực hiện được nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Do vậy sản xuất và tiêu thụ là hai mặt luôn luôn gắn liền với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Thực hiện sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như hiện nay this hạch toán kế toán là một trong những công cụ quan trọng của hệ thống quản lý kinh tế. Kế toán trong mỗi doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ có hiệu lực để phản ánh và giám đốc hiệu quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó thì kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là một bộ phận không thể thiếu được của toàn bộ công tác kế toán.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu của con người cũng ngày một tăng cao. Những sản phẩm mang tính chất phục vụ nhu cầu tất yếu của con người như ăn uống, may mặc…và những nhu cầu sử dụng hàng hóa ngày càng nhiều và đòi hỏi những sản phẩm đó phải có chất lượng tốt và phù hợp với người tiêu dùng. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường Sợi vải trong cũng như ngoài nước, Công ty Cổ Phần Dệt Sợi Đam San cũng như những doanh nghiệp nằm trong nền kinh tế thị trường, để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Công ty đã có những biện pháp hoàn thiện công tác kế toán nói chung và kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm nói riêng để ngày càng sản xuất ra nhiều những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Xuất phát từ thực tế trên và với mong muốn được nghiên cứu, tìm hiểu sâu về công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm trong thực tế, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tai: “Kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San - Thái Bình”
Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Trình bày cơ sở lý luận về kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
- Phản ánh và phân tích thực trạng công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm tại Công ty
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Công tác kế toán nhập, xuất kho thành phẩm và tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San
- Phạm vi về không gian: Công ty cổ phần Dệt Sợi Đam San
Địa chỉ: Lô A4 - Đường Bùi Viện -KCN Nguyễn Đức Cảnh - TP Thái Bình.
Phạm vi thời gian: Từ ngày 15/01/2009 đến ngày 15/05/2009.
PHẦN THỨ HAI
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Tầm quan trọng của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm trong nền kinh tế thị trường
Thành phẩm là thành quả lao động sáng tạo của toàn thể cán bộ công nhân viên của một doanh nghiệp, là sản phẩm đã kết thúc quy trình công nghệ sản xuất. Còn tiêu thụ thành phẩm là khâu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, là khâu quyết định đến lợi nhuận, uy tín, đến vị trí không chỉ của thành phẩm đó trong doanh nghiệp mà còn của cả doanh nghiệp đó trên thị trường. Một khi doanh nghiệp thực hiện tốt khâu nhập xuất kho thành phẩm, đẩy mạnh công tác tiêu thụ thành phẩm thì sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, đó là lẽ đương nhiên.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải hạch toán kinh doanh độc lập, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp cũng từng nhắc đến nhưng đó chỉ là trên giấy tờ hình thức. Trước yêu cầu đó, vấn để thành phẩm, nhập xuất kho thành phẩm và đưa đi tiêu thụ như thế nào luôn được các doanh nghiệp quan tâm. Bởi kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiện tự chủ trong kinh doanh.
Với đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng, tài nguyên thì trở nên khan hiếm, đối thủ cạnh tranh ngày càng tăng lên…Vấn đề kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm càng chiếm vị trí quan trọng trong công tác kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Để nhận thức được vấn đề này thì trước hết phải tìm hiểu các khái niệm cơ bản liên quan đến thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
2.2 Các khái niệm cơ bản về thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
2.2.1 Khái niệm về thành phẩm
Thành phẩm là những sản phẩm đã kết thúc giai đoạn chế biến cuối cùng của một quy trình công nghệ sản xuất ra sản phẩm đó của doanh nghiệp (ngoài ra còn bao gồm cả những sản phẩm thuê ngoài gia công đã hoàn thành), đã qua kiểm tra kỹ thuật và được xác nhận là phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật quy định được nhập kho hoặc giao trực tiếp cho khách hàng.
Bên cạnh thành phẩm, doanh nghiệp còn có bán thành phẩm (nửa thành phẩm). Đây là những sản phẩm mới kết thúc một hay một số công đoạn trong quy trình công nghệ sản xuất (trừ công đoạn cuối cùng) được nhập kho hay chuyển giao để tiếp tục chế biến thành phẩm hoặc có thể bán ra bên ngoài. Trong phạm vi một doanh nghiệp thì bán thành phẩm còn có thế tiếp tục chế tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh, nhưng trong phạm vi nền kinh tế quốc dân thì nửa thành phẩm còn có thể được bán ra bên ngoài cho doanh nghiệp khác sử dụng. Vì vậy, xác định đúng đắn nửa thành phẩm trong từng doanh nghiệp là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp cho doanh nghiệp trong công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm hoàn thành. Từ đó xác định được mức độ hoàn thành kế hoạch của đơn vị cũng như xác đinhk được kết quả tiêu thụ của doanh nghiệp
Thành phẩm được biểu hiện cả về mặt số lượng và mặt chất lượng
- Về mặt số lượng: Thành phẩm được xác định bằng các đơn vị đo lường như con, cái, vòng, tấn, kg…
- Chất lượng của thành phẩm được xác định bằng tỷ lệ tốt xấu hoặc phẩm cấp (loại 1, loại 2…). Số lượng thành phẩm phản ánh quy mô thành phẩm của doanh nghiệp tạo ra, còn mặt chất lượng phản ánh giá trị sử dụng của thành phẩm.
Thành phẩm không chỉ là thành quả lao động sáng tạo của cán bộ CNV toàn doanh nghiệp mà nó còn là vốn mà doanh nghiệp bỏ ra mua nguyên vật liệu đầu vào, máy móc, nhà xưởng…Do đó, doanh nghiệp phải tổ chức tốt khâu quản lý thành phẩm để đảm bảo an toàn, tránh lãng phí, làm cho sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
2.2.2 Yêu cầu quản lý thành phẩm
Để quản lý tốt thành phẩm, Doanh nghiệp cần phải quản lý cả về mặt số lượng và mặt chất lượng của thành phẩm.
- Về mặt số lượng thành phẩm đòi hỏi phải phản ánh, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình nhập - xuất, dự trữ thành phẩm, kịp thời phát hiện những hàng hoá tồn đọng lâu ngày trong kho chưa tiêu thụ được, thành phẩm bị thiếu hụt…Từ đó đề xuất các biện pháp hữu hiệu, tránh tình trạng ứ đọng, góp phần nâng cao chất lượng quản lý.
- Về mặt chất lượng thành phẩm, phải kiểm tra nghiêm ngặt. Những sản phẩm nào không đạt tiêu chuẩn thì phải loại bỏ ngay. Vì khi đưa ra tiêu thụ mà hàng hoá kém chất lượng thì sẽ ảnh hưởng lớn đến uy tín của doanh nghiệp cũng như sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị giảm nhanh chóng.
Tóm lại , để hạn chế thấp nhất những sai sót trong khâu quản lý thành phẩm các doanh nghiệp rất quan tâm và đầu tư thích hợp cho công tác này. Vì một khi doanh nghiệp thực hiện tốt công tác này sẽ không chỉ tạo được uy tín lớn trên thị trường mà còn giúp cho doanh nghiệp đánh giá thành phẩm một cách chính xác hơn.
2.2.3. Đánh giá thành phẩm
Đánh giá thành phẩm là phương pháp kế toán dùng thước đo bằng tiền để thực hiện giá trị thành phẩm nhằm ghi sổ kế toán và tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế liên quan đến thành phẩm.
Đánh giá thành phẩm còn làm cơ sở để tổ chức, quản lý, hạch toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả sản xuất kinh doanh. Trong doanh nghiệp thành phẩm có thể được đánh giá theo giá thực tế hoặc gián hạch toán.
2.2.3.1 Đánh giá thực tế
* Đối với thành phẩm nhập kho
- Thành phẩm do các phân xưởng sản xuất chính và phụ của doanh nghiệp sản xuất ra, khi nhập kho được tính theo giá thành thực tế. Thành phẩm hoàn thành trong kỳ bao gồm: Chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Thành phẩm thuê ngoài gia công hoàn thành, khi nhập kho được tính theo giá thực tế gia công bao gồm: Chi phí NVL trực tiếp, phí thuê gia công và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến quá trình gia công như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt trong quá trình thuê gia công.
- Trường hợp hàng hóa mua từ nước ngoài: Ở Việt Nam thường áp dụng hai loại giá là giá FOB và CIF
+ Với giá FOB: Giá giao tại cảng người bán: Người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi hàng đã qua lan can tàu tại cảng bốc quy định, thì người mua hoàn toàn phải chịu mọi phí tổn rủi ro, mất mát và hàng hóa bị hư hỏng. Điều kiện giá FOB chỉ áp dụng với vận tải loại đường biển hoặc đường sông. Giá này không bao hàm cước phí vận chuyển và cước phí bảo hiểm từ cảng bốc xếp tới cảng đích.
+ Với giá CIF - Giá giao tại cảng người mua: Người bán phải trả các phí tổn, cước phí cần thiết và mua bảo hiểm hàng hóa để đưa hàng tới cảng nơi quy định, lúc này người bán hoàn thành nghĩa vụ khi hàng qua lan can tàu nơi đã quy định và người mua đến lượt phải chịu các phí tổn rủi ro, mất mát hư hại hàng hóa kể từ lúc đó.
* Đối với thành phẩm xuất kho
Giá xuất kho thành phẩm xuất kho phụ thuộc nhiều vào giá cả biến động các mặt hàng trên thị trường, do đó việc tính toán xác định giá thực tế thành phẩm xuất kho có thể được áp dụng một trong các phương pháp sau:
- Phương pháp nhập trước - xuất trước (FIFO): Theo phương pháp này giả thiết số hàng nào nhập trước this được xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo tuần tự. Như vậy giá thực tế của hàng mua trước sữ được dùng để tính giá thực tế cho hàng xuất trước.
Ưu điểm: Phản ánh đúng giá trị thực tế của mỗi loại hàng hóa mua vào, thích hợp với những loại hàng cần tiêu thụ nhanh như đồ tươi sống, hoa quả.
Nhược điểm: Tính toán phức tạp, đòi hỏi thủ kho phải phân loại thành phẩm dẫn đến việc tổ chức kho phức tạp, không có tính cập nhật cao.
- Phương pháp mua sau - xuất trước (LIFO): Theo phương pháp này, trị giá hàng mua sau cùng được lấy giá để tính cho hàng xuất lần đầu tiên. Phương pháp này việc lấy giá để tính cho hàng xuất ngược với phương pháp FIFO
Ưu điểm: Đảm bảo được tính chính xác về giá trị hàng hóa xuất kho và cập nhật với giá thị trường.
Nhược điểm: Khó khăn trong việc hạch toán chi tiết hàng tồn kho
- Phương pháp thực tế đích dạnh (specific identification) : Giá thực tế thành phẩm xuất kho được căn cứ vào giá thực tế thành phẩm nhập kho theo từng lô, từng lần nhập. Phương pháp này thường được áp dụng với những hàng hoá như: vàng, bạc, đá quý…
Ưu điểm của phương pháp này là phản ánh một cách chính xác giá thực tế của từng lô hàng của từng lần nhập. Nhược điểm của nó là đòi hỏi thủ kho, kế toán phải theo dõi chi tiết từng loại giá của thành phẩm.
Ưu điểm: Phản ánh chính xác giá thực tế của tưng lô hàng, từng lần nhập và xuất
Nhược điểm: Thủ kho phải nắm bắt được chi tiết các lô hàng, kế toán phải theo dõi chi tiết từng loại giá của mỗi thành phẩm để có thể có được giá xuất một cách chính xác.
- Phương pháp giá thực tế bình quân gia quyền: Phương pháp này cũng căn cứ vào số lượng xuất kho trong kỳ và đơn giá bình quân gia quyền để tính. Nhưng trong tháng xuất kho chưa được ghi sổ mà đến cuối tháng sau khi tính giá bình quân mới tiến hành ghi sổ. Phương pháp này thường áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhiều mặt hàng.
Giá thực tế
TP xuất kho
=
Số lượng
TP xuất kho
*
Đơn giá BQ
gia quyền
Đơn giá
Bình quân
gia quyền
=
Giá thực tế TP tồn kho trước đợt nhập đó
+
Giá thực tế TP nhập của đợt nhập đó
Số lượng TP tồn kho trước đợt nhập đó
+
Số lượng TP củađợt nhập đó
Ưu điểm: Tính chính xác được giá thành xuất kho và giảm bớt được công việc ghi chép tính toán.
Nhược điểm: Không phù hợp với điều kiệ giá cả thường xuyên biến động với biên độ lớn và không theo quyluậ nhất định và giá thành sản phẩm xuất kho ít khi biến động
2.2.3.2 Đánh giá theo giá hạch toán
Giá hạch toán là loại giá do doanh nghiệp quy định có tính chất ổn định lâu dài. Giá này thường là giá kế hoạch hoặc giá thành phẩm bình quân năm trước hay giá nhập kho thống nhất quy định. Cuối kỳ (hoặc cuối tháng) sau khi tính được giá thành thực tế thành phẩm nhập kho, kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế bằng công thức:
Giá thực tế TP xuất trong kỳ
=
Hệ số giá
*
Giá hạch toán TP xuất trong kỳ
Trong đó:
Hệ số giá của thành phẩm
=
Giá thực tế của thành phẩm tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá hạch toán của thành phẩm tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá hạch toán có tác dụng phản ánh kịp thời các nghiệp vụ phát sinh hàng ngày về nhập - xuất kho TP. Thường áp dụng đối với những doanh nghiệp có chủng loại thành phẩm phong phú, giá thành thực tế thường xuyên biến động, tần số nhập - xuất thành phẩm trong kỳ lớn.
Trên đây là những phương pháp đánh giá thành phẩm nhập - xuất kho. Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng. Vì vậy, DN phải căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh thực tế để lựa chọn ra phương pháp nào phù hợp nhất. Nếu lựa chọn sai, không chỉ phản ánh thiếu trung thực kết quả kinh doanh của DN, làm cho nhà quản lý ra những quyết định thiếu chính xác mà để lâu liên quan đến lợi nhuận thu được và khâu đầu tiên bị ảnh hưởng là giá vốn và giá bán trong tiêu thụ thành phẩm.
2.2.4. Tiêu thụ thành phẩm
2.2.4.1. Khái nệm về tiêu thụ thành phẩm
Tiêu thụ thành phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất. Đó là việc cung cấp cho khách hàng các sản phẩm, lao vụ dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, đồng thời được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Đây chính là quá trình thực hiện quan hệ trao đổi hàng - tiền giữa DN với người mua và lúc này tính hữu ích của sản phẩm sản xuất ra mới chính thức được xã hôih thừa nhận, lao dộng của người sản xuất nói riêng và của toàn DN nói chung mới được công nhận.
Khâu tiêu thụ được coi là khâu quan trọng không kém gì khâu sản xuất. Vì thông qua quá trình tiêu thụ thành phẩm. DN thu được một khoản doanh thu bán hàng. Chỉ lúc này DN mới xác định được kết quả sản xuất kinh doanh có lãi hay không.
Quá trình tiêu thụ thành phẩm có thể chia thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm giao cho khách hàng, bên bán căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết để giao hàng cho người mua. Giai đoạn này phản ánh một mặt của quá trình vận động của sản phẩm nhưng chưa đảm bảo kết quả của quá trình tiêu thụ vì chưa có cơ sở đảm bảo quá trình tiêu thụ hoàn thành tốt.
- Giai đoạn 2: Khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng, đây là giai đoạn hoàn tất quá trình tiêu thụ.
2.2.4.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ thành phẩm
Lợi nhuận luôn là mục tiêu phấn đấu hàng đầu của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Đây là chỉ tiêu phản ánh trung thực kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Vì vậy, làm thế nào để đạt được lợi nhuận tối đa luôn là vấn đề quan tâm của các nhà quản lý. Đẩy mạnh tiêu thụ thành phẩm là một trong những phương án được DN lựa chọn để thu được lợi nhuận tối đa.
Như ta đã biết, tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng kết thúc một chu kỳ sản xuất mà mở đầu một chu kỳ sản xuất tiếp theo. Qua tiêu thụ, đồng vốn của DN mới trở về trạng thái ban đầu của nó. Với số doanh thu bán hàng này, DN trang trải các chi phí về NVL, máy móc thiết bị, nhà xưởng, lương cho công nhân viên…Có như vậy quá trình sản xuất thành phẩm mới tiếp tục được thực hiện một cách thường xuyên liên tục. Nếu tiêu thụ thành phẩm gặp khó khăn DN không những không có lợi nhuận mà có khi không đủ nguồn vốn để phục vụ cho quá trình tái sản xuất, tất yếu sản xuất sẽ bị ngừng trệ.
Không chỉ có vậy, đẩy mạnh tiêu thụ thành phẩm, có lãi DN bù đắp được chi phí bỏ ra và nâng cao lợi nhuận. Với lợi nhuận này không chỉ giúp cho DN tái sản xuất giản đơn mà còn có khoản vốn để mở rộng sản xuất, tăng cường đầu tư không ngừng hoàn thiện quy trình sản xuất…Có như vậy thì vị trí của doanh nghiệp trê thương trường ngày càng được khẳng định.
Với đặc điểm nổi bật của cơ chế thị trường là cạnh tranh gay gắt, nên công tac tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng kịp thời góp phần thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm chi phí bán hàng, chi phí kho tàng…làm hạ giá thành. Đây là một trong những chiến lược để DN cạnh tranh với các DN khác. Nếu công tác tiêu thụ chậm chạp, yếu kém làm ứ đọng sản phẩm, chu kỳ sản xuất kinh doanh kéo dài sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho DN.
Thông qua tiêu thụ thành phẩm, có được doanh thu, DN mới có thể thực hiện các khoản thu, nộp nghĩa vụ cho Nhà nước như thuế, phí, lệ phí…Đây là nguồn thu quan trọng của Ngân sách để từ đó Nhà nước có thể triển khai kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, làm cho đất nước ngày càng chuyển giao mạnh mẽ. Như vậy phát triển doanh nghiệp mình tức là DN đã góp phần vào sự phát triển phồn thịnh của đất nước.
Tiêu thụ càng nhiều thành phẩm, càng khẳng định được niềm tin của người tiêu dùng vào sản phẩm của DN. DN càng phát triển thì bạn hàng đặc biệt là ngân hàng, tổ chức tín dụng, đối tượng khác tin vào cách làm ăn của DN. Đây là cơ hội tốt để doanh nghiệp vay vốn đầu tư cho sản xuất. Mối quan hệ này rất cần thiết nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay hầu hết các DN đều thiếu vốn để phát triển sản xuất.
Cũng qua công tác tiêu thụ thành phẩm DN có thể nắm bắt được thị hiếu khách hàng, tình hình cạnh tranh trên thị trường, thị trường nào là mục tiêu…Từ đó mà hoạch định lên những kế hoạch đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Chẳng hạn như: Đầu tư mở rộng mặt hàng nào, thu hẹp hay thay đổi quy cách mẫu mã sản phẩm theo hướng nào…và tiêu thụ là căn cứ để đánh giá, kiểm tra về khối lượng, chất lượng thành phẩm một cách chính xác nhất.
Ngoài ra trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế mở, xu hướng hội nhập quốc tế, thì tiêu thụ sản phẩm sẽ là chiếc cầu nối quan trọng thắt chạt thêm mối quan hệ giữa các quốc gia, thúc đẩy thương mại quốc thành phẩm ế ngày càng phát triển.
Như vậy, thực hiện tốt công tác tiêu thụ thành phẩm sẽ đưa lại kết quả vô cùng to lớn. Tuy nhiên, tieu thụ thành phẩm nhanh hay chậm, nhiều hay ít không do ý muốn chủ quan của DN được. Việc tiêu thụ thành phẩm diễn ra như thế nào còn chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau.
2.2.5 Một số nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ thành phẩm
2.2.5.1 Người tiêu dùng
Đây là nhân tố quyết định đến công tác tiêu thụ thành phẩm của DN. Những DN nào có sản phẩm phù hợp với tập quán, trình độ văn hoá, thi hiếu, thu nhập, mục đích sử dụng…đương nhiên sẽ được chấp nhận và ngược lại. Vì người tiêu dùng là đối tượng trực tiếp sử dụng sản phẩm của Công ty. Do đó, muốn tiêu thụ được thành phẩm thì phải được khách hàng chấp nhận và như vậy DN mới có doanh thu để tiếp tục thực hiện sản xuất.
2.2.5.2 Giá cả thành phẩm
Giá cả của hàng hoá dịch vụ trên thị trường được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán. Do vậy, những nhà quản lý sử dụng giá như một công cụ sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ thành phẩm. Khi DN đưa ra mức giá phù hợp khả năng thanh toán với chất lượng và hợp lý về không gian và thời gian thì chắc chắn sản phẩm sẽ chiếm được tình cảm của người mua. Thành phẩm sẽ được tiêu thụ nhanh đó là điều tất yếu. Ngoài ra, giá cả còn dùng để cạnh tranh với các đối thủ khác, với cùng một sản phẩm tương tự nhau, nếu DN đưa ra mức giá thấp hơn thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến.
2.2.5.3 Chất lượng thành phẩm
Cùng với giá cả, chấp lượng thành phẩm là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN. Một khi chất lượng thành phẩm tốt không chỉ thu hút khách hàng, mà còn được người mua tin tưởng vào thành phẩm của DN, biến những khách hàng không thường xuyên trở thành khách hàng thường xuyên mua sản phẩm của DN. Điều này sẽ làm tăng khối lượng thành phẩm tiêu thụ từ đó tạo điều kiện thu nhiều lợi nhuận
2.2.5.4 Khối lượng thành phẩm sản xuất và tiêu thụ
Khối lượng thành phẩm sản xuất ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng thành phẩm tiêu thụ. Khối lượng sản xuất ra nhiều thì lượng bán sẽ tăng lên. Tuy nhiên khối lượng thành phẩm tiêu thụ lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố không chỉ mỗi sản xuất. Do vậy, để đặt ra khối lượng sản xuất phù hợp thì phải xem xét nhu cầu của thị trường. Nếu lượng thành phẩm tiêu thụ quá lớn thì người tiêu dùng không mua hết sẽ không chỉ gây ra lãng phí vốn, có khi doanh nghiệp phải giảm giá bán cho hết dẫn đến thu được ít lợi nhuận hoặc có khi lỗ. Ngược lại, nếu quá ít vừa mất lượng thu nhập, lại mất một số khách hàng chuyển sang mua doanh nghiệp khác. Do vậy, sản xuất bao nhiêu để đưa ra lưu thông dự trữ sẵn sàng tung ra khi cần thiết đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường
2.2.5.5 Công tác tổ chức bán hàng
Trong quá trình tiêu thụ thành phẩm công tác bán hàng cũng là một nhân tố quan trọng dể DN thúc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Một DN áp dụng tổng hợp các hình thức bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán tại kho, bán qua đại lý, ký gửi…Thì đương nhiên sẽ tiêu thụ nhiều hơn là áp dụng đơn thuần một hình thức bán hàng. Ngoài ra, có những DN còn kèm theo những dịch vụ vận chuyển miễn thuế, giảm phí, bảo hành sản phẩm…mục đích làm cho khách hàng thoải mái khi sử dụng sản phẩm của DN và như thế sẽ thu hút được nhiều người mua hàng hơn.
2.2.5.6 Kênh phân phối
Kênh phân phối là một tập hợp các tổ chức mà qua đó người bán thực hiện bán sản phẩm cho người sử dụng và người tiêu dùng cuối cùng. Các kênh phân phối cung cấp cho người tiêu dùng các lợi ích về thời gian, địa điểm và sở hữu. bán hàng được gọi là có hiệu quả khi lựa chọn kênh đưa sản phẩm đến đúng nơi, đúng chỗ với tổng chi phí nhỏ nhất.
Kênh phân phối điển hình cho hàng hoá tiêu dùng
Nhà sản xuất
Nhà sản xuất
Người tiêu dùng
người bán lẻ
Người bán buôn
Đại lý
Nhà sản xuất
Đại lý
Nhà sản xuất
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Người bán buôn
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Người tiêu dùng
2.2.5.7 Quảng cáo và giới thiệu sản phẩm
Quảng cáo là một công tác không thể thiếu trong quá trình tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp. Trước đây, người ta xem nhẹ quảng cáo nhưng trong môi trường kinh doanh như hiện nay thì nếu không có quảng cáo hoặc quảng cáo không tốt thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tiêu thụ. Quảng cáo là cách tốt nhất để cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của Doanh nghiệp. Dựa vào lượng thông tin cô đọng, đặc trưng về sản phẩm thì khách hàng so sánh với các sản phẩm của những doanh nghiệp khác trước khi quyết định mua hàng. Nó còn giúp cho khách hàng nhận thấy được những ưu điểm của sản phẩm, cũng từ đó khơi dậy những nhu cầu mới để khách hàng tìm đến doanh nghiệp. Quảng cáo là người bán hàng đắc lực giúp cho khách hàng và doanh nghiệp tìm đến nhau. Nó còn giúp đẩy nhanh công tác tiêu thụ sản phẩm đặc biệt là trong giai đoạn sản phẩm tiêu thụ bắt đầu bị ngừng lại. Tuy nhiên nếu quảng cáo sai sự thật thì uy tín của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị giảm, sản phẩm sẽ bị ngưòi tiêu dùng tẩy chay và doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến phá sản.
2.2.5.7 Hình thức thanh toán tiền hàng
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình tiêu thụ thành phẩm, chỉ khi nào thu được tiền hàng thì khi đó thành phẩm mới thực sự thưc hiện được giá trị của mình, qua đó mới đánh giá được tình hình tiêu thụ một cách chính nhất. Nhưng lựa chọn hình thức thanh toán như thế nào đấy không phải là điều đơn giản, nhất là trong cuộc cạnh tranh gay gắt hiện nay.
+ Bán hàng thu tiền ngay: Đây là hình thức luôn được các DN mong muốn. Bởi vì hình thức này không chỉ an toàn mà còn giúp cho DN thu hồi vốn một cách nhanh chóng. Nhưng đối với khách hàng lại không thuận tiện khi mua hàng với số lượng lớn.
+ Bán hàng trả chậm: Là hình thức thanh toán mà sau khi giao hàng cho khách hàng một thời gian sa doanh nghiệp mới nhận được khoản doanh thu của số hàng đó. Hình thức này tương ứng với bán chịu. Hầu hết doanh nghiệp áp dụng hình thức này để kích thích mua hàng vì nó thuận tiện với khách hàng. Nhưng đối với doanh nghiệp nó lại mang lại nhiều rủi ro (vì có khi không đòi được tiền hàng) và bị chiếm dụng vốn lớn. Nếu doanh nghiệp không có tài chính khá vững thì sẽ dễ dẫn đến trì trệ sản xuất. Do đó, các doanh nghiệp thường phải lập quỹ dự phòng phải thu khó đòi.
+ Bán hàng trả góp: Là hình thức thanh toán được áp dụng ở các doanh nghiệp mà sản phẩm là hàng tiêu dùng với số lượng lớn như xe máy,tivi, tủ lạnh, máy giặt…hay khách hàng là người tiêu dùng trực tiếp. Doanh nghiệp giao sản phẩm cho khách hàng và nhận doanh thu tiêu thụ làm nhiều lần. Hình thức này hiện nay rất thu hút được khách hàng nhưng lại gây khó khăn cho doanh nghiệp, vì doanh nghiệp phải theo dõi khách hàng và lựa chọn khách hàng có khả năng thanh toán cao nên mất nhiều chi phí đồng thời rủi ro cao hơn hai hình thức trên.
Ngoài ra còn một số hình thức khác như hàng đổi hàng, doanh thu trả trước…
2.2.5.8 Thị trường tiêu thụ thành phẩm
Trong nền sản xuất hàng hoá thì thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và quan hệ tiền tệ. Đó là nơi tiêu thụ sản phẩm và cũng là nơi cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin quan trọng để hoạch định đầu tư sản xuất. Qua đây, doanh nghiệp xác định được lợi thế để phát huy nó. Vì vậy công tác nghiên cứu thị trường rất quan trọng trong tiêu thụ thành phẩm.
Ngoài những nhân tố trên thì chính sách, đường lối của Nhà nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất cũng như tiêu thụ thành phẩm của Doanh nghiệp.
Tóm lại ta thấy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ thành phẩm của doanh nghiệp ( trên đây là một số nhân tố chủ yếu). Như vậy đẩy mạnh công tác này là một điều vô cùng khó khăn với các doanh nghiệp, nên khâu quản lý tiêu thụ thành phẩm cũng đòi hỏi khắt khe, chặt chẽ.
2.3 Nhiệm vụ của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
Thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm có quan hệ mật thiết với nhau. Thành phẩm qua kiểm nghiệm có đáp ứng được những tiêu chuẩn, thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng thì thành phẩm đưa ra thị trường mới tiêu thụ được. Do đó chất lượng, mẫu mã, bai bì của thành phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng tiêu thụ. Nếu sản xuất thành phẩm mà không hoàn thành thì kéo theo kế hoạch tiêu thụ thành phẩm bị phá vỡ. Còn tiêu thụ thành phẩm lại quyết định đến sự mở rộng, thu hẹp, sản xuất sản phẩm.
Vì vậy, nhiệm vụ đề ra cho kế toán thành phẩm và kế toán tiêu thụ thành phẩm luôn gắn liền với nhau. Để phát huy vai trò của kế toán đối với công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất kinh doanh, kế toán thành phẩm và kế toán tiêu thụ thành phẩm cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời và giám đốc chặt chẽ tình hình hiện có và sự biến động (nhập, xuất và tồn kho) của từng loại thành phẩm. Tiến hành đối chiếu sổ sách với số tồn tại thực tế tại kho nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các sai sót trong việc quản lý thành phẩm.
- Giám sát chặt chẽ quá trình tiêu thụ, phản ánh đầy đủ doanh thu, xác định chính xác giá vốn hàng bán, ghi chép đầy đủ, kịp thời các khoản chi phí bán hàng, các khoản giảm trừ doanh thu.
- Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động trong doanh nghiệp cũng như toàn doanh nghiệp, phản ánh và giám sát tình hình phân phối kết quả, đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
- Theo dõi các khoản hàng gửi bán nhằm đánh giá hiệu quả của các cửa hàng, đại lý, phản ánh chính xác các khoản nợ của khách hàng nhằm có biện pháp giảm bớt lượng vốn bị chiếm dụng bởi các doanh nghiệp khác.
- Cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết cho các bộ phận có liên quan, cho nhà quản lý. Đồng thời định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối vcới những hoạt động bán hàng và thu nhập.
2.4. Phương pháp kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
2.4.1. Nguyên tắc hạch toán thành phẩm
Thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra không chỉ là một loại mà bao gồm nhiều loại, mỗi loại lại có thứ hạng phẩm cấp khác nhau. Nên để quản lý hạch toán chặt chẽ thành phẩm đòi hỏi công tác kế toán thành phẩm cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Tổ chức kế toán thành phẩm theo từng loại: Theo dõi từng thứ, loại cả chất lượng và số lượng thành phẩm.
- Phải có sự phân công và kết hợp trong việc theo dõi, ghi chép giữa phòng kế toán với nhân viên hạch toán phân xưởng với thủ kho để nắm chắc và theo dõi quản lý thành phẩm.
- Thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất được đánh giá theo giá thành thực tế. Trường hợp thành phẩm thuê ngoài gia công, giá thành thực tế bao gồm toàn các chi phí liên quan đến việc gia công ( chi phí NVL, chi phí thuê gia công…)
Nhưng do đặc điểm thành phẩm xuất - nhập kho hàng ngày nên thành phẩm còn được phản ánh theo giá hạch toán cho thuận tiện, cuối kỳ điều chỉnh lại cho phù hợp với giá thực tế của thành phẩm.
Thành phẩm trong kho luôn thay đổi, biến động do nhiều nguyên nhân khác nhau như nhập - xuất - tồn…để theo dõi sự biến động của nó mỗi khi có các nghiệp vụ phát sinh, kế toán lập chứng từ. Dựa vào chứng từ này, kế toán dễ dàng theo dõi, kiểm tra về nguyên nhân của sự thay đổi thành phẩm.
2.4.2. Hạch toán chi tiết thành phẩm
2.4.2.1 Chứng từ sử dụng trong kế toán thành phẩm
Chứng từ là bằng chứng bằng giấy tờ để chứng minh việc phát sinh một nghiệp vụ kinh tế và thực sự hoàn thành. Chứng từ còn là cơ sở pháp lý cho mọi số liệu trên tài khoản, sổ kế toán, báo cáo kế toán. Mọi nghiệp vụ biến động của thành phẩm đều được phản ánh và ghi chép vào chứng từ. Do chức năng quan trọng của chứng từ, nên để dễ kiểm tra, quản lý tình hình tài chính của Bộ Tài Chính quyết định các chứng từ sử dụng trong kế toán thành phẩm là: Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho, hoá đơn kiêm vận chuyển nội bộ thẻ kho, biên bản kiểm kê, hoá đơn bán hàng, hoá đơn GTGT…
2.4.2.2 Kế toán chi tiết thành phẩm
Kế toán chi tiết thành phẩm là việc ghi số liệu, luân chuyển chứng từ giữa các kho và phòng kế toán bằng các chỉ tiêu số lượng, giá trị thành phẩm theo từng loại, từng kho.
Có 3 phương pháp hạch toán chi tiết thành phẩm:
* Phương pháp ghi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 48. co so ly luan.doc