Chương I:
Lý luận cơ bản về kế toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất.
1.1 Sự cần thiết phải tổ chức kế toán NVL trong doanh nghiệp sản xuất.
1.1.1 Vị trí vai trò của NVL trong doanh nghiệp sản xuất:
Nguyên vật liệu là đối tượng của lao động, một trong ba yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, là cơ sở vật chất cấu thành thực thể sản phẩm. Trong quá trình tham gia vào sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp, NVL bị tiêu hao toàn bộ và chuyển toàn bộ giá trị vào giá trị sản phẩm
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Kế toán nguyên vật liệu tại Công ty Cổ phần may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới tạo ra hoặc chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Trong cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, NVL là bộ phận tài sản lưu động, dự trữ cho sản xuất và được bảo quản lưu trữ trong các kho để đáp ứng yêu cầu sản xuất, giúp quá trình sản xuất trong doanh nghiệp hoạt động thường xuyên liên tục không phải chờ đợi hay chạy cầm chừng.
Trong các doanh nghiệp sản xuất chi, phí về NVL thường chiếm tỉ lệ lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Vì vậy tăng cường công tác quản lý, công tác hạch toán chi tiết NVL, để nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm NVL trong quá trình sản xuất. Từ đó giảm được chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm. Đây là điều mà doanh nghiệp luôn phải quan tâm.
1.1.2 Đặc điểm và yêu cầu quản lý:
Đặc điểm của NVL là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, nên khi tham gia vào quy trình sản xuất NVL bị tiêu hao hoàn toàn, thay đổi hình thái ban đầu và hình thành nên thực thể sản phẩm. Giá trị NVL bị chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới tạo ra. Như vậy, đối với doanh nghiệp sản xuất, NVL là yếu tố đầu vào quan trọng nhất, là bộ phận cơ bản cấu thành giá trị sản phẩm và thường chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc tổ chức quản lý, sử dụng NVL như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất là một trong những mục tiêu quan trọng đối với doanh nghiệp. Công tác quản lý điều hành NVL là một quá trình thu thập, xử lý thông tin nhằm đưa ra những quyết định đối với đối tượng NVL. Các thông tin này phải bao quát được toàn bộ quá trình hình thành, biến động , loại bỏ NVL, cho phép doanh nghiệp có được cái nhìn tổng quan về NVL, giúp cho doanh nghiệp có các quyết định đúng dắn.
Do NVL là một phần tài sản hàng tồn kho của doanh nghiệp, là lượng vốn chết mà doanh nghiệp buộc phải có để dự trữ cho sản xuất, để đảm bảo cho quá trình sản xuất được thường xuyên, liên tục. Kèm theo dự trữ là các chi phí khác như: Bảo quản, bốc dỡ... Bởi vậy nếu doanh nghiệp không xây dựng một tỉ lệ vốn đầu tư hợp lý sẽ gây bất lợi cho doanh nghiệp. Nếu dự trữ quá ít, sản xuất sẽ lâm vào tình trạng thiếu tư liệu sản xuất buộc phải ngừng hoặc giảm tiến độ, khi đó không có doanh thu nhưng vẫn phải trả các khoản chi phí bất biến như: Khấu hao nhà xưởng, bảo dưỡng máy móc thiết bị, trả lương cho công nhân nghỉ chờ việc.... Từ đó sẽ dẫn tới nguy cơ thua lỗ. Ngược lại nếu dự trữ quá nhiều, các chi phí cho hàng và các chi phí liên quan sẽ tăng lên không cần thiết, như hiện tượng vốn trong kho không sinh lãi trong khi doanh nghiệp vẫn phải trả lãi ngân hàng hoặc đồng tiền sụt giá... dẫn đến thất thoát thiếu hụt về vốn. Để tận dụng các cơ hội kinh doanh cần đến vốn, tăng thu giảm chi, nhà quản trị luôn phải nghiên cứu thị trường và nhạy bén trước những thời điểm hàng hạ hay có nguy cơ khan hiếm hàng, để sao cho có lợi nhất về chi phí thu mua, đảm bảo về số lượng, chất lượng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành thu mua NVL, đảm bảo kịp thời cho quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm và phục vụ cho nhu cầu quản lý khác của doanh nghiệp. Chính vì vậy, từ khâu thu mua doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ về khối lượng, quy cách, chủng loại, giá mua và chi phí thu mua nhằm thực hiện kế hoạch theo đúng tiến độ, thời gian phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để hạ được chi phí sản xuất trong kỳ, hạ được giá thành sản phẩm, đòi hỏi không chỉ quản lý NVL ở khâu thu mua mà phải quản lý chặt chẽ NVL trên cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị ở mọi khâu từ khâu thu mua, khâu dự trữ bảo quản tới khâu sử dụng NVL trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tổ chức tốt khâu kho tàng bến bãi, thực hiện đúng chế độ bảo quản trong dự trữ đối với từng loại NVL, tránh hư hỏng, mất mát cũng là một trong các yêu cầu quản lý của doanh nghiệp luôn được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm. Trong khâu sử dụng phải tuân thủ việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm trên cơ sở định mức tiêu hao nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.1.3 Nhiệm vụ kế toán NVL.
Trong doanh nghiệp sản xuất, mỗi bộ phận quản lý quan tâm đến NVL một mặt khác nhau, bộ phận kho quan tâm dến NVL về mặt số lượng, hiện vật và quá trình bảo quản như thế nào cho phù hợp, tiết kiệm. Bộ phận sử dụng NVL quan tâm đến chất lượng NVL được sử dụng trong sản xuất và định mức tiêu hao NVL. Như vậy cả hai bộ phân trên chỉ quan tâm theo dõi, quản lý về mặt lượng của NVL ở một khâu cụ thể trong quá trính sản xuất, không có sự tổng quát liên hệ với nhau mà NVL không chỉ xem xét ở hình thái hiện vật, ở mặt lượng mà còn phải quan tâm đến mặt giá trị.
Công tác hạch toán NVL với việc ghi chép, phản ánh thu thập, tổng hợp số liệu về NVL ở cả hai hình thức: giá trị và hiện vật trong suốt quá trình vận động của NVL, từ nguồn hình thành thu mua, bảo quản nhập xuất tồn, loại bỏ NVL. Cung cấp các thông tin một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời số hiện có và tình hình biến động của NVL dưới mọi hình thức, giúp nhà quản trị có cái nhìn bao quát toàn bộ quá trình hình thành, biến động của NVL. Các thông tin này là cơ sở vững chắc, dựa trên nó, các nhà quản trị có được các quyết định kinh doanh đúng đắn, hợp lý giúp doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Như vậy, hạch toán kế toán là chiếc cầu nối các bộ phận cùng quản lý NVL trong doanh nghiệp, là công cụ quản lý hữu hiệu nhất, là trợ thủ đắc lực cho nhà quản trị.
Mặt khác, với việc luôn theo dõi sát sao sự biến động, tình hình dự trữ, giúp hạch toán NVL có khả năng kiểm soát sự tác động riêng của NVL đến quá trình sản xuất, thúc đẩy việc cung cấp một cách kịp thời, đồng bộ những vật liệu cần cho quá trình sản xuất, đảm bảo thường xuyên nguồn cung ứng, định mức dự trữ, tiêu hao NVL. Phát hiện sớm những sai sót để ngăn ngừa mất mát, lãng phí trong sản xuất, đưa ra những thông tin đầy đủ, kịp thời cho nhà quản trị không phụ thuộc vào thời gian, giúp cho nhà quản trị nắm bắt được nhanh nhất, tận dụng được cơ hội kinh doanh. Nhờ đó, có thể giảm được các khoản chi phí, thu được lợi nhuận lớn hơn.
Như vậy, kế toán nói chung và kế toán NVL nói riêng cung cấp, truyền đạt thông tin tài chính của đơn vị kinh tế là nền tảng của quyết định bên trong cũng như bên ngoài của toàn đơn vị về toàn bộ các hoạt động quản trị như hoạch định chương trình, giải quyết các vấn đề kinh tế phát sinh... Vì vậy, sự hoàn thiện công tác kế toán nói chung và kế toán NVL nói riêng là vô cùng cần thiết để các bộ phận này thực hiện đúng vai trò của mình, trở thành công cụ đắc lực cho nhà quản trị.
Để giúp cho công tác quản lý NVL trong doanh nghiệp được tốt hơn, kế toàn NVL cần hoàn thành tốt các nhiệm vụ của mình:
- Tổ chức, đánh giá, phân loại phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu quản lý thống nhất của nhà nước và yêu cầu quản trị của doanh nghiệp.
- Tổ chức chứng từ, tài khoản, sổ kế toán phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho của doanh nghiệp để ghi chép, phân loại, tổng hợp số liệu về tình hình hiện có và sự biến động tăng - giảm của NVL trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cung cấp số liệu kịp thời để tổng hợp và tính giá thành sản phẩm.
- Kiểm tra, phân tích, đánh giá tình hình kế hoạch thu mua, dự trữ bảo quản và tình hình sử dụng NVL trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Bên cạnh đó, các nhân viên kế toán cần thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm trước công việc, luôn phải đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ kế toán. Cung cấp số liệu, tài liệu cho công tác thống kê, thông tin kế toán, giúp kiểm tra, giám sát vi phạm chế độ kế toán, kỷ luật tài chính.
1.2 Tổ chức phân loại và đành giá NVL
1.2.1 Phân loại NVL.
Trong mỗi doanh nghiệp,do tính chất đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh nên phải sử dụng nhiều loại NVL khác nhau. Mỗi loại, thứ khác nhau có nội dung kinh tế, công dụng, bảo quản và tính năng kỹ thuật khác nhau. Để có thể quản lý chặt chẽ và tổ chức hạch toán chi tiết với từng thứ loại NVL phục vụ cho kế toán quản trị, cần phải tiến hành phân loại NVL. Trong việc phân loại NVL có nhiều tiêu thức làm căn cứ cho việc phân loại.
* Phân loại NVL căn cứ vào nội dung kinh tế, vai trò của NVL trong sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản trị của doanh nghiệp về NVL được chia thành các loại sau:
- NVL chính: là đối tượng chủ yếu để tạo nên thực thể của sản phẩm. Do vậy, tuỳ thuộc từng doanh nghiệp khác nhau thì NVL chính cũng khác nhau như: sắt thép trong doanh nghiệp cơ khí chế tạo máy, xây dựng cơ bản; bông vải trong các doanh nghiệp may. Đối với bán thành phẩm mua ngoài với mục đích tiếp tục đưa vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm, hàng hoá như: Sợi mua ngoài trong các doanh nghiệp dệt cũng được xem là NVL chính.
- Vật liệu phụ: là những loại vật liệu chỉ có tác dụng phụ trong quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm có thể làm tăng chất lượng của sản phẩm hoặc NVL chính, hoàn chỉnh sản phẩm hoặc đảm bảo cho công cụ dụng cụ hoạt động được bình thường như: thuốc nhuộm, thuốc tẩy, dầu nhờn, chỉ may...
- Nhiên liệu: là những loại vật liệu trong quá trình sử dụng cung cấp năng lượng cho ta. Nhiên liệubao gồm các loại ở thể khí, lỏng, rắn như: hơi đốt, xăng dầu, than củi... dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm và quá trình thực hiện các phương tiện vận tải, máy móc thiết bị.
- Phụ tùng thay thế: gồm các loại chi tiết dùng để thay thế, sửa chữa máy móc thiết bị sản xuất và phương tiện vận tải.
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: bao gồm các loại thiết bị, phương tiện được sử dụng trong xây dựng cơ bản như thiết bị cần lắp, thiết bị không cần lắp, các công cụ, vật kết cấu lắp đặt vào công trình
- Vật liệukhác (phế liệu): là những loại vật liệu chưa được sắp xếp vào các loại trên, thường là những loại vật liệu bị loại ra trong quá trình sản xuất và chế tạo sản phẩm hoặc phế liệu thu hồi trong quá trình xây dựng.
Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản trị và kế toán chi tiết NVL của từng doanh nghiệp mà trong từng loại trên được chia thành từng nhóm, từng thứ NVL một cách chi tiết hơn. Cách phân loại này là cơ sở để xác định mức tiêu hao, định mức dự trữ cho từng loại, từng thứ NVL, là cơ sở để tổ chức hoạch toán chi tiết NVL trong doanh nghiệp.
* Phân loại NVL căn cứ vào mục đích, công dụng của NVL, bao gồm:
- NVL dùng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
- NVL dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm.
- NVL dùng cho quản lý ở các cơ sở, dùng cho bộ phận bán hàng, bộ phận quản lý doanh nghiệp.
- NVL dùng cho nhu cầu khác như: nhượng bán, góp vốn liên doanh...
* Phân loại NVL căn cứ vào nguồn hình thành, NVL được chia thành hai nguồn:
- NVL nhập từ bên ngoài: do mua ngoài, nhận gia công, nhận góp vốn liên doanh, nhận biếu tặng...
- NVL tự chế: do doanh nghiệp tự sản xuất.
Cách phân loại này làm căn cứ cho việc lập kế hoạch thu mua và kế hoạch sản xuất nguyên vật liệu, là cơ sở để xác định trị giá vốn thực tế NVL nhập kho.
Trong các cách phân loại trên, cách phân loại NVL theo nội dung kinh tế, vai trò của NVL trong sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản trị của doanh nghiệp là thông dụng hơn cả. Bằng cách này, mỗi bộ phận sẽ quản lý NVL dưới những hình thức khác nhau: bộ phận kho có thể quản lý NVL dưới hình thức hiện vật, theo dõi sự biến động của NVL tại kho và các chế độ bảo quản phù hợp với từng loại. Bộ phận sử dụng có thể quan tâm tới mức sử dụng từng loại NVL nhằm theo dõi tình hình tiêu hao có tiết kiệm hay không. Bộ phận quản lý có thể quản lý NVL dưới cả hai hình thức: hiện vật và giá trị để đưa ra số liệu chính xác, đầy đủ tình hình NVL tại doanh nghiệp.
1.2.2 Đánh giá NVL.
* Nội dung:
Để phục vụ cho công tác quản lý, NVL không chỉ được xem xét ở hình thái hiện vật mà phải được xem xét ở cả hình thái giá trị. Việc xem xét này cho phép doanh nghiệp tính được chi phí bỏ ra cho mỗi sản phẩm, qua đó doanh nghiệp quản lý được toàn bộ tài sản của mình dù ở dạng hiện vật nào, giúp nhà quản trị lập kế hoạch về nguồn lực phục vụ sản xuất. Xem xét trên phương diện giá trị chính là quá trình đánh giá NVL.
Đánh giá NVL là quá trình dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị NVL theo những nguyên tắc nhất định và ở thời điểm nhất định để đảm bảo tính trung thực, chính xác trong quản lý, sử dụng NVL sao cho có hiệu quả nhất.
Khi đánh giá NVL phải tuân theo những nguyên tắc trong Chuẩn mực Kế Toán số 02 "Hàng tồn kho":
- NVL được đánh giá theo giá gốc. Giá gốc ( hay còn gọi là giá vốn thực tế NVL ) là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra, bao gồm chi phí mua, chi phí chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để có được NVL đó ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
- Bình thường NVL đánh giá theo giá gốc nhưng trong trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì tính theo giá trị thuần có thể thực hiện đựơc ( Nguyên tắc thận trọng ). Giá trị thuần có thể thực hiện được là giá bán ước tính trong kỳ trà (- ) chi phí ước tính để hoàn thành sản phẩm và chi phí ước tính cần thiết cho việc tiêu thụ chúng.
- Khi đánh giá NVL, các phương pháp kế toán áp dụng trong doanh nghiệp phải đảm bảo tính nhất quán, tức là kế toán chọn phương pháp nào thì phải áp dụng phương pháp đó trong suốt niên độ kế toán. Doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp đã chọn nhưng phải đảm bảo phương pháp thay thể cho phép trình bày thông tin kế toán một cách trung thực và hợp lý hơn. Đồng thời phải giải thích được sự thay đổi đó.
* Thời điểm tính giá.
Tại thời điểm nhập kho: Xác định trị giá vốn thực tế NVL nhập kho.
Trị giá vốn thực tế của NVL nhập kho là loại giá hình thành trên cơ sở các loại chứng từ hợp lệ, hợp lý chứng minh các khoản chi phí hợp pháp mà doanh nghiệp bỏ ra để có được NVL đó.
Trị giá vốn thực tế hàng nhập kho được xác định theo từng lần nhập và theo nguồn hình thành.
- Đối với NVL nhập kho do mua ngoài dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ NVL mua ngoài thuộc diện chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ.
Chi phí phát sinh trong qua trình mua hàng ( không bao gồm thuế GTGT )
Các khoản giảm trừ, CKTM
Giá mua ghi trên hoá đơn ( không bao gồm thuế GTGT )
Trị giá vốn thực tế của NVL nhập kho
=
+
+
+
Thuế nhập khẩu ( nếu có )
+ NVL mua ngoài không thuộc diện chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.
Các khoản giảm trừ, CKTM
Chi phí phát sinh trong qua trình mua hàng ( bao gồm thuế GTGT )
Giá mua ghi trên hoá đơn ( bao gồm thuế GTGT )
Trị giá vốn thực tế của NVL nhập kho
+
+
+
=
Thuế nhập khẩu ( nếu có )
- Đối với NVL nhập kho do tự sản xuất:
Trị giá vốn thực tế = Giá thành sản xuất của NVL tự gia công chế biến của NVL nhập kho.
- Đối với NVL nhập kho do thuê ngoài gia công chế biến:
Chi phí vần chuyển, bốc dỡ
Tiền thuê ngoài gia công chế biến
Trị giá vốn thực tế của NVL xuất kho thuê ngoài gia công chế biến
Trị giá vốn thực tế của NVL nhập kho
+
+
=
- Đối với NVL nhập kho do nhận góp vốn liên doanh.
Chi phí phát sinh khi nhận
Trị giá vốn thực tế của NVL nhập kho
Giá trị NVL được hội đồng liên doanh đánh giá
+
=
- Đối với NVL nhập kho do được biếu tặng, tài trợ
=
+
Giá trị hợp lý
Chi phí phát sinh
Trị giá vốn thực tế của NVL nhập kho
Tại thời điểm xuất kho: Xác định trị giá vốn NVL xuất kho.
Khi xuất dùng NVL, kế toán phải tính toán chính xác giá vốn thực tế của NVL xuất dùng cho các nhu cầu, đối tượng khác nhau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện, quy mô mà từng doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình phương pháp tính giá thực tế xuất kho thích hợp. Việc tính giá trị thực tế của NVL xuất kho có thể tính theo một số phương pháp trong Chuẩn mực Kế toán số 02 "Hàng tồn kho":
- Gía thực tế đích danh ( Giá trực tiếp ):
Theo phương pháp này, hàng mua về được bảo quản theo từng lô riêng biệt và ghi rõ đơn giá mua trên từng lô hàng đó. Do đó, khi xuất kho lô hàng nào thì có thể xác định ngay trị giá vốn thực tế xuất kho của lô hàng đó. Phương pháp này được áp dụng cho những doanh nghiệp có chủng loại NVL ít và nhân diện được từng lô hàng.
- Phương pháp bình quân gia quyền:
Theo phương pháp này, trị giá vốn thực tế của NVL xuất kho được tính căn cứ vào sản lượng NVL xuất kho và đơn giá bình quân gia quyền theo công thức sau:
Đơn giá BQGQ
Số lượng NVL thực tế xuất kho
Trị giá vốn thực tế của NVL xuất kho
x
=
Trong đó: đơn giá BQGQ có thể tính theo cách sau:
Cách 1:
Số lượng NVL nhập trong kỳ
+
Số lượng NVL tồn đầu kỳ
Đơn giá BQGQ cả kỳ dự trữ
+
Trị giá vốn thực tế NVL nhập trong kỳ
Trị giá vốn thực tế NVL tồn đầu kỳ
=
Cách tính này đơn giản, dễ làm, khối lượng tính toán giảm nhưng chỉ tính được trị giá vốn thực tế của NVL vào thời điểm cuối kỳ nên không thể cung cấp thông tin kịp thời.
Cách 2:
Trị giá vốn thực tế NVL sau mỗi lần nhập
=
Số lượng NVL tồn sau mỗi lần nhập
Đơn giá BQGQ sau mỗi lần nhập ( ĐGBQ liên hoàn )
Cách tính này chính xác, cung cấp thông tin kịp thời tuy nhiên khối lượng tính toán sẽ nhiều hơn nên phương pháp pháp này thích hợp với những doanh nghiệp đã áp dụng kế toán máy.
- Phương pháp nhập trước xuất trước ( FIFO )
Phương pháp này giả định hàng nào nhập trước sẽ được xuất trước và lấy đơn giá xuất bằng đơn giá nhập. Trị giá hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo đơn giá của những lần nhập sau cùng.
- Phương pháp nhập sau xuất trước ( LIFO )
Phương pháp này giả định rằng lô hàng nào nhập sau sẽ được xuất kho trước, lấy đơn giá xuất bằng đơn giá nhập. Trị giá hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo đơn giá của những lần nhập đầu tiên. 1.3 Tổ chức công tác kế toán NVL tại doanh nghiệp.
1.3.1 Tổ chức chứng từ và hạch toán ban đầu.
1.3.1.1 Tổ chức chừng từ kế toán NVL.
Để đáp ứng yêu cầu quản trị của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, kế toán chi tiết NVL phải thực hiện theo từng kho, từng loại, nhóm, thứ NVL và phải tiến hành đồng thời ở từng kho và phòng kế toán trên cùng một cơ sở chứng từ.
Theo chế độ chứng từ kế toán ban hành theo quy định 1141/TCQĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 và theo QĐ 885/1998/QĐ/BTC các chứng từ kế toán về NVL bao gồm:
- Phiếu nhập kho ( Mẫu 01 - VT )
- Phiếu xuất kho ( Mẫu 02 - VT )
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ ( Mẫu 03 - VT )
- Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hoá ( Mẫu 08 - VT )
- Hoá đơn GTGT ( MS 01 GTKT - LL )
- Hoá đơn cước vận chuyển ( Mẫu 03 - BH )
- Hoá đơn hàng mẫu ( 02 GTKT - 2LL )
Đối với chứng từ này phải lập kịp thời, đầy đủ theo đúng quy định về mẫu biểu, nội dung, phương pháp lập. Người lập chứng từ phải chịu trách nhiệm về tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ về các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh.
Ngoài các chứng từ mang tính bắt buộc được sử dụng thống nhất theo quy định của nhà nước, trong các doanh nghiệp có thể sử dụng thêm các chứng từ kế toán mang tính hướng dẫn như:
- Phiếu xuất vật tư theo hạn mức ( Mẫu 04 - VT )
- Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ ( Mẫu 07 - VT )
- Biên bản kiểm nghiệm ( Mẫu 05 - VT )
1.3.1.2 Tổ chức hạch toán ban đầu.
Hạch toán ban đầu là việc ghi chép, sao chụp lại các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về NVL bằng các văn bản, chứng từ để tạo dựng tính pháp lý, chứng minh cho nghiệp vụ kinh tế đó đã diễn ra là có trong thực tế. Việc hạch toán này giúp cho doanh nghiệp không phải xem xét ngay tác động của từng hành vi kinh tế tới từng đối tượng mà có thể tổng hợp, thống kê, xác định tình trạng đối tượng quản lý khi cần thông tin ở bất kỳ thời điểm nào. Trong giai đoạn này, kế toán sử dụng phương pháp chứng từ để phản ánh các nghiệp vụ phát sinh.
1.3.2 Tổ chức kế toán chi tiết NVL.
Trong doanh nghiệp, công tác quản lý NVL do nhiều đơn vị, bộ phân quản lý, đảm nhận. Điều này dẫn đến khả năng có sự sai sót, chênh lệch số liệu trong quá trình hách toán, tổng hợp giữa các bộ phận. Hạch toán chi tiết NVL là việc hạch toán kết hợp giữa thủ kho và phòng kế toán nhằm đảm bảo theo dõi chặt chẽ số hiện có và tình hình biến động từng loại, nhóm, thứ NVL vế số lượng và giá trị, từ đó phát hiện sai sót của từng bộ phân. Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp kế toán chi tiết NVL khác nhau. Có 3 phương pháp hạch toán sau:
Phương pháp ghi thẻ song song, phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển, phương pháp ghi sổ số dư.
Tuy việc quản lý NVL do nhiều bộ phận, đơn vị tham iga song việc quản lý nhập xuất tồn kho NVL hàng ngày chủ yếu được thực hiện ở bộ phận kho và phòng kế toán trên cơ sở các chứng từ kế toán về nhập xuất NVL.
- Nội dung:
Tại kho:
+ Theo phương pháp ghi thẻ song song và phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển: Việc ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn kho NVL do thủ kho thực hiện trên các thẻ kho và chỉ theo dõi chỉ tiêu số lượng. Thẻ kho do thủ kho lập theo mẫu quy định để theo dõi tình hình Nhập - Xuất - Tồn của từng loại NVL. Mỗi kho sẽ được mở một bộ thẻ kho, bộ thẻ kho của thủ kho được đánh số và ký hiệu tương ứng với sổ chi tiết NVL tại phòng kế toán để thuận tiện việc kiểm tra, đối chiếu số liệu.
Hàng ngày, nhận được chứng từ nhập, xuất NVL, thủ kho phải kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ rồi tiến hành ghi chép số thực nhận, thực xuất vào chứng từ và thẻ kho. Cuối ngày, tính ra số tồn kho ghi vào cột tồn trên thẻ kho. Định kỳ hoặc cuối tháng, thẻ kho được đối chiếu với sổ chi tiết của kế toán. Mặt khác, thủ kho phải thường xuyên đối chiếu số liệu trên thẻ kho với số vật tư thực tế ở trong kho. Sau khi ghi vào thẻ kho, các chứng từ nhập xuất vật tư phải được chuyển về phòng kế toán.
+Theo phương pháp ghi sổ số dư: Thu kho vẫn sử dụng thẻ kho để ghi chép như hai phương pháp trên. Đồng thời cuối tháng, thủ kho còn phải ghi vào sổ số dư số tồn kho cuối tháng của từng thứ NVL vào cột số lượng. Sau đó chuyển sổ số dư cho kế toán. Sổ số dư do kế toán lập cho từng kho và được mở cho cả năm, cuối mỗi tháng giao cho thủ kho ghi một lần.
- Tại phòng kế toán.
+ Theo phương pháp ghi thẻ song song:
kế toán khi nhận được chứng từ nhập, xuất do thủ kho gửi lên, kế toán tiến hành kiểm tra, hoàn chỉnh chứng từ và căn cứ vào đó để ghi vào sổ chi tiết được mở cho từng loại NVL, từng kho tương ứng với mỗi thẻ kho của thủ kho.
Cuối tháng, kế toán lập bảng kê Nhập - Xuất - Tồn sau đó đối chiếu:
- Đối chiếu sổ kế toán chi tiết với thẻ kho của thu kho.
- Đối chiếu số liệu dòng tổng cộng trên bảng kê Nhập - Xuất - Tồn với số liệu trên sổ kế toán tổng hợp.
- Đối chiếu số liệu trên sổ kế toán chi tiết với số liệu kiểm kê thực tế.
+ Theo phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển:
Kế toán mở sổ đối chiếu luân chuyển để ghi chép, phản ảnh tổng số NVL luân chuyển trong tháng ( tổng số nhập, số xuất trong tháng và tồn kho cuối tháng ) của từng thứ NVL theo chỉ tiêu số lượng và giá trị. Sổ đối chiếu luân chuyển được mở và dùng cho cả năm và mỗi tháng chỉ ghi vào một lần vào cuối tháng trên cơ sở các chứng từ nhập xuất của từng thứ NVL. Mỗi thứ NVL ở từng kho theo từng người chịu trách nhiệm được ghi vào một dòng trong sổ, cuối tháng đối chiếu số lượng NVL trên sổ đối chiếu luân chuyển với thẻ kho và số tiền của từng loại với sổ kế toán tổng hợp.
+Phương pháp ghi sổ số dư.
Kế toán định kỳ xuống kho kiểm tra việc ghi chép trên thẻ kho của thủ kho và trực tiếp nhận chứng từ nhập, xuất kho. Sau đó, kế toán ký xác nhận vào từng thẻ kho và ký vào phiếu giao nhận chứng từ.
Tại phòng kế toán, nhân viên kế toán kiểm tra lại chứng từ, hoàn chỉnh chứng từ và tổng hợp giá trị theo từng nhóm, loại vật tư để ghi chép vào cột số tiền trên phiếu giao nhận chứng từ, số liệu này được ghi vào bảng kê luỹ kế nhập, bảng kê luỹ kế xuất vật tư. Cuối tháng căn cứ vào bảng kê luỹ kế nhập, xuất để cộng tổng số tiền theo từng nhóm NVL ghi vào bảng kê Nhập - Xuất - Tồn. Đồng thời sau khi nhận được sổ số dư thủ kho chuyển lên, kế toán căn cứ vào cột số dư về số lượng, đơn giá hạch toán của từng nhóm nguyên vật liệu tương ứng để tính ra số tiền ghi vào cột số dư.
Hàng ngày, kế toán đối chiếu số liệu trên cột số dư tiền của sổ số dư với cột trên bảng kê Nhập - Xuất - Tồn với số liệu trên sổ kế toán tổng hợp.
- Trình tự kế toán:
Trình tự ghi sổ được khái quát theo sơ đồ sau:
Kế toán chi tiết NVL theo phương pháp ghi thẻ song song.
Kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp thẻ song song:
Thẻ kho
Sổ kế toán chi tiết
Chứng từ nhập
Chứng từ xuất
- Ghi hàng ngày
- Ghi cuối tháng
- Đối chiếu kiểm tra
Bảng kê vật tư tổng hợp N-X-T
Sổ kế toán tổng hợp
Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có ít chủng loại NVL, việc nhập xuất diễn ra không thường xuyên. Nhưng đối với doanh nghiệp áp dụng kế toán máy thì phương pháp này vẫn áp dụng được với doanh nghiệp có nhiều chủng loại NVL, việc nhập xuất diễn ra thường xuyên. Vì vâyh phương pháp này hiện nay được nhiều doanh nghiệp áp dụng.
+ Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển
Trình tự ghi sổ được khái quát theo sơ đồ sau:
Kế toán chi tiết NVL theo phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển.
Thẻ kho
Chứng từ xuất
Bảng kê xuất
Số đối chiếu luân chuyển
Bảng kê nhập
Chứng từ nhập
Sổ kế toán tổng hợp
: Ghi hàng ngày
: Ghi cuối tháng
: Đối chiếu cuối tháng
Phương pháp này có ưu điểm là khối lượng ghi chép của kế toán được giảm bớt do chỉ ghi một lần vào cuối tháng nhưng vẫn còn ghi sổ trùng lặp giữa kho và phòng kế toán về chỉ tiêu số lượng, việc kiểm tra đối chiếu giữ kho và phòng kế toán chỉ tiến hành được vào cuối tháng nên hạn chế tác dụng kiểm tra của kế toán. Phương pháp này chỉ thích hợp với những doanh nghiệp có chủng loại NVL ít, không có điều kiện ghi chép theo dõi tình hình nhập xuất hàng ngày.
Phương pháp này ít được áp dụng trong thực tế.
+ Phương pháp ghi sổ số dư.
Trình tự ghi sổ được khái quát theo sơ đố sau:
Kế toán chi tiết vật tư, hàng hoá theo phương pháp ghi sổ số dư
Thẻ kho
Chứng từ xuất
Bảng kê xuất
Bảng luỹ kế xuất
Số số dư
Bảng kê tổng hợp N - X - T
Bảng luỹ kế nhập
Bảng kê nhập
Chứng từ nhập
Sổ kế toán tổng hợp
: Ghi hàng ngày
: Ghi cuối tháng
: Đối chiếu hàng ngày
Phương pháp này có ưu điểm là giảm khối lượng ghi chép của kế toán do chỉ ghi theo chỉ tiêu số tiền và ghi theo từng nhóm NVL. Phương pháp này đã kết hợp chặt chẽ giữa hạch toán nghiệp vụ và hạch toán kế toán, kế toán có thể thực hiện kiểm tra thường xuyên việc ghi chép và bảo quản trong kho của thủ kho, công việc được dàn đều trong tháng. Nhưng với phương pháp này, kế toán chưa theo dõi chi tiết đến từng thứ, loại NVL nên để có được thông tin về tình hình nhập - xuất - tồn của NVL nào thì phải căn cứ vào số liệu trên thẻ kho, khó phát hiện ra được những sai sót nhầm lẫn giữa kho và phòng kế toán.
Phương pháp này được áp dụng cho doanh nghiệp có nhiều NVL, việc nhập xuất diễn ra thường xuyên, doanh nghiệp đã áp dụng được giá hạnh toán và xây dựng được hệ thống danh điểm NVL hợp lý, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kế toán vững vàng.
1.3.2 Tổ chức kế toán tổng hợp NVL
Hạch toán tổng hợp NVL là việc ghi chép, theo dõi tình hình hiện có và những biến động của mọi đối tượng NVL trong cả kỳ để lập Báo cáo kế toán. Tuỳ vào khả năng quản lý, kiểm soát của mình, doanh nghiệp lựa chọn phương pháp hợp lý để kiểm kê kho. Có hai phương pháp hạch toán sau:
Phương pháp kê khai thường xuyên
Phương pháp kiểm kê định kỳ.
1.3.2.1 Phương pháp kê khai thường xuyên.
- Nội dung: Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp kế toán theo dõi và phản ánh tình hình hiện có, sự biến động của hàng tồn kho một cách liên tục, thường xuyên trên các tài khoản kế toán hàng tồn kho.
Phương pháp này được sử dụng phổ biến hiện nay vì tiện ích của nó. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp có nhiều chủng loại NVL, có giá trị thấp, thường xuyên xuất dùng, xuất bán nếu áp dụng phương pháp này sẽ tốn nhiều công sức. Dù vậy, phương pháp này có độ chính xác cao, cung câp thông tin về hàng tồn kho một cách kịp thời, câp nhật. Theo phương pháp này, tại bất kỳ thời điểm nào kế toán cũng có thể xác định lượng nhập xuất tồn từng loại hàng tồn kho nói chung và NVL nói riêng.
- Tài khoản sử dụng:
Để phản ánh số hiện có và tình hình tăng giảm NVL, kế toán sử dụng các TK sau đây:
TK 152 - " Nguyên liêu, vật liêu ": TK này dùng để theo dõi giá trị hiện có và tình hình biến động của NVL theo giá thực tế.
TK 152 được mở theo dõi chi tiết theo từng loại NVL tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý NVL của doanh nghiệp. TK 152 có 5 TK cấp II sau;
TK 1521: NVL chính
Tk 1522: NVL phụ
TK 1523: Nhiên liệu
TK 1524: Phụ tùng thay thế
TK 1525: Thiết bị xây dựng cơ bản
TK 1528: Vật liệu khác
Trong từng TK cấp II, doanh nghiệp có thể mở chi tiết đến TK cấp III, IV, V.
TK 151 - " Hàng mua đang đi đường " : TK này phản ánh trị giá vốn thực tế của NVL mà doanh nghiệp đã mua nhưng chưa về nhập kho, tình hình NVL đang đi đường đã về nhập kho. TK này cũng được mở chi tiết cho từng loại NVL, từng người bán.
Sơ đồ 1: Sơ đồ kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên.
TK 111,112,331,141,... TK 152 "NVL" TK 621
NVL mua ngoài nhập kho (**) Xuất dùng trực tiếp cho
Giá có thuế GTGT chế tạo sản phẩm
Mua NVL (*) TK 133
TK627,641,642,241
Xuất NVL dùng cho QL,
SXC,BH,XDCB
TK 111,112,331
TK 331,141,112
TK515
Chi phí vận chuyển,bốc Giảm giá hàng mua,CKTM
CKTT dỡ NVL nhập kho hàng mua bị trả lại
TK133(1)
TK 3333
Thuế GTGT
Thuế NK tính vào giá trị
NVL nhập khẩu TK 154
TK154
Xuất NVL thuê ngoài gia công
NVL thuê ngoài gia công, tự chế
phế liệu thu hồi nhập kho
TK 221,222,223 TK 221,222,223
Nhận lại vốn góp liên doanh NVL mang đi góp vốn liên doanh
bằng NVL
TK 632
Xuất NVL bán và biếu tặng
TK 338 ( 3381) TK 811 TK 711
CL giảm CL tăng
NVL phát hiện thừa khi kiểm kê TK 3388
NVL xuất trả nợ
TK 411
Nhận vốn góp liên doanh bằng NVL TK 632
NVL phát hiện thiếu khi kiểm kê
TK412
TK 412
Chênh lệch tăng NVL Chênh lệch giảm khi đánh giá lại NVL
Ghi chú: (*): Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
(**): Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp
Ngoài các TK trên: trong quá trình hạch toán tổng hợp, kế toán còn sử dụng các TK liên quan như: TK 111, TK 112, TK 141, TK 128, TK 621, TK 627, TK 331...
- Trình tự kế toán theo phương pháp kê khai thường xuyên được khái quát theo sơ đồ 1.
1.3.2.2 Phương pháp kiểm kê định kỳ.
- Nội dung: Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp khôn._.g theo dõi một cách thường xuyên, liên tục về tình hình biến động của NVL trên các TK hàng tồn kho mà chỉ phản ánh giá trị tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng. Hàng ngày, việc nhập NVL được phản ánh vào TK 611. Trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng tồn kho thực tế, từ đó xác định lượng xuất dùng cho sản xuất kinh doanh và các mục đích khác trong kỳ theo công thức cân đối sau:
-
+
=
Trị giá vốn NVL còn lại chưa sử dụng ĐK
Trị giá vốn NVL xuất dùng
Tổng trị giá vốn NVL nhập vào trong kỳ
Trị giá NVL còn lại chưa sử dụng
Độ chính xác của phương pháp này không cao vì chỉ phản ánh trị giá NVL xuất dùng vào cuối kỳ, mặc dù tiết kiệm được thời gian và công sức ghi chép. Phương pháp này chỉ thích hợp với các đơn vị kinh doanh những chủng loại vật tư khác nhau có giá trị thấp, thường xuyên xuất dùng, xuất bán.
- Chứng từ kế toán sử dụng: giống như trong phương pháp kê khai thường xuyên.
- Tài khoản kế toán sử dụng:
TK 152 - " Nguyên liệu, vật liệu ": TK này dùng để phản ánh trị giá vốn thực tế NVL tồn kho đầu kỳ, cuối kỳ.
TK 611 - " Mua hàng ": TK này phản ánh trị giá vốn của hàng luân chuyển trong tháng.
TK 151 - " Hàng mua đang đi trên đường " : TK này dùng để phán ánh trị giá vốn hàng mua thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhưng đang đi đường hay gửi lại cho người bán.
Ngoài ra, kế toán còn sử dụng các TK liên quan khác trong quá trình hạch toán như: TK 331, TK 111, TK 112, TK 141...
- Kế toán tổng hợp NVL theo phương pháp kiểm kê định kỳ
Trình tự kế toán được khái quát theo sơ đồ 2.
Sơ đồ 2: Sơ đồ kế toán nguyên vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ:
TK152 TK 611"Mua hàng" TK 152
K/c giá trị NVL tồn đầu kỳ K/c giá trị NVL tồn cuối kỳ
TK 111,112,331
TK 111,112,141,311,331
Giảm giá hàng mua trả lại
Mua NVL (**)
Mua NVLnhập kho(*) TK 515
TK 133 CKTT
TK 3333
TK 632
Thuế NK phải nộp
Kiểm kê thiếu hụt, mất mát
TK 411 TK 621
Nhận cấp vốn, góp vốn liên doanh K/c số NVL xuất dùng thực tế
sản xuất sản phẩm
TK 627,641,642
TK 711 K/c số NVL xuất dùng SXC
Nhận biếu tặng, tài trợ bán hàng,quản lý
TK 632
Xuất NVL bán, biếu tặng
TK 412
Chênh lêch đánh giá tăng NVL TK 412
Chênh lệch đánh giá giảm NVL
Ghi chú: (*): Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
(**): Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp
1.3.4 Tổ chức sổ kế toán và báo cáo kế toán.
1.3.4.1 Tổ chức sổ kế toán.
Trong quá trình hoạt động của đơn vị, hoạt động kinh tế diễn ra rất đa dạng. Để tổng hợp được thông tin tài chính của doanh nghiệp, kế toán sử dụng sổ kế toán. Sổ kế toán là những tờ sổ được xây dựng theo mẫu biểu nhất định, có liên hệ chặt chẽ với nhau, là phương tiện để kế toán ghi chép, phản ánh một cách có hệ thống các thông tin kinh tế cũng như các đối tượng kế toán theo từng loại nghiệp vụ liên quan đến từng loại tài sản khác nhau nhằm cung cấp các thông tin có hệ thống phục vụ công tác lãnh đạo và quản lý các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm NVL và hình thức kế toán NVL của từng doanh nghiệp mà kế toán sử dụng các loại sổ kế toán khác nhau để hạch toán sự biến động của NVL trong doanh nghiệp. Thông thường trong các doanh nghiệp thường sử dụng các loại sổ kế toán sau:
- Sổ kế toán tổng hợp: Sổ này phục vụ cho kế toán tài chính, tuỳ theo hình thức kế toán áp dụng trong doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp có các loại sổ khác nhau.
Ví dụ: Trong doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán Nhật ký chung thì sổ kế toán tổng hợp có: Sổ nhật ký chung; Sổ Cái các TK 152,621; Sổ nhật ký nhập NVL; Sổ Nhật ký xuất NVL.
- Sổ kế toán chi tiết: Sổ này được mở tuỳ theo yêu cầu quản trị NVL của doanh nghiệp. Trên cơ sở yêu cầu quản lý cụ thể về NVL mà doanh nghiệp đã đưa ra, kế toán NVL mở các sổ kế toán chi tiết để theo dõi từng loại NVL như: Sổ chi tiết NVL; Sổ số dư NVL tồn kho.
Mẫu sổ kế toán chi tiết tuỳ theo doanh nghiệp thiết kế nhưng nó phải đáp ứng được yêu cầu theo dõi chi tiết đến từng loại NVL.
- Báo cáo: Hệ thống báo cáo phục vụ cho kế toán quản trị nên tuỳ theo yêu cầu thông tin về kế toán NVL của doanh nghiệp, kế toán trưởng sẽ xây dựng báo cáo vật tư phục vụ cho yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Ví dụ: Báo cáo nhập vật liệu theo theo từng xí nghiệp, báo cáo chế biến...
Mẫu biểu báo cáo tuỳ theo từng doanh nghiệp thiết kế dựa trên quy định của chế độ kế toán hiện hành và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Chương 2:
Tình hình thực về tổ chức kế toán NVL tại công ty cổ phần may Thăng Long.
2.1 Đặc điểm tình hình SXKD và quá trình quản lý SXKD tại Công ty.
2.1.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của công ty.
Tên gọi: Công ty cổ phần may Thăng Long .
Tên giao dịch Quốc tế: Thăng Long Garment Joint Stock Company.
Tên viết tắt: THALOGA.
Trụ sở chính: 250 Minh Khai_Hai Bà Trưng_Hà Nội.
Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty cổ phần may Thăng Long là một doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước nắm giữ 51% số cổ phiếu, trực thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam. Công ty ra đời vào ngày 5/8/1958 do Bộ Ngoại thương chính thức ra quyết định thành lập với tên gọi ban đầu: Công ty may mặc xuất khẩu, thuộc tổng công ty Xuất nhập khẩu tạp phẩm. Sự ra đời của công ty mang một ý nghĩa lịch sử quan trọng vì đây là Công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên ở Việt Nam, và cũng là dấu hiệu của triển vọng và tương lai tươi sáng cho ngành may mặc xuất khẩu nước ta.
Những năm đầu thành lập, công ty gặp không ít khó khăn trong sản xuất: thiếu máy móc; trang thiết bị không đồng bộ; thiếu công nhân có tay nghề cao; việc may mặc hàng xuất khẩu ở Việt Nam chưa có tiền lệ; tiêu chuẩn Quốc tế, kỹ thuật, chất lượng sản phẩm thuộc lĩnh vực văn hoá và khoa học là những vấn đề mới mẻ của công ty. Tuy nhiên, với sự cố gắng và tận tâm của các cán bộ và đội ngũ công nhân, công ty đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: Năm 1958 Công ty hoàn thành xuất sắc kế hoạch, đạt 112,8% chỉ tiêu đã đề ra; Năm 1959 công ty đạt được 102% so với kế hoạch sản xuất đã đề ra; Năm 1960 công ty đạt 116,16% kế hoạch sản xuất. Trong thời kỳ này,Công ty xuất khẩu các mặt hàng: Măng tô nam-nữ, áo mưa, Pizama... sang Liên Xô và các nước thuộc phe XHCN ở Đông Âu.
Thành công trong thời gian đầu là cơ sở cho một nền móng vững chắc và tạo đà cho sự phát triển cho những năm tiếp theo. Vì thế, trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ I ( 1961-1965 ) Công ty dã có một bước tiến rõ rệt. Công ty đã quy tụ được các tổ sản xuất phân tán về một mối, đầu tư thêm máy móc hiện đại: máy chạy điện, máy cắt vòng, máy tiện, máy mài...5 năm liên tiếp Công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra, đã có khách hàng và hợp đồng xuất khẩu ổn định, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước Đức, Mông cổ, Tiệp Khắc và đặc biệt là Pháp_trung tâm thời trang của Châu Âu. Ngày 31/8/1965 bộ phận gia công đã tách thành đơn vị sản xuất độc lập với tên gọi Công ty gia công may mặc xuất khẩu. Công ty may mặc xuất khẩu đổi thành Xí nghiệp may mặc xuất khẩu.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1965-1975 ) toàn Xí nghiệp đã có những nỗ lực rất lớn để đấu tranh bảo vệ tổ quốc, bảo vệ sản xuất, khẳng định sự tồn tại và phát triển của mình. Đây là thời gian đầy khó khăn và thử thách đối với toàn thể cán bộ công nhân viên của Xí nghiệp vì đế quốc Mỹ bắn phá miền Bắc rất ác liệt. Các đơn vị Xí nghiệp phải đi sơ tán, nguồn nguyên liệu, vật tư phục vụ sản xuất thiếu, nhiều giờ lao động bị mát do cắt điện, cán bộ và công nhân của Xí nghiệp vừa sản xuất, vừa đào hào và cầm súng chiến đấu. Tuy khó khăn như vậy nhưng Công ty vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Năm1966 kế hoạch sản xuất là 1.200.000 sản phẩm nhưng thực tế đạt được 1.262.000 sản phẩm với tỉ lệ 105,19% và hoàn thành xấp xỉ kế hoạch trong những năm đầu của cuộc kháng chiến.
Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất. Đây cũng là năm công ty được 17 tuổi đời. Trong giai đoạn 5 năm lần II ( 1975-1980 ) và những năm tiếp theo Xí nghiệp đã tập trung vào đầu tư trang thiết bị, nghiên cứu cải tiến dây chuyền sản xuất, khuyến khích công nhân viên nghiên cứu khoa học và áp dụng vào thực tế. Cùng với việc đầu tư chiều sâu, Xí nghiệp cũng đẩy mạnh sản xuất gia công hàng xuất khẩu, đặc biệt là các sản phẩm may mặc cao cấp xuất khẩu sang các nước: Thụy Điển, Pháp, CHDC Đức ( Liên bang Đức ngày nay ). Năm 1979, Xí nghiệp được Bộ Công nghiệp Quyết định đổi tên mới: Xí nghiệp may Thăng Long. Đến năm 1988, Xí nghiệp đã đi qua 30 năm, một chăng đường đầy khó khăn thử thách: qua hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quôc Mỹ, 4 lần thay đổi địa điểm, 5 lần thay đổi cơ quan chủ quản, 9 lần thay đổi lãnh đạo chủ chốt, nguyên vật liệu sản xuất luôn trong tình trạng thiếu thốn nhưng Xí nghiệp vẫn từng bước tiến lên, đạt mức độ tăng trưởng cao, xây dựng mối quan hệ hợp tác tốt với các bạn hàng, nhiều lần được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động.
Năm 1990 là mốc lịch sử đáng ghi nhận khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tình hình trong nước và quốc tế rất khó khăn: khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn còn gay gắt, lạm phát cao, các nước XHCN ở Đông Âu và Liên bang Xô viết sụp đổ, Xí nghiệp may Thăng Long có thể nói đã bị mất trắng thị trường xuất khẩu của mình. Đứng trước khó khăn đó, Xí nghiệp đã mạnh dạn đầu tư thêm máy móc hiện đại, tổ chức lại sản xuất, quản lý,tìm kiếm thêm thị trường và đã tiếp cận được với thị trường các nước châu á. Với những nỗ lực không ngừng, năm 1991 Xí nghiệp may Thăng Long là đơn vị đầu tiên trong ngành may được nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, tạo thế chủ động, giảm nhiều thủ tục phiền hà, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Tháng 6/1992, Xí nghiệp được Bộ Công nghiệp nhẹ cho phép được chuyển đổi tổ chức từ Xí nghiệp thành Công ty với tên gọi Công ty may Thăng Long. Năm 1993, Công ty đã đầu tư mở rộng, xây dựng một xưởng may trực thuộc chi nhánh Hải Phòng. Đồng thời thực hiện sự chỉ đạo của Tổng công ty dệt may Việt Nam giúp đỡ công ty dệt Nam Định thành lập một đơn vị thành viên của công ty tại thành phố Nam Định.
Năm 2004, Công ty may Thăng Long chuyển sang hình thức Công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối 51% vốn điều lệ với số vốn tại thời điểm cổ phần hoá là 123.568.183.000 VND.
Hiện nay,Công ty cổ phần may Thăng Long có 9 xí nghiệp thành viên nàm tại các khu vực Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Hoà Lạc với 98 dây chuyền sản xuất, gần 4000 cán bộ công nhân viên, đội ngũ cán bộ có trình độ cao, đội ngũ công nhân có tay nghề giỏi. Trong những năm qua, công ty không ngừng đổi mới trong thiết bị, sáng tạo mâu mã mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng niềm tin với khách hàng trong nước, mở rộng thị trường và nâng cao uy tín với các bạn hàng quốc tế. Công ty đã nhiều lần được Đảng và Nhà nước khen tặng.
Nhiệm vụ của Công ty và những thuận lợi - khó khăn:
Nhiệm vụ của công ty.
Từ khi thành lập cho đến nay, Công ty đã từng bước vươn lên và là một doanh nghiệp đứng đầu ngành dệt may Việt Nam. Công ty được quyền Xuất-Nhập khẩu trực tiếp và chuyên sản xuất các sản phẩm may mặc có chất lượng cao theo đơn đặt hàng của khách hàng trong và ngoài nước, Ngoài ra, Công ty còn sản xuất các sản phẩm nhựa và kinh doanh kho ngoại quan phục vụ nghành dệt may Việt Nam.
Hàng năm, Công ty sản xuất khoảng 6 triệu sản phẩm, trong đó xuất khẩu khoảng 80%. Sản phẩm của công ty có mặt trên 40 quốc gia trên thế giới, trong đó có cả những thị trường khó tính như Mỹ, Châu Âu, Hồng Kông, Hàn Quốc...Hiện nay Công ty đang sản xuất và kinh doanh những mặt hàng chủ yếu sau:
- Quần áo bò.
- Quần áo sơ mi nam, nữ, bộ comple.
- Bộ đồng phục người lớn, trẻ em.
- áo Jacket các loại.
- Quần áo thể thao và quần áo dệt kim.
Những thuận lợi
+ Do nằm trong thành phố nên công ty có khả năng tiếp cận thị trường nhanh, có nguồn lao động dồi dào.
+ Công ty là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực chiến lược phát triển nên được chính phủ tạo điều kiện cho phép xuất nhập khẩu trực tiếp tại bất cứ cửa khẩu nào trên cả nước nên có tiếp xúc thuận lợi với khách hàng.
+ Công ty có đội ngũ lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm cùng với những cán bộ công nhân viên năng động sáng tạo, có tay nghề và trình độ cao, có khả năng nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu thay đổi của khách hàng.
+ Là công ty đã xây dựng thương hiệu của mình trên thị trường từ rất lâu, sản phẩm luôn đạt chất lượng và luôn được theo dõi theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002, được người tiêu dùng đánh giá cao, từ lâu đã có uy tín và chiếm được cảm tình của khách hàng.
Những khó khăn.
+ Tình hình cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, thiếu thông tin về thị trường và đặc biệt hạn ngạch xuất khẩu được cấp phép ít làm cho việc triển khai và ký kết hợp đồng gặp nhiều hạn chế.
+ Thị trường trong nước cũng gặp nhiều khó khăn, công ty phải khẳng định mình trước những công ty có tên tuổi khác như May 10, May Đức Giang, May Chiến Thắng... và các loại hàng nhập lậu từ Trung Quốc đang tràn ngập thị trường.
+ Thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, từ khi chuyển đổi thành công ty cổ phần, các nguồn vay ưu đãi từ phía công ty Tài chính thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam không còn nữa mà công ty phải tự huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau.
2.1.2 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty.
* Đặc điểm sản xuất kinh doanh:
Hiện nay, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm: sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu trên các lĩnh vực hàng may mặc, nhựa, kho ngoại quan. Trong đó hoạt động chính vẫn là ở lĩnh vực may mặc với các loại sản phẩm cơ bản: Quần áo sơmi, áo Jacket, áo khoác các loại, quần áo trẻ em...Việc sản xuất của công ty chủ yếu là hàng gia công may mặc theo các hợp đồng gia công. Việc sản xuất được tiến hành theo một quy trình công nghệ khép kín và trọn vẹn trong một đơn vị. Hiện nay, cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty được bố trí như sau:
+ Có 5 xí nghiệp may trong đó có 3 xí nghiệp: XN I, XN II, XN III đóng tại Hà Nội; một xí nghiệp may Nam Hải đóng tại Nam Định; xí nghiệp may Hà Nam đóng tại Hà Nam; một xí nghiệp phụ trợ bao gồm phân xưởng thêu và phân xưởng mài, đồng thời có nhiệm vụ cung cấp điện nước, sửa chữa máy móc thiết bị cho cả công ty.
+ Một cửa hàng thời trang chuyên nghiên cứu mẫu mốt và sản xuất những đơn đặt hàng nhỏ, số lượng khoảng 1000 sản phẩm.
Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua sơ đồ số 3.
*Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
Các Xí nghiệp được tổ chức theo một dây chuyền khép kín gồm:1 tổ cắt, 4 dây chuyền may, 1 tổ là. Nguyên vật liệu là vải, sau khi đưa vào sản xuất sẽ được tổ cắt thực hiện cắt theo mẫu, sau đó chuyển cho tổ may thực hiện may. Nếu sản phẩm nào cần thêu thì trước khi chuyển cho tổ may phải trải qua giai đoạn thêu. Mỗi công nhân thực hiện một bộ phận nào đó cấu thành nên sản phẩm: may cổ,may thân, may tay...rồi sau đó mới ghép thành sản phẩm hoàn chỉnh để chuyển sang tổ là. Nếu sản phẩm cần tẩy mài thì trước khi giao cho tổ là, sản phẩm được chuyển qua phân xưởng tẩy mài.
Phòng kỹ thuật có trách nhiệm kiểm tra lại sản phẩm như chất lượng, quy cách, kích cỡ...trước khi đóng gói sản phẩm.
Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm được thể hiện qua sơ đồ số 4
2.1.3 Đặc điểm tổ chức quản lý SXKD
Từ tháng 1/2004, Công ty may Thăng Long đã chính thức được cổ phần hoá theo chủ trương của nhà nước.Bộ máy tổ chức quản lý bao gồm:
Cấp công ty:
+ Đại hội đồng cổ đông ( ĐHĐCĐ ): là cơ quan quyền lực cao nhất của công ty, quyết định các vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển dài hạn của công ty. Các vấn đề do ĐHĐCĐ quyết định thường được thực hiện thông qua biểu quyết. Nghị quyết được thông qua khi có trên 51% số phiếu tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ đồng ý. Các vấn đề về ĐHĐCĐ được quy định tại Luật Doanh Nghiệp và chi tiết thao điều lệ của công ty. ĐHĐCĐ bầu ra Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của công ty.
+ Hội đồng quản trị ( HĐQT ): là cơ quan quản lý của công ty, đứng đầu là Chủ tịch HĐQT. Thay mặt HĐQT điều hành công ty là Tổng giám đốc. HĐQT hoạt động tuân thủ theo quy định của Luật Doanh Nghiệp và điều lệ của công ty.
+ Ban kiểm soát: là cơ quan giám sát hoạt động của ĐHĐCĐ, đứng đầu là trưởng ban kiểm soát.
+ Tổng giám đốc: là người điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty. Tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm hay bãi nhiệm. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước HĐQT về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
Giúp việc cho Tổng giám đốc có các Phó Tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm hay miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng giám đốc, gồm có các Phó Tổng giám đốc sau:
- Phó Tổng giám đốc điều hành kỹ thuật: có trách nhiệm giúp việc cho Tổng giám đốc về mặt kỹ thuật sản xuất và thiết kế của công ty.
-Phó Tổng giám đốc sản xuất: có trách nhiệm giúp Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh.
- Phó Tổng giám đốc điều hành nội chính: có nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc về mặt đời sống nhân viên và điều hành các dịch vụ đời sống.
Các phòng ban chức năng:
- Văn phòng công ty: có trách nhiệm quản lý về mặt nhân sự, các mặt tổ chức của công ty: quan hệ đối ngoại, giải quyết các chế độ chính sách với người lao động.
- Phòng kỹ thuật chất lượng: quản lý, phác thảo tạo mẫu các mặt hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng và nhu cầu của công ty, kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi đưa vào nhập kho thành phẩm.
- Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu: có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát thị trường và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tháng, quý, năm; tổ chức và quản lý công tác xuất nhập khẩu hàng hoá, đàm phán soạn thảo hợp đồng với khách hàng trong và ngoài nước.
-Phòng kế toán tài vụ: tổ chức quản lý thực hiện công tác tài chính kế toán theo chính sách của Nhà nước, đảm bảo nguồn vốn có sản xuất kinh doanh và yêu cầu phát triển của công ty, phân tích và tổng hợp số liệu để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh, đề xuất các biện pháp đảm bảo hoạt động của công ty có hiệu quả.
-Xí nghiệp dịch vụ đời sống: làm công tác dịch vụ, phục vụ thêm cho đời sống của công nhân viên: quản lý lớp mẫu giáo, trông xe, nhà ăn...
- Cửa hàng thời trang: các sản phẩm được trưng bày mang tính chất giới thiệu là chính, ngoài ra còn có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để xây dựng các chiến lược tìm kiếm thị trường.
- Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm: trưng bày, giới thiệu và bán các loại sản phẩm của công ty, đồng thời tiếp nhận các ý kiến đóng góp, phản hồi từ người tiêu dùng.
- Phòng chuẩn bị sản xuất: tổ chức tiếp nhận, bảo quản hàng hoá trong kho cũng như vận chuyển, cấp phát nguyên liệu đến từng đơn vị theo lệnh sản xuất. Ngoài ra còn thực hiện kiểm tra số lượng, chất lượng của nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất.
- Phòng kinh doanh nội địa: tổ chức tiêu thụ hàng hoá nội địa, quản lý hệ thống bán hàng, các đại lý bán hàng cho công ty và theo dõi tổng hợp, báo cáo tình hình kết quả kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá của các đại lý.
Các cấp xí nghiệp:
- Trong các Xí nghiệp thành viên có ban giám đốc Xí nghiệp gồm Giám đỗc xí nghiệp. Giúp việc cho giám đốc xí nghiệp có các nhân viên thông kê xí nghiệp và nhân viên thống kê phân xưởng.
- Dưới các trung tâm và của hàng thời trang có của hàng trưởng và các nhân viên cửa hàng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua sơ đồ 5.
2.1.4 Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của công ty.
2.1.4.1 Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán
Xuất phát từ đặc điểm tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý cũng như trình độ của các cán bộ kế toán và chức năng, nhiệm vụ mà bộ máy kế toán được giao,công ty tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập trung. Theo hình thức này, hầu hết các công việc kế toán từ khâu thu nhận, xử lý, luân chuyển chứng từ, ghi sổ kế toán đến việc lập báo cáo kế toán đều được thực hiện tại phòng kế toán của công ty. ở các xí nghiệp thành viên và các bộ phận trực thuộc không tổ chức bộ máy kế toán riêng mà chỉ bố trí các nhân viên hạch toán thống kê làm nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra công tác kế toán ban đầu, thu nhận kiểm tra chứng từ, ghi chép sổ sách hạch toán nghiệp vụ phục vụ cho yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh của từng phân xưởng đó. Ngoài ra, trong bộ máy kế toán, các nhân viên được bố trí đảm nhận các phần hành kế toán căn cứ vào khối lượng, tính chất phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế tài chính và phù hợp với năng lực của từng kế toán viên. Điều này đã tạo điều kiện cho mỗi cán bộ kế toán phát huy tốt khả năng và trình độ của mình, giúp cho công tác kiểm tra, chỉ đạo nghiệp vụ thuận tiện, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung thống nhất của kế toán trưởng đối với công tác kế toán.
2.1.4.2.Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của công ty.
+ Tại phòng Kế toán - Tài vụ của công ty.
Nhiệm vụ kế toán: Tổ chức hướng dẫn, thực hiện và kiểm tra việc thu thập, xử lý các thông tin, số liệu kế toán theo đúng chuẩn mực và chế độ hiện hành; kiểm tra, giám sát các khoản thu chi, các nghiệp vụ thu nộp, thanh toán; kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; ngăn ngừa các hành vi gian lận, vi phạm pháp luật; phân tích thông tin, số liệu kế toán, tham mưu đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản trị và ra quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị.
Bộ máy kế toán: Phòng kế toán tài vụ trong biên chế có 10 nhân viên, được tổ chức theo các phần hành kế toán như sau:
- Đứng đầu là kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp: là người tổ chức và kiểm tra việc thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê, tài chính ở doanh nghiệp. Đồng thời kiểm tra kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính ở doanh nghiệp. Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổng hợp số liệu ghi vào sổ tổng hợp và lập báo cáo kế toán. Kế toán trưởng phải chịu trách nhiệm trước giám đốc và cơ quan tài chính cấp trên về các vấn đề liên quan đến tài chính của công ty. Tiếp đó là 2 phó phòng kế toán, thủ quỹ và các nhân viên.
- Kế toán vốn bằng tiền: sau khi kiểm tra tính hơp pháp, hợp lệ của các chứng từ gốc, kế toán vốn bằng tiền lập các phiếu thu_chi ( với tiền mặt ) hay Séc, UNC...( với tiền gửi ngân hàng ). Hàng tháng, lập bảng kê tổng hợp Séc và sổ chi tiết, đối chiếu sổ sách thủ quỹ với sổ phụ ngân hàng, lập kế hoạch tiền mặt gửi lên cho ngân hàng.
- Kế toán nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ (NVL & CCDC): hạch toán chi tiết NVL & CDC theo phương pháp ghi thẻ song song, theo dõi sát sao tình hình biến động của từng loại vật tư, cuối tháng lập bảng kê Nhập-Xuất-Tồn chuyển cho bộ phận kế toán tính giá thành. Khi có yêu cầu, bộ phận kế toán NVL sẽ cùng các bộ phận chức năng khác tiến hành kiểm kê lại vật tư, tìm nguyên nhân và biện pháp giải quyết khi thiếu hụt.
- Kế toán tài sản cố định ( TSCĐ ) và nguồn vốn: Phân loại TSCĐ hiện có của công ty, theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ và tính khấu hao theo phương pháp tuyến tính cố định, theo dõi các nguồn vốn và các quỹ của công ty.
- Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương: có nhiệm vụ hạch toán lao động, kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương, tính và lập các bảng thanh toán lương, bảng thanh toán BHXH theo từng bộ phận.
- Kế toán công nợ: theo dõi các khoản công nợ ( phải thu- phải trả ) trong công ty và giữa công ty với khách hàng, ngân hàng, Nhà nước...
- Kế toán tiêu thụ thành phẩm: theo dõi tình hình nhập-xuất kho thành phẩm, theo dõi và hạch toán tình hình tiêu thụ sản phẩm và các loại chi phí khác có liên quan đến việc tiêu thụ.
- Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành: hàng tháng nhận được báo cáo từ các xí nghiệp gửi lên, tổng hợp phần chế biến bán thành phẩm vào " Báo cáo tổng hợp chế biến ", nhận số liệu từ các bộ phận kế toán khác để tính gía thành, tính giá bán sản phẩm theo phương pháp hệ số.
- Thủ quỹ: chịu trách nhiệm về quỹ tiền mặt của công ty. Hàng ngày, căn cứ và các phiếu thu, phiếu chi hợp lệ để xuất hoặc nhập quỹ, ghi sổ quỹ phần thu chi, cuối tháng đối chiếu với sổ quỹ của kế toán tiền mặt.
+ Tại các xí nghiệp thành viên: chỉ có các nhân viên thống kê tại đó để thực hiện việc hạch toán ban đầu, có nhiệm vụ theo dõi NVL từ khi đưa vào sản xuất cho đến lúc giao thành phẩm. Nội dung theo dõi như sau:
- Từng chủng loại NVL đưa vào sản xuất theo từng mặt hàng của xí nghiệp.
- Số lượng bán thành phẩm cắt ra, tình hình nhập kho thành phẩm và các phần việc sản xuất đạt được để tính lương cho công nhân viên.
- Số lượng bán thành phẩm cấp cho từng tổ đầu ngày và số lượng bán thành phẩm nhập vào cuối ngày.
Căn cứ vào số lượng sản phẩm hoàn thành và định mức lương cho từng loại hàng, các nhân viên thống kê tính tiền lương cho công nhân viên trong tháng. Cuối quý , lập các báo cáo gửi lên phòng kế toán của công ty để đối chiếu số liệu. Khi hợp đồng sản xuất hoặc gia công kết thúc, các nhân viên hạch toán của xí nghiệp lập báo cáo quyết toán hợp đồng như báo cáo tiết kiệm nguyên vật liệu đồng thời xem xét việc thu hồi.
2.1.4.3.Hình thức tổ chức công tác kế toán tại công ty.
Hình thức kế toán áp dụng tại công ty là hình thức kế toán Nhật ký chứng từ. Nhật ký chứng từ được mở theo số phát sinh bên Có của tài khoản đối ứng với số phát sinh bên Nợ của các tài khoản liên quan. Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ gốc đã được kiểm tra để lấy số liệu ghi trực tiếp vào các Nhật ký chứng từ hoặc bảng kê, sổ chi tiết có liên quan. Đối với các Nhật ký chứng từ được ghi căn cứ vào các bảng kê, sổ chi tiết thì hàng ngày căn cứ vào chứng từ kế toán vào bảng kê, sổ chi tiết, cuối tháng phải chuyển số liệu tổng cộng của bảng kê, sổ chi tiết vào Nhật ký chứng từ.
Cuối tháng khoá sổ , cộng số liệu trên các Nhật ký chứng từ, kiểm tra, đối chiếu số liệu trên các Nhật ký chứng từ với các sổ kế toán chi tiết, bảng tổng hợp chi tiết có liên quan và lấy số liệu tổng cộng của các Nhật ký chứng từ ghi trực tiếp vào sổ cái.
Đối với các chứng từ có liên quan đến các sổ và thẻ kế toán chi tiết thì được ghi trực tiếp vào các sổ, thẻ có liên quan. Cuối tháng, cộng các sổ hoặc thẻ kế toán chi tiết và căn cứ vào sổ hoặc thẻ kế toán chi tiết lập các Bảng tổng hợp chi tiết theo từng tài khoản để đối chiếu với sổ Cái.
Chứng từ gốc và các bảng phân bổ ( Như phiếu thu - chi, bảng phân bổ khấu hao TSCĐ )
Bảng kê ( số 4,)
Nhật ký chứng từ ( số1,2,5,7)
Thẻ ( thẻ kho, thẻ TSCĐ) và sổ kế toán chi tiết ( TK 141,331...)
Sổ cái
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo cáo tài chính
Sơ đồ trình tự hạch toán
Ghi hàng ngày:
Ghi cuối tháng:
Đối chiếu, kiểm tra:
- Chế độ kế toán áp dụng: Theo QĐ số 1141-TC/QĐ/CĐKT ban hành ngày 1 tháng 11 năm 1995 của Bộ Tài chính.
- Niên độ kế toán: Công ty áp dụng theo năm, năm kế toán trùng với năm dương lịch ( từ ngày 1/1 đến ngày 31/12 ).
- Tổ chức lập báo cáo tài chính: Công ty lập báo cáo tài chính vào cuối mỗi quý kể từ ngày bắt đầu niên độ kế toán và gửi báo cáo lên Tổng công ty dệt may Việt Nam theo mẫu biểu quy định của Nhà nước. Báo cáo tài chính bao gồm:
Bảng cân đối kế toán ( Mẫu B01 - DN )
Báo cáo kết quả kinh doanh ( Mẫu B02 - DN )
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ( Mẫu B03 - DN )
Thuyết minh báo cáo tài chính ( Mẫu B09 - DN )
- Phương pháp hạch toán hàng tồn kho: Công ty áp dụng phương pháp hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Nhờ đó mà kế toán theo dõi phản ánh một cách thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình nhập xuất tồn kho vật tư, thành phẩm trên sổ kế toán. Vì vậy, giá trị hàng tồn kho trên sổ kế toán có thể được xác định ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ kế toán.
Công ty áp dụng kê khai, nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Công ty may Thăng Long.
Kế toán trưởng
kế toán NVL
kế toán vốn bằng tiền
thủ quỹ
kế toán tiêu thụ
kế toán giá thành
kế toán công nợ
kế toán TS CĐ và NV
kế toán tiền lương
Nhân viên thống kê các xí nghiệp
2.2 Tình hình thực về tổ chức kế toán NVL ở công ty.
2.2.1 Đặc thù của doanh nghiệp chi phối đến công tác kế toán NVL
Công ty cổ phần may Thăng Long là công ty có quy mô sản xuất kinh doanh lớn với 5 xí nghiệp may và một phân xưởng sản xuất phụ trợ. Sản phẩm chủ yếu của công ty là sản phẩm may mặc với số lượng sản xuất hàng năm lên đến 6-7 triệu chiếc. Sản phẩm của công ty rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ, điều này phụ thuộc vào từng đơn đặt hàng và từng thời điểm sản xuất. Do đó. NVL được sử dụng vào sản xuất cũng rất phong phú với khối lượng lớn. 80% số sản phẩm do công ty sản xuất là hàng nhận gia công từ các công ty nước ngoài, số còn lại công ty tự tìm mua NVL để sản xuất và tiêu thụ.
Với việc may gia công, công ty nhận NVL từ các công ty Nước ngoài chuyển sang theo từng hợp đồng gia công đã được ký kết. Công ty chỉ có nhiệm vụ gia công sản phẩm và nhận tiền công gia công. Đối với NVL do bên đặt hàng cung cấp, công ty không theo dõi về măt gía trị, và không hạch toán vào giá thành sản phẩm mà chỉ theo dõi về mặt số lượng phần NVL đó. Mặt khác, trong việc gia công hàng xuất khẩu, bên phía công ty Nước ngoài đặt hàng gia công chỉ cho phép một tỉ lệ sai hỏng nhất định trong sản xuất. Vì vậy, với khối lượng NVL nhận về, công ty phải tổ chức quản lý chặt chẽ và tổ chức sản xuất tốt để đảm bảo sản xuất đủ số lượng và đảm bảo chất lượng của sản phẩm giao cho khách hàng.
Bên cạnh việc sản xuất hàng gia công xuất khẩu, công ty cũng chủ động tim kiếm và khai thác thị trường hàng may mặc trong nước và nước ngoài. Công ty đã tự tổ chức thu mua NVL để sản xuất và tiêu thụ nội địa. Tuy số lượng sản phẩm tiêu thụ trong nước chiếm tỉ trọng không lớn ( khoảng 20% ) nhưng công ty vẫn tiến hành sản xuất để tập trung nguồn năng lực sản xuất sẵn có, tạo việc làm và tăng thu nhập cho công nhân của công ty. Trong quá trình sản xuất, công ty luôn khuyến khích việc sáng tạo trong lao động để tiết kiệm NVL, nâng cao năng suất và hiệu quả lao động.Với số NVL này, kế toán phải theo dõi và hạch toán về cả mặt giá trị và số lượng của từng loại vật tư theo từng nguồn nhập.
Vật liệu của công ty được nhập theo các nguồn sau:
Vật liệu do bên thuê gia công chuyển sang
Vật liệu tự mua ngoài
Vật liệu nhập kho do tiết kiệm trong sản xuất
Phế liệu thu hồi
Từ những đặc điểm trên đã đặt ra nhiệm vụ năng nề cho việc tổ chức kế toán NVL tại công ty: phải quản lý và hạch toán NVL một cách chặt chẽ, c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0399.doc