Lời mở đầu
Quá trình sản xuất kinh doanh trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là một quá trình kết hợp và tiêu hao các yếu tố sản xuất để thu hút được sản phẩm. Tổng hợp toàn bộ các hao phí mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo nên chỉ tiêu chi phí sản xuất. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có bảo đảm tự bù đắp được chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và bảo đảm có lãi hay không. Vì vậy, việc hạch
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế toán tập hợp chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm ở Công ty Dệt May Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
toán đầy đủ chính xác, chi phí sản xuất vào giá thành của sản phẩm là việc làm cấp thiết, khách quan và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Mặt khác, xét trên góc độ vĩ mô, do các yếu tố sản xuất ở nước ta còn rất hạn chế nên tiết kiệm chi phí sản xuất đang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công ty quản lý kinh tế.
Nhiệm vụ cơ bản của kế toán là không những phải hạch toán đầy đủ chi phí sản xuất, mà còn phải làm thế nào để kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất, phục vụ tốt cho việc hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của chế độ hạch toán kinh doanh. Đồng thời cung cấp thông tin hữu ích, kịp thời cho việc ra quyết định. Để giải quyết được vấn đề đó, phải hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Công việc này không những mang ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn to lớn cấp bách trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta nói chung và công ty Dệt - May Hà Nội nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, cùng sự giúp đỡ tận tuỵ của thầy giáo Nguyễn Ngọc Toản, trong thời gian thực tập em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty Dệt - May Hà Nội” làm báo cáo chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 3 phần chính:
Chương I: Lý luận chung về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng tổ chức hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm ở công ty Dệt - May Hà Nội.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty Dệt - May Hà Nội.
Với kiến thức và trình độ có hạn, chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế (do thời gian thực tập ngắn) nên chuyên đề tốt nghiệp này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong sự thông cảm và nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô bạn bè và các anh chị trong phòng kế toán để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Ngọc Toản cùng các anh, chị trong phòng kế toán, cùng các thầy cô trong bộ môn kế toán trong quá trình học tập nghiên cứu và hoàn thiện chuyên đề này.
Hà nội, tháng 7 năm 2000
chương I
lý luận chung về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
I-/ Khái niệm chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1-/ Chi phí sản xuất.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản, tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất là quá trình kết hợp ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí về lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Trong bất kỳ xã hội nào, khi nền sản xuất hàng hoá còn tồn tại thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn đóng vai trò quan trọng và tồn tại khách quan. Để tăng cường hiệu lực của công tác quản lý, hoàn thiện kế hoạch hoá, sử dụng thông tin hạch toán chi phí sản xuất và giá thành hữu hiệu trong quản trị doanh nghiệp,... trước hết, đòi hỏi phải nắm bắt một cách sâu sắc bản chất kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng ta phải phân biệt được giữa chi phí với chi tiêu và nắm chắc được chức năng thông tin cơ bản của chỉ tiêu giá thành.
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá,...), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, cho công tác quản lý,...) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo,...).
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về mặt lượng, mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này, nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi phí và chi tiêu trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán của chúng.
Từ những điều phân tích ở trên cho thấy, thực chất chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp (chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất) vào các đối tượng tính giá nhất định (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ), nó là vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Có thể đứng trên góc độ khác nhau của người quản lý để phân loại chi phí sản xuất (góc độ tài chính, góc độ kế toán, phân tích, góc độ kế hoạch hoá,...). Tuy nhiên, ở góc độ nào thì sự phân loại cũng dựa trên một số chỉ tiêu như: đặc điểm của chi phí theo ngành kinh doanh, mối liên hệ giữa chi phí và kết quả, yêu cầu quản lý của từng ngành, từng đơn vị. Vì thế, các cách phân loại đều tồn tại bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Trên góc độ kế toán tài chính, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau:
* Phân theo yếu tố chi phí (theo nội dung kinh tế của chi phí sản xuất.
Theo cách phân loại này, những khoản chi phí có chung tính chất (nội dung) kinh tế được xếp chung vào một yếu tố, không kể chi phí đó phát sinh ở địa điểm nào dùng vào mục đích gì trong sản xuất kinh doanh. Về thực chất, chỉ có ba yếu tố chi phí là chi phí về sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tuy vậy, để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn, các yếu tố chi phí trên có thể được chi tiết theo nội dung kinh tế của chúng. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý của mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác nhau. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia htành bảy yếu tố:
- Nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ,... sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Tiền lương và các khoản phụ cấp lương của cán bộ công nhân viên: phản ánh tổng số tiền lương phải trả cho toàn bộ cán bộ công nhân viên.
- Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ) tính theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
- Khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
- Chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên, dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Cách phân loại này cho biết những chi phí đã chi vào quá trình sản xuất và tỷ trọng của từng loại chi phí đó chiếm bao nhiêu trong tổng số chi phí sản xuất của doanh nghiệp, làm cơ sở để tập hợp chi phí sản xuất và lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố. Đồng thời, nó còn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác xây dựng và xét duyệt định mức vốn lưu động của doanh nghiệp, trong việc lập và kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí sản xuất, đánh giá tình hình quản lý chi phí của doanh nghiệp. Phân loại theo cách này, còn là cơ sở để lập và cân đối các kế hoạch với nhau, kế hoạch lao động và tiền lương, kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch tài sản lưu thông,... là cơ sở tính toán xác định các nhu cầu tiêu hao vật chất cho công ty.
* Phân theo công dụng kế toán của chi phí hay phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Các phan loại này dựa vào công dụng của chi phí, địa điểm phát sinh của chi phí, nơi gánh chịu chi phí và mức độ phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Cũng như, cách phân loại theo yếu tố, số lượng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau.
Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt Nam bao gồm ba khoản mục chi phí:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT): là toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu,... tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp (NCTT): gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích theo lương cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ nhất định của công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm.
- Chi phí sản xuất chung (SXC): là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất, nhưng có tính chất phục vụ chung cho quá trình sản xuất sản phẩm (trừ chi phí NVLTT và NCTT).
Mặc dù, việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng trong thực tế rất khó tính giá theo yếu tố. Vì, doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm. Nếu tính giá thành theo yếu tố phải tính toán phân bổ nhiều lần và như vậy rất phức tạp. Do đó, người ta dùng cách tập hợp những khoản chi phí cần phân bổ vào những nhóm riêng có cùng một công dụng kế toán để phân bổ một lần.
Hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu của quá trình hạch toán. Do đó, việc phân loại chi phí không chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ cho việc tập hợp chi phí, kiểm tra phân tích chi phí, mà nó còn là cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm một cách chính xác nhưng lại đơn giản. Do vậy, việc phân loại chi phí theo khoản mục người tác dụng kiểm tra tình hình sử dụng chi phí trong phạm vi doanh nghiệp cũng như theo từng loại sản phẩm riêng biệt, còn đáp ứng được nhu cầu tính giá thành sản phẩm.
* Phân loại theo lĩnh vực kinh doanh.
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia làm ba loại:
- Chi phí sản xuất kinh doanh (SXKD)
- Chi phí hoạt động tài chính
- Chi phí bất thường.
Cách phân loại này, giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng loại hoạt động kinh doanh đúng đắn.
* Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh.
Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng, chia chi phí sản xuất kinh doanh làm ba loại:
- Chi phí sản xuất: gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng.
- Chi phí tiêu thụ: gồm tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ,...
- Chi phí quản lý: gồm các chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp.
Cách phân loại này, là cơ sở để xác định giá thành công xưởng, xác định trị giá hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo từng chức năng cũng như căn cứ để kiểm soát và quản lý chi phí.
* Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí.
Chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm và chỉ được thu hồi khi có sản phẩm tiêu thụ. Chi phí sản phẩm gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
- Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó. Nó không phải là một khoản chi phí tạo thành thực tế sản phẩm, mà là khoản chi phí hoàn toàn biệt lập với quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí thời kỳ gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
* Phân theo quan hệ của chi phí và khối lượng công việc sản phẩm hoàn thành.
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ cho việc đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh lại được phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Khi đó, chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Chi phí bất biến: là những chi phí không thay đổi về tổng số khi khối lượng thay đổi. Nhưng, chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm thay đổi khi số lượng sản phẩm thay đổi.
- Chi phí khả biến: là những chi phí thay đổi khi sản lượng thay đổi, như: chi phí nguyên vật liệu chính, chi phí nhân công trực tiếp,... Tuy nhiên, chi phí này tính cho một đơn vị sản phẩm lại không thay đổi khi số lượng sản phẩm thay đổi.
Cách phân loại này, có ý nghĩa rất quan trọng đối với kế toán quản trị trong quá trình phân tích tình hình tiết kiệm chi phí, xác định phương hướng nâng cao hiệu quả chi phí.
* Phân theo quan hệ với quá trình sản xuất.
Chi phí sản xuất bao gồm:
- Chi phí trực tiếp: là những chi phí tự bản thân chúng có quan hệ trực tiếp tới quá trình sản xuất và có thể chuyển trực tiếp cho sản phẩm hay đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí gián tiếp: là những chi phí chung có liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm hay công việc khác nhau. Do vậy, phải phân bổ cho các đối tượng có liên quan theo các tiêu thức phân bổ thích hợp.
Cách phân loại này, có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế toán và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn và hợp lý.
* Phân theo khả năng kiểm soát.
Chi phí sản xuất bao gồm: chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được. Đây là khoản mục chi phí phản ánh phạm vi quyền hạn của các nhà quản trị các cấp đối với các chi phí đó.
Bên cạnh đó, trong quản lý kinh tế, người ta còn sử dụng một số thuật ngữ khác như:
- Chi phí khác biệt: là những chi phí có được do đem so sánh các phương án kinh doanh với nhau.
- Chi phí cơ hội: là khoản chi phí không xuất hiện trên sổ sách kế toán. Đó chính là khoản lợi nhuận tiềm tàng bị mất khi chọn phương án kinh doanh khác.
- Chi phí tới hạn: là khoản chi phí mà doanh nghiệp đầu tư bổ sung để làm thêm số sản phẩm ngoài dự kiến. Đây là một chìa khoá để doanh nghiệp quyết định số lượng sản phẩm cần sản xuất, tiêu thụ nhằm đạt mục đích tối đa hoặc hạn chế lỗ ở mức thấp nhất.
Như vậy, mỗi cách phân loại chi phí nói trên đều có tác dụng và ý nghĩa riêng. Đồng thời, có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác dụng bổ sung cho nhau và nhằm mục đích chung là quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Qua các cách phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp cho phép xác định một cơ cấu chi phí khác nhau và hiểu được cặn kẽ nội dung, tính chất và vị trí của từng loại chi phí trong sản xuất, tạo ra sản phẩm.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét nghiên cứu các cách phân loại này.
2-/ Giá thành sản phẩm.
Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Như vậy, chi phí và giá thành có thể được xác định trên hai mặt: mặt định tính và mặt định lượng.
- Về mặt định tính: thể hiện các yếu tố vật chất phát sinh và tiêu hao trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm.
- Về mặt định lượng: thể hiện mức tiêu hao cụ thể của từng yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mức tiêu hao này, có thể xác định được dựa vào hai nhân tố: khối lượng và giá cả của các yếu tố đã tiêu hao trong kỳ.
Điều phân tích ở trên cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khi mà giá cả không ổn định thì việc đánh giá chính xác các khoản chi phí là một điều cần thiết và phải được chú trọng. Nó không những xác định đúng chi phí phù hợp với giá cả thị trường, bảo đảm cho doanh nghiệp bù đắp được chi phí đã bỏ ra, mà còn có điều kiện để thực hiện bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh.
Như vậy, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá thành của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp, mà không gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải được phản ánh giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Vì vậy, việc phân biệt giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có ý nghĩa thực tiễn rất lớn ở các doanh nghiệp ứng dụng tính giá thành sản phẩm, dịch vụ.
3-/ Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Do đó, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng có phạm vi và nội dung khác nhau.
- Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn giá thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành.
- Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành, mà còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ sau:
CPSX dở dang đầu kỳ
CPSX phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
CPSX dở dang cuối kỳ
Hay: = + -
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau, hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Nhưng, qua tất cả sự phân tích trên cũng cho chúng ta thấy giữa hai khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì, nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Ta có thể nói: “Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau”. Sự tiết kiệm hay lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm thấp hay cao. Quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch giá thành, cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội và giá thành cá biệt, còn có các khái niệm giá thành công xưởng và giá thành toàn bộ, giá thành kế hoạch, định mức và thực tế,...
Về mặt hạch toán, xét theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành:
- Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (chi phí NVLTT, NCTT và chi phí sản xuất chung cho sản phẩm, dịch vụ hoàn thành).
Bởi vậy, giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá thành công xưởng. Giá thành sản xuất được tính theo công thức:
= + -
- Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): là chi phí thực tế của số sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ của doanh nghiệp (chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng). Và nó được tính theo công thức:
= + -
Về mặt quản lý giá thành, xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế:
- Giá thành kế hoạch: là giá thành tính trước khi bắt đầu sản xuất, dựa trên các định mức và dự toán chi phí trong kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu này xác định mức độ chi phí giới hạn để sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: là giá thành cũng được tính trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng), nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm, trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm, kể cả chi vượt hoặc ngoài định mức, kế hoạch (thiệt hại, hao hụt trong sản xuất,...).
Việc xem xét chỉ tiêu giá thành sản phẩm trên các góc độ khác nhau là cần thiết. Bởi vì, mỗi loại giá thành có ý nghĩa khác nhau trong quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh. Chẳng hạn, giá thành cá biệt của sản phẩm dùng để đánh giá chất lượng kinh tế của các doanh nghiệp, giá thành công xưởng dùng đánh giá hạch toán kinh tế nội bộ, giá thành sản xuất thực tế được sử dụng khi nhập kho thành phẩm, còn giá thành sản phẩm tiêu thụ được sử dụng tính toán, xác định kết quả bán hàng (kết quả kinh doanh) của doanh nghiệp.
4-/ Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành.
Từ tất cả những vấn đề đã đề cập ở trên, chúng ta thấy rằng: việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không phải chỉ dừng lại ở chỗ tính đúng, tính đủ chi phí trong giá thành sản phẩm nữa, mà còn phải tính đến việc cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp. Đây là một đòi hỏi khách quan của công tác quản lý, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. Thông tin về hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phải là thông tin chủ yếu, mang tính quyết định và là cơ sở để đề ra các quyết định kinh doanh. Thông tin này phục vụ cho doanh nghiệp ra các quyết định cụ thể, như: sản lượng hoà vốn, sản lượng tối đa hoá lợi nhuận, điểm đóng cửa, mặt hàng kinh doanh tối ưu,... Vì thế, muốn tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, đáp ứng đầy đủ, trung thực, kịp thời yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành của doanh nghiệp, kế toán cần thực hiện được các nhiệm vụ chủ yếu sau:
ã Căn cứ quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành thích hợp, đáp ứng yêu cầu đơn giản, phù hợp với trình độ của doanh nghiệp.
ã Tổ chức tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp thích hợp đã chọn, cung cấp những số liệu thông tin tổng hợp về các khoản mục chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
ã Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính toán giá thành và giá thành đơn vị của từng đối tượng tính giá thành theo đúng khoản mục quy định và đúng kỳ tính giá thành đã xác định.
ã Định kỳ cung cấp các báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành cho lãnh đạo doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, phát hiện kịp thời khả năng tiềm tàng, đề xuất biện pháp thích hợp để phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
Như vậy, trước hết phải nhận thức rõ vị trí, vai trò của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, và mối quan hệ giữa kế toán tập hợp chi phí và giá thành sản phẩm với các bộ phận kế toán liên quan. Từ đó, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mới có thể tiến hành nhiệm vụ một cách có hiệu quả được.
Qua các phần đã trình bày ở trên, chúng ta đã đề cập rất nhiều lần về ý nghĩa của việc tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm. Và để thực hiện được điều đó, việc xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành, cũng như việc lựa chọn phương pháp phân bổ chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành đóng một vai trò rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu vấn đề này trong các mục sau.
5-/ Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Trong lý luận cũng như thực tiễn hạch toán, việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là nội dung cơ bản nhất của tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm và sản phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành,... theo đơn vị tính giá thành quy định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý, kiểm tra, phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp, loại hình sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất (tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất) và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị sản phẩm (tức đối tượng tính giá thành).
* Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí thực chất là nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Vì vậy, khi xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, trước hết phải căn cứ vào mục đích sử dụng của chi phí. Sau đó, căn cứ vào địa điểm phát sinh chi phí.
Xác định đối tượng tập hợp chi phí đúng và phù hợp với đặc điểm hoạt động, yêu cầu quản lý của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong việc tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất, từ việc tổ chức hạch toán ban đầu đến việc tổ chức tổng hợp số liệu ghi chép trên tài khoản, sổ chi tiết,...
* Đối tượng tính giá thành phẩm.
Đối tượng tính giá thành phẩm là sản phẩm, bán thành phẩm, dịch vụ, lao vụ hoàn thành đòi hỏi phải tính giá thành. Đối tượng đó, có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm.
Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành giống nhau ở bản chất chung, chúng đều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí theo đó và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí và giá thành. Nhưng, chúng cũng có những điểm khác nhau:
- Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định phạm vi (nơi) phát sinh chi phí để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ.
- Xác định đối tượng tính giá thành có liên quan đến kết quả của quá trình sản xuất (thành phẩm và dịch vụ hoàn thành).
- Một đối tượng tập hợp chi phí có thể có nhiều đối tượng tính giá thành.
Tuy nhiên, ở nhiều trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể phù hợp với đối tượng tính giá thành. Do đó, để phân biện được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một cần dựa vào những căn cứ đã nêu trên.
Nếu doanh nghiệp có trình công nghệ sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thì sản phẩm cùng tiến hành trong một trình lao động). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng.
Với quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm,... Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
ở doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có tính chất đơn chiếc, như: đóng tàu, sửa chữa ô tô, tàu,... thì đối tượng tập hợp chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm từng đơn.
Đối với sản xuất hàng loạt và sản xuất với khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ và đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm như đã nêu trên.
Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đồng thời, thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác nêu trên.
II-/ Phương pháp và trình tự hạch t._.oán chi phí sản xuất.
1-/ Nguyên tắc hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm.
Theo chế độ quy định về hạch toán hiện nay, chỉ những khoản chi phí cơ bản trực tiếp (NVLTT, NCTT) và những chi phí quản lý phân xưởng, chi phí sản xuất chung (khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài,...) mới được tính vào giá thành sản phẩm, dịch vụ. Còn chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng được hạch toán vào giá thành thực tế của sản phẩm bán ra. Thực chất, đối với doanh nghiệp sản xuất chi phí quản lý doanh nghiệp chủ yếu là chi phí sản xuất. Song, về kỹ thuật hạch toán vận dụng nguyên tắc thận trọng trong kế toán nên nó được tính cho sản phẩm, dịch vụ bán ra. Điều này không có gì mâu thuẫn với bản chất của giá thành. Bởi vì, đến khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp (khâu bán hàng), giá thành sản phẩm, dịch vụ được bảo đảm chứa đựng chi phí doanh nghiệp chi ra cần được bù đắp.
Những khoản chi phí khác, như: chi phí đầu tư, chi phí hoạt động tài chính, các khoản chi bất thường, các khoản chi có nguồn bù đắp riêng, chỉ có tính chất phân phối lại,... không hạch toán vào chi phí sản xuất và tất nhiên không tính và giá thành sản phẩm.
Ngoài việc tập hợp toàn bộ chi phí chỉ liên quan đến một đối tượng thì kế toán còn phải tiến hành phân bổ chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp có liên quan đến nhiều đối tượng theo tiêu thức phân bổ.
Công thức phân bổ:
= x
Việc xác định nguyên tắc hạch toán chi phí vào giá thành sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa rất lớn trong việc tính đúng, tính đủ và hợp lý chi phí vào giá thành sản phẩm, cũng như đảm bảo tính nhất quán trong kế toán chi phí và giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
2-/ Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí là kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng.
Trên thực tế, có nhiều phương pháp hạch toán chi phí khác nhau, mỗi phương pháp thích hợp với một đối tượng hạch toán chi phí cụ thể:
* Hạch toán chi phí theo toàn bộ qui trình công nghệ:
Phương pháp này áp dụng ở những doanh nghiệp có qui trình công nghệ giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là toàn bộ qui trình công nghệ. Khi sử dụng phương pháp này, các tài khoản chi phí được mở chung cho cả qui trình công nghệ. Chi phí sản xuất phát sinh căn cứ vào chứng từ ban đầu được phân loại theo công dụng và tập hợp vào các tài khoản chi phí.
* Hạch toán chi phí theo giai đoạn công nghệ:
Sử dụng ở những doanh nghiệp có qui trình công nghệ phức tạp kiểu liên tục, sản phẩm phải trải qua nhiều giai đoạn chế biến, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng giai đoạn công nghệ. Theo phương pháp này, các tài khoản chi phí sản xuất phát sinh, một mặt, kế toán phân loại theo từng giai đoạn công nghệ, mặt khác, phân loại theo công dụng chi phí để tập hợp vào các tài khoản chi tiết tương ứng.
* Hạch toán chi phí theo sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm.
Thích hợp với những doanh nghiệp có đối tượng hạch toán chi phí là từng loại sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm riêng biệt. Theo phương pháp này, tài khoản chi phí sản xuất được mở chi tiết theo từng loại hoặc từng nhóm sản phẩm. Chi phí sản xuất phát sinh được phân loại và tập hợp theo từng loại sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm riêng biệt, không phụ thuộc vào tính chất phức tạp của sản phẩm và qui trình công nghệ sản xuất. Nếu qui trình chế biến sản phẩm qua nhiều phân xưởng chế biến khác nhau thì các chi phí được tập hợp theo từng phân xưởng, trong đó, các chi phí trực tiếp được phân loại theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, các chi phí sản xuất chung được phân bổ cho từng loại sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp. Khi đó, giá thành sản phẩm được xác định bằng phương pháp trực tiếp hoặc bằng phương pháp tổng cộng chi phí.
* Hạch toán chi phí theo định mức:
áp dụng ở những doanh nghiệp đã xây dựng được một hệ thống định mức từng loại chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh một cách khoa học, hợp lý, được thực tiễn kiểm nghiệm nhiều lần. Các tài khoản chi phí của doanh nghiệp sẽ được mở chi tiết theo từng loại chi phí đã được định mức. Các khoản chi phí thực tế phát sinh sẽ được phân loại theo chi phí định mức và được tập hợp vào các tài khoản chi tiết tương ứng.
Ngoài các phương pháp trên, có thể kể đến một số các phương pháp hạch toán chi phí khác: theo đơn đặt hàng, theo nội dung kinh tế hay phương pháp liên hợp (kết hợp từ hai phương pháp trở lên để hạch toán chi phí sản xuất),...
3-/ Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục giá thành khi tính giá thành sản phẩm. Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh, vào trình độ quản lý và hạch toán,... Tuy nhiên, có thể khái quát trình tự hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm qua các bước:
ã Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng. Các chi phí này bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
ã Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
ã Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng có liên quan.
ã Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ,... hoàn thành, các chi phí trên phải được tập hợp vào tài khoản tính giá thành theo 3 khoản mục:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung.
Đồng thời, căn cứ vào giá thành sản phẩm dở dang đầu kỳ, cuối kỳ, và các khoản giảm trừ chi phí phát sinh để tính giá thành thực tế của từng loại sản phẩm, dịch vụ. Quá trình tập hợp chi phí sản xuất có thể tiến hành theo phương pháp kê khai thường xuyên hay phương pháp kiểm kê định kỳ tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho mà doanh nghiệp áp dụng:
* Phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX)
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình nhập, xuất, tồn vật tư, hàng hoá trên sổ kế toán. Nó thường áp dụng trong các doanh nghiệp có qui mô lớn, thường tiến hành từ hai hoạt động sản xuất kinh doanh trở lên hay sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau với giá trị sản phẩm lớn.
Để tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp KKTX, kế toán sử dụng tài khoản 154 - “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”. TK 154 được mở chi tiết theo từng đối, nội dung phản ánh như sau:
ã Bên Nợ: Tập hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
ã Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
- Giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
ã Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang, chưa hoàn thành.
Có thể khái quát quá trình hạch toán qua sơ đồ sau:
Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất
(Theo phương pháp KKTX)
(1)
TK 621
TK 622
TK 627
TK 154
(2)
(3)
(4)
TK 152,138,821
TK 155
TK 157
TK 632
(5)
(5b)
(5a)
(5c)
(1) : Kết chuyển chi phí NVLTT
(2) : Kết chuyển chi phí NCTT
(3) : Kết chuyển chi phí SXC
(4) : Các khoản ghi giảm chi phí
- Vật liệu không dùng hết nhập kho, phế liệu thu hồi (TK 152)
- Sản phẩm, vật tư thiếu hụt, bất thường trong sản xuất (TK 821, 138).
(5) : Giá thành thực tế sản phẩm, lao vụ:
- (5a) : Sản phẩm hoàn thành nhập kho
- (5b) : Sản phẩm hoàn thành xuất gửi bán
- (5c) : Sản phẩm hoàn thành xuất bán thẳng.
* Phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK)
Những đơn vị được sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ là những đơn vị có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, không đồng thời tiến hành từ hai hoạt động sản xuất kinh doanh trở lên. Khác với doanh nghiệp áp dụng phương pháp KKTX để đánh giá hàng tồn kho, trong các doanh nghiệp áp dụng phương pháp KKĐK các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hàng tồn kho thì không được ghi sổ liên tục. Bởi vậy, cuối kỳ doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê tất cả các loại nguyên liệu, thành phẩm trong kho và tại các phân xưởng cùng với các sản phẩm dở dang để xác định chi phí của sản phẩm hoàn thành. Vì thế, việc hạch toán chi phí sản phẩm trong các doanh nghiệp cũng có sự khác biệt nhất định.
Theo phương pháp này, kế toán sử dụng TK 631 - “Giá thành sản xuất”. TK 631 cũng được mở chi tiết theo đối tượng. Nội dung phản ánh:
ã Bên Nợ: - Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ.
- Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ liên quan tới chế tạo sản phẩm.
ã Bên Có: - Kết chuyển giá thành sản phẩm dở dang cuối kỳ vào TK 154.
- Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành.
ã TK 631 cuối kỳ không có số dư.
Có thể khái quát trình tự hạch toán theo sơ đồ sau:
Sơ đồ hạch toán chi phí sản phẩm
(Theo phương pháp KKĐK)
(1)
TK 154
TK 622,621,627
TK 631
(2)
(3)
TK 154
TK 632
(4)
(1) : Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ.
(2) : Kết chuyển chi phí NVLTT, NCTT, SXC.
(3) : Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ.
(4) : Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm hoàn thành.
Như vậy, dù áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên hay kiểm kê định kỳ, giá thành sản phẩm đều được xác định trên cơ sở kết quả của quá trình tập hợp các khoản chi phí (nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) và giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Bởi vậy, để có thông tin giá thành chính xác, phải hạch toán các chi phí phát sinh theo từng khoản mục và tính toán đúng đắn giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Chi tiết trình tự hạch toán chi phí sản xuất, dù theo phương pháp KKTX hay KKĐK đều tiến hành như sau:
III-/ Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT)
Chi phí về NVLTT trong doanh nghiệp là những chi phí cơ bản bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu chính, bán thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ,... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm.
- Chi phí về nguyên vật liệu chính có thể phân bổ theo hệ số, tỷ lệ với định mức tiêu hao hoặc tỷ lệ với trọng lượng sản phẩm.
- Chi phí vật liệu phụ có thể phân bổ tỷ lệ với định mức tiêu hao, tỷ lệ với nguyên vật liệu chính.
Chi phí thực tế NVLTT trong kỳ được xác định:
= - -
Để tập hợp và phân bổ chi phí NVLTT kế toán sử dụng tài khoản 621 - “Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp”. Và tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho doanh nghiệp áp dụng, mà nội dung phản ánh của tài khoản 621 và trình tự hạch toán chi phí NVLTT là khác nhau.
* Phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX).
Theo phương pháp này, nội dung phản ánh của TK 621 như sau:
ã Bên Nợ: - Trị giá nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ.
ã Bên Có: - Giá trị NVL sử dụng không hết nhập lại kho.
- Kết chuyển chi phí NVL vào bên Nợ TK 154 - “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”.
ã TK 621 không có số dư cuối kỳ.
Có thể khái quát trình tự hạch toán như sau:
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
(1)
TK 151,152
TK 331,111,112
TK 621
(2)
(3)
TK 154
TK 152
(4)
(1) : Vật liệu xuất dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm
(2) : Mua NVL về không nhập kho, mà dùng ngay cho chế tạo sản phẩm
(3) : Kết chuyển NVLTT
(4) : Vật liệu dùng không hết nhập lại kho
Kết quả của việc tổng hợp và phân bổ chi phí NVL, CCDC được phản ánh vào “Bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ”. Sau đó, căn cứ vào bảng phân bổ này để ghi vào Bảng kê số 4 và Nhật ký chứng từ số 7.
* Phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK)
Phương pháp kiểm kê định kỳ không theo dõi một cách thường xuyên, liên tục tình hình biến động của các loại vật tư hàng hoá, sản phẩm mà chỉ phản ánh giá trị tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng tồn kho thực tế chưa xuất dùng. Do đặc điểm của phương pháp KKĐK, nên chi phí vật liệu xuất dùng rất khó phân định là xuất dùng cho mục đích gì: sản xuất, quản lý hay tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, kế toán cần theo dõi chi tiết các chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng (phân xưởng bộ phận sản xuất, sản phẩm, lao vụ,...).
Để phản ánh các chi phí vật liệu đã xuất dùng cho sản xuất, kinh doanh, kế toán sử dụng TK 621. Các chi phí phản ánh trên TK 621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu mà được ghi một lần vào cuối kỳ hạch toán, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và nguyên vật liệu đang đi đường. Nội dung phản ánh của TK 621 như sau:
ã Bên Nợ: Trị giá NVL đã xuất dùng cho sản xuất kinh doanh.
ã Bên Có: Kết chuyển chi phí NVL vào bên Nợ TK 631.
ã TK 621 không có số dư cuối kỳ.
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(Theo phương pháp KKĐK)
(2)
TK 111,331
TK 151,152
TK 611
(3)
TK 621
(4)
(5)
TK 631
(1)
(1) : Kết chuyển giá trị vật liệu tồn kho và đang đi đường đầu kỳ.
(2) : Giá trị vật liệu nhập kho trong kỳ.
(3) : Giá trị vật liệu tồn kho và đi đường cuối kỳ.
(4) : Giá trị NVL xuất dùng trong kỳ.
(5) : Kết chuyển NVL vào giá thành sản phẩm.
IV-/ Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp (NCTT)
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp chủ yếu tính bằng phương pháp trực tiếp vào giá thành từng loại sản phẩm. Nếu phải phân bổ cho nhiều loại sản phẩm thì có thể theo tiêu thức: định mức tiền lương của từng loại sản phẩm, theo hệ số tỷ lệ với khối lượng sản phẩm mỗi loại,... Các chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ được tính trực tiếp theo tỷ lệ trích quy định của Bộ Tài chính.
Để tập hợp và phân bổ chi phí NCTT, kế toán sử dụng TK 622 - “Chi phí nhân công trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Nội dung phản ánh như sau:
ã Bên Nợ: - Chi phí NCTT sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ, lao vụ.
ã Bên Có: - Kết chuyển chi phí NCTT vào tài khoản giá thành (TK 154 theo phương pháp KKTX hoặc TK 631 theo phương pháp KKĐK).
ã TK 622 không có số dư cuối kỳ.
Chi phí NCTT được tính toán, phân bổ ở bảng phân bổ số 1: “Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội”.
Phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp theo hình thức kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ là giống nhau được thể hiện qua sơ đồ:
(1)
TK 334
TK 338
TK 622
(2)
(3)
TK 154
TK 631
(4)
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp
(1) : Tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho CNSXTT
(2) : Các khoản trích theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ
(3) : Kết chuyển chi phí NCTT theo phương pháp KKTX
(4) : Kết chuyển chi phí NCTT theo phương pháp KKĐK
V-/ Hạch toán chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp.
Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627 - “Chi phí sản xuất chung”, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. Nội dung của TK 627 phản ánh:
ã Bên Nợ: - Chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ.
ã Bên Có: - Kết chuyển chi phí sản xuất vào bên Nợ TK 154 (KKTX) hoặc bên Nợ TK 631 (KKĐK).
- Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung.
ã Tài khoản này không có số dư cuối kỳ.
Tài khoản 627 gồm các tiểu khoản sau:
+ TK 627.1 - Chi phí nhân viên phân xưởng phản ánh chi phí về lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên phân xưởng (quản đốc, phó quản đốc, thủ kho, bảo vệ của phân xưởng,...) và các khoản đóng góp cho các quĩ BHXH, BHYT, KPCĐ tính theo tỉ lệ với tiền lương phát sinh.
+ TK 627.2 - Chi phí vật liệu bao gồm các khoản chi phí về vật liệu xuất dùng chung cho phân xưởng như xuất sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị, nhà cửa, kho tàng, các chi phí vật liệu cho quản lý phân xưởng,...
+ TK 627.3 - Chi phí dụng cụ sản xuất là những chi phí về công cụ dụng cụ xuất dùng trong phân xưởng.
+ TK 627.4 - Chi phí khấu hao TSCĐ phản ánh chi phí khấu hao TSCĐ thuộc các phân xưởng như: máy móc, thiết bị, nhà cửa, kho tàng,...
+ TK 627.7 - Chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm những chi phí dịch vụ thuê ngoài phục vụ cho sản xuất, kinh doanh của các phân xưởng, bộ phận như: chi phí sửa chữa TSCĐ, chi phí điện, nước, điện thoại,...
+ TK 627.8 - Chi phí bằng tiền khác là những khoản chi phí còn lại ngoài các khoản chi phí kể trên như: chi phí hội nghị, lễ tân, tiếp khách, giao dịch,... của phân xưởng, bộ phận sản xuất.
Ngoài ra, tuỳ yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp, từng ngành, TK 627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số nội dung hoặc yếu tố chi phí.
Có thể khái quát trình tự hạch toán chi phí sản xuất chung theo sơ đồ sau:
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung
(1)
TK 334,338
TK 152,153
TK 627
(2)
(5)
TK 111,112,152
TK 154
(6)
TK 142,335
TK 111,214
(3)
(4)
TK 631
(7)
(1) : Chi phí lương nhân viên phân xưởng
(2) : Chi phí vật liệu, CCDC dùng chung cho phân xưởng
(3) : Các khoản chi phí thuộc chi phí trả trước chi phí phải trả tính vào CPSXC
(4) : Khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ thuê ngoài.
(5) : Các khoản ghi giảm chi phí SXC
(6) : Kết chuyển chi phí SXC theo phương pháp KKTX
(7) : Kết chuyển chi phí SXC theo phương pháp KKĐK
VI-/ Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính giá thành sản phẩm doanh nghiệp cần phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Công việc này được thực hiện như nhau trong cả hai trường hợp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ.
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong những phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau:
* Với bán thành phẩm: có thể tính theo chi phí thực tế hoặc kế hoạch.
* Với sản phẩm đang chế tạo dở: có thể áp dụng một trong các phương pháp sau:
- Phương pháp ước tính tương đương:
Theo phương pháp này, căn cứ vào số lượng và mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành tương đương. Tiêu chuẩn để quy đổi thường được sử dụng là giờ công định mức hoặc tiền lương định mức.
= * *
Phương pháp này, chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến còn chi phí NVLTT phải tính bằng cách trực tiếp dựa trên cơ sở chi phí thực tế hoặc chi phí định mức.
- Phương pháp đánh giá theo chi phí NVLTT
Theo phương pháp này, thì giá trị của sản phẩm dở dang chỉ tính cho chi phí NVLTT. Còn những chi phí khác phát sinh trong kỳ đều tính vào giá thành sản phẩm hoàn thành.
Phương pháp này đơn giản, nhưng mức độ chính xác thấp, chỉ áp dụng ở những doanh nghiệp mà chi phí NVLTT chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm.
= * *
- Phương pháp đánh giá theo 50% chi phí chế biến
Theo phương pháp này, chi phí NVLTT được tính cho sản phẩm dở dang theo chi phí thực tế hoặc chi phí định mức. Đối với chi phí chế biến, để đơn giản hơn cho việc tính toán, ta lấy mức độ hoàn thành bình quân của sản phẩm dở dang là 50% so với thành phẩm để phân bổ. Cách tính giá trị sản phẩm dở dang như sau:
= * *
= * * 50%
Phương pháp này chỉ nên áp dụng ở doanh nghiệp mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá thành sản phẩm.
- Phương pháp đánh giá theo giá thành định mức hoặc giá thành kế hoạch.
Theo phương pháp này thì chi phí NVLTT và chi phí NCTT tính vào sản phẩm dở dang dựa theo các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, tiền lương của đơn vị sản phẩm. Các chi phí khác tính vào giá trị sản phẩm dở dang dựa trên cơ sở tỷ lệ quy định so với khoản chi phí nhân công trực tiếp hoặc dựa theo định mức chi phí kế hoạch.
= *
Theo phương pháp này, việc tính toán đơn giản nhưng không đảm bảo chính xác. Vì vậy, chỉ áp dụng phương pháp này ở những doanh nghiệp mà sản phẩm có mức độ khá đồng đều giữa các tháng.
Tuy nhiên, mỗi phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang có ưu điểm, nhược điểm và điều kiện áp dụng khác nhau. Khi tổ chức vận dụng vào doanh nghiệp thì cần xem xét, lựa chọn phương pháp nào phù hợp với đặc điểm, yêu cầu cụ thể của từng doanh nghiệp.
VII-/ Các phương pháp tính giá thành chủ yếu trong các doanh nghiệp.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành.
Có nhiều phương pháp được sử dụng để tính giá thành. Cụ thể:
* Phương pháp tính trực tiếp (phương pháp giản đơn).
Phương pháp này, áp dụng đối với doanh nghiệp có đối tượng tính giá thành phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo, quy trình công nghệ sản xuất giản đơn, ổn định. Do đối tượng tính giá thành và đối tượng tập hợp chi phí phù hợp với nhau, nên dựa vào số liệu chi phí đã tập hợp trong kỳ và chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ đánh giá được, kế toán sẽ tính giá thành theo công thức sau:
= + -
=
* Phương pháp tổng cộng chi phí:
Phương pháp này, áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất.
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất được tập hợp theo từng đối tượng, đến kỳ tính giá thành tiến hành phân bổ cho sản phẩm dở dang và sản phẩm hoàn thành. Sau đó, tổng cộng chi phí của các phân xưởng cho sản phẩm hoàn thành để xác định giá thành sản phẩm hoàn thành.
= + + .... +
Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai thác, dệt nhuộm, cơ khí, chế tạo, may mặc,...
* Phương pháp hệ số.
Phương pháp hệ số được áp dụng trong các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất sản phẩm cùng sử dụng các yếu tố hao phí, nhưng thu được đồng thời nhiều cấp loại, thứ hạng sản phẩm và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, phải căn cứ vào định mức tiêu chuẩn kỹ thuật để xác định hệ số giá thành cho từng cấp, loại sản phẩm, dịch vụ. Trong đó, lấy một loại sản phẩm, dịch vụ làm chuẩn có hệ số giá thành bằng 1 để tính giá thành cho các cấp, loại sản phẩm.
Trước hết, căn cứ khối lượng sản phẩm thực tế hoàn thành của từng cấp, loại và hệ số giá thành tương đương để quy đổi ra khối lượng sản phẩm tiêu chuẩn theo công thức:
QH = ồ (Qi. Hi)
Trong đó:
QH : là tổng khối lượng sản phẩm quy đổi
Qi : là khối lượng thực tế sản phẩm loại i
Hi : là hệ số giá thành sản phẩm loại i
Tổng giá thành sản xuất thực tế được xác định cho từng cấp, loại sản phẩm như sau:
Zi = x Qi x Hi
Trong đó:
Zi : là tổng giá thành thực tế sản phẩm i
C : là tổng chi phí thực tế trong kỳ của đối tượng tập hợp chi phí Dđk, Dck là chi phí SPDD đầu kỳ, cuối kỳ của đối tượng tập hợp chi phí.
* Phương pháp tỷ lệ.
Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau, như: may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo (dụng cụ, phụ tùng,...) để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại.
Tỷ lệ giá thành =
Từ đó, tính được giá thành thực tế của loại sản phẩm theo công thức:
= * *
* Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ.
Đối với doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến, đường, rượu, bia, mì ăn liền,...) để tính giá thành sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp, như: giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu,...
* Phương pháp liên hợp là phương pháp tính giá thành bằng cách kết hợp nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp trực tiếp với phương pháp tổng cộng chi phí; phương pháp tổng cộng chi phí với phương pháp tỷ lệ,...
Trên đây là một số phương pháp để tính giá thành sản phẩm, nhưng trên thực tế, giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp được xác định theo các phương án khác nhau kết hợp giữa đặc điểm của các phương pháp tính giá thành với đặc điểm sản xuất, qui trình công nghệ, yêu cầu tổ chức quản lý,... tuỳ thuộc các loại hình doanh nghiệp, cụ thể:
1. Doanh nghiệp sản xuất giản đơn:
Doanh nghiệp sản xuất giản đơn thường là những doanh nghiệp sản xuất một hoặc một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc không đáng kể như các doanh nghiệp khai thác than, quặng, hải sản; các doanh nghiệp sản xuất điện, nước,... Do số lượng mặt hàng ít nên việc hạch toán chi phí sản xuất được tiến hành theo sản phẩm, mỗi mặt hàng sản xuất được mở một sổ (hoặc thẻ) hạch toán chi phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp hoặc phương pháp liên hợp.
2. Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo các đơn đặt hàng của khách hàng, kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Phương pháp tính giá thành áp dụng tuỳ theo tính chất và số lượng sản phẩm của từng đơn như: phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp liên hợp,...
Việc tính giá thành ở các doanh nghiệp này chỉ tiến hành khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành thường không nhất trí với báo cáo. Đối với những đơn đặt hàng đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chỉ được tập hợp theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang cuối kỳ chuyển sang kỳ sau. Đối với những đơn đặt hàng đã hoàn thành thì tổng chi phí đã tập hợp được theo đơn đặt hàng đó chính là tổng giá thành sản phẩm của đơn, giá thành đơn vị sẽ được tính bằng cách lấy tổng giá thành chia cho số lượng sản phẩm của đơn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của công tác quản lý cần xác định khối lượng công việc hoàn thành trong kỳ thì đối với những đơn đặt hàng mới hoàn thành một phần, việc xác định sản phẩm dở dang của đơn đó có thể dựa vào giá thành kế hoạch (hay định mức) hoặc theo mức độ hoàn thành của đơn.
3. Doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức.
Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung, kế toán xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời, hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong kỳ thành ba loại: theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó, tiến hành xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách:
= + ±
Giá thành định mức được tính toán trên cơ sở các định mức tiên tiến hiện hành ngày đầu kỳ. Tuỳ theo tính chất qui trìng công nghệ sản xuất sản phẩm và đặc điểm sản phẩm mà áp dụng các phương pháp tính giá thành định mức khác nhau.
Các thay đổi định mức là sự tăng hoặc giảm các định mức chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm do kết quả của việc áp dụng các định mức mới kinh tế và tiết kiệm hơn thay cho các định mức cũ đã lỗi thời. Việc thay đổi định mức được tiến hành vào ngày đầu tháng để thuận lợi cho việc thực hiện định mức cũng như kiểm tra việc thi hành định mức.
Chênh lệch so với định mức là những khoản chi phí phát sinh, ngoài dự toán qui định. Nó được hạch toán trên cơ sở các chứng từ báo động mang tín hiệu riêng hoặc theo phương pháp kiểm kê.
4. Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục.
Trong các doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục, quy trình công nghệ gồm nhiều bước (giai đoạn) nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định. Mỗi bước tạo ra một loại bán thành phẩm và bán thành phẩm của bước trước là đối tượng (hay nguyên liệu) chế biến của bước sau. Phương pháp hạch toán chi phí thích hợp nhất ở các doanh nghiệp này là theo bước chế biến (giai đoạn công nghệ). Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh thuộc giai đoạn nào sẽ được tập hợp cho giai đoạn đó. Với chi phí sản xuất chung, sau khi được tập hợp xong phân xưởng sẽ được phân bổ cho các bước theo tiêu thức phù hợp.
Tuỳ theo tính chất hàng hoá của bán thành phẩm và yêu cầu công tác quản lý, chi phí quản lý có thể được tập hợp theo phương án có bán thành phẩm và phương án không có bán thành phẩm. Phương pháp tính giá thành thường là phương pháp trực tiếp kết hợp phương pháp tổng cộng chi phí hay hệ số.
* Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm.
Phương án này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ cao hoặc bán thành phẩm sản xuất ở các bước có thể dùng làm thành phẩm bán ra ngoài.
Đặc điểm của phương án hạch toán này là khi tập hợp chi phí sản xuất của các giai đoạn công nghệ, giá trị bán thành phẩm của các bước trước chuyển sang bước sau được tính theo giá thành thực tế và được phản ánh theo từng khoản mục chi phí và gọi là kết chuyển tuần tự. Trình tự tập hợp chi phí và tính giá thành theo phương án này có thể phản ánh qua sơ đồ.
Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương án phân bước có bán thành phẩm
Chi phí NVLchính
Chi phí chế biến ._.n, đảm bảo phù hợp với hoạt động của công ty. Hệ thống chứng từ sổ sách được luân chuyển giữa các phần hành kế toán một cách trình tự tạo điều kiện thuận lợi cho hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
* Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Dệt may Hà Nội được tiến hành đều đặn vào cuối mỗi quý. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhân viên kế toán, thống kê các nhà máy với phòng kế toán, và giữa các nhân viên trong phòng kế toán với nhau đã giúp cho việc tính giá thành sản phẩm được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và chính xác hơn. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành tại công ty là hợp lý, phù hợp với đặc điểm sản xuất và yêu cầu quản lý doanh nghiệp.
Tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm gắn với việc nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả lao động luôn là mục tiêu phấn đấu của công ty. Trong cơ chế thị trường, để làm được điều đó, công ty cần phải tập hợp và quản lý đầy đủ chi phí phát sinh trong từng phân xưởng, từng nhà máy. Mặc dù đã khá hợp lý, song công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty Dệt may Hà Nội vẫn còn bộc lộ một số nhược điểm trong công tác hạch toán và cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp. Với tư cách là một sinh viên thực tập, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp sau:
2-/ Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt May Hà Nội.
* Thứ nhất, kỳ tính giá thành.
Trong nền kinh tế thị trường, kế toán được coi là công cụ quản lý kinh tế quan trọng, là phong vũ biểu xác định nguồn thông tin trung thực, nhằm phản ánh quá trình hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp, việc cung cấp các thông tin chính xác là cơ sở cho các chủ doanh nghiệp nắm được tình hình sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, tình hình chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh, tính hiệu quả đúng đắn của các giải pháp đã đề ra và thực hiện trong sản xuất kinh doanh. Từ đó, có các biện pháp phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
Tại Công ty Dệt May Hà Nội, giá thành sản phẩm được tính vào cuối quý nên thông tin về chi phí và giá thành không đáp ứng được yêu cầu của quản lý. Mặt khác, do đặc điểm sản xuất của công ty là chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm hoàn thành nhập kho liên tục trong tháng, giá cả sản phẩm lại thường xuyên biến động, nên kỳ tính giá thành một quý/1 lần không còn phù hợp nữa.
Theo em, công ty nên tính giá thành theo từng tháng để số liệu đưa ra kịp thời, nhanh chóng góp phần đẩy mạnh sản xuất, hoà nhịp chung với sự phát triển của thị trường cạnh tranh tự do.
Tuy nhiên, việc rút ngắn kỳ tính giá thành xuống 1 tháng đòi hỏi công tác kế toán phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hơn, nên các nhân viên kế toán sẽ phải tăng cường độ làm việc. Nhưng nếu biết tổ chức, sắp xếp công việc một cách hợp lý, làm việc có ý thức trách nhiệm thì với trình độ chuyên môn và bề dày kinh nghiệm, cộng với sự trợ giúp của máy vi tính, chắc chắn các nhân viên kế toán sẽ hoàn thành tốt nghiệm vụ tính giá thành sản phẩm trong một tháng.
Việc thay đổi kỳ tính giá thành sẽ làm thay đổi toàn bộ các phần hành kế toán khác. Vì vậy, xem xét sự thay đổi này phải được thống nhất trong phạm vi toàn công ty.
* Thứ hai, phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
Mặc dù công ty đã áp dụng đúng chế độ kế toán về cách tính lương cho công nhân sản xuất trực tiếp, cũng như tỷ lệ trích các khoản theo lương, nhưng trong việc hạch toán và ghi sổ chi phí nhân công trực tiếp còn có một số điểm cần được xem xét lại.
Trước hết, là việc tiến hành trích BHYT và KPCĐ cho 2 quí (quí II và quí III) vào chi phí sản xuất kinh doanh. Điều này trái với nguyên tắc phù hợp được thừa nhận trong kế toán là: Chi phí liên quan đến doanh thu kỳ nào phải tính vào chi phí của kỳ đó. Do đó, ảnh hưởng tới việc tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ và tính giá thành sản phẩm. Vì vậy, công ty nên quy định lại việc trích BHYT, KPCĐ theo đúng kỳ tính giá thành - đảm bảo phù hợp với chế độ kế toán.
Ngoài ra, nếu nhìn lại bảng phân bổ số 1: “Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội quí III/1999” - (Biểu số 01), chúng ta sẽ hiểu sai nội dung, ý nghĩa của từng số liệu. Bởi vì, số liệu về lương chính của công nhân sản xuất trực tiếp là 549.522.880đ và các khoản phụ cấp là 433.057.417đ không phản ánh lên các cột tương ứng trên bảng phân bổ 1, mà cột lương chính lại ghi số liệu về lương phải trả cho công nhân sản xuất trực tiếp trong quí III là: 982.580.297đ. Mặt khác, toàn bộ khoản trích BHYT, KPCĐ cũng phản ánh lên một tài khoản là 3382: 40.548.757đ. Trong khi đó theo chế độ: TK 3382 : KPCĐ là 20.274.378,5đ. TK 3384 : BHYT là 20.274.378,5đ
Như vậy, số liệu trên bảng phân bổ số 1 đã không ngừng phản ánhd dúng được nội dung của nó. Sự bất hợp lý này thuộc về kỹ thuật ghi sổ nên kế toán tiền lương cần phải xem xét để tiến hành hạch toán và ghi sổ theo đúng chế độ kế toán.
* Thứ ba, kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ.
Hiện nay, công ty sử dụng phương pháp thẻ song song để hạch toán chi tiết NVL. Phương pháp này tuy đơn giản, dễ làm song công việc ghi chép nhiều và trùng lắp, tốn nhiều công sức. Mặt khác, do đặc điểm NVL tại công ty có rất nhiều chủng loại, với tần suất nhập xuất nhiều, nên việc theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn NVL của 2 kế toán viên vẫn không đảm bảo được công việc ghi chép, hạch toán hàng ngày. Do đó, các kế toán thanh toán vẫn phải trợ giúp một phần công việc này. Như vậy, phương pháp thẻ song song không phù hợp với tình hình hiện tại của công ty. Để đáp ứng yêu cầu này, công ty nên áp dụng phương pháp sổ số dư trong việc hạch toán chi tiết về NVL.
Đặc điểm nổi bật của phương pháp này là sự kết hợp chặt chẽ giữa việc hạch toán nghiệp vụ của thủ kho với việc ghi chép của kế toán NVL. Trên cơ sở đó, ở kho chỉ hạch toán về số lượng và ở phòng kế toán chỉ hạch toán về giá trị NVL. Với phương pháp này có thể khắc phục được hạn chế của phương pháp sổ chi tiết và sẽ tạo điều kiện thực hiện kiểm tra thường xuyên, có hệ thống giữa kế toán và thủ kho, đảm bảo số liệu kế toán chính xác, kịp thời.
* Thứ tư, hạch toán chi phí trả trước.
Chi phí trả trước là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh, nhưng có liên quan tới nhiều kỳ hạch toán, nên chưa thể tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh kỳ này, mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán tiếp theo. Tại công ty Dệt may Hà Nội thường phát sinh các khoản chi phí trả trước như: giá trị CCDC nhỏ xuất dùng thuộc loại phân bổ nhiều lần, giá trị sửa chữa lớn TSCĐ ngoài kế hoạch, chi phí mua bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kinh doanh,... Các khoản này, mặc dù có liên quan đến nhiều kỳ hạch toán hoặc là những chi phí phát sinh một lần quá lớn, nhưng đều được tính một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ phát sinh chi phí.
Ví dụ, trong quí III/1999, khi xuất dùng CCDC thuộc loại phân bổ ba lần, kế toán ghi vào bên Nợ TK 6271 : 48.605.730đ (đối ứng bên Có TK 1531) trên bảng kê số 4+5.
Cách ghi này cũng đã vi phạm nguyên tắc phù hợp được thừa nhận trong kế toán. Do đó, để khắc phục nhược điểm này, kế toán nên tiến hành theo trình tự sau:
TK 1524
(1)
TK 142
(2)
TK 6271
TK 1531
(1)
TK 142
(2)
TK 6271
(1) : Tập hợp chi phí công cụ dụng cụ thuộc loại phân bổ nhiều lần.
(2) : Định kỳ tiến hành phân bổ cho đối tượng sử dụng.
Hoặc, trong quí III phát sinh chi phí phụ tùng thay thế để sửa chữa máy móc thiết bị với giá trị là: 2.162.868.940đ. Nhưng được tập hợp và phân bổ hết một lần trong quý theo sơ đồ:
(1) : Tập hợp chi phí phụ tùng thay thế (trị giá 2.162.868.940)
(2) : Phân bổ hết chi phí trả trước (trị giá 2.162.868.940) vào chi phí SXC.
Tuy nhiên, đây là khoản chi phí lớn (vì so với tổng doanh thu trong quí III là: 108.823.867.428 đồng. Về nguyên tắc, các khoản chi phí trả trước phải được phân bổ hết cho các đối tượng chịu chi phí trong năm (trừ trường hợp chi phí trả trước phát sinh vào tháng cuối năm hoặc còn liên quan đến các kỳ kinh doanh của năm sau). Bởi vậy, việc tính và phân bổ chi phí trả trước đã phát sinh vào các kỳ hạch toán phải được kế hoạch một cách chặt chẽ trên cơ sở dự toán chi phí và kế hoạch phân bổ chi phí. Vì vậy, khoản chi phí này nên phân bổ cho 2 quí II và III của năm 1997. Khi đó, trong quý kế toán tiến hành tập hợp và phân bổ cũng theo sơ đồ trên. Nhưng,
(1) : Tập hợp chi phí phụ tùng thay thế (trị giá 2.162.898.940)
(2) : Phân bổ chi phí trả trước (trị giá 1.081.434.270 = 2.162.898.940:2)
* Thứ năm, hạch toán phế liệu thu hồi.
TK 154
(1)
TK 1527
(2)
TK 621
Trong quá trình sản xuất sợi, phế liệu thu hồi từ quy trình sản xuất chủ yếu là bông, xơ. Một phần bông, xơ này được sử dụng lại cho quá trình sản xuất sản phẩm tiếp theo, góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Để phản ánh quá trình nhập - xuất - tồn kho phế liệu, kế toán sử dụng TK 1527 và trình tự hạch toán được phản ánh theo sơ đồ sau:
(1) : Phế liệu (bông, xơ) thu hồi nhập kho
(2) : Xuất bông, xơ phế để sản xuất sản phẩm.
Lượng bông phế, xơ phế nhập kho được trừ ra khỏi chi phí NVL chính tính vào giá thành sản phẩm. Ví dụ trong quí III/1999.
- Bông, xơ xuất dùng là: 16.794.200.945
- Bông phế, xơ phế thu hồi nhập kho là: 621.982.000
Do đó, bông xơ dùng cho sản xuất sợi là:
16.794.200.945 - 621.982.000 = 16.172.218.945
TK 1527
(2)
TK 621
(1)
Như vậy, theo em để phản ánh chính xác nội dung kinh tế của nhiệm vụ phát sinh thì khi nhập kho bông, xơ phế từ quá trình sản xuất sợi, kế toán nên ghi bút toán phản ánh giảm chi phí NV chính theo sơ đồ sau:
(1) : Nhập kho phế liệu thu hồi (bông, xơ phế)
(2) : Xuất kho phế liệu để sản xuất sản phẩm.
* Thứ sáu, nội dung, kết cấu và phương pháp ghi bảng kê số 4, số 5, số 6.
Để phục vụ cho công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Công ty đã áp dụng hình thức Nhật ký - Chứng từ với đầy đủ sổ sách kế toán theo quy định của Bộ Tài chính. Hình thức này, như đã nói ở trên, là phù hợp với đặc điểm của công ty.
Tuy nhiên, khác với chế độ kế toán, tại công ty kế toán giá thành không lập riêng từng bảng kê số 4 và bảng kê số 5 mà lập chung một bảng kê gọi là bảng kê 4+5. Bảng kê này dùng để tổng hợp số phát sinh Có của các TK liên quan, đối ứng với Bên Nợ TK 154, 621, 622, 627, 6411, 6413, 642 (trong từng TK chi tiết theo từng nhà máy).
Thông thường, bảng kê số 4 dùng để tổng hợp số phát sinh Có của các tài khoản có liên quan, đối ứng với Bên Nợ của các TK 154, 621, 622, 627, 631 và được tập hợp theo từng phân xưởng, bộ phận và chi tiết cho từng sản phẩm. Còn bảng kê số 5 dùng để tổng hợp số phát sinh Có của các TK liên quan, đối ứng bên Nợ các TK 641, 642, 241. Trong từng tài khoản chi tiết theo yếu tố và nội dung chi phí.
Như vậy, việc lập bảng kê số 4+5 tuy không ảnh hưởng đến công tác tính giá thành sản phẩm tại phòng kế toán, nhưng sẽ gây khó khăn cho việc kiểm tra đối chiếu số liệu để tính toán. Hơn nữa, bảng kê số 4 thường được kế toán giá thành làm căn cứ tính giá thành công xưởng, còn bảng kê số 5 được bộ phận tiêu thụ căn cứ vào số liệu để tính giá thành toàn bộ của sản phẩm sợi. Do đó, việc lập chung một bảng kê số 4+5 sẽ dẫn đến sự luân chuyển sổ sách không được nhịp nhàng và công tác hạch toán dễ bị chậm trễ.
Mặt khác, theo chế độ kế toán thì việc tập hợp chi phí phát sinh bên Nợ TK 241 được tiến hành trên bảng kê số 5, còn bảng kê số 6 ngoài việc tập hợp chi phí phát sinh thuộc chi phí phải trả và chi phí trả trước, còn tập hợp cả chi phí phát sinh trên TK 2413 “Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định”. Cách ghi này xuất phát từ cách hiểu là TK 2413 dùng để tập hợp chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định và sau đó trích vào các đối tượng chịu phí có liên quan. Nhưng TK 2413 có nội dung kinh tế khác hẳn với các chi phí theo dự toán. Bởi vì, chi phí trả trước là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh, nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh kỳ này, mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán sau đó. Còn chi phí phải trả là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh, nhưng được ghi nhận là chi phí của kỳ hạch toán.
Vì vậy, để đảm bảo cho việc tập hợp chi phí sản xuất và vào Nhật ký - Chứng từ số 7 thuận lợi hơn, công ty nên lập 3 bảng kê số 4, số 5, số 6 theo đúng chế độ kế toán hiện hành và phù hợp với một doanh nghiệp lớn, có nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều.
* Thứ bảy, phương pháp tính giá thành.
Hiện nay, công ty áp dụng phương pháp tỷ lệ để tính giá thành sản phẩm.
Theo phương pháp này, kế toán phải dựa vào giá thành kế hoạch chi tiết cho từng khoản mục chi phí do phòng kế toán tài chính lập. Trong quá trình tìm hiểu công tác tính giá thành sản phẩm sợi tại công ty, em nhận thấy giá thành sợi thường xuyên biến động và phụ thuộc rất nhiều yếu tố như giá mua NVL chính, bông xơ,... Bởi vì, nguồn cung cấp bông xơ trong nước không ổn định, nên công ty phải nhập bông từ Liên Xô, Nigeria, úc,... Do đó, giá mua bông xơ chịu ảnh hưởng rất lớn của biến động thị trường thế giới, đặc biệt là khi nền kinh tế thế giới không ổn định.
Trong khi đó, giá thành kế hoạch chi tiết sản phẩm lại đường phòng kế hoạch lập vào đầu năm, trên cơ sở giá thành thực tế năm trước và sản lượng kế hoạch năm nay. Vì vậy, giá thành kế hoạch lập vào đầu năm rất khó sát với thực tế trong năm. Theo em, phòng kế toán tài chính song song với việc xây dựng giá thành kế hoạch tương đối chính xác, sát với thực tế, nên thường xuyên điều chỉnh chi phí thực tế phát sinh, góp phần vào việc tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm. Nếu kỳ tính giá thành là 1 tháng thì 3 tháng/1 lần kế toán điều chỉnh giá thành kế hoạch. Từ đó, ban lãnh đạo công ty mới có thể phân tích tình hình sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn và đề ra phương hướng cụ thể nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Đây là mục tiêu quan trọng, không chỉ riêng một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào.
IV-/ Phương hướng hạ thấp giá thành nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường quản trị doanh nghiệp.
1-/ Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt May Hà Nội.
Tiết kiệm chi phí để giảm thấp giá thành sản phẩm là mục tiêu chiến lược của mọi doanh nghiệp, trên cơ sở đó tăng lợi nhuận, giảm giá bán để tăng sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường. Do đó, việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không đơn giản là công tác ghi chép giản đơn, mà nó thực sự phải trở thành công cụ hữu hiệu trong việc tăng cường quản trị doanh nghiệp. Phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm trên nhiều góc độ bằng các cách khác nhau là cần thiết, giúp chủ doanh nghiệp nhìn rõ khả năng tiềm tàng, tính toán được trị số của nó để kế hoạch hoá giá thành, định lượng quản lý giá thành có hiệu quả thiết thực hơn. Đồng thời, cung cấp thông tin để tìm ra nguyên nhân và giải pháp hạ giá thành sản phẩm.
Do vậy, định kỳ cần tiến hành phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm theo những nội dung sau đây:
Trước hết, đánh giá chung tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm. Khi đánh giá chung, nhà phân tích cần so sánh giá thành thực tế và giá thành kế hoạch để nhận xét doanh nghiệp đã tiết kiệm chi phí hay chưa? Và để tìm nguyên nhân của sự chênh lệch giữa giá thành thực tế và giá thành kế hoạch, nhà phân tích sẽ đi sâu phân tích một số khoản mục chủ yếu trong giá thành.
Ví dụ, với khoản mục chi phí NVL trực tiếp thì giá cả đầu vào và cơ cấu NVL có ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm. Còn khoản mục chi phí nhân công trực tiếp cho thấy được sự chênh lệch giữa quỹ lương thực tế và quỹ lương kế hoạch. Sự thay đổi này là do số lượng lao động trực tiếp thay đổi hay mức lương bình quân đầu người. Ngoài ra, cần phải tiến hành phân tích tình hình thực hiện kế hoạch chi phí trên 1.000 đồng giá trị sản lượng hàng hoá. Qua đó, so với kế hoạch, xem xét chi phí tính trên 1.000 đồng giá trị sản lượng hàng hoá tăng thêm hay giảm đi và nguyên nhân là do chất lượng sản phẩm thay đổi hay cơ cấu sản lượng thay đổi.
Ngoài ra, để giúp cho người quản lý biết được để có 1.000đ doanh thu hàng hoá thì công ty cần phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cuối quý kế toán cần tiến hành đánh giá chung tình hình thực hiện kế hoạch chi phí trên 1.000đ doanh thu theo chỉ tiêu sau:
= x 1000
Chỉ tiêu chi phí cho 1.000 đ doanh thu phản ánh lượng chi phí sản xuất để đạt được 1.000 đồng doanh thu. Chỉ tiêu này giảm là dấu hiệu khả quan cho doanh nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Trường hợp ngược lại, doanh nghiệp sẽ gặp những khó khăn, nhất là khi muốn tăng lợi nhuận. Khi đánh giá chung, có thể kết hợp so sánh mức chi phí trên 1.000đ đối với từng loại sản phẩm để biết được mức độ tiết kiệm chi phí sản xuất và tiêu thụ của từng loại.
Ngoài ra, có thể tiến hành phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh trên một số chỉ tiêu, như:
= x 1000
Chỉ tiêu trên phản ánh mức lãi thu được khi bỏ ra 1000 đồng chi phí, biểu thị hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
ở Công ty Dệt May Hà Nội các năm 1997, 1998 và 1999 các chỉ tiêu này thể hiện như sau:
TT
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
1
Tổng doanh thu
256.387.458.169
304.876.891.526
357.799.186.597
2
Tổng giá thành sản xuất
214.252.134.036
240.543.170.306
272.586.072.3343
3
Lãi hoạt động sản xuất
42.135.324.133
64.333.721.220
85.213.114.254
4
CP cho 1.000 đ giá trị SL
835
789
762
5
Lãi trên 1.000đ CP sản xuất
196
267
313
Số liệu cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy còn thấp, thể hiện mức lãi trên 1.000 đ chi phí sản xuất chỉ đạt 196 đồng năm 1997, 267 đồng năm 1998 và đạt 313 đồng năm 1999. Chi phí cho 1.000 đồng doanh thu năm 1998 giảm 5,5% so với năm 1997 và năm 1999 giảm 3,4% so với năm 1998. Như vậy, mức độ giảm giữa các năm còn thấp. Để tìm nguyên nhân việc tăng chi phí, cần phải xem xét sự biến động của các khoản mục chi phí trong tổng giá thành qua các năm. Đặc biệt, để có giải pháp kịp thời trong việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, công ty cần tiến hành phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành trong từng quý. Ví dụ, trong quí III/1999, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành như sau được thể hiện trên biểu số 13.
Biểu số 13:
Bảng phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm
Sản phẩm: Sợi Ne 60 (65/35) - Quí III/1999
STT
Khoản mục
Giá thành kế hoạch
Giá thành thực tế
Chênh lệch
±
%
1
NVL chính
17.735
17.120,78
-615,78
96,5
2
Vật liệu phụ
308,9
327,5
18,62
106
3
Tiền lương
1.009
1.233,1
224,1
122,2
4
Bảo hiểm xã hội
171,5
151,3
-2.018
88,2
5
Chi phí SXC
2.773,34
8.023,37
5.250,03
289,3
6
Điện SXC
4.023,9
3.404,3
-619,6
84,6
7
Khấu hao MMTB
2.594,1
908,25
-1.685,85
35
Giá thành đơn vị
28.615,74
31.168,61
2.552,87
Qua bảng này, chúng ta có thể thấy được một cách tổng thể về tình hình thực hiện kế hoạch giá thành theo từng khoản mục chi phí của từng quý.
Ví dụ, trong quí III sản phẩm sợi có giá thành thực tế cao hơn giá thành kế hoạch. Điều đó chứng tỏ rằng, công ty đã không thực hiện được kế hoạch tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Mặc dù, công ty đã thực hiện tiết kiệm chi phí NVL chính (giảm 615,78đ/kg hay giảm 35%) và giảm chi phí bảo hiểm xã hội, điện sản xuất chung, khấu hao máy móc thiết bị, nhưng chi phí sản xuất chung lại tăng quá nhiều (về số tuyệt đối tăng 5.250,03đ/kg hay tăng 189,3%), mức tăng lớn hơn mức giảm, nên nhìn chung giá thành kế hoạch vẫn tăng 8,9% hay tăng 2.552,87đ/kg. Như vậy, dù chi phí sản xuất chung chỉ chiếm tỷlệ nhỏ so với giá thành, nhưng do trong quý chi phí sản xuất chung phát sinh nhiều đã ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm sợi. Đây là vấn đề mà ban lãnh đạo cần phải quan tâm để có thể đưa ra được nguyên nhân sâu sắc của nó. Từ đó, có biện pháp khắc phục kịp thời. Nhìn chung, mặc dù có một số dấu hiệu khả quan nhưng tình hình thực tế tại Công ty Dệt May Hà Nội vẫn còn nhiều khó khăn. Về phía thị trường, đó là sự cạnh tranh gay gắt của các hàng ngoại nhập, sự gia tăng của các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất. Về phía Công ty, khó khăn thể hiện ở tình trạng máy móc thiết bị lạc hậu, cơ cấu chi phí trong giá thành sản phẩm chưa hợp lý, bộ máy quản lý dù đã được thu gọn nhưng vẫn còn khá cồng kềnh,...
Giải quyết được những khó khăn trên sẽ giúp hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận, nhờ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
2-/ Phương hướng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Dệt May Hà Nội
Vì lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí, nên để tăng lợi nhuận có thể tăng giá bán hoặc giảm chi phí. Nhưng với tình hình thực tế hiện nay, khi Công ty còn chịu sự cạnh tranh gay gắt của các mặt hàng ngoại nhập, với mẫu mã đẹp, chất lượng tốt và giá rẻ, thì việc tăng giá bán là điều hết sức bất lợi cho công ty. Vì thế, giảm chi phí là phương hướng để tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Những biện pháp mà công ty có thể nghiên cứu áp dụng là:
* Giảm chi phí nguyên vật liệu:
Chiếm khoảng 60-65% giá thành sản xuất sản phẩm, nguyên vật liệu có vai trò quan trọng nhất trong giá thành sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu giảm sẽ tác động mạnh đến việc giảm chi phí sản xuất sản phẩm. Thực tế tại công ty trong thời gian qua, giá thành sản phẩm tăng chủ yếu là do sự tăng chi phí nguyên vật liệu. Vì vậy, giảm chi phí vật liệu thực sự trở thành vấn đề bức xúc. Giảm chi phí nguyên vật liệu cần được tiến hành ở cả hai khâu: cung ứng và sử dụng.
Do thị trường bông, xơ trong nước không ổn định, nên Công ty phải nhập bông, xơ từ Nigêria, Liên Xô, úc,... Do đó, giá vật liệu nhập kho phụ thuộc rất lớn vào giá mua và chi phí thu mua (giá của vật liệu thường cao, chi phí thu mua, vận chuyển cũng khó kiểm soát). Để tránh lãng phí trong quá trình cung ứng, phòng kế hoạch cần lập kế hoạch mua vật liệu một cách chi tiết, đáp ứng tốt nhất nhu cầu vật liệu trong kỳ, giảm tối thiểu lượng vật liệu phát sinh ngoài kế hoạch. Việc lập kế hoạch phải căn cứ vào chi phí NVL kỳ trước, nhu cầu dự trữ và những dự đoán về tình hình sản xuất trong kỳ. Một kế hoạch thu mua vật liệu tốt sẽ làm giảm chi phí tiêu cực, giảm được giá nguyên vật liệu, đảm bả chất lượng vật tư cung ứng.
Ngoài ra, công ty cần có biện pháp cụ thể để hạ tỷ lệ hao hụt NVL như:
- Ra các mức thưởng cho các cá nhân, phân xưởng có tỷ lệ hao hụt thấp, đồng thời phạt các cá nhân và phân xưởng có tỷ lệ hao hụt vượt định mức.
- Thực hiện khoán sản phẩm cho người lao động.
- Thường xuyên bảo dưỡng máy móc thiết bị để giảm bớt tỷ lệ sản phẩm hỏng trong dây chuyền sản xuất.
- Xây dựng hệ thống kho tàng bảo quản nguyên vật liệu tốt, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật cần thiết, tránh trường hợp NVL chưa đưa vào sản xuất đã kém phẩm chất, dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm.
- Giảm đến mức tối đa các chi phí ngoài sản xuất không cần thiết.
* Nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị.
Việc đầu tư, xây dựng mới máy móc thiết bị và cải tiến, thay thế thiết bị cũ đang là vấn đề lớn, được quan tâm nhiều trong các doanh nghiệp. Máy móc thiết bị lạc hậu là một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm của nhà máy không đạt chất lượng tốt và giá thành sản phẩm cao. Do đó, công ty nên tiến hành trích trước chi phí sửa chữa, có kế hoạch sử dụng một cách hợp lý, lập dự toán mua sắm hoặc nâng cấp, cải tạo tài sản cố định cân đối với khả năng của doanh nghiệp và quỹ khấu hao.
* ứng dụng máy vi tính vào công tác kế toán.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật thông tin ngày càng phát triển, yêu cầu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải thu nhận, xử lý thông tin một cách nhanh nhạy, kịp thời. Các doanh nghiệp bắt buộc sớm muộn phải ứng dụng máy vi tính vào việc thu nhận, xử lý thông tin trong công tác kế toán. Những doanh nghiệp chưa ứng dụng máy vi tính thì nhanh chóng ứng dụng, những doanh nghiệp đã ứng dụng thì cần hoàn thiện chương trình để công tác ứng dụng máy vi tính được hoàn chỉnh và đồng bộ, phát huy hiệu quả cao hơn.
Công ty Dệt May Hà Nội không nằm ngoài quy luật đó. Hiện nay, công ty đã trang bị cho phòng kế toán 7 máy vi tính. Tuy nhiên, việc ứng dụng chỉ dừng lại ở công việc tính toán giản đơn, in các sổ sách kế toán và các văn bản,... mà chưa ứng dụng một chương trình (phần mềm) kế toán nào cả. Vì vậy, hạch toán kế toán vẫn là hoạt động thủ công.
Để tiết kiệm lao động kế toán, cung cấp thông tin nhanh, đầy đủ, chính xác, kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý, công ty sẽ phải hiện đại hoá công tác kế toán bằng việc ứng dụng phần mềm kế toán trong những năm tới. Việc này đòi hỏi nhiều vấn đề như: đầu tư trang bị kỹ thuật, đào tạo đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ về tin học, do đó ngay từ bây giờ công ty phải xác định rõ nhiệm vụ trước yếu này này. Khi áp dụng máy vi tính vào công tác kế toán, thì dựa trên những thuật toán và các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, trình tự hạch toán, người soạn lập chương trình đã có chương trình phần mềm về kỹ thuật thu thập tài liệu, xử lý và cho ra những sản phẩm (thông tin) cần thiết theo yêu cầu quản lý.
Quá trình hạch toán áp dụng MVT, nhân viên kế toán chỉ việc chuẩn bị các điều kiện về máy và nhập dữ liệu (các chứng từ và các bút toán về chứng từ gốc đó) vào máy và tự xử lý, cho thông tin đầu ra (các sổ kế toán, báo cáo kế toán).
Đối với kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, thì trình tự kế toán trên MVT được tiến hành theo các bước sau:
- Việc tập hợp chi phí sản xuất hoàn toàn do MVT tự nhận dữ liệu từ các bộ phận liên quan và tự MVT tính toán, phân bổ chi phí sản xuất trong kỳ.
Căn cứ kết quả kiểm kê đánh giá sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ theo từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và nhập dữ liệu sản phẩm dở cuối kỳ vào máy.
- Lập các bút toán điều chỉnh, bút toán khoá sổ, kết chuyển cuối kỳ và nhập vào máy.
Căn cứ các yêu cầu của người cần thông tin (chủ doanh nghiệp, kế toán trưởng,...) người sử dụng máy khai báo với MVT tên của đối tượng tính giá thành (sản phẩm, công trình, dự án hoạt động) hoặc tên của đối tượng là điểm phát sinh chi phí (phân xưởng, tổ, đội) và tên báo cáo (thông tin) cần nhận của MVT. Máy sẽ tự xử lý và đưa ra những thông tin (báo cáo) theo yêu cầu của người sử dụng máy đã khai báo với máy.
Tuy nhiên, hiện nay ngoài khó khăn về vốn, Công ty còn gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý một cách đồng bộ, có hiệu quả của các nhà máy thành viên. Khi ứng dụng phần mềm kế toán thì bắt buộc chương trình phải đảm bảo tính liên kết đầy đủ các phần hành kế toán trong Công ty, cũng như tính liên kết giữa các nhà máy thành viên trong mạng máy tính.
Việc Công ty trang bị cho tất cả các phòng ban các máy tính hiện đại, đặc biệt, phòng kế toán đã có 7 máy vi tính là bước đầu của sự chuẩn bị cho việc từng bước hiện đại hóa công tác kế toán và ứng dụng phần mềm kế toán cho từng phần hành kế toán.
Khó khăn thì rất nhiều, song để hướng tới một tương lai với nhiều kết quả khả quan hơn, công ty phải từng bước khắc phục khó khăn để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đứng vững và phát triển trong thị trường cạnh tranh.
Kết luận
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là khâu quan trọng của công tác kế toán. Đặc biệt, là đối với quản trị doanh nghiệp, hạch toán chi phí sản xuất chính xác và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là căn cứ cho bộ phận quản lý doanh nghiệp phân tích và hoạch định ra các dự án, kế hoạch và biện pháp để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Qúa quá trình học tập ở trường và đi sâu tìm hiểu thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty Dệt may Hà Nội, được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Nguyễn Ngọc Toản, cùng các cô chú trong phòng kế toán tài chính, Chuyên đề tốt nghiệp của em đã hoàn thành với đề tài: “Tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt May Hà Nội”. Với chuyên đề này, mặc dù chưa tìm ra được những ý kiến đóng góp và giải pháp cụ thể, nhưng với mong muốn cùng công ty hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng.
Trên cả phương diện lý luận cũng như thực tế, chuyên đề đã trình bày một cách có hệ thống các vấn đề chủ yếu liên quan đến công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. Cụ thể:
Về mặt lý luận: Chuyên đề đã nêu ra được ý nghĩa, sự cần thiết của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm; khẳng định bản chất của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm; khái quát nội dung, trình tự và sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp.
Về mặt thực tế: Chuyên đề đã đánh giá thực trạng công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sợi tại Công ty Dệt May Hà Nội, chỉ ra những tồn tại và phương hướng hoàn thiện.
Vì kiến thức về lý luận và thực tế còn hạn chế, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong sự thông cảm và đóng góp ý kiến của thầy, cô để chuyên đề hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn các anh, chị phòng kế toán tài chính, các thầy cô giáo trong khoa kế toán, và đặc biệt là thầy giáo Nguyễn Ngọc Toản đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Hà nội, tháng 7/2000
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Hà
Tài liệu tham khảo
1. Kế toán tổng hợp, phân tích và lập báo cáo tài chính doanh nghiệp
NXB Tài chính - Hà Nội 1997 - Hà Ngọc Sơn
2. Kế toán - kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp.
NXB Thống kê - 1997
3. Kế toán tài chính, quản trị, giá thành
NXB Thống kê - 1997
4. Kế toán quản trị và phân tích kinh doanh
NXB Thống kê - 1998
5. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường
NXB Thống kê - 1999
6. Quản lý doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
NXB Chính trị quốc gia - 1998
7. Hệ thống kế toán doanh nghiệp - NXB Tài chính - 1997
- Hướng dẫn về chứng từ kế toán
- Hướng dẫn sổ kế toán
8. Hệ thống kế toán doanh nghiệp - NXB Tài chính - 1998
- Hướng dẫn chuyển sổ
- Sơ đồ hướng dẫn hạch toán.
9. Hệ thống kế toán doanh nghiệp - NXB Tài chính - 1998
- Những văn bản pháp quy
10. Giáo trình kế toán tài chính trong các doanh nghiệp
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 1999 - Đặng Thị Loan
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0554.doc