Kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty điện tử Sao Mai

Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại 1.1. Những vấn đề chung về hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong hoạt động kinh doanh thương mại 1.1.1 Khái niệm và các chỉ tiêu liên quan của hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá * Hàng hoá Hàng hoá là cụm từ chỉ những sản phẩm của doanh nghiệp được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trư

doc152 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty điện tử Sao Mai , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng. Theo định nghĩa của Lênin, hàng hoá là sản phẩm do con người tạo ra, có giá trị và giá trị sử dụng, được đem trao đổi, mua bán. * Tiêu thụ hàng hoá Tiêu thụ hàng hoá có thể được hiểu là quá trình các doanh nghiệp thực hiện việc chuyển hoá vốn sản xuất kinh doanh của mình từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ, thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá thông qua quan hệ trao đổi. Như vậy, tiêu thụ là khâu quan trọng của hoạt động thương mại, nó là khâu trung gian, là cầu nối giữa một bên là sản xuất, một bên là tiêu dùng. Ngày nay, khái niệm tiêu thụ được hiểu theo nghĩa rộng hơn, nó là quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu, từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, tổ chức mua hàng và xuất bán theo yêu cầu của khách hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Theo Quyết định 149/2001/BTC ngày 31/12/2001, hàng hoá được xem là tiêu thụ và quá trình tiêu thụ được coi là hoàn tất (nguyên tắc ghi nhận doanh thu) khi thoả mãn đồng thời 5 điều kiện sau: Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua. Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng Các chỉ tiêu liên quan đến quá trình tiêu thụ hàng hoá bao gồm: Doanh thu bán hàng hoá: Là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá cho khách hàng. Doanh thu thuần: Là số chênh lệch giữa Doanh thu bán hàng hoá và các khoản giảm trừ doanh thu (bao gồm: Thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp phải nộp, Thuế xuất khẩu, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Chiết khấu thương mại, Giảm giá hàng bán và Hàng bán bị trả lại). Giá vốn hàng bán: Là trị giá vốn của hàng hoá tiêu thụ, bao gồm: trị giá mua của hàng tiêu thụ và chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ. Lợi nhuận gộp về bán hàng hoá: Là số chênh lệch giữa doanh thu thuần và giá vốn hàng bán. Thông qua tiêu thụ, doanh nghiệp khẳng định được năng lực kinh doanh của mình. Sau tiêu thụ, doanh nghiệp không những thu hồi được tổng chi phí bỏ ra mà còn thực hiện được một phần giá trị thặng dư, đây chính là phần quan trọng đóng góp vào ngân sách nhà nước và mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. * Kết quả tiêu thụ hàng hoá Mục tiêu của các doanh nghiệp không phải chỉ là tiêu thụ được nhiều hàng hoá, mà từ hoạt động này phải đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, đây mới chính là điều mà các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Kết quả tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn tại, phát triển hay suy vong của doanh nghiệp. Nó thể hiện hiệu quả hoạt động lưu chuyển hàng hoá, được biểu hiện qua chỉ tiêu Lãi (Lỗ) về hoạt động tiêu thụ hàng hoá. Các chỉ tiêu liên quan đến xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá: Chi phí bán hàng: Là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt động tiêu thụ hàng hoá trong kỳ. Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là những khoản chi phí có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ một hoạt động nào. Lợi nhuận thuần từ tiêu thụ hàng hoá: Là chênh lệch giữa lợi nhuận gộp về bán hàng hoá với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho số hàng hoá được tiêu thụ đó. 1.1.2 Vai trò, vị trí của hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong hoạt động kinh doanh thương mại Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình tuần hoàn vốn, là cơ sở để xác định kết quả kinh doanh. Nó có vai trò quan trọng không chỉ đối với mỗi đơn vị kinh doanh mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng vậy, hàng hoá có tiêu thụ được thì mới có thu nhập để bù đắp chi phí đã bỏ ra và có lãi. Việc xác định chính xác doanh thu bán hàng là cơ sở để đánh giá các chỉ tiêu kinh tế tài chính khác, đánh giá hiệu quả kinh doanh của đơn vị và là cơ sở để thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Tiêu thụ hàng hoá mang lại doanh thu cho doanh nghiệp đồng thời cũng thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Thông qua tiêu thụ, giá trị của hàng hoá được thực hiện, các vấn đề liên quan đến hàng hoá được xác định như: số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian,… phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Như vậy, xét trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tiêu thụ là điều kiện để tái sản xuất xã hội. Đảm bảo tiêu thụ hàng hoá là đảm bảo duy trì sự liên tục của hoạt động kinh tế, đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa các khâu của quá trình tái sản xuất. Tiêu thụ hàng hoá trong giai đoạn cạnh tranh như hiện nay không phải dễ dàng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhạy bén trong kinh doanh, tạo uy tín với khách hàng. Có thể nói, tiêu thụ đối với các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thương mại nói riêng có vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả kinh doanh. Kết quả tiêu thụ hàng hoá chiếm tỷ trọng không nhỏ trong kết quả kinh doanh. Nó là cơ sở để xác định kết qủa kinh doanh, quyết định kết quả đó là cao hay thấp. Ngược lại, kết quả kinh doanh là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết định về tiêu thụ hàng hoá. Nói cách khác, kết quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, còn tiêu thụ hàng hoá là phương tiện để thực hiện mục tiêu đó. Việc xác định đúng kết quả tiêu thụ giúp cho việc xác định đúng kết quả kinh doanh, thể hiện chính xác năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Từ kết quả đã đạt được này, trước hết phục vụ cho yêu cầu quản trị của từng doanh nghiệp, cùng với nó là cung cấp chính xác cho các đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp. Như vậy hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá có một vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh thương mại. Do đó, đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá cũng như hoàn thiện tổ chức công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá là điều hết sức cần thiết. 1.2. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong hoạt động kinh doanh thương mại 1.2.1 Yêu cầu quản lý * Đối với hàng hoá Xuất phát từ vai trò, vị trí quan trọng trên, quản lý tốt hàng hoá đi đôi với việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ về mặt số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hoá là yêu cầu bắt buộc được đặt ra, nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý hàng hoá được thực hiện trên các mặt sau: - Về mặt số lượng: Để quản lý về mặt số lượng hàng hoá đòi hỏi phải thường xuyên phản ánh, giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh, tình hình nhập – xuất – tồn kho hàng hoá. Kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp hàng hoá ứ đọng, tránh tình trạng bị ứ đọng vốn. Phân biệt rõ giữa lượng tồn kho cần thiết cho dự trữ với lượng tồn kho không tiêu thụ được. - Về mặt chất lượng: Phải làm tốt công tác kiểm tra, phân cấp và có chế độ bảo quản riêng đối với các loại hàng hoá có giá trị cao, kịp thời phát hiện các mặt hàng kém phẩm chất để có biện pháp xử lý thích hợp. Phải không ngừng nâng cao chất lượng của hàng hoá, uy tín với khách hàng để từ đó kích thích nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tránh tình trạng ứ đọng sản phẩm vì hàng kém phẩm chất, lỗi thời. * Đối với tiêu thụ hàng hoá Với vai trò, vị trí quan trọng của mình, hơn nữa việc tiêu thụ hàng hoá liên quan tới từng khách hàng, từng phương thức bán hàng, từng loại hàng hoá nhất định, do đó, công tác quản lý tiêu thụ hàng hoá phải đạt được các yêu cầu sau: Phải nắm bắt, theo dõi chính xác khối lượng hàng hoá tiêu thụ, giá vốn, giá bán của từng loại hàng hoá được coi là tiêu thụ. Phải quản lý chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng hình thức thanh toán, đồng thời theo dõi tình hình thanh toán công nợ của khách hàng để có biện pháp thu hồi vốn đầy đủ, kịp thời. Theo dõi chặt chẽ các trường hợp làm giảm doanh thu bán hàng như: hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán, … Từ đó, xác định nguyên nhân và có biện pháp giảm thiểu các khoản này, nhằm nâng cao uy tín, thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế với ngân sách nhà nước. * Đối với xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá Việc quản lý tốt công tác tiêu thụ hàng hoá tạo điều kiện cho quản lý việc xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá được chính xác, từ đó hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Việc quản lý này được thực hiện trên các mặt sau: Phải theo dõi chặt chẽ các khoản chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh trong kỳ, từ đó xem xét tính hợp lý và có biện pháp kịp thời nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định chính xác kết quả tiêu thụ hàng hoá trong kỳ nhằm mục đích trước hết là quản trị doanh nghiệp, sau đó là cung cấp thông tin chính xác và kịp thời cho các đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp. Hơn nữa, thông qua việc phản ánh chính xác này, kết quả của toàn doanh nghiệp được xác định là đáng tin cậy, đây là cơ sở để phân phối kết quả được chính xác và công bằng. 1.2.2 Nhiệm vụ kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá Kế toán là công cụ không thể thiếu được của công tác quản lý để kinh doanh đạt được hiệu quả. Để kế toán thực sự là công cụ đắc lực phục vụ cho quản lý nhằm đẩy mạnh công việc kinh doanh của doanh nghiệp thì kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá cần thực hiện các nhiệm vụ sau: Ghi chép và phản ánh đầy đủ, kịp thời về số tồn kho và tình hình biến động của hàng hoá theo cả 2 chỉ tiêu: hiện vật và giá trị. Tính toán đúng giá thực tế của hàng hoá nhập kho, trị giá vốn của hàng hoá tiêu thụ nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời phục vụ yêu cầu quản lý. Kiểm tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về thu mua, tiêu thụ hàng hoá. Tổ chức kế toán hàng hoá phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho và cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về tình hình bán hàng và xác định kết quả phục vụ việc lập báo cáo tài chính. Tổ chức ghi chép quá trình bán hàng theo từng phương thức bán hàng, đồng thời theo dõi tình hình thanh toán với khách hàng và tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. 1.3. Kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại 1.3.1. Kế toán hàng hoá 1.3.1.1 Tính giá hàng hoá Tính giá hàng hoá là việc xác định giá trị của hàng hoá để ghi sổ kế toán. Đây là công việc quan trọng có ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá. Việc tính giá hàng hoá cần được thực hiện ở cả 2 giai đoạn, đó là: Tính giá hàng hoá nhập kho và tính giá hàng hoá xuất kho. Kế toán có thể sử dụng 2 cách để đánh giá hàng hoá: Giá thực tế và Giá hạch toán. * Tính giá hàng hoá nhập kho Do Công ty Điện tử Sao Mai tính giá hàng hoá nhập kho theo giá thực tế, nên để tiện theo dõi trong Chương 2, Luận văn xin đề cập đến phương pháp này khi tính giá hàng hoá nhập kho. Giá thực tế của hàng hoá nhập kho được xác định tuỳ theo từng nguồn nhập, bao gồm: Giá mua ghi trên hoá đơn trừ đi các khoản giảm giá được hưởng (nếu có) Chi phí thu mua, là các khoản chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lưu kho, chi phí hao hụt hàng mua trong định mức, … Thuế nhập khẩu (nếu hàng hoá được nhập khẩu về), thuế GTGT tính cho hàng hoá nhập khẩu phải nộp (nếu doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp) và thuế tiêu thụ đặc biệt tính cho hàng hoá nhập khẩu (nếu hàng hoá này là đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt). *Tính giá hàng hoá xuất kho Hàng hoá mua về được nhập kho tại các thời điểm và giá cả khác nhau qua mỗi lần nhập. Vì vậy, khi xuất kho hàng hoá cho tiêu thụ, việc xác định giá vốn của hàng hoá xuất kho là công việc rất quan trọng và phức tạp. Đặc biệt đối với các đơn vị kinh doanh thương mại, số lượng hàng hoá mỗi lần nhập thường lớn; đa dạng về chủng loại, mặt hàng; giá hàng nhập lại khác nhau, nên việc tính chính xác, hợp lý giá thực tế hàng hoá xuất bán, sẽ quyết định hiệu quả trong khâu tiêu thụ. Giá vốn hàng hoá xuất kho cho tiêu thụ bao gồm 2 bộ phận, là giá mua và chi phí mua. Vì vậy, khi xác định giá vốn hàng hoá xuất kho cho tiêu thụ, Kế toán nên tách riêng 2 bộ phận trên để tính. . Bộ phận giá mua hàng hoá: Đối với hàng hoá xuất kho, tuỳ từng điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, có thể sử dụng một trong các phương pháp dưới đây để xác định Giá mua thực tế của hàng hoá xuất kho: Phương pháp giá thực tế: + Giá thực tế nhập trước, xuất trước (FIFO) + Giá thực tế nhập sau, xuất trước (LIFO) + Giá thực tế đích danh (tính trực tiếp) + Giá đơn vị bình quân, bao gồm: Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ, Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước, Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập. Phương pháp giá hạch toán Để gắn liền với tình hình thực tế tại Công ty Điện tử Sao Mai, trong Luận văn này xin trình bày tính giá hàng hoá xuất kho theo Phương pháp giá thực tế đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ. Theo phương pháp này, Trị giá mua thực tế của hàng hoá xuất kho = Số lượng hàng hoá xuất kho * Đơn giá bình quân Trong đó: Đơn giá bình quân = Giá mua thực tế của hàng hoá tồn đầu kỳ + Giá mua thực tế của hàng hoá nhập trong kỳ Số lượng hàng hoá tồn đầu kỳ + Số lượng hàng hoá nhập trong kỳ Phương pháp giá thực tế đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dễ làm, góp phần làm giảm nhẹ khối lượng công việc của kế toán, nhưng độ chính xác của nó không cao, hơn nữa, việc dồn công việc tính giá hàng hoá xuất kho vào cuối kỳ hạch toán nên ảnh hưởng đến tiến độ cuả các khâu kế toán khác. . Bộ phận chi phí mua hàng hoá: Chi phí thu mua được tập hợp và phản ánh riêng, cuối kỳ, chi phí này được phân bổ một lần cho hàng hoá tiêu thụ trong kỳ và ghi vào giá vốn hàng bán. Tiêu thức được sử dụng để phân bổ chi phí thu mua là giá mua của hàng hoá xuất bán trong kỳ và hàng tồn cuối kỳ. Cụ thể, Chi phí thu mua phân bổ cho hàng hoá xuất bán trong kỳ = Chi phí thu mua của hàng hoá tồn đầu kỳ + Chi phí thu mua của hàng hoá nhập trong kỳ * Giá mua thực tế của hàng hoá xuất bán trong kỳ Giá mua thực tế của hàng hoá tồn cuối kỳ + Giá mua thực tế của hàng hoá xuất bán trong kỳ 1.3.1.2. Kế toán nhập – xuất kho hàng hoá * Chứng từ sử dụng Căn cứ vào nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến hàng hoá để xác định các chứng từ kế toán cần sử dụng ở các doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp vận dụng chế độ chứng từ kế toán theo Quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01 tháng 11 năm 1995, phải sử dụng các chứng từ bắt buộc sau: Biên bản kiểm nghiệm, phiếu nhập kho Phiếu xuất kho, phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ Hoá đơn giá trị gia tăng, hoá đơn bán hàng Thẻ kho - Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hoá, … Các chứng từ này phải được mở và ghi chép một cách đầy đủ, theo đúng chế độ tài chính kế toán hiện hành. Trên cơ sở các chứng từ này, kế toán hàng hoá tiến hành phân loại và ghi chép vào các sổ kế toán tương ứng. * Kế toán chi tiết hàng hoá Kế toán chi tiết hàng hoá là việc ghi chép kịp thời, chính xác tình hình hiện có, biến động của hàng hoá cả về mặt hiện vật và giá trị cho từng hàng hoá, từng nhóm hàng hoá theo từng kho và ở Phòng tài chính – kế toán. Hiện nay, có 3 phương pháp hạch toán chi tiết hàng hoá sau: Phương pháp Thẻ song song Phương pháp Sổ đối chiếu luân chuyển Phương pháp Sổ số dư Nhưng trong phạm vi bài viết này xin đề cập đến Phương pháp Thẻ song song để thuận tiện cho việc theo dõi hạch toán chi tiết hàng hoá tại Công ty Điện tử Sao Mai ở Chương 2. Theo Phương pháp này, hàng hoá nhập – xuất – tồn kho được theo dõi chi tiết như sau: + Tại Kho: Thủ kho theo dõi tình hình nhập – xuất – tồn kho hàng hoá trên Thẻ kho và chỉ theo dõi về mặt số lượng. + Tại Phòng tài chính – kế toán: Kế toán hàng hoá ghi chép sự biến động nhập – xuất – tồn kho hàng hoá cả về mặt số lượng và giá trị trên Sổ chi tiết hàng hoá, được mở chi tiết cho từng chủng loại, mặt hàng. Từ các Số chi tiết hàng hoá này, cuối kỳ, Kế toán lập Bảng tổng hợp nhập – xuất – tồn kho cho tất cả các hàng hoá. Kế toán chi tiết hàng hoá theo phương pháp này được thể hiện qua Sơ đồ sau: Sơ đồ 01: Sơ đồ kế toán chi tiết hàng hoá theo Phương pháp Thẻ song song Sổ tổng hợp Bảng tổng hợp NXT kho HH PNK PXK Sổ KTCT hàng hoá Thẻ kho Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra Phương pháp Thẻ song song đơn giản trong khâu ghi chép, đối chiếu số liệu và phát hiện sai sót, đồng thời cung cấp thông tin nhập – xuất – tồn kho của từng danh điểm hàng hoá kịp thời, chính xác. Tuy nhiên, Phương pháp này chỉ sử dụng được kho doanh nghiệp có ít danh điểm hàng hoá. * Kế toán tổng hợp nhập – xuất kho hàng hoá Hạch toán tổng hợp hàng hoá được thực hiện theo 1 trong 2 phương pháp: Kê khai thường xuyên hoặc Kiểm kê định kỳ. Doanh nghiệp phải căn cứ vào loại hình sản xuất kinh doanh và tuỳ thuộc vào đặc điểm hàng hoá của mình mà lựa chọn phương pháp thích hợp. Để thuận tiện cho việc theo dõi Hạch toán tổng hợp hàng hoá tại Công ty Điện tử Sao Mai ở Chương 2, Luận văn xin đề cập đến Phương pháp Kê khai thường xuyên (trong điều kiện doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ để tính thuế GTGT). Theo Phương pháp này, các Tài khoản được sử dụng bao gồm: + TK 156 – Hàng hoá: Tài khoản này được sử dụng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại hàng hóa trong đơn vị, bao gồm: hàng hoá tại các kho, quầy – chi tiết theo từng kho, quầy, từng loại, nhóm hàng hoá. Kết cấu TK này như sau: . Bên nợ: Phản ánh các nghiệp vụ làm tăng giá thực tế của hàng hoá tại kho, tại quầy (Giá mua và Chi phí thu mua) . Bên có: Phản ánh trị giá mua thực tế của hàng hoá xuất kho, xuất quầy (Kể cả giảm giá hàng mua và hàng mua trả lại), đồng thời phản ánh, phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ . Dư nợ: Trị giá thực tế hàng hoá tồn kho, tồn quầy Tài khoản này được chi tiết ra thành 2 tiểu khoản để phản ánh 2 bộ phận là Giá mua và Chi phí mua: TK 1561 – Giá mua hàng hoá TK 1562 – Chi phí thu mua hàng hoá + TK 157 – Hàng gửi bán: Tài khoản này được sử dụng để phản ánh trị giá mua của hàng hoá gửi bán, ký gửi, đại lý chưa được chấp nhận thanh toán. Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: Giá trị sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ gửi bán, gửi đại lý hoặc đã thực hiện với khách hàng nhưng chưa được chấp nhận . Bên có: Giá trị sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã được khách hàng chấp nhận thanh toán hoặc thanh toán; đồng thời phản ánh giá trị hàng gửi bán bị từ chối, gửi lại . Dư nợ: Giá trị hàng gửi bán chưa được chấp nhận Tài khoản này được mở chi tiết theo từng loại hàng, từng lần gửi hàng từ khi gửi đến khi được chấp nhận thanh toán. + TK 151 – Hàng mua đang đi trên đường: Tài khoản này dùng để phản ánh trị giá mua thực tế của hàng đã mua hoặc chấp nhận mua, đã thuộc quyền sở hữu của đơn vị, nhưng cuối tháng chưa về nhập kho (Kể cả số đang gửi kho người bán). Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: Giá trị của hàng đi đường tăng . Bên có: Giá trị hàng đi đường kỳ trước đã nhập kho hay chuyển giao cho các bộ phận sử dụng hoặc giao cho khách hàng . Dư nợ: Giá trị hàng đang đi đường Tài khoản này được mở chi tiết theo từng chủng loại hàng hoá và từng hợp đồng kinh tế. + TK 632 – Giá vốn hàng bán: Tài khoản này được sử dụng để theo dõi trị giá vốn thực tế của hàng hoá xuất bán trong kỳ (bao gồm trị giá mua của hàng hoá đã tiêu thụ và chi phí thu mua phân bổ cho hàng hoá tiêu thụ). Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: Tập hợp trị giá mua thực tế của hàng hoá đã tiêu thụ và phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ . Bên có: Kết chuyển trị giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ (Giá thực tế), đồng thời phản ánh trị giá mua của hàng hoá đã tiêu thụ bị trả lại trong kỳ + Ngoài ra, các TK khác được sử dụng: TK 1331, 3333, 111, 331, … Trình tự kế toán tổng hợp nhập – xuất kho hàng hoá theo phương pháp này được thể hiện qua Sơ đồ sau: Sơ đồ 02: Sơ đồ kế toán tổng hợp hàng hoá theo Phương pháp Kê khai thường xuyên TK 632 TK 111, 331, 151, … TK 156 TK 157 TK 1331 Trị GV thực tế hàng đã tiêu thụ TK 133 Trị GV hàng mua về giao bán thẳng, không nhập kho đã tiêu thụ Trị GV hàng gửi bán Trị GV hàng gửi bán VAT đầu vào VAT đầu vào Gửi bán hàng mua về, không nhập kho TK 3333 Thuế NK HH mua ngoài, NK Như vậy, kế toán tổng hợp hàng hoá theo Phương pháp Kê khai thường xuyên cho phép các doanh nghiệp theo dõi, phản ánh thường xuyên, liên tục và có hệ thống tình hình nhập – xuất – tồn kho hàng hoá trên sổ kế toán. Cũng vì vậy mà giá trị của hàng hoá trên sổ sách có thể xác định được ở bất kỳ thời điểm nào trong kỳ kế toán. Phương pháp này rất thích hợp trong các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn. 1.3.2. Kế toán tiêu thụ hàng hoá 1.3.2.1 Các phương thức tiêu thụ hàng hoá Tiêu thụ hàng hoá là khâu cuối cùng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Đó là quá trình chuyển hoá vốn từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ. Trong cơ chế thị trường, để tiêu thụ được sản phẩm của mình, một mặt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, mặt hàng, đồng thời phải xây dựng chiến lược marketing cho sản phẩm của mình. Mặt khác, việc lựa chọn và áp dụng linh hoạt các Phương thức bán hàng cũng góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy quá trình tiêu thụ của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp thương mại thường sử dụng các Phương thức tiêu thụ sau: Phương thức bán buôn hàng hoá: Bán buôn là bán hàng hoá với số lượng lớn, khi nghiệp vụ bán buôn đã kết thúc thì hàng hoá vẫn còn nằm trong lĩnh vực lưu thông. Có 2 hình thức bán buôn chủ yếu là: + Bán buôn qua kho (Có thể thực hiện theo 2 hình thức là: Bán trực tiếp và Gửi bán hàng hoá) + Bán buôn vận chuyển thẳng (Có thể thực hiện theo 2 hình thức là: Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán và Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán) Phương thức bán lẻ hàng hoá: Bán lẻ là hình thức bán hàng với số lượng nhỏ, khi nghiệp vụ bán lẻ kết thúc, hàng hoá được chuyển đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Phương thức này có các hình thức sau: + Bán lẻ thu tiền tập trung + Bán lẻ thu tiền trực tiếp + Bán hàng tự chọn (Bán lẻ tự động) Các Phương thức tiêu thụ khác: Phương thức bán hàng trả góp; Phương thức bán hàng đại lý, ký gửi; Phương thức tiêu thụ nội bộ; Phương thức hàng đổi hàng; … Như vậy, có nhiều Phương thức tiêu thụ khác nhau, việc doanh nghiệp vận dụng Phương thức tiêu thụ nào còn tuỳ thuộc vào từng loại hình sản phẩm, quy mô và khả năng của doanh nghiệp cũng như điều kiện thị trường sao cho với chi phí thấp nhất mà hiệu quả đạt được là cao nhất. Để thuận lợi cho việc theo dõi ở Chương 2, Luận văn xin đề cập đến Phương thức Bán buôn qua kho với hình thức Bán trực tiếp. Bán buôn qua kho là hình thức bán buôn mà hàng hoá được đưa về cất trữ và bảo quản tại kho của doanh nghiệp rồi mới tiếp tục chuyển đi tiêu thụ. Theo hình thức Bán trực tiếp, bên mua cử cán bộ nghiệp vụ trực tiếp đến mua hàng và nhận hàng trực tiếp tại kho của bên bán, khi đó quyền sở hữu hàng hoá đã được chuyển giao. Cùng với điều kiện này và các điều kiện còn lại trong 5 điều kiện đã được trình bày ở trên được thoả mãn đồng thời thì hàng hoá được coi là tiêu thụ. 1.3.2.2 Chứng từ sử dụng Khi phát sinh các nghiệp vụ về bán hàng, Kế toán phải lập, thu thập đầy đủ và luân chuyển các chứng từ kế toán phù hợp theo Quyết định 1141/TC/CĐKT ngày 01 tháng 11 năm 1995 của Bộ tài chính. Trên cơ sở chế độ hiện hành, doanh nghiệp xác định các chứng từ kế toán sử dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, tuỳ theo các phương thức bán hàng cụ thể, đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế tài chính, quản lý quá trình bán hàng, … Các chứng từ được sử dụng chủ yếu trong Kế toán tiêu thụ hàng hoá là: Hoá đơn giá trị gia tăng Hoá đơn bán hàng Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho Báo cáo bán hàng Bảng kê bán lẻ hàng hoá Các chứng từ khác: Giấy nộp tiền của nhân viên bán hàng, Phiếu thu tiền mặt, Giấy báo có của ngân hàng, … 1.3.2.3 Kế toán tiêu thụ hàng hoá * Kế toán doanh thu bán hàng Tài khoản sử dụng: + TK 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ TK này được sử dụng để phản ánh tổng số doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp và các khoản giảm trừ doanh thu. Từ đó tính ra doanh thu thuần về tiêu thụ trong kỳ. Tổng số doanh thu bán hàng ghi nhận ở đây có thể là tổng giá thanh toán (với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp cũng như đối với các đối tượng không chịu thuế GTGT) hoặc giá không có thuế GTGT (với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ). Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: Các khoản giảm trừ doanh thu trong kỳ (thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại); đồng thời, kết chuyển doanh thu thuần về tiêu thụ . Bên có: Tổng số doanh thu bán hàng thực tế phát sinh trong kỳ TK này cuối kỳ không có số dư và được chi tiết ra thành 4 tiểu khoản sau: TK 5111 – Doanh thu bán hàng hoá TK 5112 – Doanh thu bán thành phẩm TK 5113 – Doanh thu cung cấp dịch vụ TK 5114 – Doanh thu trợ cấp, trợ giá + TK 512 – Doanh thu bán hàng nội bộ TK này dùng để phản ánh doanh thu và các khoản ghi giảm doanh thu về số hàng hoá, lao vụ, sản phẩm tiêu thụ nộibộ giữa các đơn vị trực thuộc cùng một công ty, tổng công ty, tập đoàn, … hạch toán toàn ngành. Ngoài ra, TK này còn được sử dụng để theo dõi một số nội dung khác được coi là tiêu thụ nội bộ như: trả lương cho cán bộ công nhân viên, sử dụng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, … TK này có kết cấu giống TK 511, nhưng lại được chi tiết làm 3 tiểu khoản: TK 5121 – Doanh thu bán hàng hoá TK 5122 – Doanh thu bán sản phẩm TK 5123 – Doanh thu cung cấp dịch vụ + TK 3331 – Thuế GTGT TK này dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra và tình hình nộp thuế GTGT cho ngân sách nhà nước. Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ; Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại cho khách hàng; Số thuế GTGT được miễn giảm; Số thuế GTGT đã nộp . Bên có: Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ; Số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu, tặng, sử dụng nội bộ; Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập khác; Số thuế GTGT phải nộp của hàng hoá nhập khẩu . Dư nợ: Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách nhà nước . Dư có: Số thuế GTGT còn phải nộp TK này còn được chi tiết làm 2 tiểu khoản: TK 33311 – Thuế GTGT đầu ra TK 33312 – Thuế GTGT của hàng nhập khẩu Ngoài ra còn sử dụng các TK sau: TK 131, 111, 112, … Trình tự hạch toán doanh thu bán hàng: Tuỳ thuộc vào hình thức tiêu thụ và phương pháp tính thuế GTGT khác nhau mà kế toán có sự phản ánh doanh thu khác nhau. Khi doanh nghiệp bán hàng theo phương thức bán buôn qua kho với hình thức bán trực tiếp và áp dụng phương pháp khấu trừ để tính thuế GTGT, thì kế toán doanh thu bán hàng được thực hiện như sau: Sơ đồ 03: Sơ đồ kế toán doanh thu bán hàng theo phương thức bán buôn qua kho (với hình thức bán trực tiếp) trong doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ TK 511, 512 TK 111, 112, 131 Doanh thu bán hàng (chưa VAT) TK 3331 VAT đầu ra * Kế toán các khoản giảm trừ doanh thu Theo chế độ kế toán hiện hành, các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng bao gồm: Chiết khấu thương mại, Giảm giá hàng bán, Hàng bán bị trả lại, Thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế xuất khẩu. Các khoản này tuy làm giảm doanh thu bán hàng của doanh nghiệp nhưng chưa hẳn là không tốt với doanh nghiệp, vì nếu được thực hiện theo hướng tích cực thì nó lại là nhân tố thúc đẩy tiêu thụ, từ đó làm tăng doanh thu. Do đó, việc theo dõi các khoản giảm trừ doanh thu phải được thực hiện một cách chặt chẽ và hợp lý đối với mỗi doanh nghiệp. Kế toán chiết khấu thương mại: + Tài khoản sử dụng: TK 521 – Chiết khấu thương mại TK này dùng để phản ánh khoản chiết khấu thương mại mà doanh nghiệp đã giảm trừ hoặc đã thanh toán cho người mua hàng do việc người mua hàng đã mua hàng, dịch vụ với khối lượng lớn theo thoả thuận về chiết khấu thương mại đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán hoặc các cam kết mua, bán hàng. Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: Số chiết khấu thương mại đã chấp nhận thanh toán cho khách hàng . Bên có: Kết chuyển toàn bộ số chiết khấu thương mại sang TK 511 để xác định doanh thu thuần của kỳ hạch toán TK này cuối kỳ không có số dư. TK này được chi tiết ra 3 tiểu khoản sau: TK 5211 – Chiết khấu hàng hoá TK 5212 – Chiết khấu thành phẩm TK 5213 – Chiết khấu dịch vụ Cuối kỳ, khoản chiết khấu thương mại được kết chuyển sang TK 511 để xác định doanh thu thuần của khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thực tế thực hiện trong kỳ hạch toán. + Trình tự hạch toán: Được khái quát qua Sơ đồ sau: Sơ đồ 04: Sơ đồ kế toán các khoản giảm trừ doanh thu trong các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ TK 111, 112, 131 TK 521, 531, 532 TK 511 TK 3331 VAT đầu ra Giá chưa thuế Tổng số tiền CKTM, GGHB, HBBTL Kết chuyển CKTM, GGHB, HBBTL - Kế toán giảm giá hàng bán: + Tài khoản sử dụng: TK 532 – Giảm giá hàng bán TK này dùng để phản ánh toàn bộ các khoản giảm giá hàng bán cho khách hàng trên giá bán đã thoả thuận. Được hạch toán vào TK này bao gồm các khoản giảm giá do nguyên nhân thuộc về người bán. TK này không có số dư cuối kỳ và có kết cấu ngược với TK 511. Cuối kỳ, TK này được kết chuyển như TK 521. + Trình tự hạch toán: Được thể hiện qua Sơ đồ 04. Kế toán hàng bán bị trả lại: + Tài khoản sử dụng: TK 531 – Hàng bán bị trả lại TK này dùng để theo dõi doanh thu của số thành phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại. TK này không có số dư cuối kỳ và có kết cấu ngược với TK 511. Cuối kỳ, TK này được kết chuyển như TK 521 + Trình tự hạch toán: Được thể hiện qua Sơ đồ 04. 1.3.3. Kế toán xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá 1.3.3.1 Kế toán chi phí bán hàng Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, d._.ịch vụ trong kỳ. * Tài khoản sử dụng TK 641 – Chi phí bán hàng TK này được sử dụng để tập hợp và kết chuyển chi phí bán hàng thực tế phát sinh trong kỳ. Kết cấu của TK này như sau: + Bên nợ: Tập hợp chi phí bán hàng thực tế phát sinh trong kỳ + Bên có: - Các khoản ghi giảm chi phí bán hàng - Kết chuyển chi phí bán hàng trừ vào kết quả sản xuất kinh doanh hoặc chờ kết chuyển TK này không có số dư cuối kỳ. TK này được chi tiết ra các tiểu khoản sau: + TK 6411 – Chi phí nhân viên + TK 6412 – Chi phí vật liệu, bao bì + TK 6413 – Chi phí dụng cụ, đồ dùng + TK 6414 – Chi phí khấu hao TSCĐ + TK 6415 – Chi phí bảo hành + TK 6417 – Chi phí dịch vụ mua ngoài + TK 6418 – Chi phí bằng tiền khác * Trình tự hạch toán Được thể hiện qua Sơ đồ sau: Sơ đồ 05: Sơ đồ kế toán tổng hợp chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ TK 111, 112, 138, 152, … Chi phí nhân viên Các khoản giảm CP TK 641, 642 TK 334, 338 TK 911 TK 152, 153 Chi phí VL, CCDC K/C CP để XĐKQ TK 1421, 2421, 335 TK 111, 112, 331, … TK 139 chờ KC K/C K/C CP vào CP Trích lập DP phải thu khó đòi Trích trước CP theo kế hoạch Phân bổ dần CP trả trước, CP DV mua ngoài, CP bằng tiền khác Chi phí KH TSCĐ CP chờ kết chuyển TK 1422, 2422 (chỉ cho TK 642) TK 214 TK 133 được khấu trừ VAT đầu vào 1.3.3.2 Kế toán chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí quản lý doanh nghiệp là các khoản chi phí có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ một hoạt động nào. * Tài khoản sử dụng TK 642 – Chi phí quản lý doanh nghiệp TK này dùng để phản ánh, kết chuyển các chi phí liên quan đến quản lý hành chính, quản lý doanh nghiệp và phục vụ chung khác cho hoạt động của doanh nghiệp. Kết cấu của TK này như sau: + Bên nợ: Chi phí quản lý doanh nghiệp thực tế phát sinh trong kỳ + Bên có: - Các khoản ghi giảm chi phí quản lý doanh nghiệp - Kết chuyển chi phí quản lý doanh nghiệp trừ vào kết quả sản xuất kinh doanh hoặc chờ kết chuyển TK này cuối kỳ không có số dư. TK này được chi tiết ra các tiểu khoản sau: + TK 6421 – Chi phí nhân viên quản lý + TK 6422 – Chi phí vật liệu quản lý + TK 6423 – Chi phí đồ dùng văn phòng + TK 6424 – Chi phí khấu hao TSCĐ + TK 6425 – Thuế, phí, lệ phí + TK 6426 – Chi phí dự phòng + TK 6427 – Chi phí dịch vụ mua ngoài + TK 6428 – Chi phí bằng tiền khác * Trình tự hạch toán Được khái quát qua Sơ đồ 05. 1.3.3.3 Kế toán xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá Trong doanh nghiệp thương mại, hoạt động tiêu thụ hàng hoá là hoạt động chính, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho doanh nghiệp. Kết quả hoạt động tiêu thụ tác động trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển hay suy thoái của doanh nghiệp. Do đó, xác định kết quả tiêu thụ là cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, đồng thời có ý nghĩa đối với Nhà nước trong việc xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp và với các đối tượng khác bên ngoài doanh nghiệp. Kết quả hoạt động tiêu thụ là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng về tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ được thể hiện thông qua chỉ tiêu lãi (lỗ): Kết quả hoạt động tiêu thụ = Doanh thu bán hàng thuần - Giá vốn hàng bán - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lý doanh nghiệp Trong đó: Doanh thu bán hàng thuần là hiệu của Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ với các khoản giảm trừ doanh thu, bao gồm: Thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế xuất khẩu, Chiết khấu thương mại, Giảm giá hàng bán và Hàng bán bị trả lại. * Tài khoản sử dụng + TK 911 – Xác định kết quả TK này được dùng để xác định kết quả sản xuất kinh doanh và hoạt động khác của doanh nghiệp trong một kỳ hạch toán. TK này được mở chi tiết cho từng hoạt động và từng loại sản phẩm. Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: - Trị giá vốn sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ - Chi phí tài chính và chi phí khác - Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong kỳ - Kết chuyển kết quả hoạt động kinh doanh (lãi) . Bên có:- Doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong kỳ - Thu nhập hoạt động tài chính và các khoản thu nhập bất thường - Kết chuyển kết quả kinh doanh (lỗ) TK này không có số dư cuối kỳ. + TK 421 – Lợi nhuận chưa phân phối TK này dùng để phản ánh kết quả kinh doanh và tình hình phân phối, xử lý kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kết cấu của TK này như sau: . Bên nợ: Số lỗ về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, phân phối lãi . Bên có: Số lãi về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, xử lý các khoản lỗ . Dư nợ: Phản ánh số lỗ hay số phân phối vượt quá số lãi tạo ra . Dư có: Số lãi chưa phân phối hiện có * Trình tự hạch toán Được khái quát qua Sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 06: Sơ đồ xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá TK 632 TK 511, 512 TK 911 TK 421 K/C lãi về tiêu thụ trong kỳ K/C lỗ về tiêu thụ trong kỳ K/C vào kỳ sau Chờ K/C TK 1422, 2422 K/C GV hàng bán trong kỳ K/C chi phí trong kỳ TK 641, 642 về tiêu thụ K/C DT thuần trong kỳ 1.4. Tổ chức sổ kế toán trong kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá Doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý, bộ máy kế toán, trình độ nhân viên kế toán, mức độ trang bị các phương tiện hiện đại để lựa chọn 1 trong 4 hình thức sổ kế toán: Nhật ký – sổ cái, Nhật ký chung, Chứng từ ghi sổ và Nhật ký chứng từ. Mỗi hình thức có một trình tự ghi sổ và hệ thống sổ khác nhau. Để thuận tiện cho việc so sánh với thực trạng tại Công ty Điện tử Sao Mai trong Chương 2, Luận văn xin trình bày hình thức sổ: Chứng từ ghi sổ trong kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá. Trình tự ghi sổ theo hình thức này được khái quát qua Sơ đồ sau: Sơ đồ 07: Trình tự ghi sổ kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ theo hình thức Chứng từ ghi sổ Chứng từ gốc (PNK, HĐGTGT, …) Báo cáo tài chính Bảng tổng hợp CTG Sổ (thẻ) kế toán chi tiết TK 131, 156, 511, 632, 641, 642, ... Sổ quỹ Sổ đăng ký CTGS Chứng từ – Ghi sổ Bảng tổng hợp chi tiết TK 131, 156, ... Sổ cái các TK156, 511, 632, 641, 911... BCĐSPS Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra Cụ thể, trình tự được khái quát qua Sơ đồ trên như sau: Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ gốc (Phiếu nhập kho, Hoá đơn GTGT, …) hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc, kế toán lập CTGS. Căn cứ vào CTGS để ghi vào Sổ đăng ký CTGS, sau đó được dùng để ghi vào Sổ cái. Các chứng từ gốc sau khi làm căn cứ lập CTGS được dùng để ghi vào các Sổ, thẻ kế toán chi tiết ( Sổ chi tiết hàng hoá, Sổ chi tiết TK 131, …). Cuối tháng, phải khoá sổ tính ra tổng số tiền của các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh trong tháng trên Sổ đăng ký CTGS, tính tổng số phát sinh nợ, tổng số phát sinh có và số dư của từng tài khoản trên Sổ cái (Sổ cái TK 156, 632, 511, 641, 642, 911, …). Căn cứ vào Sổ cái, lập Bảng cân đối số phát sinh. Sau khi đối chiếu khớp đúng, số liệu ghi trên Sổ cái và Bảng tổng hợp chi tiết (được lập từ các sổ kế toán chi tiết, như: Bảng tổng hợp nhập – xuất – tồn, Bảng tổng hợp chi tiết thanh toán với khách hàng, …) được dùng để lập các Báo cáo tài chính. Hình thức này có kết cấu sổ sách đơn giản, dễ ghi chép; thuận tiện trong kiểm tra, đối chiếu; công việc kế toán được phân đều trong tháng. Chính vì các ưu điểm trên mà hình thức này phù hợp với mọi loại quy mô doanh nghiệp, phù hợp với cả điều kiện lao động thủ công và áp dụng kế toán máy. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là ghi chép trùng lắp và sử dụng nhiều sổ làm tăng khối lượng công tác kế toán. Nếu có sai sót xảy ra, đòi hỏi kế toán phải sửa chữa trên nhiều sổ sách. 1.5. Đặc điểm kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại một số nước trên thế giới Trong hệ thống kế toán ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá là vấn đề được các doanh nghiệp rất quan tâm. Sau đây là kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá ở các nước Pháp và Mỹ. 1.5.1. Kế toán hàng hoá Theo chuẩn mực kế toán quốc tế về hàng tồn kho (IAS 2), trong kỳ nếu có thành phẩm, hàng hoá nhập kho, nó được cộng vào thành phẩm, hàng hoá tồn kho và số này được ghi: Nợ TK “Thành phẩm, hàng hoá” Có TK liên quan Nếu có nghiệp vụ giảm thành phẩm, hàng hoá khi phát sinh nghiệp vụ giao hàng ghi: Nợ TK liên quan Có TK “Thành phẩm, hàng hoá” Nếu xuất hàng giao cho khách, số giảm thành phẩm, hàng hoá này thể hiện Giá vốn hàng bán trong kỳ. Nếu giá thị trường của thành phẩm, hàng hoá thấp hơn giá trị ghi trên sổ của thành phẩm, hàng hoá thì sẽ được ghi một khoản giảm giá. * Kế toán Pháp Để kế toán hàng hoá theo phương pháp Kiểm kê định kỳ, Kế toán Pháp sử dụng các TK sau: + TK 37 – Tồn kho hàng hoá + TK 6037 – Chênh lệch tồn kho hàng hoá + TK 128 – Xác định kết quả Trình tự kế toán hàng hoá được khái quát qua Sơ đồ sau: Sơ đồ 08: Sơ đồ kế toán hàng hoá theo Phương pháp Kiểm kê định kỳ Chênh lệch tồn kho giảm TK 128 Kết chuyển tồn kho hàng hoá cuối kỳ Chênh lệch tồn kho tăng TK 37 TK 6037 Kết chuyển tồn kho hàng hoá đầu kỳ * Kế toán Mỹ Theo phương pháp Kê khai thường xuyên, tình hình hiện có, biến động của hàng hoá đều được ghi chép trực tiếp lên TK hàng hoá một cách thường xuyên, ngay khi các nghiệp vụ này phát sinh. Khi mua hàng hoá để bán, kế toán ghi: Nợ TK “Hàng hoá” Có TK liên quan Các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hàng mua trả lại, giảm giá và chiết khấu hàng mua cũng được phản ánh trên TK “Hàng hoá”. - Khi xuất kho hàng hoá để bán, kế toán ghi: Nợ TK “Giá vốn hàng bán” Có TK “Hàng hoá” 1.5.2. Kế toán tiêu thụ hàng hoá Theo chuẩn mực kế toán quốc tế, hàng hoá được coi là tiêu thụ khi chúng được giao cho khách hàng, đã được khách hàng chấp nhận thanh toán hoặc thu được tiền ngay, khi đó doanh thu về tiêu thụ hàng hoá mới được ghi nhận. Khi hàng hoá được coi là tiêu thụ, kế toán phản ánh đồng thời 2 bút toán: Bút toán 1: Nợ TK “Giá vốn hàng bán” Có TK “Hàng hoá” Bút toán 2: Nợ TK “Các khoản phải thu” (nếu chưa trả tiền) Nợ TK “Tiền” (nếu khách hàng thanh toán ngay) Có TK “Doanh thu” * Kế toán Pháp Để hạch toán quá trình tiêu thụ hàng hoá, trong kế toán Pháp sử dụng các TK sau: + TK 707 – Thu nhập về bán hàng hoá + TK 41 (411 – 419) – Khách hàng và TK liên quan + TK 4457 – Thuế giá trị gia tăng (TVA) thu hộ nhà nước + TK 665 – Chiết khấu đã chấp nhận + TK 530 – Tiền mặt + TK 512 – Tiền ngân hàng + TK 709 – Giảm giá, bớt giá, hồi khấu doanh nghiệp chấp nhận cho khách hàng Trình tự hạch toán tiêu thụ hàng hoá được thể hiện qua các Sơ đồ sau: Sơ đồ 09: Sơ đồ kế toán tiêu thụ hàng hoá TK 707 DT bán hàng (chưa thuế) TK 4457 TVA thu hộ nhà nước Tổng giá TT Hàng bán bị trả lại TK 530, 512, 41 Sơ đồ 10: Sơ đồ hạch toán các khoản giảm trừ doanh thu TK 530, 512, 41 TK 709 TK 707 TK 665 TK 4457 (5) (6) (4) (2) (3) (1) (7) Trong đó: – Giảm giá, bớt giá, hồi khấu trên hoá đơn báo có cho khách hàng – TVA trên khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu – Tổng số tiền giảm giá, bớt giá, hồi khấu – Chiết khấu sau hoá đơn dành cho khách hàng – TVA tính trên khoản chiết khấu sau hoá đơn – Tổng số tiền chiết khấu dành cho khách hàng – Cuối kỳ, kết chuyển giảm giá, bớt giá, hồi khấu trên hoá đơn báo có * Kế toán Mỹ Trong kế toán Mỹ, các khoản doanh thu được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, tức là thời điểm phát sinh doanh thu đã được cơ bản hoàn thành và có thể biểu hiện qua chứng từ kế toán. Cuối niên độ kế toán, kế toán ghi nhận không chỉ các nghiệp vụ đã thu tiền mà còn ghi nhận cả các nghiệp vụ sẽ thu tiền. Trình tự hạch toán quá trình tiêu thụ hàng hoá như sau: - Nếu hàng hoá của đơn vị được bán, kế toán ghi: + Bút toán 1: Nợ TK “Tiền mặt”: Bán hàng thu tiền ngay Nợ TK “ Các khoản phải thu”: Bán chịu Có TK “Doanh thu bán hàng” Có TK “Thuế phải trả nhà nước” + Bút toán 2: Nợ TK “Chi phí giá vốn hàng bán” Có TK “Tồn kho hàng hoá” - Khi có hàng hoá không đúng quy cách, phẩm chất bị trả lại hoặc bị giảm giá, kế toán ghi: Nợ TK “Hàng bán bị trả lại” Nợ TK “Giảm giá hàng bán” Có TK “Các khoản phải thu” Có TK “Tiền mặt” - Khi phát sinh các nghiệp vụ chiết khấu dành cho khách hàng, kế toán ghi: Nợ TK “Doanh thu bị chiết khấu”: Phần chiết khấu dành cho khách hàng Nợ TK “Tiền mặt”: Số thực chiết khấu bằng tiền mặt Có TK “Phải thu” 1.5.3. Kế toán xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 8, kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh là những hoạt động do doanh nghiệp tiến hành với tư cách là một phần hoạt động kinh doanh của mình và cả những hoạt động liên quan mà doanh nghiệp tham gia. Những kết quả này được tính vào lợi nhuận trước thuế. Việc xác định kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện theo Sơ đồ sau: Sơ đồ 11: Sơ đồ kế toán xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá TK DT bán hàng TK CPBH, CPQLDN TK XĐKQ K/C CPBH, CPQLDN K/C DT bán hàng TK giá vốn hàng bán TK Lợi nhuận K/C KQ Lỗ K/C KQ Lãi K/C giá vốn hàng bán * Kế toán Pháp Theo kế toán Pháp, cuối kỳ doanh nghiệp xác định kết quả niên độ. Đó là chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của niên độ. Kết quả niên độ bao gồm: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động tài chính và kết quả hoạt động đặc biệt. Trong phạm vi bài viết này chỉ xin đề cập đến kết quả hoạt động tiêu thụ hàng hoá. Để hạch toán xác định kết quả tiêu thụ trong kỳ, kế toán sử dụng các TK sau: + TK 125 – Xác định kết quả kinh doanh TK này có kết cấu như sau: . Bên nợ: Kết chuyển chi phí kinh doanh . Bên có: Kết chuyển thu nhập kinh doanh TK này không có số dư cuối kỳ. + TK 607 – Mua hàng hoá + TK 707 – Bán hàng hoá + TK 681 – Chi phí khấu hao, dự phòng + TK 781 – Hoàn nhập khấu hao, dự phòng + TK 126 – Xác định kết quả trước thuế Trình tự kế toán xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá được khái quát qua Sơ đồ sau: Sơ đồ 12: Sơ đồ kế toán xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá TK 607 TK 707 TK 125 (1) (3) TK 126 TK 126 (5b) (5a) TK 681 TK 781 (4) (2) Trong đó: – Kết chuyển giá vốn hàng bán trong kỳ – Kết chuyển chi phí khấu hao, dự phòng thuộc hoạt động tiêu thụ – Kết chuyển doanh thu tiêu thụ hàng hoá – Kết chuyển hoàn nhập khấu hao, dự phòng thuộc hoạt động tiêu thụ (5a) – Kết chuyển số lỗ về tiêu thụ hàng hoá (5b) – Kết chuyển số lãi về tiêu thụ hàng hoá * Kế toán Mỹ Để xác định thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải xác định chi phí hoạt động kinh doanh, bao gồm: chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Cách xác định doanh thu, doanh thu thuần và thu nhập từ hoạt động kinh doanh trong kỳ cũng giống như kế toán Việt Nam. Cuối kỳ, kế toán thực hiện các bút toán khoá sổ bằng cách ghi Nợ TK “Doanh thu” và ghi Có TK “Lãi lưu trữ”, sau khi đã giảm trừ các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại. Các TK chi phí hạch toán ngược lại. Như vậy, qua phần trình bày trên ta có thể thấy đặc điểm kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với kế toán quốc tế, những điểm khác nhau thể hiện sự vận dụng vào điều kiện của Việt Nam, có tính đến các xu hướng và tình hình khách quan. Chương 2 Thực trạng kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại công ty điện tử sao mai 2.1 Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của Công ty Điện tử Sao Mai ảnh hưởng tới kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá 2.1.1 Đặc điểm kinh doanh và tổ chức quản lý của Công ty 2.1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Tên giao dịch trong nước: Công ty điện tử Sao Mai Tên giao dịch quốc tế: Morning Star Electronic Corporation Tên viết tắt: MSC Diện tích: 1200m2 Trụ sở chính: Nghĩa Đô-Cầu Giấy-Hà Nội Phiên hiệu quốc phòng: Nhà máy Z181-Tổng cục công nghiệp quốc phòng Công ty điện tử Sao Mai là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Tổng cục công nghiệp quốc phòng-Bộ quốc phòng. Tiền thân của Công ty là cơ sở nghiên cứu linh kiện tích cực trực thuộc Viện kỹ thuật quân sự, Bộ quốc phòng. Ngày 15/09/1979 theo quyết định số 920/QĐ-QP của Bộ quốc phòng, nhà máy sản xuất bóng bán dẫn và các linh kiện có phiên hiệu là Z181 được thành lập, trực thuộc Tổng cục công nghiệp quốc phòng-Bộ quốc phòng. Trong quá trình phát triển của mình, từ 1979 đến 1989, doanh nghiệp đã trải qua quá trình phát triển đầy khó khăn nhưng cũng đầy triển vọng bởi công nghiệp điện tử là hoàn toàn mới trong nền kinh tế quốc dân, hầu hết sản phẩm sản xuất ra là để xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Đông Âu. Trong những năm đầu của thập niên 90, tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, Đông Âu tan rã, việc xuất khẩu sang thị trường này không thể tiếp tục. Từ những yêu cầu khách quan và chủ quan trong sự phát triển của doanh nghiệp, ngày 16/10/1989 Bộ quốc phòng đã ra quyết định số 293/QĐ-QP: Tổ chức sắp xếp lại nhà máy Z181 thành: Liên hiệp khoa học sản xuất bán dẫn Sao Mai. Liên hiệp là đơn vị kết hợp giữa nghiên cứu và sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập. Bước sang năm 1993, do tình hình khách quan có nhiều thay đổi, doanh nghiệp phải tiến hành tổ chức lại. Căn cứ vào: Nghị định số 388/1993/NĐ-HĐBT ngày 20/11/1993 của Hội Đồng Bộ Trưởng (Nay là Chính Phủ) về việc thành lập lại các doanh nghiệp nhà nước, Thông báo số 211/TĐ ngày 28/07/1993 của Văn Phòng Chính Phủ, Bộ quốc phòng đã ra quyết định số 563/QĐ-QP ngày 19/08/1993 đổi tên: Liên hiệp điện tử Sao Mai thành: Công ty Điện tử Sao Mai, gồm 6 Công ty con và 3 Xí nghiệp. Thực hiện kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp của nhà nước để phát huy sức mạnh tổng hợp của các đơn vị này, ngày 18/04/1996 Bộ quốc phòng ra quyết định sáp nhập 6 Công ty con và 3 Xí nghiệp thành Công ty điện tử Sao Mai, thuộc Tổng cục công nghiệp quốc phòng. Từ năm 1997 đến nay, đơn vị đã tham gia nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm điện tử phục vụ quốc phòng và nền kinh tế quốc dân. Đơn vị đã đững vững, không ngừng phát triển trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt, cùng với yêu cầu hội nhập khu vực, thế giới, trong điều kiện khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghiệp đang bùng nổ, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Như vậy, trong quá trình của mình doanh nghiệp đã nhiều lần phải thay đổi sản phẩm, dịch vụ và hàng hoá để thích ứng với yêu cầu của điều kiện khách quan và chủ quan, từ đó giúp cho doanh nghiệp có được vị thế quan trọng trên thị trường. Có thể nói, Công ty điện tử Sao Mai đã có những đóng góp to lớn và quan trọng vào sự phát triển của đất nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc phòng và đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế quốc dân. 2.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý Là đơn vị trực thuộc Tổng cục công nghiệp quốc phòng – Bộ quốc phòng, vì vậy nhiệm vụ về quốc phòng luôn được doanh nghiệp đặt lên hàng đầu và hoàn thành tốt. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hiện nay còn thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trước đây, doanh nghiệp chủ yếu làm 2 nhiệm vụ: nghiên cứu và sản xuất các bóng bán dẫn, linh kiện điện tử và các thiết bị điện tử phục vụ cho quốc phòng. Nhưng trong những năm gần đây, trong điều kiện mới với cơ chế chính sách mới, đơn vị đã được phép mở rộng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó, trong giai đoạn hiện nay Công ty có nhiệm vụ là: sản xuất các loại thiết bị điện tử để phục vụ cho quốc phòng toàn bộ nền kinh tế, tổ chức các nghiệp vụ khoa học về bán dẫn điện tử nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng của Công ty, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn - bảo toàn - phát triển vốn được giao nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, quản lý lao động - vật tư - hàng hoá chặt chẽ, tuân thủ đúng các chế độ - chính sách của nhà nước về tài chính và kinh tế. Với nhiệm vụ khó khăn trên cùng điều kiện sản xuất-kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển thì một trong những điều kiện tiên quyết đòi hỏi các doanh nghiệp là tổ chức bộ máy quản lý khoa học, hợp lý. Vì vậy, hoàn thiện bộ máy quản lý sao cho phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế là nhiệm vụ luôn được doanh nghiệp đặt lên hàng đầu, là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Hiện nay, Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến kết hợp với kiểu chức năng. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty được khái quát qua Sơ đồ 13. Sơ đồ 13 Bộ máy trên bao gồm 1 Ban giám đốc và 6 Phòng ban chức năng. Ban giám đốc lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp đến từng Phân xưởng sản xuất. Giúp việc cho Giám đốc là các Phó giám đốc và các Phòng ban chức năng, nghiệp vụ. Cụ thể, * Ban giám đốc Gồm 04 người ( 01 Giám đốc và 03 Phó giám đốc ) Giám đốc (GĐ): Là đại diện pháp nhân của Công ty, điều hành Công ty theo chế độ một thủ trưởng. Điều hoà, phối hợp các mặt hoạt động nghiên cứu và sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị trực thuộc theo kế hoạch, chính sách, pháp luật của nhà nước, quân đội chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Các PGĐ Bao gồm: + PGĐ sản xuất – nghiên cứu kỹ thuật + PGĐ phụ trách hành chính và đời sống + PGĐ phụ trách kinh doanh Các PGĐ công ty giúp cho GĐ công ty chỉ đạo quản lý điều hành thường xuyên các mặt công tác được phân công và chịu trách nhiệm trước GĐ công ty về các mặt công tác đó. * Các phòng ban chức năng Văn phòng công ty: Chịu trách nhiệm điều hành các công việc hành chính trong nội bộ công ty, đảm bảo thông tin thông suốt, liên tục trong và ngoài Công ty. Phòng kế hoạch tổng hợp: Có nhiệm vụ tham mưu, quản lý các mặt công tác kế hoạch giá thành, tổ chức lao động tiền lương, chế độ, chính sách đào tạo, sáng kiến, an toàn, chất lượng, tiêu chuẩn hoá, tổ chức bảo quản kho, tiêu thụ vật tư thiết bị ứ đọng, bảo đảm và quản lý công tác vận tải, điện nước cho toàn đơn vị, cơ điện, kỹ thuật công nghệ. Phòng tài chính - kế toán: Có nhiệm vụ làm tham mưu đắc lực cho GĐ và các đơn vị thành viên về công tác tài chính – kế toán của toàn Công ty trên cơ sở pháp luật và đạt hiệu quả kinh tế. Phòng thị trường: Có nhiệm vụ tiếp cận thị trường trong và ngoài nước, xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu, đầu tư của Công ty. Tham mưu cho GĐ phương hướng phát triển mới cùng các phương thức sản xuất kinh doanh thích hợp cho sản phẩm tương ứng. Tổ chức liên doanh, liên kết, hợp tác, ký kết hợp đồng với các đơn vị trong và ngoài nước. Phòng chính trị: Là bộ phận có chức năng đảm nhận công tác Đảng, công tác chính trị trong toàn Công ty, bảo vệ an ninh dân vận, thi đua và chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức quần chúng hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Phòng kỹ thuật: Có nhiệm vụ giúp GĐ lập kế hoạch nghiên cứu, sản xuất, chế thử các sản phẩm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, đảm bảo khâu kỹ thuật trong toàn Công ty, dự báo thực trạng thiết bị, lập kế hoạch mua, bán vật tư. Nhờ có tổ chức bộ máy quản lý theo kiểu trực tuyến kết hợp với kiểu chức năng như trên, đã hạn chế những nhược điểm và phát huy những ưu điểm của hai phương thức này, làm Công ty vừa đảm bảo thực hiện được chế độ một thủ trưởng lại vừa đảm bảo mối quan hệ rõ ràng trong hệ thống, không xảy ra hiện tượng chồng chéo mà công việc vẫn được giải quyết. 2.1.1.3 Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh Xuất phát từ đặc thù trên của đơn vị, hiện nay, Công ty điện tử Sao Mai tổ chức sản xuất theo từng xí nghiệp. Trong đó, có 01 Viện nghiên cứu, 04 xí nghiệp và 02 phân xưởng, ngoài ra còn các tổ, đội sản xuất. Mỗi đơn vị thành viên này được Công ty giao nhiệm vụ hoạt động cụ thể và thực hiện chế độ hạch toán phụ thuộc. - Viện nghiên cứu điện tử: Thực hiện nghiên cứu, phát triển, tiếp nhận chuyển giao công nghệ điện tử như: Chế thử và sản xuất loại nhỏ, các vật liệu và linh kiện gốm áp điện, bán dẫn, thiết bị điện tử, nghiên cứu các đề tài phục vụ cho quốc phòng, thực hiện các dịch vụ về khoa học kỹ thuật công nghiệp. - Xí nghiệp nhựa xốp Sao Mai: Có nhiệm vụ Sản xuất các sản phẩm xốp nhựa phục vụ quốc phòng và nền kinh tế quốc dân. Với nhiệm vụ trên, đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất nhựa xốp của đơn vị mang những nét đặc thù của nó. Quy trình công nghệ sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí, phương pháp xác định và tính chi phí giá thành của sản phẩm được sản xuất ra. Và đó cũng là một yếu tố quyết định quá trình phát triển của Công ty trong thời gian tới. Trong các sản phẩm của Công ty, nhựa xốp là ngành quan trọng nhất của Công ty. Nó đem lại những lợi ích kinh tế lớn tạo nên thị phần trên thị trường trong và ngoài nước. Do đó, quy trình sản xuất nhựa xốp là một quá trình sản xuất liên tục, khép kín từ khâu nguyên vật liệu ban đầu cho đến khâu sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh được giao cho khách hàng. Vì sản phẩm nhựa xốp được quản lý theo Hệ thống quản lý chất lượng Iso 9001: 2000 nên Công ty rất chú trọng tới việc đầu tư máy móc, thiết bị, đặc biệt khâu sản xuất, thường xuyên được kiểm tra chặt chẽ để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn ngày càng cao hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Quy trình công nghệ sản xuất nhựa xốp được khái quát qua Sơ đồ 14. Sơ đồ 14 - Xí nghiệp khí công nghiệp 81: Có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các loại khí công nghiệp phục vụ quốc phòng và nền kinh tế quốc dân. - Xí nghiệp trang thiết bị điện tử: Có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các sản phẩm thiết bị điện tử, đầu máy phục vụ quốc phòng và nền kinh tế quốc dân. -Xí nghiệp trang thiết bị công trình: Có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ lắp đặt điện tử, tin học, lắp đặt máy móc, thiết bị và tự động hoá dây truyền sản xuất, xây dựng đường dây và trạm biến áp điện đến 35 KV. - Phân xưởng cơ khí điện tử: Có nhiệm vụ tổ chức sản xuất các sản phẩm do Công ty giao, tổ chức hoạt động sản xuất các dịch vụ kỹ thuật trong các lĩnh vực điện tử, điện lạnh, cơ khí hoá công nghiệp và lắp ráp xe máy. - Phân xưởng hoá chất: Có nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm về vôi, đáp ứng nhu cầu thị trường. Như vậy, việc tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa đảm bảo sự quản lý, theo dõi chặt chẽ của Công ty đối với các đơn vị thành viên vừa đảm bảo và phát huy mạnh mẽ tính tự chủ cho các xí nghiệp, góp phần quan trọng quyết định sự phát triển ngày càng bền vững của doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển của mình, Công ty Điện tử Sao Mai đã dần dần từng bước vững chắc tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Những thành qủa mà doanh nghiệp đạt được một phần là được sự chỉ đạo đúng đắn của Tổng cục công nghiệp quốc phòng – Bộ quốc phòng, các bên hữu quan của nhà nước, sự hợp tác của các bạn hàng và phần quyết định là sự nỗ lực không ngừng của doanh nghiệp. Những kết quả đạt được trong những năm vừa qua được khái quát qua Biểu số 01. Biểu số 01 Qua Biểu số 01 ta thấy, cùng với sự tăng về Tổng doanh thu và Tổng lợi nhuận thì Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp và các khoản khác phải nộp vào Ngân sách nhà nước tăng đáng kể, giúp doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước. Không chỉ vậy, đời sống của người lao động trong Công ty còn không ngừng được cải thiện, tạo động lực góp phần tăng hiệu qủa sản xuất đồng thời tạo bước phát triển trong thời gian tiếp theo. Thể hiện, Thu nhập bình quân một người lao động/tháng năm 2003 tăng so với năm 2002 là 55 nghìn đồng, tương ứng 5,24% và thu nhập bình quân mỗi năm đều trên 1.000 nghìn đồng. Một trong những yếu tố quyết định thành công của một doanh nghiệp đó là công tác xây dựng kế hoạch và định hướng cho tương lai. Bước vào thiên niên kỷ mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, khu vực và thế giới, Công ty Điện tử Sao Mai đã xây dựng kế hoạch 5 năm giai đoạn 2001-2005, trong đó đưa ra phương hướng và các mục tiêu tổng quát để phấn đấu nâng cao năng lực sản xuất và đạt hiệu quả kinh tế lớn nhất, góp phần quan trọng đưa nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đồng thời, Công ty còn lập Kế hoạch sản xuất kinh doanh với các mục tiêu cụ thể cho năm 2004. Sang năm 2004, doanh nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nhưng doanh nghiệp cũng phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Vấn đề cấp bách hiện nay của Công ty là tìm ra các giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng nâng cao vị thế của Công ty trên thị trường. 2.1.2 Đặc điểm tổ chức Bộ máy kế toán và vận dụng chế độ kế toán hiện hành tại Công ty 2.1.2.1 Phương thức tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Bộ máy kế toán Bộ máy kế toán của Công ty bao gồm: Phòng kế toán ở Công ty và các Ban kế toán ở các xí nghiệp thành viên. Nó được tổ chức theo kiểu hỗn hợp. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Công ty được khái quát qua Sơ đồ 15. Sơ đồ 15 * Phòng kế toán ở Công ty Có nhiệm vụ tổng hợp các tài liệu kế toán từ các đơn vị gửi lên, thực hiện việc kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết đối với các nghiệp vụ kinh tế tài chính có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và các hoạt động chung cho toàn Công ty, hướng dẫn kiểm tra về chuyên môn đối với các đơn vị. Gồm 06 người, Kế toán trưởng: Là người phụ trách trực tiếp công tác tài chính – kế toán của Công ty. Kế toán trưởng chịu trách nhiệm hướng dẫn đôn đốc và kiểm tra công việc do các bộ phận kế toán và các kế toán viên thực hiện, đồng thời chịu trách nhiệm trước BGĐ và cấp trên về số liệu trên báo cáo tài chính. Phó trưởng phòng kế toán: Phụ trách công tác kế toán của toàn Công ty, kiêm kế toán tài sản cố định, kế toán chi phí – giá thành. Kế toán nguyên vật liệu, tiền gửi ngân hàng, xây dựng cơ bản, thanh toán các khoản tạm ứng, công nợ, kinh phí sự nghiệp. Kế toán bán hàng, kiêm kế toán công nợ và thống kê kinh tế. Thủ quỹ, kiêm máy tính. * Ban kế toán ở các đơn vị thành viên Tuỳ theo quy mô, đặc điểm của từng đơn vị: Trưởng ban kế toán, kiêm kế toán tổng hợp, kế toán tài sản cố định, kế toán chi phí – giá thành. Kế toán vốn bằng tiền, thanh toán, nguyên vật liệu, hàng hoá, tiền lương và các khoản thanh toán theo lương. Thủ quỹ, kiêm nhân viên máy tính và th._.n mềm kế toán do cán bộ Trung tâm tin học Cục tài chính – Bộ quốc phòng lập ra. Vì vậy, khối lượng công việc kế toán được giảm nhẹ đi rất nhiều, đồng thời, việc đối chiếu sổ sách được thực hiện dễ dàng hơn, số liệu luôn cập nhật và chính xác, giảm bớt một số lượng lớn sổ sách kế toán. Việc kế toán và khoá sổ theo tháng giúp Ban lãnh đạo công ty nắm bắt sát sao tình hình tài chính trong đơn vị để từ đó có sự điều chỉnh kịp thời và có những cải tiến nhằm nâng cao hiệu qủa kinh tế. Trong đơn vị gồm rất nhiều phần hành kế toán, tuy nhiên do đặc điểm của doanh nghiệp gồm 2 hoạt động sản xuất và kinh doanh là chủ yếu cho nên một số phần hành kế toán ít nghiệp vụ kinh tế phát sinh có thể kiêm nhiệm được, để vừa đảm bảo yêu cầu quản lý lại vừa đạt được tính hiệu quả. Cụ thể, + Kế toán vốn bằng tiền, kiêm kế toán xây dựng cơ bản và kế toán thanh toán + Kế toán vật tư, sản phẩm, hàng hoá, kiêm kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Tổ chức vận dụng Chế độ tài khoản của doanh nghiệp vừa đảm bảo tuân thủ những quy định hiện hành của chế độ, những chuẩn mực kế toán đã ban hành, lại vừa phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp. Do có sự phân cấp trong kinh doanh, quản lý và công tác kế toán nên công ty đã thiết kế Hệ thống tài khoản chi tiết đến từng đối tượng cụ thể của đơn vị, như TK 136, 154, 336, 511, 632,… Hệ thống chứng từ, Sổ sách kế toán và Hệ thống báo cáo tài chính được lập đầy đủ thông tin, vừa phù hợp với chế độ kế toán hiện hành vừa phù hợp với yêu cầu quản lý của đơn vị. Đồng thời, chúng được lưu trữ một cách khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra lại và bảo quản. Hoạt động của Bộ phận kế toán luôn có sự phối hợp nhịp nhàng với các bộ phận khác có liên quan : Phòng kế hoạch, Phòng thị trường,…đảm bảo quản lý đến từng đối tượng mà vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao. * Đối với công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá nói riêng: Thời gian qua tổ chức công tác kế toán này của đơn vị đã đóng góp rất nhiều vào hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nó đã trở thành công cụ sắc bén để đánh giá thực trạng tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thông qua việc đảm bảo tính thống nhất về phạm vi, nhiệm vụ, và phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế liên quan. Nhờ có bộ phận kế toán này mà doanh nghiệp có thể nhận biết hoạt động nào đưa lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp và ngược lại. Trên cơ sở số liệu và thông tin do kế toán cung cấp, những nhà quản lý của đơn vị cân nhắc và đưa ra quyết định có tiếp tục sản xuất kinh doanh những mặt hàng này nữa hay không? Mặt hàng nào có khả năng cạnh tranh và phát triển? Từ đó có phương hướng cụ thể thúc đẩy sản xuất kinh doanh các mặt hàng đó. Cụ thể, Để phản ánh trung thực và chính xác tình hình nhập, xuất, tồn, tình hình tiêu thụ hàng hoá, kế toán đã sử dụng đầy đủ các chứng từ và tài khoản kế toán có liên quan đến nhập, xuất hàng hoá, bán hàng, thanh toán với khách hàng. Đồng thời, kế toán mở các sổ chi tiết và sổ tổng hợp để theo dõi chi tiết và tổng hợp, đảm bảo phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Đơn vị đã thực hiện tốt việc bố trí thủ kho để theo dõi chặt chẽ tình hình nhập, xuất hàng hoá của Công ty cùng với kế toán. Với đặc điểm của hàng hoá là không có quá nhiều danh điểm nhưng mỗi danh điểm lại bao gồm nhiều chủng loại, mặt hàng khác nhau, Công ty đã lựa chọn Phương pháp kế toán chi tiết hàng hoá phù hợp: Phương pháp thẻ song song. Nó vừa đơn giản trong khâu ghi chép, so sánh, đối chiếu số liệu và phát hiện sai sót lại vừa cung cấp thông tin nhập, xuất và tồn kho của từng mặt hàng kịp thời, chính xác. Công ty đã xây dựng được chương trình luân chuyển chứng từ hợp lý và phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị, có sự đối chiếu giữa Phòng tài chính – kế toán với Kho và Phòng sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiệp vụ kinh tế phát sinh và đảm bảo các nghiệp vụ này sẽ được hạch toán đầy đủ, kịp thời, chính xác. Kế toán đã đưa ra được tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tương đối hợp lý. Trước đây, đơn vị sử dụng Tiền lương thực tế của công nhân trực tiếp sản xuất và tiền lương bộ phận bán hàng để xác định chi phí hoạt động được phân bổ cho từng mảng sản xuất, kinh doanh. Sau đó, đối với thành phẩm, Công ty sử dụng Tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất để phân bổ chi phí hoạt động cho từng thành phẩm, còn đối với hàng hoá, tiêu thức phân bổ là Giá vốn hàng bán. Hiện nay, do đơn vị tập trung vào kinh doanh hàng hoá là chủ yếu nên Giá vốn hàng bán được sử dụng làm tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng hàng hoá là tương đối hợp lý. Thông qua những thành tựu đạt được trên đây, chúng ta càng thấy được sự nỗ lực, phấn đấu hết mình của doanh nghiệp cùng những thành quả mà doanh nghiệp đạt được. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, tổ chức công tác kế toán của đơn vị còn tồn tại một số vấn đề cần xem xét, khắc phục để đạt hiệu quả ngày càng cao. 3.1.2 Những mặt còn tồn tại, hạn chế * Đối với công tác kế toán nói chung của Công ty Về tổ chức bộ máy kế toán: Việc kiêm nhiệm các phần hành kế toán là trên cơ sở đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, nhằm mục tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay ở công ty, Kế toán tổng hợp vừa làm nhiệm vụ của nhân viên kế toán tổng hợp lại vừa kiêm nhiệm các phần hành: Tài sản cố định, chi phí – giá thành và bán hàng, những phần hành chủ yếu của đơn vị. Như vậy, công việc của kế toán tổng hợp là rất nặng. Về sổ sách kế toán: Hiện nay, Công ty đang áp dụng Hình thức sổ “Chứng từ – Ghi sổ”, nhưng đơn vị không sử dụng Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ. Mặc dù, theo chương trình Kế toán máy việc lên sổ này là tự động sau khi Chứng từ ghi sổ được lập trên cơ sở các chứng từ gốc phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới việc đăng ký các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, quản lý chứng từ ghi sổ, đến việc kiểm tra, đối chiếu số liệu với Bảng cân đối số phát sinh. Hơn nữa, dù đã sử dụng Kế toán máy có thể theo dõi chính xác và đầy đủ các hoá đơn chứng từ, nhưng việc đối chiếu trên máy tính nhiều khi phức tạp và nếu có một chứng từ nào bị bỏ sót thì việc rà soát lại rất khó. Vì, trong quá trình sử dụng máy tính không thể kiểm tra được đã ghi bao nhiêu chứng từ và vào máy đủ chưa, nếu có mất những chứng từ trước thì kế toán cũng không phát hiện ra ngay được. Nếu sử dụng Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ thì thông qua việc xem xét nó có thể biết được là kế toán vào sổ đã đúng hay chưa, nếu thiếu thì việc tìm ra chứng từ thiếu đó để bổ sung sẽ dễ dàng hơn. Về tổ chức công tác kế toán quản trị: Mặc dù, vai trò, vị trí của Kế toán quản trị là vô cùng quan trọng, không thể tách rời của Hệ thống kế toán, quyết định đến sự thành, bại của doanh nghiệp, nhưng hiện nay công tác Kế toán quản trị ở doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức – nó chưa được tổ chức một cách độc lập như Kế toán tài chính mà hiện tại vẫn nằm trong Kế toán tài chính. Kế toán quản trị đã tạo ra phần lớn các thông tin, trực tiếp cung cấp cho các nhà quản trị để họ ra các quyết định điều hành sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Nó là phương tiện để Ban giám đốc kiểm soát một cách có hiệu qủa hoạt động của doanh nghiệp. * Đối với công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá nói riêng tại Công ty Về phương pháp tính giá hàng hoá: Hiện nay, thành phẩm được nhập kho theo giá thành sản xuất thực tế còn hàng hóa được nhập kho theo giá vốn thực tế. Với thành phẩm, hàng hoá xuất kho đơn vị đang sử dụng Phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ để tính giá xuất kho. Tuy nhiên, cả giá thành sản xuất thực tế và giá đơn vị bình quân chỉ được xác định vào cuối tháng. Vì vậy, sau mỗi nghiệp vụ nhập, xuất thành phẩm, hàng hóa chỉ theo dõi được về mặt số lượng mà không phản ánh được giá trị thành phẩm, hàng hóa nhập kho, xuất kho và tồn kho, trong khi các nghiệp vụ nhập, xuất, tồn diễn ra hàng ngày đòi hỏi kế toán phải ghi chép thường xuyên. Cũng chính vì áp dụng phương pháp này mà khi tiêu thụ hàng hoá, Kế toán chỉ lập Hoá đơn GTGT kiêm luôn Phiếu xuất kho. Hơn nữa, việc tính giá hàng hoá xuất kho vào cuối kỳ hạch toán sẽ ảnh hưởng đến tiến độ của các khâu kế toán khác, đồng thời sử dụng phương pháp này cũng phải tiến hành tính giá theo từng danh điểm nguyên vật liệu. Tuy nhiên, do Phương pháp hạch toán tổng hợp hàng tồn kho Công ty áp dụng là phương pháp kê khai thường xuyên, số lượng các mặt hàng của đơn vị không phải quá nhiều, số lượng các nghiệp vụ nhập, xuất kho hàng hoá là tương đối lớn và trình độ của nhân viên kế toán Công ty cao cho nên sử dụng phương pháp này sẽ giảm nhẹ khối lượng công việc của kế toán và quản lý được các nghiệp vụ phát sinh trong kỳ. Về kế toán chi tiết hàng hoá: Hiện nay, đơn vị sử dụng Phương pháp thẻ song song để kế toán chi tiết hàng hoá. Tuy nhiên, kế toán lại không lập hệ thống danh điểm chi tiết, điều này ít nhiều gây khó khăn cho việc tổ chức quản lý, theo dõi từng hàng hoá. Bởi vì, đặc điểm hàng hoá của đơn vị tuy không có quá nhiều mặt hàng nhưng trong mỗi mặt hàng lại bao gồm rất nhiều chủng loại khác nhau, đòi hỏi phải quản lý, theo dõi cụ thể. Về việc sử dụng tài khoản kế toán: Để theo dõi công nợ và tình hình thanh toán công nợ với khách hàng, kế toán mở 2 TK cấp hai đối với TK 131 là: TK 1311-Phải thu của người mua và TK 1312-Người mua trả tiền trước. Điều này là không cần thiết trong điều kiện kế toán đã có Sổ theo dõi chi tiết với từng khách hàng, gây ra sự trùng lắp. Về kế toán tổng hợp tiêu thụ hàng hoá: Đối với trường hợp khách hàng mua nhiều, Công ty trích thưởng theo % giá trị của lô hàng bán, khoản này không tính vào khoản giảm trừ doanh thu mà được hạch toán như một khoản chi phí bán hàng. Điều này làm cho việc xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá ở đơn vị là không chính xác. Khoản trích thưởng này được kế toán như sau: Nợ TK 641 Có TK 111, 112, … Về sổ sách kế toán: Để theo dõi quá trình tiêu thụ hàng hoá, đơn vị mở Sổ chi tiết và Sổ cái các TK 5111, 531, 6321, 131, 3331, …Tuy nhiên, để có thể theo dõi chi tiết doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu cho từng mặt hàng đơn vị nên sử dụng Sổ chi tiết bán hàng. Nhưng hiện nay, đơn vị chưa mở và theo dõi trên Sổ này. Điều này làm ảnh hưởng tới việc theo dõi chi tiết kết quả tiêu thụ của từng mặt hàng trong kỳ. Về tổ chức bảo hành sản phẩm: Hiện nay, Công ty chưa tổ chức công tác bảo hành sản phẩm, hàng hoá khi bán ra. Mặc dù điều này là rất cần thiết đặc biệt với những sản phẩm điện tử - điện lạnh - điện gia dụng có thời gian sử dụng lâu dài, hơn nữa chúng lại là các sản phẩm nhập khẩu. Để tăng uy tín cho Công ty khi nhập khẩu hàng hoá, Công ty cũng cần có những điều khoản giao kết với bên xuất khẩu nước ngoài về điều khoản này, vì chi phí bảo hành cho khách hàng là do bên xuất khẩu phải bỏ ra. Về tăng cường tiêu thụ hàng hoá: Mặc dù, kinh doanh là một mặt quan trọng của doanh nghiệp, nhưng bộ phận bán hàng của đơn vị chưa có. Hiện nay, phòng thị trường đang đảm nhận cả vai trò của bộ phận này. Đồng thời, các hoạt động về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường chưa được quan tâm chú ý nhiều, mặc dù đây là những nhân tố quan trọng quyết định tới việc mang lại doanh thu cho đơn vị. 3.2 Hoàn thiện kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại công ty 3.2.1 Sự cần thiết và các nguyên tắc hoàn thiện Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế có nhiều biến động, để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải tìm ra hướng đi riêng, phù hợp với mình. Để đạt được mục tiêu đó, doanh nghiệp phải tổ chức được bộ máy quản lý khoa học, gọn nhẹ, phù hợp với ngành nghề kinh doanh của mình. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải có một bộ máy kế toán giúp cho ban lãnh đạo đưa ra được những quyết định đúng đắn, kịp thời. Như vậy, tổ chức công tác kế toán giữ một vai trò quan trọng, quyết định đến sự thành, bại của doanh nghiệp. Đặc biệt trong cơ chế hiện nay, càng đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện công tác kế toán để làm cho Kế toán phát huy được vai trò thực sự là công cụ hữu hiệu, không thể thiếu cho quản lý và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ máy kế toán và công tác kế toán tại Công ty Điện Tử Sao Mai thời gian vừa qua đã được tổ chức khoa học, hợp lý đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, việc tổ chức công tác kế toán luôn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau trong doanh nghiệp. Vì thế, xét trong một phạm vi nào đó có thể còn chưa hoàn thiện. Phòng Tài chính – Kế toán là nơi cung cấp những thông tin kinh tế tài chính cho Ban lãnh đạo Công ty, nhà nước, các bên hữu quan một cách nhanh chóng và chính xác. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, khi lĩnh vực kinh doanh của đơn vị đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt và đơn vị phải tự chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ quản về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó, Ban quản lý Công ty luôn luôn cần phải quan tâm đến những vấn đề còn bất cập để có giải pháp khắc phục. Để việc hoàn thiện này được đúng hướng và đạt hiệu quả cao cần dựa vào các nguyên tắc sau: Một là, phải đảm bảo sao cho phù hợp với chế độ và chuẩn mực kế toán hiện hành, nhưng không cứng nhắc Hai là, hoàn thiện sao cho phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm khác nhau về tổ chức sản xuất kinh doanh, loại hình, mặt hàng kinh doanh, trình độ nhân viên và yêu cầu quản lý. Do vậy, việc vận dụng chế độ và chuẩn mực kế toán trong doanh nghiệp phải linh hoạt và hợp lý. Ba là, hoàn thiện phải đáp ứng yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả bằng cách tổ chức vận dụng chế độ kế toán sao cho khối lượng công việc thực hiện ít nhất mà vẫn đáp ứng được yêu cầu quản lý, do đó, sẽ tiết kiệm được nhân lực và chi phí. 3.2.2 Nội dung hoàn thiện * Đối với công tác kế toán nói chung của Công ty Về tổ chức bộ máy kế toán: Trên cơ sở đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, việc kiêm nhiệm các phần hành kế toán là để nhằm mục tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, Ban lãnh đạo Công ty nên xem xét và phân công công việc hợp lý hơn, giảm nhẹ gánh nặng cho Kế toán tổng hợp mà vẫn đạt được mục tiêu trên. Về sổ sách kế toán: Cùng với việc lập và in ra Chứng từ ghi sổ bằng Kế toán máy, Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ cũng cần phải được in ra để quản lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, quản lý Chứng từ ghi sổ và là cơ sở để đối chiếu số liệu với Bảng cân đối số phát sinh. Hơn nữa, Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ cũng là căn cứ để kiểm tra xem kế toán vào sổ đúng hay chưa, từ đó có biện pháp điều chỉnh cho hợp lý. Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ được lập theo mẫu sau: Bộ (Sở): .......... Đơn vị: ................ Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ Năm:.............. Chứng từ ghi sổ Số tiền Chứng từ ghi sổ Số tiền Số hiệu Ngày tháng Số hiệu Ngày tháng Cộng - Cộng tháng - Luỹ kế từ đầu quý Ngày ....tháng ....năm ........ Người ghi sổ (ký, họ tên) Kế toán trưởng (ký, họ tên) Thủ trưởng đơn vị (ký, họ tên, đóng dấu) Về công tác Kế toán quản trị: Để có thể tồn tại và phát triển, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh khắc nghiệt như hiện nay thì việc tiến hành công tác Kế toán quản trị bên cạnh Kế toán tài chính là yêu cầu bắt buộc, là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của hệ thống kế toán. Thông qua việc lập các Báo cáo chi tiết như: Báo cáo chi tiết chi phí – giá thành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ; Báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh; Báo cáo chi tiết chi phí bán hàng; … Kế toán quản trị sẽ là phương tiện để Ban giám đốc kiểm soát và điều hành một cách có hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp – Quản trị nội bộ doanh nghiệp. * Đối với công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá nói riêng tại Công ty Về kế toán chi tiết hàng hoá: Việc lập sổ danh điểm hàng hoá sẽ giúp cho việc thống nhất tên gọi, quy cách, phẩm chất, đơn vị tính, mã số và giá cả để hạch toán hàng hoá. Điều này là rất phù hợp cho quá trình nhập liệu, cũng như kiểm tra, đối chiếu trong điều kiện Phòng kế toán có sử dụng Kế toán máy. Ngược lại, nếu không lập, khối lượng công việc sẽ tăng thêm khi kế toán viên phải rà soát lại các chứng từ, kiểm tra, đối chiếu về hiện vật giữa Thẻ kho và Sổ chi tiết hàng hoá; đối chiếu, kiểm tra về giá trị giữa Bảng tổng hợp nhập – xuất – tồn và Sổ tổng hợp, hiệu qủa sử dụng máy tính giảm. Hơn nữa, việc lập danh điểm hàng hóa sẽ giúp cho kế toán mở Thẻ kho, Sổ chi tiết cho từng hàng hóa và Bảng tổng hợp nhập – xuất – tồn kho hàng hoá được dễ dàng và nhất quán. Từ đó, giúp cho Ban lãnh đạo công ty có thể nắm bắt tình hình tiêu thụ từng hàng hoá được kịp thời, chính xác, từ đó xác định nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục. Do Công ty không có quá nhiều hàng hoá nên có thể lập Hệ thống danh điểm chi tiết hàng hoá theo Phương pháp mã tài khoản. Ví dụ: 15611 – Máy giặt, trong đó: 156111 – Máy giặt FW 651 156112 – Máy giặt FW 667 15612 – Máy đông lạnh, trong đó: 156121 – Máy đông lạnh BD 146 156122 – Máy đông lạnh BD 216 Về việc sử dụng tài khoản: Để theo dõi tình hình thanh toán với khách hàng, kế toán chỉ cần dùng TK 131 chung cho cả 2 khoản phải thu và khoản khách hàng ứng trước tiền hàng. Muốn quản lý 2 khoản này, kế toán có thể theo dõi trên Sổ chi tiết thanh toán với từng khách hàng. Điều này vừa đảm bảo theo dõi được tình hình thanh toán chi tiết theo từng khách hàng, lại vừa tránh tình trạng trùng lắp xảy ra. Về kế toán tổng hợp tiêu thụ hàng hoá: Để xác định chính xác kết quả tiêu thụ hàng hoá trong kỳ, đối với khoản trích thưởng cho khách hàng mua nhiều, đơn vị phải ghi nhận đây là một khoản giảm trừ doanh thu (Chiết khấu thương mại) và kế toán ghi như sau: Nợ TK 5211 – Chiết khấu bán hàng hoá Nợ TK 3331 Có TK 111, 112, 131 Đến cuối kỳ, Kết chuyển khoản giảm trừ này để xác định Doanh thu thuần thực hiện được trong kỳ: Nợ TK 5111 – Doanh thu bán hàng hoá Có TK 5211 – Chiết khấu bán hàng hoá Về sổ sách kế toán: Để theo dõi chi tiết kết quả quá trình tiêu thụ hàng hoá, đơn vị nên mở Sổ chi tiết bán hàng cho từng hàng hoá, dịch vụ bên cạnh Sổ chi tiết TK 6321, 5111, …Thông qua việc quản lý chi tiết này của kế toán, thông tin được cung cấp cho Ban lãnh đạo công ty để họ cân nhắc và đưa ra quyết định có tiếp tục kinh doanh những mặt hàng này nữa hay không? Mặt hàng nào có khả năng cạnh tranh và phát triển? Từ đó có phương hướng cụ thể thúc đẩy việc kinh doanh các hàng hoá đó. Sổ chi tiết bán hàng được mở theo mẫu dưới đây: Doanh nghiệp: ….. Sổ chi tiết bán hàng Tên hàng hoá:……………………………………. Năm:………………… Quyển số:……………………….. NTGS Chưng từ Diễn giải TK đối ứng Doanh thu Các khoản tính trừ Số Ngày SL ĐG TT Thuế (VAT trực tiếp, XK, TTĐB Khác (531, 532, 521) Cộng PS - DTT - GVHB - Lãi gộp Ngày …tháng ...năm … Người ghi sổ (ký, họ tên) Kế toán trưởng (ký, họ tên) Về tổ chức bảo hành sản phẩm: Để nâng cao uy tín của doanh nghiệp và ngày càng mở rộng mạng lưới khách hàng của mình đối với những sản phẩm Điện tử - Điện lạnh - Điện gia dụng có thời gian sử dụng lâu dài, đơn vị nên tổ chức bảo hành sản phẩm, nhưng cũng không nhất thiết đòi hỏi phải có một bộ phận hoạt động độc lập. Quá trình kế toán khoản chi phí bảo hành sản phẩm tại Bộ phận này được tiến hành theo sơ đồ dưới đây: Căn cứ vào các chứng từ hợp lệ, cần thiết, Kế toán hạch toán như sau: + Nếu Công ty trích trước chi phí bảo hành sản phẩm: (5), (6a) TK 111, 112 152, 334, … TK 621, 622, 627 TK 154 TK 335 TK 6415 (1) (4) (3) (2) (6b) Trong đó: (1) – Trích trước chi phí bảo hành sản phẩm (2) – Chi phí bảo hành sản phẩm phát sinh trong kỳ (3) – Kết chuyển chi phí bảo hành sản phẩm phát sinh trong kỳ vào cuối kỳ (4) – Sửa chữa bảo hành sản phẩm bàn giao khách hàng (5) – Kết chuyển khi hết thời hạn bảo hành sản phẩm (6a) – Ghi giảm chi phí số chênh lệch giữa số trích trước chi phí bảo hành sản phẩm lớn hơn chi phí thực tế phát sinh (6b) – Tính vào chi phí số trích thiếu khi chi phí thực tế phát sinh lớn hơn số trích trước + Nếu Công ty không trích trước chi phí bảo hành sản phẩm: TK 111, 112, 152, 334, … TK 621, 622, 627 TK 154 TK 6415 (1) (2) (3) (4) TK 155 Trong đó: (1) – Chi phí bảo hành sản phẩm thực tế phát sinh trong kỳ (2) – Kết chuyển chi phí bảo hành sản phẩm thực tế phát sinh trong kỳ vào cuối kỳ (3) – Sửa chữa bảo hành sản phẩm bàn giao cho khách hàng (4) – Xuất sản phẩm khác giao cho khách hàng khi sản phẩm bảo hành không sửa chữa được -Về tăng cường tiêu thụ hàng hoá: Mục tiêu của bất kỳ các doanh nghiệp nào cũng là tối đa hoá lợi nhuận, do đó, tiêu thụ hàng hoá là vấn đề quan trọng hàng đầu. Để tạo ra được ngày càng nhiều thị phần của Công ty trên thị trường phải đầu tư nghiên cứu, phân tích các mặt hàng và thị trường tiêu thụ từ đó đề ra những chiến lược cho từng giai đoạn, từng thời kỳ phù hợp với những biến động của thị trường. Đồng thời, Công ty cũng phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo uy tín đối với khách hàng, từ đó giảm thiểu các khoản giảm giá do chất lượng hàng hoá kém, do sai quy cách, chủng loại và khoản hàng bán bị trả lại. Mặc dù kinh doanh là một trong những mảng hoạt động chính của doanh nghiệp, nhưng đơn vị không có bộ phận bán hàng riêng mà mọi hoạt động liên quan đến việc tìm kiếm khách hàng, ký kết các hợp đồng bán với khách hàng là do phòng thị trường đảm nhiệm, còn công việc tiêu thụ hàng hoá thì kế toán hàng hoá và bộ phận kho của Công ty tiến hành. Điều này sẽ hạn chế mạng lưới khách hàng của doanh nghiệp. Vì vậy, để thu hút ngày càng nhiều khách hàng và phục vụ họ ngày một tốt hơn, Công ty nên có Bộ phận bán hàng độc lập. Hơn nữa, thị trường tiêu thụ của Công ty mới chỉ giới hạn ở các tỉnh trong nước, chưa có xuất khẩu, trong khi những mặt hàng của Công ty có thể đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của nhiều nước khác nhau trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, để đảm bảo uy tín trên thị trường, Công ty phải duy trì tốt mối quan hệ với các khách hàng, đặc biệt là các khách hàng thường xuyên. Đối với những khách hàng mua với số lượng lớn, Công ty nên thực hiện chiết khấu thương mại trên giá trị lô hàng mua, còn đối với những khách hàng thanh toán trước thời hạn ghi trong hợp đồng đã ký kết, Công ty nên thực hiện chiết khấu thanh toán trên tổng số tiền hàng. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Nhận xét luận văn tốt nghiệp của giáo viên hướng dẫn Đề tài: Hoàn thiện kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Điện tử Sao Mai. Sinh viên: Nguyễn Thị Phương Quế Chuyên ngành: Kế toán tổng hợp Lớp: Kế toán 42C I-Nội dung: II-Điểm số: …….(Bằng chữ): ……. Hà Nội, ngày ….. tháng 06 năm 2004 Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Nhận xét luận văn tốt nghiệp của giáo viên phản biện Đề tài: Hoàn thiện kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Điện tử Sao Mai. Sinh viên: Nguyễn Thị Phương Quế Chuyên ngành: Kế toán tổng hợp Lớp: Kế toán 42C I-Nội dung: II-Điểm số: …….(Bằng chữ): ……. Hà Nội, ngày ….. tháng 06 năm 2004 Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Nhận xét luận văn tốt nghiệp của Đơn vị thực tập Đề tài: Hoàn thiện kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Điện Tử Sao Mai. Sinh viên: Nguyễn Thị Phương Quế Chuyên ngành: Kế toán tổng hợp Lớp: Kế toán 42C I-Nội dung: Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2004 Kế toán trưởng Mục lục Trang Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, với sự tồn tại của nhiều loại hình doanh nghiệp, cạnh tranh diễn ra quyết liệt hơn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế đang đứng trước những xu thế hội nhập khu vực, thế giới; trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, việc tìm ra hướng đi phù hợp với mỗi doanh nghiệp để tồn tại và phát triển là nhiệm vụ vô cùng khó khăn của các nhà quản trị doanh nghiệp. Kế toán là công cụ đắc lực, không thể thiếu cho các nhà quản trị doanh nghiệp. Thông qua việc thu thập, ghi chép, xử lý và cung cấp thông tin nó sẽ vẽ ra bức tranh toàn cảnh về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, các nhà quản lý điều hành, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh trong đơn vị mình để đưa ra những giải pháp, chiến lược kinh doanh phù hợp và đạt hiệu quả. Một trong những biện pháp giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là quá trình tiêu thụ hàng hoá. Có thể nói, xét trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tiêu thụ là điều kiện để tái sản xuất xã hội. Đó là một mắt xích không thể tách rời trong vòng tuần hoàn từ quá trình sản xuất-tiêu dùng-phân phối. Đảm bảo tiêu thụ hàng hoá là đảm bảo duy trì sự liên tục của hoạt động kinh tế, đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa các khâu của quá trình tái sản xuất. Không chỉ vậy, tiêu thụ hàng hoá còn có vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả kinh doanh. Kết quả tiêu thụ hàng hoá chiếm tỷ trọng không nhỏ trong kết quả kinh doanh, là cơ sở quyết định kết quả này cao hay thấp. Từ kết quả này là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết định về tiêu thụ hàng hoá. Nói cách khác, kết quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp còn tiêu thụ hàng hoá là phương tiện để thực hiện mục tiêu đó. Với điều kiện kinh doanh đầy khó khăn như hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra. Trong quá trình phát triển của mình, Công ty điện tử Sao Mai không những tồn tại mà còn ngày càng lớn mạnh, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Góp phần vào sự thành công đó, phải kể đến vai trò quan trọng của công tác kế toán hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá. Xuất phát từ lý luận kết hợp với tình hình thực tiễn về hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty, em nhận thấy đề tài: “Hoàn thiện kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Điện Tử Sao Mai” rất phù hợp với những nội dung em đã được học tại trường. Vì vậy, em đã chọn đề tài này làm đối tượng nghiên cứu của mình. Từ đặc điểm của đơn vị, Luận văn này chỉ xin đề cập đến: Tổ chức công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Văn phòng Công ty và hàng hoá chủ yếu là: Điện tử - Điện lạnh - Điện gia dụng. Hoàn thiện Luận văn này, em mong muốn sẽ làm sáng rõ thêm lý luận về kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá. Đồng thời, Luận văn này hy vọng đưa ra được một số kiến nghị hợp lý nhằm hoàn thiện những mặt còn tồn tại, hạn chế về kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Điện Tử Sao Mai. Bài Luận văn bao gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại - Chương 2: Thực trạng kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Điện Tử Sao Mai - Chương 3: Hoàn thiện kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại Công ty Điện Tử Sao Mai Kết luận Cùng với sự vận động, phát triển của nền kinh tế quốc dân, sự đổi mới của cơ chế quản lý kinh tế, Công ty điện tử Sao Mai đã được thành lập, phát triển ngày càng vững mạnh. Để có được sự thành công đó, trước tiên Công ty phải có bộ máy quản lý được tổ chức khoa học và linh hoạt để điều hành hoạt động của tất cả các phòng, ban sao cho có hiệu quả nhất. Trong đó, Phòng tài chính – kế toán là nơi lưu trữ tất cả các thông tin có liên quan về tình hình tài chính của Công ty, có trách nhiệm trong công việc quản lý, huy động và sử dụng vốn của Công ty,… Có thể nói, công tác kế toán nói chung, kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá nói riêng chính là công cụ quản lý tài chính góp phần đắc lực để Công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng được giao và đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Trong thời gian thực tập tại Công ty Điện tử Sao Mai, được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo: Trần Nam Thanh và các cô chú Phòng tài chính – kế toán của Công ty em đã hoàn thành đề tài nghiên cứu về kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá tại đơn vị. Luận văn với mục đích ban đầu là tìm hiểu về tổ chức công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá đã đề cập đến những vấn đề cơ bản liên quan đến lĩnh vực này, đồng thởi qua thực tế tại Công ty Điện tử Sao Mai với hoạt động kinh doanh thương mại là chính đã đưa ra một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện những mặt còn tồn tại, hạn chế về đề tài này. Với thời gian nghiên cứu ngắn ngủi và tầm hiểu biết còn hạn chế, chắc chắn bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp để Luận văn này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2004 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Phương Quế Danh mục tài liệu tham khảo PGS - TS. Nguyễn Văn Công: Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính – NXB thống kê, Hà Nội, 2001 PGS - TS. Nguyễn Thị Đông: Lý thuyết hạch toán kế toán – NXB tài chính, Hà Nội, 03/2002 PGS – TS. Đặng Thị Loan: Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp – NXBGD, Hà Nội, 2001 Bộ môn Kế toán quản trị và Phân tích kinh doanh, Khoa kế toán: Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh – NXB thống kê, Hà Nội, 2001 Vụ chế độ kế toán: Hệ thống kế toán doanh nghiệp – NXB tài chính, 1995 Tạp chí kế toán số 35 tháng 04 năm 2002 Tạp chí kế toán số 39 tháng 12 năm 2002 Tạp chí kế toán số 45 tháng 12 năm 2003 Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ tài chính Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ tài chính Thông tư số 89/2002/QĐ-BTC ngày 09/10/2002 của Bộ tài chính Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 của Bộ tài chính Thông tư số 82/2003/TT-BTC ngày 14/08/2003 của Bộ tài chính Thông tư số 105/2003/TT-BTC ngày 04/11/2003 của Bộ tài chính Tài liệu về tình hình chung của công ty và tài liệu kế toán của Công ty Điện tử Sao Mai ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33965.doc
Tài liệu liên quan