lời nói đầu
Một quốc gia được gọi là phát triển khi có nền kinh tế phát triển, trình độ khoa học tiên tiến, quốc phòng an ninh vững mạnh. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phát huy nội lực của nền sản xuất trong nước và tiếp thu những thành tựu KH-KT tiên tiến trên thế giới, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, để phù hợp điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta hiện nay, tập trung vốn đầu tư, tạo điều kiện cho c
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế toán cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Tây HN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác doanh nghiệp trong nước mở rộng và phát triển là cần thiết.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của quy luật khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,... Để có thể cạnh tranh được, các doanh nghiệp không những sử dụng hiệu quả nội lực của mình mà còn phải cải tiến máy móc, thiết bị, dây truyền công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất một cách hợp lý... Do vậy, đòi hỏi phải có một khối lượng vốn lớn nhiều khi vượt quá khả năng vốn tài chính của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn để đầu tư. Ngân hàng cấp tín dụng là đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng mang tính rủi ro cao nên thất thoát vốn của ngân hàng là lớn khi đến hạn thu gốc, thu lãi mà chưa thu hồi được. Để đảm bảo không xảy ra rủi ro, vấn đề đặt ra là phải theo dõi quá trình cho vay, thu nợ, thu lãi chặt chẽ, đây chính là công việc của kế toán cho vay trong ngân hàng. Đây là nghiệp vụ quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn của công tác kế toán tại ngân hàng.
Hiện nay, các ngân hàng đang từng bước hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ tín dụng nhằm tăng hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Xuất phát từ sự phát triển của nền kinh tế, hiện nay nước ta có rất nhiều các doanh nghiệp mới ra đời trong đó chiếm tỷ trọng lớn là các doanh nghiệp NQD (doanh nghiệp vừa và nhỏ). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước cũng đang có xu hướng cổ phần hoá. Trên địa bàn Hà Nội cũng có rất nhiều các doanh nghiệp NQD. Các doanh nghiệp này phần lớn mới được hình thành nhưng chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn, nếu được quan tâm đúng mức sẽ phát triển nhanh chóng. Đây là thị trường tín dụng vững chắc và rộng lớn của ngân hàng. NHTM với vai trò trung gian tài chính quan trọng của xã hội đã từng bước cải tổ hoạt động của mình, hoà nhập với cơ chế mới, mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế NQD thông qua hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, để thực hiện nghiệp vụ này thì phải tổ chức nghiệp vụ kế toán cho vay.
Qua việc ghi chép chính xác, đầy đủ, nhanh gọn của nghiệp vụ kế toán sẽ theo dõi việc sử dụng vốn và tính được hiệu quả công tác tín dụng để từ đó góp phần phát triển và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng thành phần kinh tế NQD nói riêng.
Là một sinh viên, qua quá trình học tập, nghiên cứu, tìm hiểu thực tế tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội tôi đã chọn đề tài: "Một số ý kiến về hoàn thiện kế toán cho vay nhằm góp phần phát triển và nâng cao chất lượng tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hà Nội".
Nội dung khoá luận gồm 3 chương:
chương I: "những lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng và nghiệp vụ kế toán cho vay trong hệ thống NHTM"
chương II: "Thực trạng kế toán cho vay và chất lượng tín dụng ngoài quốc doanh tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội"
Chương III: "Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế toán cho vay để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội"
Do thời gian thực tập có hạn, kiến thức thực tế chưa nhiều, trình độ lý luận và năng lực bản thân còn hạn chế do vậy bài viết của tôi không thể tránh những thiếu sót. Rất mong sự quan tâm và giúp đỡ của các thầy cô giáo, Ban lãnh đạo và cán bộ NHNo&PTNT Tây Hà Nội để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Phương Hảo.
chương i
những lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng và nghiệp vụ kế toán cho vay trong hệ thống NHTM
1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường :
1.1. Sự ra đời của tín dụng ngân hàng.
Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc Latinh "Credittum" có nghĩa là sự tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin.
Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Cơ sở khách quan của sự ra đời và phát triển quan hệ tín dụng là mâu thuẫn vốn có quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ trong xã hội, đó là: Cùng một lúc có chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa một khoản vốn tiền tệ trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần vốn, bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết thì quá trình sản xuất có thể bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn đang nằm im ở các chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả dẫn đến quá trình tái sản xuất không được tiến hành liên tục.
Hành vi tín dụng có thể diễn ra trực tiếp giữa người thừa vốn cần đầu tư với người cần vốn để sử dụng. Nhưng thực tế hai người này có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng vốn; hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm, bởi vậy, để thoả mãn được nhu cầu của cả hai người thì cần thiết phải có người thứ ba đứng ra tập trung tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, cần đầu tư kiếm lời để phân phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không ai khác chính là tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại - người môi giới tài chính trên thị trường tài chính. Việc các ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối vốn dưới hình thức cho vay được gọi là tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm thông qua vai trò trung gian của ngân hàng thực hiện đầu tư tiết kiệm vào các chủ thể đang cần vốn. Khác với hình thức tín dụng trực tiếp, nguồn vốn của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác nhau, do đó có thể thoả mãn nhu cầu vốn đa dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Vì nguồn vốn huy động có tính chất nhàn rỗi tạm thời nên tín dụng ngân hàng chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn. Sự tin tưởng đóng một vai trò quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của quan hệ tín dụng ngân hàng. Sự đổ bể của một khoản tín dụng không chỉ làm ảnh hưởng tới sự tồn tại của một ngân hàng mà có thể gây phản ứng dây truyền tới sự ổn định của toàn hệ thống vì chúng có mối quan hệ với nhau thông qua hệ thống thanh toán. Nguy hiểm hơn điều này điều này còn làm thiệt hại đến quyền lợi của người gửi tiền, gây ảnh hưởng không tốt đến sự ổn định xã hội. Vì thế yêu cầu đảm bảo an toàn cho mỗi khoản tín dụng ngân hàng là điều bắt buộc.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Sản xuất phát triển mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Song để cho quá trình sản xuất được mở rộng và ngày càng hoàn thiện phải nói đến vai trò của tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng phát huy vai trò trên các mặt:
- Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế, là người trung gian điều hoà quan hệ cung cầu về vốn góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục.
Do tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định trong nền kinh tế có một số doanh nghiệp "thừa vốn" tạm thời do bán hàng hoá có tiền nhưng chưa có nhu cầu sử dụng ngay đã làm nảy sinh nhu cầu cho vay vốn bằng cách gửi số tiền tạm thời nhàn rỗi đó vào ngân hàng để hưởng lãi.
Trong khi đó có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời do hàng hoá chưa bán được, nhưng lại có nhu cầu mua nguyên vật liệu, thanh toán tiền lương,... làm nảy sinh nhu cầu đi vay để duy trì sản xuất kinh doanh đem lại lợi nhuận.
Để giải quyết mâu thuẫn này, tín dụng ngân hàng đã đóng vai trò trung gian là nhận gửi tiền của doanh nghiệp tạm thời thừa vốn; đồng thời sử dụng số tiền đó để cho vay đối với doanh nghiệp thiếu vốn. Rõ ràng với hoạt động "đi vay để cho vay" tín dụng ngân hàng đã có tác dụng điều hoà vốn trong nền kinh tế để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh không ngừng phát triển.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập trung vốn để mở rộng đầu tư và phát triển.
Tập trung vốn phải dựa trên cơ sở tích luỹ. Trong thực tế, có những lượng tích luỹ rất lớn được nắm giữ ở các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Nhưng rất nhiều người tích luỹ không muốn cho vay trực tiếp hoặc không muốn có cổ phần trong dự án vì ngoài lý do mất khả năng thanh khoản thì người tích luỹ còn bị hạn chế bởi khả năng, kiến thức về tài chính và pháp lý để thực hiện trực tiếp đầu tư hoặc cho vay. Với hoạt động tín dụng có đủ tin cậy, do tính chuyên môn hóa cao trong hoạt động tín dụng và đa dạng hoá các danh mục đầu tư thông qua cho nhiều nhà đầu tư của nhiều dự án khác nhau vay, từ đó làm giảm bớt rủi ro cá nhân của những người tích luỹ, tạo nên quá trình tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả đã tạo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nhờ nguồn vốn tín dụng có thể nhanh chóng mở rộng sản xuất, thực hiện các dự án đầu tư tạo ra những bước nhảy vọt về năng lực sản xuất do tiếp cận được với thiết bị máy móc hiện đại, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả và củng cố chế độ hạch toán kinh tế.
Đặc trưng của tín dụng là cho vay có hoàn trả cho nên khi sử dụng vốn vay của ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong hợp đồng tín dụng. Đó là trả nợ vay đúng hạn cả gốc và lãi. Để tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn... tạo điều kiện nâng doanh lợi cho doanh nghiệp thì phải hạch toán kinh tế.
Quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý đồng vốn sao cho có hiệu quả. Để quản lý vốn có hiệu quả thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn đúng mục đích, tạo ra doanh lợi cao cho doanh nghiệp. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn nữa quá trình hạch toán của đơn vị mình.
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động tín dụng không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của một quốc gia mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế. Trong điều kiện kinh tế mở, vay nợ nước ngoài ngày nay trở thành một nhu cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết hơn đối với các nước đang phát triển. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác, là nước nghèo, tích luỹ trong nước còn hạn chế, trong khi cần lượng vốn rất lớn để phát triển kinh tế. Nhờ có tín dụng, các nước có thể mua hàng hoá, nhập khẩu máy móc, thiết bị,... và tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật mới, cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới. Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng và phát triển quan hệ ngoại thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế các nước nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế trực tiếp- một hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.
- Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy luân chuyển hàng hoá, luân chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông góp phần điều chỉnh, ổn định, kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư thường chỉ tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao, trong khi đó, nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành và các vùng, yêu cầu phải có những ngành then chốt, mũi nhọn để tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Tín dụng thông qua cung cấp vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn đầy đủ, kịp thời với lãi suất và điều kiện cho vay ưu đãi, có vai trò quan trọng trong việc góp phần đảm bảo vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, hình thành các ngành then chốt, mũi nhọn và các vùng kinh tế trọng điểm góp phần hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu. Chẳng hạn, với ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay vốn đối với nông nghiệp, nông thôn đã gúp cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn. Tín dụng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vì nước ta là một nước đi lên từ nghề lúa nước nông nghiệp lạc hậu.
Tín dụng còn là phương tiện để Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thích hợp (thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở) để ổn định nền kinh tế khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn(suy thoái, lạm phát,...). Qua quá trình cho vay khối lượng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi ngân hàng thu nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông giảm đi. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng (thu hút vốn và cho vay) sẽ làm tăng (giảm) khối lượng tiền tệ trong lưu thông từ đó sẽ góp phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh tế.
Thông qua công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng mà ngân hàng sử dụng để làm thay đổi lượng tiền vay, từ đó điều tiết được khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiểm soát được lạm phát. Bởi tín dụng ngân hàng khi điều tiết được khối lượng tiền tức là góp phần khống chế khối lượng tiền vừa đủ so với nhu cầu lưu thông hàng hoá nhờ đó mà kiểm soát được giá cả. Khi giá cả tăng nhanh ngân hàng thường tăng lãi suất cho vay để giảm khối lượng cho vay, giảm khối lượng tiền trong lưu thông đồng thời kiểm soát được lạm phát.
2. Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh :
2.1. Đặc điểm của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc thù riêng cụ thể:
Thứ nhất: ở nước ta hiện nay các thành phần kinh tế NQD hầu hết là các đơn vị trẻ, ngành nghề kinh doanh phong phú dễ tiếp nhận và nhạy bén với kỹ thuật mới. Do vậy nó cần phải được phát triển và giữ một vị trí quan trọng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta.
Thứ hai: Với thị trường lao động lớn, giá nhân công rẻ mạt, do vậy các thành phần kinh tế này rất có lợi thế về kinh nghiệm làm ăn, truyền thống sản xuất của người lao động, nó thừa hưởng thành quả và sự phù hợp với xu thế phát triển của các đơn vị kinh tế trên thế giới và chủ trương đổi mới cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Thứ ba: Theo xu thế mới mở rộng và phát triển các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp nhà nước đang tiến tới cổ phần hoá đã chuyển dịch một tỷ lệ đáng kể “chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực NQD sẽ tạo kênh dòng chảy các cán bộ quản lí giỏi, lao động kỹ thuật cao từ các doanh nghiệp nhà nước về các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Nó tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế này phát triển.
Thứ tư: Các thành phần kinh tế NQD mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Nhưng thành phần này mang tính chất “tự thân vận động”. Do vậy mục đích của nó là cạnh tranh có hiệu quả để đạt được lợi nhuận cao bằng mọi thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Các thành phần kinh tế NQD có tính sở hữu tư hữu, hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với người sản xuất, bộ máy quản lý gọn gàng, năng động.
Qua các đặc điểm của nền kinh tế NQD ta thấy nó rất phù hợp với sự phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Nếu nhà nước có chính sách và tạo môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển thì họ đóng góp một tỷ trọng đáng kể cho tăng trưởng GDP trong cả nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động góp phần giảm tệ nạn xã hội trong nền kinh tế.
2.2. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh:
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đổi mới đúng đắn các thành phần kinh tế NQD đã có chỗ đứng bình đẳng so với doanh nghiệp nhà nước. Vị trí quan trọng của nó đã được khẳng định trong cơ cấu phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nưóc ta hiện nay. Vai trò của nó được thể hiện ở các mặt cụ thể sau:
- Kinh tế NQD đã và đang đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, đa dạng phong phú, chất lượng cao. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD đã và đang có nhiều đóng góp đáng kể cho nền kinh tế đất nước, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá cho các địa phương trong cả nước, đồng thời còn là nguồn lực chính tạo ra sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước.
- Phát triển thành phần kinh tế NQD sẽ phát huy được mọi tiềm năng của các doanh nghiệp và tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. Bởi lẽ, nền kinh tế thị trường sẽ hoạt động có hiệu quả mang lại lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng và cho xã hội khi có cạnh tranh. Có cạnh tranh thì người sản xuất mới chú trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn để làm thế nào sản phẩm mình sản xuất ra được thị trường chấp nhận và tiêu thụ được.
- Kinh tế NQD tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu xã hội ngày càng tăng lên thì các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh luôn phải tăng cường mở rộng sản xuất kinh doanh để tăng thu nhập cho đơn vị và ngân sách Nhà nước.
- Kinh tế NQD đã và đang giải quyết một số vấn đề nan giải , đó là vấn đề về công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Từ đó ta thấy rằng: Sự phát triển của kinh tế NQD là một giải pháp hữu hiệu cho việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế NQD.
Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của kinh tế NQD cho thấy khu vực kinh tế này có một tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên để phát huy tính năng động trong kinh doanh, khai thác tối đa nguồn lực sẵn có trong khu vực kinh tế này Nhà nước cần hỗ trợ cho họ để tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh. Một giải pháp hữu hiệu nhất đó là đầu tư vốn hỗ trợ cho khu vực kinh tế này thông qua kênh tín dụng ngân hàng. Từ đó đã khẳng định vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo mục tiêu phát triển của đất nước.
Bất kì một đơn vị nào để tiến hành sản xuất kinh doanh được thì cũng cần phải có vốn, và cũng vậy đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh muốn thực hiện quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng cũng cần có một nguồn vốn đủ để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động và các chi phí khác. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức để cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị trường và để phân tán những rủi ro trong kinh doanh. Các thành phần kinh tế này phải huy động thêm từ bên ngoài, nguồn vốn quan trọng nhất để bổ sung vốn cố định và vốn lưu động cho các thành phần kinh tế NQD đó là nguồn vốn tín dụng từ các NHTM.
- Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế NQD nói riêng thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng KH-KT, cải tiến kỹ thuật để sản xuất ra nhiều hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án phát triển kinh tế đa thành phần, phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt được mục tiêu đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế NQD. Đặc biệt nguồn vốn tín dụng giúp cho các đơn vị có điều kiện thuận lợi mở rộng sản xuất kinh doanh để theo kịp hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
3. Các phương thức cho vay trong cơ chế tín dụng của tổ chức tín dụng.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức kinh tế, tư nhân, cá thể bao gồm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động cho các đơn vị, cá nhân vay để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Tín dụng trung, dài hạn nhằm cung cấp vốn đầu tư cơ bản hoặc cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh. Mỗi loại tín dụng có nội dung kinh tế, yêu cầu kỹ thuật nghiệp vụ riêng và nó được thực hiện thông qua các phương thức cho vay sau:
3.1. Phương thức cho vay từng lần.
Phương thức cho vay từng lần áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng, ngân hàng định kỳ hạn nợ cho mỗi món cho vay. Phương thức cho vay từng lần có những ưu, nhược điểm sau :
Ưu điểm: Linh hoạt trong quá trình sử dụng vốn của ngân hàng. Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, ngân hàng mới xem xét khả năng đáp ứng, do đó qua phương thức cho vay này ngân hàng kiểm chặt chẽ được từng món vay, tính toán được hiệu quả kinh tế của từng đối tượng cho vay, từ đó đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng.
Với phương pháp này ngân hàng có thể kế hoạch được nguồn vốn của mình bằng cách thông qua việc định kỳ hạn cho mỗi món vay, từ đó ngân hàng có kế hoạch cho các khoản vay tiếp theo một cách chính xácđể tránh tình trạng ứ đọng vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Nhược điểm: Thủ tục cho vay rườm rà, phức tạp gây khó khăn cho người vay. Nếu đối tượng vay vốn có vòng quay nhanh thì doanh nghiệp sẽ sử dụng vào nhiều mục đích mà ngân hàng không kiểm soát được nên dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau. Nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong kế hoạch về nguồn vốn.
3.2 Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Là cách thức cho vay bằng cách ngân hàng xác định cho khách hàng của mình một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định để làm căn cứ cho việc phát tiền vay. Ngân hàng không định kỳ hạn nợ cun thể cho từng lần giải ngân mà thu nợ theo kì hạn trả nợ trong kỳ (tháng, quý).
Phương thức này chỉ áp dụng đối với những khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định vay vốn trả nợ thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng. Trách nhiệm của kế toán phải theo dõi chặt chẽ dư nợ của tài khoản cho vay để dư nợ của tài khoản cho vay không vượt quá hạn mức tín dụng đã kí kết.
Ưu điểm: Thủ tục đơn giản, nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng. Khách hàng chỉ cần làm thủ tục vay vốn một lần, mỗi lần sau đơn vị vay này không cần phải làm thủ tục vay nữa mà chỉ càn gửi đến ngân hàng những chứng từ kế toán thích hợp như giấy nhận nợ tiền vay kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng để nhận tiền vay. Phương thức này thuận lợi cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và ngân hàng cũng có thể kiểm soát được các khoản thu nhập của khách hàng, từ đó biết được tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tương đối chính xác, đặc biệt là khả năng tài chính.
Nhược điểm: Do ngân hàng và khách hàng cùng thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định nên ngân hàng luôn phải duy trì một số vốn nhất định để sẵn sàng giải ngân cho người vay làm cho ngân hàng bị đọng vốn sử dụng, nếu khoản vay lớn có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn của ngân hàng bởi đó là những khoản vốn chết đã không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà ngân hàng còn phải trả lãi huy động cho những khoản vốn đó.
3.3. Phương thức cho vay theo dự án đầu tư.
Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các dự án đời sống.
-
Phương thức cho vay này áp dụng cho các trường hợp cho vay vốn trung và dài hạn.
+
Nguồn vốn huy động khác
Vốn tự có
-
=
Tổng nhu cầu vốn của dự án
Mức cho vay
3.4. Phương thức cho vay trả góp.
Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời kỳ cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay sau khi trả đủ nợ gốc và lãi.
3.5. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, phí phải trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
3.6. Cho vay qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số tiền vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. Khi cho vay, phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải tuân theo quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
3.7. Phương thức cho vay khác.
Các phương thức cho vay khác thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ như: Cho vay ưu đãi và cho vay đầu tư xây dựng theo kế hoạch Nhà nước, cho vay uỷ thác đầu tư, cho vay hợp vốn.
Việc áp dụng phương thức cho vay nào phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh nhu cầu về vốn cuả đối tượng cho vay. Trong giai đoạn hiện nay phần lớn các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng nước ta áp dụng hai phương thức cho vay chủ yếu đó là phương thức cho vay từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Do vậy trong phần kế toán cho vay cũng chỉ đề cập đến kế toán cho vay từng lần và kế toán cho vay theo hạn mức tín dụng.
4. Vai trò, nhịêm vụ của kế toán cho vay.
Kế toán ngân hàng là hệ thống thông tin phản ánh hoạt động của ngân hàng. Kế toán ngân hàng cung cấp những số liệu về huy động vốn, sử dụng vốn, thu nhập, chi phí, lợi nhuận của từng loại nghiệp vụ và của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Qua đó ta có thể thấy được ngân hàng hoạt động có hiệu quả hay không, đồng thời cũng thấy được triển vọng của ngân hàng để từ đó ra những quyết định kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lí tài sản.
Trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán ngân hàng thương mại thì kế toán cho vay được xác định là nghiệp vụ kế toán có vị trí, vai trò hết sức quan trọng vì kế toán cho vay là công việc ghi chép phản ánh toàn bộ số tiền ngân hàng cho vay, thu nợ đối với nền kinh tế. Thông qua đó hình thành các chỉ tiêu thông tin kế toán phục vụ chỉ đạo hoạt động tín dụng có hiệu quả và bảo vệ an toàn tài sản cho ngân hàng.
4.1. Vai trò của kế toán cho vay.
- Kế toán cho vay phục vụ cho tăng trưởng tín dụng ở mỗi ngân hàng: Thông qua việc ghi chép phản ánh các khoản cho vay, thu nợ, dư nợ, kế toán cung cấp các thông tin chính xác nhất, đầy đủ nhất về hoạt động tín dụng từ đó giúp cho lãnh đạo nắm được thực trạng tín dụng của đơn vị mình để có biện pháp chỉ đạo sao cho hoạt động tín dụng ngày một phát triển kể cả về số lượng và chất lượng.
- Kế toán cho vay góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và bảo vệ an toàn tài sản của ngân hàng: Thông tin kế toán cho vay đã phản ánh được khá chính xác về chất lượng tín dụng thể hiện tình hình nợ quá hạn và nợ khó đòi. Từ đó giúp cho những nhà quản trị ngân hàng nắm được thực chất tín dụng ở đơn vị mình để có biện pháp kịp thời và nâng cao chất lượng tín dụng. Mặt khác kế toán cho vay còn là công cụ quan trọng để bảo vệ an toàn toàn bộ số vốn ngân hàng cho nền kinh tế vay thể hiện ở quản lý an toàn hồ sơ cho vay. Theo dõi chặt chẽ chính xác số nợ thể hiện ở dư nợ tài khoản cho vay mà mỗi người vay nhận nợ với ngân hàng.
- Giúp các khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần tăng cường chế độ hạch toán kế toán ở các đơn vị, cá nhân vay vốn thông qua việc kiểm soát chặt chẽ chứng từ cho vay và khi giải ngân, theo dõi thu hồi nợ, thu lãi đầy đủ, kịp thời.
4.2. Nhiệm vụ.
Để phát huy vai trò của kế toán cho vay, kế toán cho vay có nhiệm vụ sau:
- Tổ chức ghi chép phản ảnh đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản cho vay, thu nợ, theo dõi dư nợ, qua đó hình thành thông tin kế toán phục vụ quản lý tín dụng. Bảo vệ an toàn vốn cho vay.
- Quản lý hồ sơ cho vay, theo dõi kỳ hạn nợ để thu hồi nợ đúng hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn khi người vay không đủ khả năng trả nợ đúng hạn.
- Tính và thu lãi cho vay chính xác, đầy đủ, kịp thời.
-Thông qua quản lý các tài khoản cho vay, đề xuất các giải pháp quản lý nợ của các khách hàng vay vốn ngân hàng.
5. Tóm lược quy trình kế toán phương thức cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng.
Như đã đề cập ở trên, hiện nay ở Việt Nam sử dụng nhiều phương thức cho vay khác nhau nhưng trong thực tế có 2 phương thức cho vay được sử dụng một cách phổ biến do vậy trong phần kế toán cho vay chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản của kế toán phương thức cho vay từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
5.1. Chứng từ và tài khoản sử dụng trong kế toán cho vay.
5.1.1. Chứng từ sử dụng.
Chứng từ dùng trong kế toán cho vay là những loại giấy tờ đảm bảo về mặt pháp lý các khoản cho vay của ngân hàng. Mọi sự tranh chấp về các khoản cho vay, trả nợ giữa ngân hàng và người vay đều phải giải quyết trên cơ sở các chứng từ cho vay hợp lệ, hợp pháp.
Chứng từ kế toán cho vay : Là những căn cứ quan trọng để tính toán và hạch toán toàn bộ số tiền vay và thu nợ của khách hàng. Bao gồm:
- Chứng từ gốc:
+ Đơn xin vay: Là chứng từ do khách hàng lập để xin vay vốn ngân hàng, trong đó trình bày rõ mục đích vay, số lượng vốn vay. Đây là căn cứ ban đầu để ngân hàng xem xét cho vay.
+ Hợp đồng tín dụng: Hợp đồng tín dụng thuộc hợp đồng kinh tế trong đó xác định trách nhiệm giữa người cho vay (ngân hàng) với người đi vay về khoản tiền vay theo chế độ tín dụng. Hợp đồng tín dụng là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp nếu có xảy ra giữa khách hàng và ngân hàng.
+ Giấy nhận nợ,…
Ngoài ra còn có các giấy cam kết thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh bằng tài sản cũng như là những chứng từ gốc về tài sản đảm bảo và là căn cứ để hạch toán tài khoản ngoại bảng.
Trong các chứng từ gốc thì hợp đồng tín dụng (còn được sử dụng dưới hình thức khế ước vay tiền, sổ cho vay)và giấy nhận nợ là giấy xác định trách nhiệm pháp lý về khoản nợ người vay nhận nợ với ngân hàng và phải hoàn trả trong phạm vi kỳ hạn nợ. Loại giấy tờ này cần được kế toán quản lý tuyệt đối an toàn.
- Chứng từ ghi sổ: Là những chứng từ dùng trong thanh toán như:
+ Nếu giải ngân bằng tiền mặt: Phiếu lĩnh tiền.
+ Nếu giải ngân bằng chuyển khoản: Dùng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiêm thu…
+Nếu ngân hàng chủ động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu nợ thì dùng phiếu chuyển khoản.
+ Nếu ngân hàng thu lãi hàng tháng theo phương pháp tích số thì dùng bảng kê số dư để tính tích số.
Các giấy tờ trong quan hệ tín dụng đòi hỏi ph._.ải có đầy đủ tính pháp lí được thể hiện trên các yếu tố của chứng từ kế toán cho vay như yếu tố xác định thẩm quyền chủ thể cho vay của ngân hàng, chỉ rõ người chịu trách nhiệm nhận nợ và cam kết trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng.
Cán bộ kế toán cho vay là người chịu trách nhiệm thực hiện công việc: Kiểm tra hồ sơ cho vay theo danh mục quy định; hướng dẫn khách hành mở tài khoản tiền vay; làm thủ tục phát tiền vay theo lệnh của giám đốc hoặc người được uỷ quyền; hạch toán nghiệp vụ cho vay, thu nợ, chuyển nợ quá hạn; lưu giữ hồ sơ theo quy định.
5.1.2. Tài khoản sử dụng.
Tài khoản cho vay:
- ứng với phương thức cho vay từng lần là TK cho vay thông thường.
- ứng với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng (tài khoản cho vay luân chuyển hay tài khoản vãng lai)
+ Tài khoản cho vay từng lần: Khi các đơn vị, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, tư nhân có nhu cầu vay vốn và được ngân hàng cho vay thì kế toán ngân hàng sẽ mở cho mỗi người vay một tài khoản cho vay thích hợp
Tài khoản cho vay từng lần kết cấu như sau:
Bên Nợ: - Ghi số tiền khách hàng vay (khi giải ngân).
Bên Có: - Ghi số tiền khách hàng trả nợ.
- Số tiền chuyển Nợ quá hạn.
Dư nợ : - Phản ánh số tiền người vay còn Nợ ngân hàng.
- Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết cho từng đối tượng.
+ Tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng
Tuỳ theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay theo hai tài khoản (Tài khoản cho vay theo hạn mức và tài khoản tiền gửi thanh toán ) hoặc cho vay theo một tài khoản - tài khoản vãng lai.
- Đối với khách hàng mở 2 tài khoản: Tài khoản cho vay theo hạn mức và tài khoản tiền gửi thanh toán.
Quá trình hạch toán cho vay, thu nợ được thực hiện trên tài khoản theo hạn mức với kết cấu
Bên Nợ: - Ghi số tiền ngân hàng cho vay theo hạn mức đã ký kết
Bên Có: - Ghi số tiền khách hàng trả nợ trên cơ sở tiền bán hàng hay các khoản thu nhập khác
Dư nợ: - Phản ánh số tiền khách hàng còn nợ ngân hàng (Dư nợ cao nhất bằng hạn mức tín dụng)
Trường hợp hết dư nợ mà khách hàng vẫn nộp tiếp các khoản thu của mình cho ngân hàng thì kế toán sẽ hạch toán vào TK tiền gửi thanh toán.
- Đối với khách hàng mở một tài khoản - tài khoản vãng lai: Quá trình hạch toán cho vay, thu nợ đều được thực hiện trên tài khoản này. Tài khoản này vừa mang tính chất tài khoản cho vay nếu nó dư nợ, vừa mang tính chất tài khoản tiền gửi thanh toán nếu nó dư có.
Kết cấu của tài khoản vãng lai:
Bên Nợ : Phản ánh toàn bộ số tiền chi trả của đơn vị vay bao gồm cả khoản chi thuộc đối tượng cho vay của ngân hàng cũng như các khoản chi trả không thuộc đối tượng vay của ngân hàng.
Bên Có : Phản ánh toàn bộ thu nhập của khách hàng vay.
Dư Nợ : Phản ánh số tiền khách hàng (đơn vị vay) nợ ngân hàng.
Dư Có : Phản ánh số tiền đơn vị gửi tại ngân hàng.
Tài khoản Nợ quá hạn.
Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và ngân hàng không phải bao giờ người vay cũng trả nợ ngân hàng đúng kỳ hạn. Trường hợp đến hạn trả người vay không đủ khả năng trả nợ và cũng không được ngân hàng cho gia hạn nợ thì số nợ đó phải chuyển sang tài khoản nợ quá hạn để theo dõi thu hồi với mức lãi suất cao hơn lãi suất cho vay bình thường.
Kết cấu của tài khoản Nợ quá hạn:
Bên Nợ : Ghi số tiền cho vay đã quá hạn từ tài khoản cho vay chuyển sang.
Bên Có : Ghi số tiền thu nợ quá hạn hoặc số nợ quá hạn được xử lý chuyển sang TK thích hợp hay ngoại bảng
Dư nợ : Thể hiện số nợ quá hạn chưa thu
Tài khoản ngoại bảng.
- Tài khoản "Lãi cho vay chưa thu được":
Kết cấu của tài khoản:
Bên Nhập ghi: Số tiền lãi chưa thu được.
Bên Xuất ghi: Số tiền lãi thu được.
Số còn lại: Số tiền lãi cho vay khi đến hạn chưa thu hồi được.
- Tài khoản "Nợ khó đòi chờ xử lý".
Kết cấu của tài khoản:
Bên Nhập ghi: Số tiền NKĐ được bù đắp nhưng đưa ra theo dõi ngoại bảng.
Bên Xuất ghi: - Số tiền thu hồi được của khách hàng.
- Số tiền nợ bị tổn thất đã hết thời hạn theo dõi.
Số còn lại: Phản ảnh số nợ được tổn thất được bù đắp nhưng vẫn tiếp tục theo dõi để thu hồi.
5.2. Quy trình kế toán cho vay từng lần.
5.2.1. Kế toán giai đoạn cho vay.
Khi các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vay vốn sẽ làm giấy đề nghị vay vốn gửi tới ngân hàng phục vụ mình để xin vay. Đây là căn cứ để ngân hàng xem xét, tính toán, quyết định cho vay và lập hợp động tín dụng. Hồ sơ vay sau khi giám đốc ngân hàng duyệt sẽ chuyển sang bộ phận kế toán cho vay để kiểm soát lại và hạch toán giải ngân. Bộ phận kế toán kiểm soát lại hồ sơ tín dụng và hướng dẫn khách hàng lập các chứng từ kế toán nhận tiền vay theo quy định.
Sau khi hoàn thành thủ tục giấy tờ cho vay theo đúng quy định, kế toán căn cứ vào chứng từ để giải ngân như: giấy lĩnh tiền mặt(nếu giải ngân bằng tiền mặt) hoặc uỷ nhiệm chi (nếu giải ngân bằng chuyển khoản), kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính.
Bút toán phản ảnh khi cho vay:
Nợ: TK Cho vay của người vay
Có: - TK Tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt).
- Hoặc TK Tiền gửi của người thụ hưởng (nếu cho vay bằng chuyển khoản thanh toán cùng ngân hàng).
- Hoặc TK Thanh toán vốn giữa các ngân hàng thích hợp (nếu cho vay chuyển khoản thanh toán khác ngân hàng).
Đối với những tài khoản cho vay có tài sản thế chấp, cầm cố thì căn cứ vào chứng từ pháp lý xác nhận giá trị tài sản thế chấp cầm cố để ghi Nhập tài khoản ngoại bảng 994"Tài sản thế chấp cầm cố của khách hàng".
5.2.2. Kế toán giai đoạn thu nợ và chuyển nợ quá hạn.
Kế toán giai đoạn thu nợ.
Cơ sở để kế toán thu hồi nợ các khoản vay từng lần là kỳ hạn nợ ghi trên hợp đồng tín dụng. Việc xác định kỳ hạn nợ của các khoản vay là trách nhiệm của nhân viên tín dụng, nhưng việc theo dõi kỳ hạn nợ để thu hồi nợ là trách nhiệm của nhân viên kế toán. Do vậy, nhân viên kế toán và nhân viên tín dụng phải phối hợp để theo dõi tình hình trả nợ của người vay theo đúng kỳ hạn đã định; hoặc xử lý chuyển nợ quá hạn nếu người vay không có khả năng trả nợ đúng hạn và không được gia hạn nợ.
Theo quy chế tín dụng, đến hạn trả nợ người vay phải chủ động nộp bằng tiền mặt hay trích tài khoản tiền gửi để trả nợ ngân hàng. Nếu người vay không chủ động trả nợ trong khi tài khoản tiền gửi của người vay có đủ tiền để trả nợ thì kế toán chủ động lập phiếu chuyển khoan trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu nợ.
Kế toán căn cứ giấy nộp tiền, uỷ nhiệm chi hoặc phiếu chuyển khoản để vào sổ chi tiết, hoặc nhập dữ liệu vào máy tính:
Nợ: - TK Tiền mặt (Nếu thu bằng tiền mặt)
- Hoặc TK Tiền gửi của người vay (Nếu thu nợ bằng chuyển khoản).
Có: TK Cho vay/ người vay.
Đối với những khoản vay có thế chấp, kế toán làm thủ tục để ghi Xuất tài khoản ngoại bảng 994 và trả lại các giấy tờ được nhận làm thế chấp tài sản cho người vay.
Kế toán chuyển Nợ quá hạn.
Đến hạn trả nợ nếu người vay không có khả năng trả nợ và cũng không được ngân hàng gia hạn nợ thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển sang tài khoản nợ quá hạn.
Nợ: TK Nợ quá hạn thích hợp.
Có: TK Cho vay của người vay.
Sau khi hạch toán chuyển nợ quá hạn kế toán cho vay phải phối hợp với tín dụng để theo dõi đôn đốc ngưòi vay trả nợ quá hạn; đồng thời áp dụng chế tài tín dụng (áp dụng lãi suất nợ quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất nợ cho vay thông thường).
Các chứng từ nợ quá hạn được lưu riêng trong hồ sơ nợ quá hạn của người vay.
Khi người vay trả nợ quá hạn:
Nợ: - TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt).
- Hoặc TK Tiền gửi của người vay.
Có: TK Nợ quá hạn thích hợp.
Trường hợp người vay không có khả năng trả nợ do kinh doanh thua lỗ hoặc bị phá sản thì ngân hàng có thể tạm giữ tài sản của người vay để "xiết nợ". Trường hợp này kế toán lập chứng từ để hạch toán số tài sản xiết nợ vào tài khoản ngoại bảng 995 "Tài sản xiết nợ chờ xử lý".
Ghi Nhập TK 995.
5.2.3. Kế toán thu lãi.
Tính thu lãi cho vay từng lần theo phương pháp tính lãi đơn. Tiền lãi thu một lần khi thu nợ gốc. Tuy nhiên, thực hiện nguyên tắc tính dồn, hàng tháng ngân hàng vẫn tính lãi để hạch toán vào tài khoản "Tiền lãi tính dồn dự thu", khi người vay trả nợ gốc và lãi sẽ tất toán tài khoản này.
Thời gian vay
Lãi suất cho vay
Số tiền vay
( gốc )
Công thức tính lãi:
x
= x
Hàng tháng kế toán tính lãi và hạch toán vào dự thu lãi:
Nợ: TK Tiền tính lãi dồn dự thu
Có: TK Thu nhập - thu lãi cho vay.
Khi khách hàng vay trả lãi, ngân hàng hạch toán:
Nợ: - TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt).
- Hoặc TK Tiền gửi (nếu trích từ TK tiền gửi của người vay).
Có: TK Tiền lãi cộng dồn dự thu.
Trường hợp số lãi phải thu đã hạch toán vào tài khoản "Tiền lãi tính dồn dự thu" đối với những khoản cho vay trong hạn nhưng người vay không thanh toán được đúng hạn ghi trong hợp đồngtd thì sau 90 ngày kể từ ngày đến hạn ghi trong hợp đồng tín dụng; hoặc chưa đến 90 ngày nhưng khoản vay đã chuyển sang nợ quá hạn, nợ khó đòi thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để ghi giảm thu toàn bộ số tiền lãi dự thu:
Nợ: TK Thu nhập - thu lãi cho vay.
Có: TK Tiền lãi cộng dồn dự thu.
Đồng thời hạch toán ngoại bảng:
Ghi Nhập: TK Lãi cho vay chưa thu được.
Sau khi hạch toán ngoại bảng kế toán phối hợp với nhân viên tín dụng đôn đốc người vay tiếp tục trả lãi ngân hàng. Khi người vay trả lãi hạch toán:
Nợ: - TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt).
- Hoặc TK Tiền gửi (nếu tính TK tiền gửi).
Có: TK thu lãi cho vay.
Đồng thời hạch toán ngoại bảng:
Ghi Xuất ngoại bảng: Lãi cho vay chưa thu được.
5.3. Quy trình kế toán cho vay theo hạn mức tín dụng.
5.3.1. Kế toán giai đoạn cho vay.
Hợp đồng tín dụng sau khi được ký kết để xác định hạn mức tín dụng và các điều kiện khác được chuyển cho kế toán để kiểm soát lại và theo dõi giải ngân.
Mỗi lần giải ngân để đáp ứng yêu cầu chi trả của người vay, người vay lập các chứng từ thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi gửi kế toán quản lý tài khoản cho vay của người vay.
Kế toán sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ và đối chiếu hạn mức tín dụng nếu đủ điều kiện thì kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy, ghi:
Nợ: TK Cho vay - TK vãng lai của người vay.
Có: - TK Tiền mặt (nếu chi trả bằng tiền mặt).
- Hoặc TK Thanh toán của người thụ hưởng (nếu chi trả bằng chuyển khoản).
5.3.2. Kế toán giai đoạn thu nợ và chuyển nợ quá hạn.
Trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng, việc trả nợ của khách hàng dựa trên cơ sở vòng quay vốn tín dụng hoặc khách hàng trả nợ theo từng tháng được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đơn vị vay phải nộp tiền bán hàng cũng như các khoản thu nhập khác vào bên có của tài khoản cho vay để trả nợ ngân hàng.
* Thu nợ gốc: Hạch toán thu nợ theo số tiền bán hàng của đơn vị nộp vào ngân hàng hàng ngày:
Nợ: - TK Tiền mặt (nếu thu bằng tiền mặt).
- Hoặc TK tiền gửi người chi trả (nếu thanh toán cùng ngân hàng).
- Hoặc TK thanh toán giữa các ngân hàng (nếu thanh toán khác NH).
Có: TK Cho vay theo hạn mức của người vay.
* Kế toán chuyển nợ quá hạn: Nếu hết tháng đơn vị vay không hoàn thành kế hoạch trả nợ và cũng không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở tháng kế tiếp thì kế toán chuyển số tiền còn nợ đó sang tài khoản nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn.
Nợ: TK Nợ quá hạn thích hợp.
Có: TK Cho vay- TK vãng lai của người vay.
Số tiền đơn vị còn nợ ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn từ thời điểm nào thì kế toán tính lãi suất nợ quá hạn tại thời điểm đó.
Khi người vay trả nợ quá hạn:
Nợ: - TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt).
- Hoặc TK Tiền gửi của người vay.
Có: TK Nợ quá hạn thích hợp.
5.3.3. Kế toán thu lãi.
Do không định kỳ hạn cụ thể cho từng món nên việc tính lãi và thu lãi TK cho vay được tính theo phương pháp tích số và thu hàng tháng. Việc tính và thu lãi được cố định vào một ngày nhất định trong tháng (thường là vào ngày cuối tháng).
Cách tính lãi:
Tiền lãi hàng tháng = x Lãi suất
= x
Hạch toán thu lãi, kế toán ghi:
Nợ: - TK Tiền mặt.
- Hoặc TK Tiền gửi của người chi trả.
Có: TK Thu nhập - thu lãi cho vay.
Trường hợp khách hàng chưa nộp đủ lãi khi đến hạn cho ngân hàng nhưng hạn mức tín dụng trong hợp đồng vẫn còn thì ngân hàng có thể tiếp tục hạch toán:
Nợ: TK Cho vay theo hạn mức.
Có: TK Thu nhập - thu lãi cho vay.
5.3.4. Quản lí hạn mức tín dụng.
Ngân hàng phát tiền vay theo các chứng từ thanh toán hợp lệ nhưng phải trong phạm vi hạn mức dư nợ cho vay trong kỳ đã được thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Hay nói cách khác, số tiền ngân hàng giải quyết cho vay từng lần được khống chế trong phạm vi hạn mức tín dụng còn lại, được xác định theo công thức:
Mức cho vay còn lại = Hạn mức tín dụng - dư nợ thực tế
Khi kết thúc hợp đồng tín dụng thì ngân hàng và khách hàng có thể tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng. Việc thanh lý hợp đồng tín dụng với nội dung chủ yếu là xem tình hình thực hiện kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp. Trước hết ngân hàng phải tính thời hạn cho vay thực tế để so sánh với thời hạn cho vay kế hoạch.
Nếu khách hàng thực hiện tốt kế hoạch trả nợ, dư nợ cuối kỳ là lành mạnh, đảm bảo khả năng trả nợ thì ngân hàng và khách hàng thoả thuận chuyển toàn bộ số nợ đó sang hạn mức tín dụng mới.
Nếu dư nợ không lành mạnh: Sử dụng vốn sai mục đích, nợ khó có khả năng thu hồi thì chuyển sang nợ quá hạn.
Chương ii
Thực trạng kế toán cho vay và chất lượng tín dụng ngoài quốc doanh tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội
1. Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội :
1.1. Một số nét về đặc điểm kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Thủ đô Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Hồng. Hà Nội tiếp giáp với 5 tỉnh: Thái Nguyên ở phía bắc; Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía đông; Vĩnh Phúc ở phía tây; Hà Tây ở phía nam. Diện tích tự nhiên toàn thành phố là 92.097 ha, dân số là hơn 3 triệu người. Hà Nội có vị trí địa lí, chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác trong cả nước. Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá, khoa học - kĩ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước.
Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng bậc nhất của nước ta. Từ thủ đô đi đến các thành phố, thị xã của vùng Bắc Bộ cũng như của cả nước bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không, và đường thủy cũng rất dễ dàng và thuận tiện. Đây chính là những yếu tố gắn bó chặt chẽ Thủ đô với các trung tâm khác trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi để Hà Nội tiếp nhận kịp thời các thông tin, thành tựu khoa học - kỹ thuật của thế giới, tham gia quá trình phân công lao động quốc tế, khu vực và hội nhập vào quá trình phát triển năng động của khu vực Đông á.
Trong năm 2003, kinh tế Thủ đô đạt kết quả khả quan, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn thành phố đạt mức tăng 11,1% so năm 2002. Nền kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển ổn định, nhìn chung các thành phần kinh tế trên địa bàn Thủ đô đang tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường. Một số ngành, mặt hàng đã tìm được chỗ đứng trong nước và trên thị trường thế giới đặc biệt là các mặt hàng may mặc, tiểu thủ công. Một số chính sách của Nhà nước và Thủ đô thông thoáng hơn đã có tác động tích cực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển.
Sự phát triển mạnh, ổn định của kinh tế Thủ đô trong những năm qua đã có tác động mạnh đến hoạt động của các ngân hàng đóng trên địa bàn trong đó có chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
1.2. Tổng quan về chi nhánh ngân hàng NN và PTNT Tây Hà Nội.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam gọi tắt là Ngân hàng nông nghiệp, viết tắt là NHNo Việt Nam được thành lập từ 26/3/1988 theo nghị định số 53/HĐBT để tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp là ngân hàng Nhà nước và ngân hàng chuyên doanh. Mục tiêu của NHNo Việt Nam là ngân hàng hoạt động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, giúp cho sự phát triển của khu vực này. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ta, NHNo đóng một vai trò quan trọng đó là phát triển khu vực nông nghiệp nông thôn cho phù hợp với sự hội nhập của đất nước tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. NHNo&PTNT Việt Nam đã và đang từng bước đổi mới và phát triển cho phù hợp với xu thế hội nhập thông qua mở rộng mạng lưới hoạt động. Xuất phát từ việc muốn mở rộng phạm vi hoạt động Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn - Chi nhánh Tây Hà Nội được thành lập dựa trên điều lệ và các quyết định:
- Căn cứ Điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam, ban hành kèm theo quyết định số 117/ QĐ/ HĐQT- NHNo, ngày 3/6/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam đã được Thống đốc Ngân hàng nhà nước chuẩn y tại Quyết định số 571/ 2002/ QĐ - NHNN ngày 5/6/2002.
-Căn cứ quyết định số 90/ QĐ/ NHNN ngày 7/2/2001 củaThống đốc NHNN quy định về việc mở, thành lập và chấm dứt hoạt động sở giao dịch, chi nhánh văn phòng, đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại.
- Căn cứ văn bản số 564/ NHNN ngày 28/5/2003 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc chấp thuận mở Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội - chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHNo&PTNT Vịêt Nam. NHNo&PTNT Tây Hà Nội được khai trương ngày 7/5/2003 và bắt đầu đi vào hoạt động ngày 21/7/2003 theo Quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 169/ QĐ/ HĐQT - 02 ngày 07 tháng 09 năm 2000 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam.
* Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Tây Hà Nội:
Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội có trụ sở giao dịch tại 115, phố Nguyễn Lương Bằng, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
Là chi nhánh mới thành lập, ngân hàng có 62 cán bộ trong đó có 2 người trình độ trên đại học 46 người trình độ cao đẳng và đại học. Hiện nay, chi nhánh có 80% cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Trong năm 2003, Chi nhánh đã triển khai 5 Phòng giao dịch:
- Phòng giao dịch Bùi Thị Xuân.
- Phòng giao dịch Nguyễn Du.
- Phòng giao dịch Hàng Trống.
- Phòng giao dịch Hoàng Văn Thái.
- Phòng giao dịch Hàng Lược.
Đến đầu quý I năm 2004, Chi nhánh triển khai thêm phòng giao dịch Trung Hoà - Nhân Chính với đội ngũ cán bộ trẻ, trình độ từ cao đẳng trở lên.
+ Hệ thống tổ chức của NHNo&PTNT Tây Hà Nội được thể hiện qua sơ đồ sau :
ban giám đốc
Phòng kế hoạch kinh doanh
phòng hành chính nhân sự
phòng thẩm định
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng kế toán , ngân quỹ
các phòng giao dịch
1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh.
Trong năm 2003, hoạt động Tiền tệ - Tín dụng nhìn chung ổn định, tuy nhiên việc biến động tỷ giá USD, lãi suất huy động vốn trong 7 tháng đầu năm, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ của các TCTD trên địa bàn nói chung.
Tuy mới khai trương và đi vào hoạt động từ 21/7/2003, nhưng với sự đoàn kết nhất trí từ Ban Giám đốc, BCH công đoàn và toàn thể cán bộ viên chức NHNo&PTNT Tây Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ của NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã xác định cho mình một hướng đi phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của ngân hàng. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc những khó khăn, khai thác những thuận lợi một cách có hiệu quả NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã đạt được những kết quả sau:
1.3.1. Công tác huy động vốn.
Khi nói đến hiệu quả kinh doanh của một Ngân hàng không chỉ nhìn trên kết quả của công tác tín dụng chỉ vì nó là hoạt động sinh lời chủ yếu mà còn phải xem xét đến chất lượng, quy mô của nguồn vốn huy động. Trong cơ chế thị trường, Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính dùng nguồn vốn huy động được để cho vay ra với mục tiêu hoạt động là lợi nhuận hay nói cách khác đi công tác huy động vốn và công tác sử dụng vốn là hai mặt của một vấn đề đó là kinh doanh tiền tệ. Chúng có quan hệ mật thiết, hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau, nguồn vốn huy động phải phù hợp với nhu cầu tín dụng. Có như vậy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mới thực sự có hiệu quả.
ý thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, ngay từ khi mới thành lập, NHNo&PTNT Tây Hà Nội rất quan tâm đến nghiệp vụ nguồn vốn mà chủ yếu là công tác huy động vốn. Ngân hàng thực hiện các quy chế dự trữ bắt buộc, quy chế đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đồng thời thường xuyên xây dựng kế hoạch và quản lí điều hành vốn kinh doanh của mình (hàng tháng, quý, năm).
Do ngân hàng mới đi vào hoạt động trong quý 3 năm 2003 nên trong quý 4 chi nhánh đã cố gắng chỉ đạo điều hành để thực hiện kế hoạch được giao. Cụ thể là:
Tuy mới thành lập vào tháng 7 nhưng đến cuối quý 3 ngân hàng đã đạt được tổng nguồn vốn là 433.406 triệu đồng và tính đến 31/12/2003, tổng nguồn vốn huy động là 852.093 triệu đồng, tăng 417.687 triệu đồng đạt 196% so với quý trước. So với kế hoạch, quý 4 đạt 130% kế hoạch (kế hoạch do Trung ương giao 656.000 triệu đồng kể cả ngoại tệ quy đổi).
Để biết một cách cụ thể hơn về sự biến động của nguồn vốn ta xem xét kết cấu nguồn vốn huy động của Ngân hàng qua số liệu bảng 1:
Bảng1: Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
T. hiện
30.09.03
T.hiện
31.12.03
T.hiện
11.03.04
Cơ cấu
So sánh +,- ,%
(+,-)
%
Tổng nguồn vốn
434,406
852,093
1,767,767
100%
915,674
207.5%
+ Nguồn nội tệ
360,557
600,331
1,439,931
81.5%
839,600
239.9%
+Ngoại tệ
127,849
251,762
327,836
18.5%
76,074
130.2%
Phân theo thành phần kinh tế
434,406
852,093
1,767,767
100%
915,674
207.5%
+Tiền gửi, tiền vay các TCTD
273,250
637,556
1,043,035
59.0%
405,479
163.6%
+ Tiền gửi các TCKT
27,674
52,076
44,762
2.5%
(7,314)
85.96%
+Tiền gửi dân cư
12,634
40,740
56,552
3.2%
15,812
138.8%
+ Nguồn vốn uỷ thác đầu tư
50,000
100,000
100,000
5.7%
0
100%
+ Huy động hộ Trung ương
20,848
21,721
523,418
29.6%
501,697
2409.7%
Phân theo thời gian huy động
434,406
852,093
1,767,767
100%
915,674
207.5%
+ TG không kỳ hạn
25,765
49,151
42,034
2.4%
(7,117)
85.5%
+ TG có kỳ hạn< 12 tháng
227,357
529,835
828,569
46.9%
298,734
156.4%
+ TG có kỳ hạn >= 12 tháng
110,436
153,132
273,746
15.5%
120,614
178.8%
+ Nguồn vốn uỷ thác đầu tư
50,000
100,000
100,000
5.7%
0
100%
+ P. hành các giấy tờ có giá
20,848
21,721
523,418
29.6%
501,697
2409.7%
(Nguồn: Các báo cáo giao ban của NHNo&PTNT Tây Hà Nội)
Nhìn vào bảng số liệu chúng ta thấy tính đến 31/12/2003, nguồn vốn huy động của ngân hàng có xu thế tăng. Tuy nhiên, trong tổng nguồn vốn huy động có 21.721 triệu đồng là trái phiếu huy động hộ trung ương. Như vậy, tổng nguồn vốn của chi nhánh sau khi loại trừ phần vốn này sẽ là 830.372 triệu đồng; tăng 416.814 triệu đồng với thời điểm đầu quý và đạt 119% so với kế hoạch. Tổng nguồn vốn tăng lên chủ yếu do nguồn tiền gửi TCTD.
Tổng nguồn vốn huy động đến 11/03/2004 đạt: 1.767.767 triệu đồng, so với 31/12/2003 tăng 915.674 triệu đồng tăng 207,5%.
+ Nguồn vốn của NHNo&PTNT Tây Hà Nội theo thành phần kinh tế được thể hiện thông qua bảng biểu sau:
Bảng 2: Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT
Tây Hà Nội theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
T. hiện
30.09.03
T.hiện
31.12.03
T.hiện
11.03.04
Cơ cấu
So sánh +, -, %
(+, -)
%
Phân theo thành phần kinh tế
434,406
852,093
1,767,767
100%
915,674
207.5%
+Tiền gửi, tiền vay các TCTD
273,250
637,556
1,043,035
59%
405,479
163.6%
+ Tiền gửi các TCKT
27,674
53,822
44,762
2.5%
(480,187)
8.5%
+Tiền gửi dân cư
12,634
40,740
56,552
3.2%
15,812
138.8%
+ Nguồn vốn uỷ thác đầu tư
50,000
100,000
100,000
5.7%
0
100%
+ Huy động hộ Trung ương
20,848
21,721
523,418
29.6%
502,570
2510.6%
(Nguồn: Các báo cáo giao ban của NHNo&PTNT Tây Hà Nội)
Qua bảng số liệu trên ta thấy nguồn vốn của ngân hàng tăng lên là từ tiền gửi, tiền vay của các TCTD khác và do huy động hộ Trung ương lớn. Nguồn vốn huy động hộ NHTW tăng 502.570 triệu đồng, về số tương đối đạt 2510,6%. Tiền gửi và tiền vay của các TCTD là 1.043.035 triệu đồng tăng so với cuối năm 2003 là 405.479 triệu đồng và tỷ lệ tăng là 63,3%. Nhưng ngược lại, nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế lại có xu hướng giảm xuống chỉ đạt được 85,96% so với quý trước do ngân hàng mới thành lập nên đa số các doanh nghiệp có uy tín đã quan hệ với các TCTD khác thời gian dài không muốn thay đổi nên chi nhánh gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tiền gửi cũng như tiền vay.
+ Nếu phân theo thời gian huy động vốn thì nguồn vốn của ngân hàng tăng lên là tiền gửi có kỳ hạn, đặc biệt là tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng. Tính đến 11/03/2004 tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 828.569 triệu đồng tăng 298.764 triệu đồng và tăng 56,4% so với 31/12/2003. Nguồn vốn huy động trên 12 tháng cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao đạt 273.746 triệu đồng và tăng lên là 78,7%. Trong khi đó tiền gửi không kỳ hạn tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội lại có giảm xuống rất nhiều chỉ đạt có 85,5% so với đầu quý.
Tuy nhiên, so với ngày đầu khi mới thành lập thì hiện nay, nguồn vốn kinh doanh của NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã tăng lên rất nhiều, từ đó tạo thế và lực vững chắc cho NHNo&PTNT Tây Hà Nội trong việc cung ứng vốn cho các nhu cầu phát triển kinh tế Thủ đô. Bên cạnh đó, chi nhánh đã tăng cường công tác tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, theo dõi mức lãi suất trên địa bàn để đưa ra mức lãi suất phù hợp, linh hoạt theo cơ chế lãi suất thoả thuận, khuyến mại tặng quà,... để thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư. Tiếp cận các đơn vị, tổ chức kinh tế mở tài khoản để thu hút nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi. Thường xuyên theo dõi các lãi suất các NHTM để điều chỉnh lãi suất huy động và lãi suất cho vay phù hợp.
1.3.2. Công tác sử dụng vốn.
Huy động vốn đã gặp không ít khó khăn nhưng việc sử dụng vốn sao cho hợp lý lại càng khó khăn hơn. Nhận thức vấn đề này một cách rõ ràng, Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên chi nhánh đã cố gắng sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất, tạo được lợi nhuận cao nhất, an toàn cao nhất.
Trên cơ sở thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động tại địa bàn nội thành Hà Nội, nhờ có nguồn vốn lớn, ổn định, NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã đầu tư mở rộng cho vay nhiều thành phần kinh tế. Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, Ngân hàng còn mở rộng cho vay với tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, cho vay các hộ sản xuất cá thể. Ngoài ra còn mở rộng các loại hình đầu tư khác như cho vay cán bộ công nhân viên,...
Bảng 3: Cơ cấu dư nợ tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện
31.12.03
Cơ
cấu
Thực hiện
11.03.04
Cơ
cấu
So sánh +,-,%
+,-
%
Tổng dư nợ
409,020
100%
499,302
100%
90,282
122.1%
+ Ngắn hạn
279,018
68.2%
248,282
49.7%
(30,736)
88.9%
+ Trung hạn
130,002
31.8%
250,320
50.1%
120,318
192.6%
+ Dài hạn
0
0
700
0.02%
700
(Nguồn: Các báo cáo giao ban của NHNo&PTNT Tây Hà Nội)
Để đánh giá một cách toàn diện công tác sử dụng vốn của Ngân hàng, ta xét đến chỉ tiêu tổng dư nợ. Tổng dư nợ tính đến ngày 31/12/2003 là 409.020 triệu đồng, đạt 280% kế hoạch năm. Trong đó:
+ Dư nợ nội tệ: 383,5 tỷ đồng.
+ Dư nợ ngoại tệ quy đổi: 25,52 tỷ đồng.
Xét về loại cho vay, Ngân hàng chủ yếu cho vay vốn ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của các thành phần kinh tế, thời hạn cho vay tối đa là 12 tháng, chiếm 62,8% tổng dư nợ cho vay. Đây cũng là một hạn chế không nhỏ của ngân hàng trong việc mở rộng đầu tư tín dụng và phần nào phản ánh về thực trạng tình hình nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Vốn kinh doanh chủ yếu là vốn huy động không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng trở xuống (ngắn hạn) cho nên ngân hàng chỉ đầu tư ngắn hạn.
Tuy nhiên, tính đến 11/03/2004 cơ cấu dư nợ của ngân hàng đã có sự thay đổi: Tổng dư nợ của ngân hàng đạt 499.302 triệu đồng. Nếu loại trừ cho vay bằng nguồn vốn của trung ương thì tổng dư nợ còn 299.302 triệu đồng đạt 61,7% so với kế hoạch, trong đó:
- Ngắn hạn: 248.282 triệu đồng, chiếm 49,7% so với tổng dư nợ.
- Trung hạn, dài hạn 251.020 triệu đồng, nếu loại trừ cho vay hộ Trung ương 200.000 triệu đồng thì dư nợ trung, dài hạn còn 51.020 triệu đồng, chiếm 10,2% tổng dư nợ.
Dư nợ của ngân hàng tăng lên là do dư nợ trung hạn và dài hạn tăng lên, đặc biệt là dư nợ trung hạn đạt 192,6%, trong khi đó dư nợ ngắn hạn có phần giảm xuống, chỉ đạt 88,9%.
Do mới thành lập nên kết cấu nguồn vốn vẫn chưa hợp lý, vốn dài hạn vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp, lãi suất đầu vào còn cao, không ổn định. Trong đó, ngân hàng chưa có khách hàng quan hệ tín dụng lâu. Mặt khác, loại cho vay trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cố định để hình thành nên các tài sản cố định của doanh nghiệp nên ngân hàng thực tế mới đầu tư tín dụng trung hạn chưa nhiều trong tổng dư nợ là phản ánh đúng thực trạng của ngân hàng cũng như hoạt động của nền kinh tế. Về phía ngân hàng, để mở rộng đầu tư tín dụng trung và dài hạn thì trước hết ngân hàng phải có nguồn vốn ổn định, có thời hạn dài. Muốn vậy thì ngân hàng phải huy động được nguồn vốn này từ phía dân cư, các tổ chức kinh tế. Nhưng trong thực tế, trước khi bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế, nền kinh tế nước ta trải qua một thời kỳ tiền tệ không ổn định, sức mua của đồng tiền không ngừng giảm thấp, điều này đã làm thiệt thòi rất lớn đối với người tích luỹ tiền tệ gửi vào ngân hàng. Do vậy, đến nay tâm lý của họ chỉ muốn gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn để đối phó kịp thời với những diễn biến không có lợi của nền kinh tế.
Về phía khách hàng, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng do vốn tự có của doanh nghiệp thấp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, nguồn kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước, nguồn tích luỹ từ kết quả kinh doanh không đáng kể cho nên vốn tự có rất hạn hẹp. Còn đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay thì cũng cần một lượng vốn rất lớn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Do vậy, vay vốn trung và dài hạn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới máy móc thiết bị đa dạng hoá sản phẩm thì các khách hàng phải chịu một khoản chi phí trả lãi tiền vay rất lớn, chi phí cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao không cạnh tranh được, dự án sản xuất của doanh nghiệp không có hiệu quả. Vì vậy, các khách hàng không thể._.nhánh không có nợ quá hạn.
+ Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp NQD nói riêng tại chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội được phản ánh qua một số chỉ tiêu cơ bản sau:
* Doanh số cho vay và doanh số thu nợ đối với các doanh nghiệp NQD.
Chi nhánh hiện nay có khoảng 20 doanh nghiệp NQD đang có quan hệ tín dụng và con số này trong tương lai còn tăng cao hơn nữa, tuy nhiên doanh số cho vay đối với các doanh nghiệp này lại không cao, chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng doanh số dư nợ của ngân hàng đạt 15% doanh số dư nợ của ngân hàng, vào khoảng 70 tỷ đồng tính đến 31/12/2003. Doanh số cho vay và thu nợ đối với các doanh nghiệp NQD sang năm 2004 đã có xu hướng tăng lên. Điều này chứng tỏ NHNo&PTNT Tây Hà Nội và các doanh nghiệp có quan hệ ngày càng được cải thiện.
* Hệ số sử dụng vốn vay
Hoạt động ngân hàng thường gồm hai mảng đó là huy động và cho vay. Trong tình trạng hiện nay, các NHTM đang tích cực thực hiện công tác huy động vốn, tình trạng thiếu vốn để cho vay không chỉ xuất hiện ở các doanh nghiệp mà trong các ngân hàng cũng vậy, việc huy động được nhiều hay ít, gồm những loại gì ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Hệ số sử dụng vốn vay là một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng, qua số tiền huy động được của chi nhánh đem cho vay :
Tổng dư nợ
Hệ số sử dụng vốn vay = --------------------------------------
Tổng nguồn vốn huy động
409.020
= ---------------
825.093
= 0,48
Như vậy, hệ số này cho ta biết rằng đến thời điểm ngày 31/12/2003, ngân hàng đã sử dụng được 48% khả năng huy động vốn. Đây là một nỗ lực rất lớn của Ban lãnh đạo và cán bộ trong ngân hàng.
4.1.2. Về kế toán cho vay.
Trong năm qua, được sự quan tâm của ban lãnh đạo cũng như sự cố gắng của cán bộ phòng kế toán ngân quỹ, công tác kế toán nói chung và kế toán cho vay nói riêng ở NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã đạt được kết quả khả quan.
Với mục tiêu củng cố nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô cho vay, ngân hàng đã thực hiện chuẩn hóa hệ thống các quy định về hoạt động cho vay bao gồm: Đơn giản hoá thủ tục cho vay, mở rộng đối tượng và đa dạng hoá ngành nghề cho vay,… Với phương châm tăng cường hiệu quả cho vay, phát triển hệ thống cho vay cả về chiều rộng lẫn chiều sâu vì lợi ích của khách hàng và vì lợi ích của chính mình, cán bộ phòng kế toán đã cố gắng làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, hạch toán chính xác trung thực, xử lý các giao dịch một cách nhanh chóng bằng phương pháp giao dịch mới: giao dịch một cửa, nhờ đó, phòng kế toán đã rút ngắn thời gian giao dịch, khắc phục được những phiền hà trước đây, tạo niềm tin cho khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng. Hầu hết các giao dịch cho vay cũng như việc theo dõi các khoản cho vay, thu nợ, thu lãi,…đã được kế toán xử lý đồng thời trên máy đem lại hiệu quả cao trong công việc.
Nghiệp vụ kế toán cho vay tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã thực hiện hầu hết trên máy tính và nối mạng trong toàn phòng kế toán để tiện cho việc theo dõi toàn bộ hoạt động kế toán giao dịch của ngân hàng và khách hàng.
Một trong những ưu điểm nổi bật nữa của bộ phận kế toán cho vay trong năm qua là sự phối hợp chặt chẽ với phòng tín dụng. Tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội hai bộ phận này luôn có mối quan hệ chặt chẽ trao đổi thông tin với nhau. Các nhân viên kế toán theo dõi các khoản cho vay luôn kịp thời cung cấp số liệu, tình hình thu nợ, thu lãi, cũng như kịp thời thông báo những tài khoản đến hạn trả nợ cho cán bộ tín dụng để đôn đốc khách hàng trả nợ ngân hàng. Do đó, sự phối hợp thường xuyên giữa cán bộ tín dụng và kế toán cho vay là rất quan trọng, đảm bảo được an toàn tài sản và tạo sự thuận lợi và nâng cao hoạt động tín dụng của ngân hàng.
4.2. Những tồn tại, hạn chế.
4.2.1. Về tín dụng.
- Mặc dù nguồn vốn tăng nhưng cơ cấu chưa hợp lý, phụ thuộc nhiều vào cơ chế lãi suất thị trường, công tác thông tin tuyên truyền, tiếp thị còn yếu.
- Việc đầu tư tín dụng chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của các doanh nghiệp và nền kinh tế Thủ đô.
- Đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn chế về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, kiến thức về Marketing Ngân hàng, trình độ không đồng đều, do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của Ngân hàng theo cơ chế thị trường.
- Việc cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp NQD vẫn còn thấp do việc cán bộ tín dụng ngân hàng chưa nắm bắt được đầy đủ các thông tin về các doanh nghiệp cũng như các văn bản pháp luật về hoạt động kinh doanh liên quan nên việc mở rộng tín dụng còn hạn chế.
4.2.2. Về kế toán cho vay.
Năng lực, trình độ của đội ngũ các bộ nói chung còn chưa đồng đều, một số cán bộ trình độ chuyên môn còn hạn chế.
Công tác kế toán, đặc biệt là kế toán cho vay còn phát sinh nhiều sai sót, lãi thu thừa, thiếu, việc chấp hành chế độ chứng từ vẫn còn sai lệch, số liệu cập nhật nhiều khi chưa kịp thời, việc vận hành máy vi tính mặc dù đã được đào tạo cơ bản, song một số cán bộ kế toán vẫn thao tác chưa thành thạo, xử lý đôi khi còn lúng túng.
4.3. Nguyên nhân.
Là chi nhánh mới thành lập, cơ sở vật chất, trụ sở của NHNo&PTNT Tây Hà Nội và các phòng giao dịch còn chật hẹp, chưa ổn định, không có tính lâu dài, chưa đáp ứng được yêu cầu của một ngân hàng hiện đại và hội nhập khu vực, quốc tế trong tương lai nên kém thu hút khách hàng. Đây là trở ngại lớn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
Năng lực của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ hiện nay vì đội ngũ cán bộ công nhân viên trong chi nhánh phần lớn được điều động từ các chi nhánh khác, tỉnh khác về và có 20 cán bộ mới từ Công ty vàng bạc chuyển sang, chưa có nghiệp vụ ngân hàng. Do vậy, trình độ của cán bộ trong NHNo&PTNT Tây Hà Nội không đồng nhất và chưa quen môi trường, thực tế,... việc tiếp cận thị trường gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, phong cách giao dịch chưa thật đổi mới, thao tác nghiệp vụ còn chậm dẫn đến khách hàng thường phải chờ lâu.
Sự phát triển của các thành phần kinh tế trên địa bàn chưa thực sự vững chắc, tình trạng gian lận trong kinh doanh vẫn diễn ra ở một số khách hàng, do đó, nguy cơ về sự đổ bể trong kinh doanh có thể xảy ra.
Luật pháp ban hành chưa đồng bộ còn nhiều bất cập. Một số văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề cầm cố, thế chấp tài sản qui định chưa đồng bộ nên quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc.
Việc quản lý, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cá nhân và các doanh nghiệp còn chậm, khách hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thế chấp cầm cố vay vốn ngân hàng,... dẫn đến Ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp.
Đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhà nước chưa có sự quan tâm đầu tư đúng mức, hiệu quả quản lý còn kém. Do đó chưa khuyến khích được bộ phận kinh tế này phát triển.
Do những nguyên nhân như thiên tai, dịch bệnh,… mà con người không chống đỡ được đã làm ảnh hưởng đến khách hàng.
Do môi trường kinh tế có những biến động về lãi suất, nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng đã gây khó khăn cho khách hàng, từ đó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập của khách hàng.
Các sản phẩm dịch vụ còn hạn chế do công nghệ, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, còn hạn chế trong hoạt động ngân hàng.
Chương iii
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế toán cho vay để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại NHno&PTNT Tây Hà Nội
1. Định hướng hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Tây Hà Nội trong những năm tới.
1.1. Định hướng chung.
- Đầu tư xây dựng cơ bản.
Cơ sở vật chất, trụ sở của NHNo&PTNT Tây Hà Nội và các phòng giao dịch còn chật hẹp đi thuê nên không ổn định. Trong những năm tới, ngân hàng xây dựng trụ sở chính thức để có chỗ làm việc và nơi giao dịch tiếp khách hàng khang trang hơn; đồng thời, mở rộng thêm các phòng giao dịch thuận lợi cho khách hàng khi đến giao dịch. Trang bị thêm máy móc, các công cụ lao động cho các phòng ban, tiếp cận các phương tiện giao dịch văn minh, hiện đại dần tiến đến mục tiêu hiện đại hoá ngành Ngân hàng.
- Vấn đề hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Về mặt công nghệ, ngân hàng phải là ngành tiên phong trong việc sử dụng mạng thông tin hiện đại. Đến nay, trên thế giới đã có ngân hàng dữ liệu, ngân hàng ảo mà giao dịch chủ yếu thông qua mạng Internet, nhưng ở Việt Nam ngoài một số chương trình hạch toán kế toán, chuyển tiền, tạo cân đối ra thì máy tính chỉ làm nhiệm vụ của một máy đánh chữ. Theo kế hoạch, ngân hàng sẽ đầu tư thêm hệ thống máy mới, lập chương trình quản lý dữ liệu, hồ sơ trên máy, thiết lập các modern nối mạng trực tiếp với ngân hàng, nghiên cứu và áp dụng các phương thức thanh toán mới.
- Vấn đề đào tạo – tổ chức cán bộ.
Con người là nhân tố cơ bản quyết định đến sự thành công hay thất bại của một Ngân hàng. Xác định được điều này ngay từ bước đầu, ban lãnh đạo đã rất chú trọng đến việc tập hợp và đào tạo đội ngũ cán bộ nắm vững nghiệp vụ chuyên môn, nhiệt tình, tâm huyết với nghề. Trong thời gian hoạt động vừa qua, NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã thường xuyên cử cán bộ tham gia các lớp học do Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước tổ chức, mở các lớp tự đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn. Sang năm 2004, về công tác đào tạo, ngân hàng tiếp tục đào và đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng với công nghệ hiện đại, phù hợp với sự phát triển và hội nhập của ngành nói chung và của NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói riêng.
1.2. Các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh.
Để tồn tại và phát triển trong năm 2004 và những năm sau, NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã xác định mục tiêu cho năm 2004 như sau:
- Tổng nguồn vốn là 1.400 tỷ đồng, tăng 65% so với năm 2003.
- Tổng dư nợ là700 tỷ, tăng 71% so với năm 2003.
- Nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ quá hạn.
- Phấn đấu chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra từ 0,3- 0,4%.
Để hoàn thành những nhiệm vụ trên, Ngân hàng đã đề ra những giải pháp cụ thể như sau:
- Tìm biện pháp khởi tăng nguồn vốn, tập trung huy động vốn từ dân cư chiếm khoảng 60% tổng nguồn vốn nhằm tạo thế ổn định lâu dài về nguồn vốn, đồng thời tích cực khai thác các nguồn vốn nội, ngoại tệ của các tổ chức kinh tế , xã hội, tín dụng trên địa bàn, lưu ý tăng cường huy động vốn dài hạn trên 12 tháng.
- áp dụng linh hoạt lãi suất huy động vốn và cho vay cả nội và ngoại tệ.
- Tập trung cho vay doanh nghiệp NQD, hộ sản xuất,... có tài sản thế chấp.
- Phục vụ tốt để thu hút khách hàng cả khách hàng gửi tiền và vay vốn, tích cực vận động khách hàng mới, song không vì cạnh tranh mà khách nào cũng đầu tư tín dụng mà phải có sự lựa chọn cẩn thận, phải điều tra kỹ lưỡng phương án thực sự có hiệu quả mới quyết định cho vay, không để các món nợ mới thành nợ đọng trừ các trường hợp bất khả kháng.
- Mở rộng các loại dịch vụ Ngân hàng nhất là chuyển tiền nhanh, kinh doanh mua bán ngoại tệ, bảo lãnh,...
- Triển khai mạnh cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên ở những đơn vị kinh doanh ổn định và có hiệu quả, phấn đấu đạt dư nợ cho vay tiêu dùng từ 10-15 tỷ đồng.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả công tác kế toán cho vay tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
Qua khảo sát thực tế công tác kế toán cho vay tại chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội tôi thấy bên cạnh những ưu điểm còn có những tồn tại cần khắc phục. Sau đây tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả công tác kế toán cho vay tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
2.1. Thực hiện đôn đốc thu nợ và thu lãi đối với từng khoản tiền vay.
Trên cơ sở kết quả công tác kiểm tra quản lí tín dụng, NHNo&PTNT Tây Hà Nội cần tiến hành phân loại chất lượng từng khoản vay để từ đó có biện pháp thu nợ và thu lãi cho phù hợp, cụ thể:
- Đối với các khoản vay có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng thu hồi vốn vay đúng hạn thì chỉ chú ý đôn đốc việc trả nợ khi thời điểm đáo hạn sắp đến.
- Đối với các khoản nợ vay có dấu hiệu bị "đe doạ" không được hoàn trả đúng hạn do những khó khăn phát sinh từ điều kiện khách quan đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì cần có những biện pháp điều chỉnh tình huống kịp thời để đảm bảo khả năng thu hồi được nợ, tránh nợ quá hạn phát sinh.
Để thực hiện được các nội dung trên nên có các biện pháp cụ thể như:
+ Cán bộ ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho doanh ngiệp về các vấn đề bán sản phẩm để trả nợ, tiếp tục sản xuất kinh doanh,... hoặc mời chuyên gia về tư vấn cho doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hồi và bảo toàn vốn đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn.
+ Giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp bằng cách đề ra các biện pháp thu hồi các hoá đơn chậm trả giúp doanh nghiệp, giúp họ thanh toán hàng tồn kho hoặc giảm bớt dự trữ quá mức hoặc sử dụng để vay tín chấp, vay cầm cố.
+ Sắp xếp, cơ cấu lại khoản nợ cho người vay bằng cách kéo dài kỳ hạn nợ, rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian nếu có thể được.
+ Gia tăng khối lượng của khoản vay đối với các điều kiện do ngân hàng ấn định thêm nếu như thấy được khả năng người vay sẽ phục hồi được sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác" lấy nợ nuôi nợ" với điều kiện phương án kinh doanh hay thương vụ đó doanh nghiệp phải được thẩm định chắc chắn, có khả thi và doanh nghiệp phải hoàn toàn thiện chí trong việc trả nợ ngân hàng.
- Đối với các khách hàng có sự vi phạm hợp đồng tín dụng một cách nghiêm trọng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản trong kinh doanh dẫn đến khả năng thu hồi nợ vay khó khăn, Ngân hàng nên tìm cách để thu nợ ngay cả trong trường hợp khoản vay chưa đến thời điểm đáo hạn theo quy định.
2.2. Đa dạng hoá các phương thức cho vay.
Ngân hàng nên xem xét và bổ sung thêm về phương thức cho vay. Ngoài phương thức cho vay từng lần như hiện nay đang áp dụng phổ biến, ngân hàng nên mở rộng thêm phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với những khách hàng có giao dịch thường xuyên, có uy tín với ngân hàng. Phương thức này cho vay trên tài khoản vãng lai (Tài khoản này có thể dư nợ hoặc dư có). Điều này sẽ tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc vay vốn, khách hàng mỗi lần vay vốn sẽ không phải làm lại các thủ tục, giấy tờ như lần vay đầu tiên giống như trong cho vay từng lần và ngân hàng cũng giảm nhẹ hơn công việc lưu giữ và quản lí các loại giấy tờ, hồ sơ vay vốn.
"Thấu chi là hình thức cho vay mà trong đó ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền vượt quá số dư tiền gửi của khách hàng trên tài khoản vãng lai tại ngân hàng với một số lượng( hạn mức) nhất định"
Với kỹ thuật này, khách hàng được mở tài khoản vãng lai để sử dụng kết số thiếu khi có nhu cầu và nộp vào tài khoản này các khoản thu bằng tiền
Nội dung kết cấu của tài khoản vãng lai như sau:
Bên nợ: - Các khoản chi của khách hàng
Bên có: - Tiền bán hàng
- Thu khác
Dư nợ: - Số tiền khách hàng vay
Dư có: - Số tiền khách hàng gửi tại ngân hàng
Thấu chi là kỹ thuật cấp tín dụng giúp cho khách hàng sử dụng vốn chủ động và tiện lợi, nhất là đối với những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín đối với ngân hàng. Về phía ngân hàng cũng rất thuận lợi vì thông qua tài khoản vãng lai của khách hàng thì ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng tránh rủi ro xảy đến với ngân hàng.
2.3. Phạt chậm trả đối với khoản “lãi chưa thu”.
Hiện nay, tình trạng lãi chưa thu xảy ra khá phổ biến tại các Ngân hàng thương mại, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước, lãi này chiếm tỉ lệ cao từ đó ít nhiều ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.
Để thực hiện nhanh hơn và tốt hơn nữa trong quá trình thu nợ, thu lãi cho ngân hàng, hạn chế thiệt hại, ngân hàng nên áp dụng kỷ luật phạt đối với những khoản lãi tiền vay mà khách hàng không trả cho Ngân hàng đúng quy định như sau:
Khoản "lãi chưa thu" được coi như một khoản nợ mới phát sinh, đây là khoản khách hàng đã cam kết trong hợp đồng tín dụng là trả mà chưa trả được, do vậy cần phải áp dụng một tỉ lệ phạt thích hợp đối với khoản này.
Việc tính phạt khoản "lãi chưa thu"sẽ có tác dụng thúc đẩy khách hàng nhanh chóng trả lãi cho ngân hàng đúng thời hạn bởi nếu khách hàng càng chậm chễ trong việc trả lãi thì khoản phạt đó càng có xu hướng tăng. Đây là biện pháp nhằm đôn đốc khách hàng phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng trong quá trình quan hệ tín dụng và góp phần làm giảm thiệt hại cho ngân hàng.
Về tỉ lệ phạt, áp dụng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn ở thời điểm có phát sinh lãi chưa thu.
Thời gian phạt: Tính từ ngày ghi nhập vào TK ngoại bảng " lãi chưa thu" đến khi người vay hoàn trả lãi.
Ví dụ:
- Số lãi ghi nhập tài khoản ngoại bảng " lãi chưa thu" 5 triệu đồng.
- Ngày ghi nhập tài khoản ngoại bảng: 5/12/2003
- Ngày người vay trả lãi: 30/12/2003
- Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn: 0,3%/tháng.
Như vậy số tiền phạt là:
12.500đ
=
5.000.000 ´ 0,3% ´ 25 ngày
30 ngày
Sau khi tính toán xong sẽ hạch toán:
Xuất TK ngoại bảng 94 "Lãi chưa thu" : 5.000.000
Nợ : TK Tiền mặt tại quỹ : 5.012.500
hoặc Nợ: TK tiền gửi của khách hàng : 5.012.500
Có: TK thu nhập của Ngân hàng : 5.012.500
TK thu lãi cho vay : 5.000.000
TK thu khác : 12.500
2.4. Vấn đề trả nợ gốc trước hạn đối với cho vay từng lần.
Cân đối vốn và sử dụng vốn chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng, bất kể một yếu tố nào xảy ra có ảnh hưởng đến nguồn vốn đều có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội việc khách hàng trả nợ trước hạn ít nhiều có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của chi nhánh. Mà vấn đề này trong các văn bản chế độ của NHNN cũng như từng hệ thống Ngân hàng không có quy định cụ thể nào về cách xử lý nên nó không được thống kê trên các sổ sách thích hợp.
Việc phát sinh trả nợ trước hạn sẽ làm tăng nguồn vốn của Ngân hàng ngoài dự kiến, nếu Ngân hàng cho vay ra ngay thì đó là điều kiện rất thuận lợi nhưng nếu gặp lúc nhu cầu xin vay của khách hàng giảm thì lúc này NHNo&PTNT Tây Hà Nội gặp khó khăn.
Khoản vốn này trong thời gian tồn ở quỹ vẫn mất một khoản lãi suất huy động mà việc cho vay ngay là không thể thực hiện được. Ngân hàng còn phải tiến hành thẩm định khách hàng trước khi cho vay. Vì thế trong khoảng thời gian này ngân hàng không có thu nhập nhưng vẫn phải mất chi phí.
x
Số ngày còn lại
của HĐTD
x
Tỷ lệ phí trả trước hạn
Số tiền trả trước hạn
Như vậy việc trả nợ trước hạn có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Để hạn chế phần nào những tổn thất đó ngoài khâu đánh giá kiểm tra một cách chặt chẽ vòng quay của từng món vay. Theo em nên áp dụng một tỷ lệ phí trả trước hạn trên tổng số nợ trước hạn của khách hàng để giảm bớt những thiệt hại. Ngoài việc kế toán cho vay hạch toán thu nợ, thu lãi bình thường NHNo&PTNT Tây Hà Nội cần thu phí trả trước hạn.
Số tiền phạt =
Việc áp dụng tỷ lệ phí ngoài mục đích làm giảm bớt thiệt hại cho Ngân hàng còn làm cho khách hàng phải có trách nhiệm trong việc tính toán nhu cầu vay vốn, từ đó tính toán mức vay và thời gian vay cần thiết và lập kế hoạch sử dụng vốn vay của mình một cách chính xác.
2.5. Hoàn thiện việc áp dụng tin học trong kế toán cho vay.
Ngân hàng là một ngành kinh tế mũi nhọn mà hoạt động của nó có tác động lớn đến các ngành kinh tế khác.
Ngân hàng phục vụ cho một khối lượng khách hàng đông đảo mà những yêu cầu về dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải tuyệt đối chính xác, nhanh chóng và thuận tiện. Do đó, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đang là vấn đề cần giải quyết cấp bách không chỉ đối với NHNo&PTNT Tây Hà Nội mà còn đối với tất cả các ngân hàng khác đặc biệt là các NHTM. Thông qua hiện đại hoá công nghệ, ngân hàng sẽ làm giảm bớt những công việc thủ công hiện nay còn đang thực hiện nhất là trong lĩnh vực kế toán, góp phần giảm nhẹ công việc cho từng nhân viên ngân hàng, đảm bảo nghiệp vụ thực hiện một cách chính xác, kịp thời, nhanh chóng, giải phóng một lượng khách hàng lớn thường xuyên phải chờ đợi ở quầy giao dịch, tạo điều kiện an toàn, thuận lợi cho khách hàng.
Mặc dù vậy, tin học ứng dụng trong các nghiệp vụ kế toán hiện nay tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội vẫn chưa được hoàn hảo, nhất là đối với kế toán cho vay, thu nợ, điều này đã gây ra một số trở ngại cho kế toán trong việc sử lý nghiệp vụ kỹ thuật hàng ngày và theo dõi thời gian trả nợ, trả lãi và công việc tính lãi của từng món vay.
Từ tồn tại trên, chi nhánh nên áp dụng thực hiện một số giải pháp như sau:
Đưa vào chương trình máy tính ngày trả nợ gốc và mức trả nợ mỗi lần đối với từng khách hàng. Việc thực hiện theo dõi trả lãi và trả nợ gốc sẽ được kế toán cho vay trực tiếp thực hiện, kế toán cho vay in ra hai bản (một bản đưa cho các cán bộ tín dụng danh sách các món tiền đến hạn trong tháng và gần đến hạn trả nợ ví dụ trong vòng khoảng 10 ngày gọi là gần đến hạn). Đối chiếu sao kê cuối tháng nội, ngoại bảng, dư nợ, lãi chưa thu được, tài sản thế chấp cầm cố. Đưa ra báo cáo tín dụng về cho vay, thu nợ và dư nợ.
Thực hiện được công việc trên sẽ đem lại cho Ngân hàng rất nhiều mặt lợi như:
- Thứ nhất, các món gần đến hạn sẽ được thông báo kịp thời cho khách hàng biết trước trong thời gian cần thiết vì cán bộ tín dụng được thông báo từ cuối tháng nên họ có thể bố chí công việc trước sao cho có hiệu quả nhất.
- Thứ hai, thay vì tìm trên các bảng sao kê khế ước, kế toán cho vay chỉ việc tìm thông tin qua bảng danh sách đó là có thể lấy ngay một cách chính xác, kịp thời các món đến hạn. Cuối tháng, thông qua bảng danh sách kế toán cho vay có thể biết tất cả những thông tin về kì hạn nợ, mức trả nợ của từng món vay của mỗi khách hàng trong tháng sau.
Cuối cùng, việc áp dụng chương trình này vào nghiệp vụ kế toán cho vay còn thuận tiện cho việc kiểm tra trong bất cứ thời gian nào khi thấy cần thiết. Hơn nữa, việc thông báo trước cho khách hàng biết số tiền sắp phải trả và ngày trả cho ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng hạn chế việc sử dụng vốn vào vòng quay tiếp theo.
Việc áp dụng tin học vào kế toán cho vay sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động công tác kế toán cho vay tại Ngân hàng.
2.6. Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, hình ảnh của ngân hàng là một yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định phần nào đến sự thành bại của Ngân hàng. Vì vậy, việc nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân viên trong ngân hàng không những giúp cho các mặt hoạt động của Ngân hàng được tiến hàng một cách trôi chảy, có hiệu quả mà còn tạo nên một hình ảnh tốt đẹp trong từng Ngân hàng. Nhờ đó, khách hàng có thể yên tâm giao dịch, thanh toán với Ngân hàng nhiều hơn và góp phần thúc đẩy các mặt hoạt động của Ngân hàng phát triển. Để tạo lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng thì NHNo&PTNT Tây Hà Nội còn có nhiều việc phải làm, trong đó, có việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ kế toán cho vay nói riêng.
Cán bộ phòng kế toán NHNo&PTNT Tây Hà Nội hầu hết đã được bồi dưỡng nghiệp vụ sử dụng máy tính để phục vụ giao dịch trực tiếp với khách hàng nhưng mới chỉ biết vận hành và chạy máy trong các chương trình giao dịch. Do vậy, đào tạo thêm một số cán bộ tin học hiểu biết về máy tính và có thể tự sửa chữa khi hỏng hóc tránh tốn kém về chi phí ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng là cần thiết.
Trong sự phát triển của nền kinh tế thủ đô, kinh tế NQD ngày càng đóng vai trò quan trọng. Trong định hướng phát triển của NHNo&PTNT Tây Hà Nội, đây là thị trường tiềm năng của chi nhánh trong thời gian tới.
Xuất phát từ những đặc điểm, thành quả đạt được cũng như những khó khăn, hạn chế của NHNo&PTNT Tây Hà Nội, những giải pháp được đề cập trong khoá luận là những hướng khắc phục những hạn chế, đồng thời phát huy những thế mạnh của chi nhánh. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả công tác kế toán cho vay để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
3. Một số kiến nghị để thực hiện các giải pháp.
3.1. Kiến nghị với nhà nước.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, Nhà nước cần tạo dựng môi trường pháp lý, là cơ sở hỗ trợ cho quá trình phát triển hoạt động tài chính tiền tệ nói chung và kế toán nói riêng. Cụ thể, Chính phủ giao cho Bộ tài chính tổ chức tổng kết đánh giá thực trạng công tác kế toán trên cả hai góc độ: Các văn bản pháp quy về kế toán (gồm các chế độ, thông tư hướng dẫn, các quy định, thể lệ về kế toán) và thựchiện các văn bản pháp quy này ở các doanh nghiệp. Trên cơ sở thấy rõ ưu điểm và những tồn tại trong quá trình thực hiện.
Môi trường pháp lý vừa phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế và định hướng Xã hội Chủ nghĩa vừa đảm bảo các nguyên tắc hội nhập quốc tế, các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về kế toán. Đó là tiếp nhận, hoàn thiện các văn bản pháp lý đã ban hành, đặc biệt là các hệ thống tài khoản kế toán, rà soát lại các văn bản hướng dẫn, chỗ nào không còn phù hợp phải loại bỏ, bổ sung những điểm mới, những quy định mới phù hợp với cơ chế quản lý mới và chuẩn mực, nguyên tắc chung được thừa nhận nhanh chóng, ban hành luật kế toán và công bố đầy đủ các chuẩn mực kế toán tạo ra môi trường hoạt động và kiểm soát các hoạt động kế toán.
Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra cá mặt hoạt động của Ngân hàng, ngăn chặn xử lý kịp thời những sai phạm.
3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước.
Phát triển nhiều thành phần kinh tế theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng là một nhiệm vụ đối với hệ thống ngân hàng. Các doanh nghiệp NQD đang và sẽ là đối tượng của ngân hàng phục vụ trong hiện tại và tương lai nên việc tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp NQD là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cho đến nay, việc thực hiện cho vay với các doanh nghiệp NQD vẫn chưa có một quy chế cụ thể, do đó, các ngân hàng gặp khó khăn khi cấp các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp này. Kèm theo những quy chế về tín dụng thì cũng cần phải có quy trình kế toán cho vay những khoản đó. Ngân hàng Nhà Nước nên có một quy chế cụ thể hướng dẫn và chỉ đạo việc thực hiện cấp tín dụng cho các doanh nghiệp NQD để giúp các ngân hàng thực hiện đúng vai trò là một trung gian tài chính trong nền kinh tế. Đưa ra những cơ chế, biện pháp tín dụng và các phương pháp kế toán cho vay phù hợp với môi doanh nghiệp, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý,... Kèm với những thông tư hướng dẫn phương pháp hạch toán nhằm tăng cường hiệu quả tác kế toán cho vay trong toàn hệ thống ngân hàng
3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam.
NHNo & PTNT Việt Nam sớm hoàn thiện phần mềm chương trình giao dịch góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh với các ngân hàng khác.
NHNo & PTNT Việt Nam nghiên cứu chỉnh sửa một số mẫu biểu hồ sơ cho vay có đảm bảo để hạn chế số lượng các mẫu biểu có thể lồng ghép cùng với hồ sơ vay vốn.
3.4. Kiến nghị với NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
Ngân hàng cần tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ hiện có về mọi mặt, đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ. Tạo điều kiện cho các cán bộ đi học các lớp đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ phù hợp với khả năng, trên cơ sở đó phát huy sở trường của từng cán bộ. Phấn đấu trong thời gian gần nhất, ngân hàng có đội ngũ cán bộ có đủ tâm và đủ tầm đáp ứng mọi yêu cầu hoạt động của cơ chế mới.
Cần phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa với các cấp chính quyền quận, phường để có được các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất trong việc xét cho vay theo tài sản thế chấp đối với khách hàng được tiến hành nhanh chóng, tạo điều kiện cho khách hàng đến xin vay không phải đi lại nhiều lần, thủ tục xin vay được giải quyết nhanh từ đó sẽ mở rộng được khách hàng đến vay vốn.
Thực hiện tốt chính sách khách hàng, đặc biệt là chính sách lãi suất phải được điều chỉnh kịp thời phù hợp với lãi suất thị trường. Nhìn chung, chính sách lãi suất phải linh hoạt giúp cho việc khách hàng đến giao dịch ngày càng nhiều.
Thường xuyên chỉ đạo bộ phận nghiệp vụ làm việc với các phòng ban để nắm bắt được định mức kinh tế kỹ thuật, triển khai đội ngũ cán bộ để thực hiện việc tiếp xúc khách hàng cũng như nghiên cứu ra quyết định tín dụng ngày một tốt hơn.
kết luận
Để đảm bảo sự an toàn và hạn chế mức rủi ro cho nguồn vốn tín dụng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, nghiệp vụ cho vay đối với các thành phần kinh tế đã có sự phù hợp về nghiệp vụ trong công tác cho vay, thu nợ nhằm đạt được mức lợi nhuận tối đa của ngân hàng.
Nghiệp vụ kế toán cho vay của NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã theo dõi chặt chẽ tài sản, tiền vốn của ngân hàng và của khách hàng đến giao dịch góp phần thực hiện tốt chế độ kế toán - tài chính trong công tác sử dụng vốn.
NHNo&PTNT Tây Hà Nội cùng các Ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay đã phục vụ đầy đủ, kịp thời và có hiệu quả nhu cầu vốn, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, các cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh.
Kế toán nói chung và kế toán cho vay nói riêng đều hướng tới mục đích đảm bảo an toàn tài sản của ngân hàng và giúp ngân hàng ngày một phát triển hơn. Nâng cao hiệu quả kế toán cho vay các thành phần kinh tế trong đó có cả thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, xuất phát từ hoạt động của ngân hàng, các kiến nghị trong khoá luận tốt nghiệp góp phần nhỏ vào việc nâng cao công tác kế toán cho vay.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu và thực tập tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội, được sự giúp đỡ của ban lãnh đạo và các phòng giao dịch NHNo&PTNT Tây Hà Nội, cùng với sự hướng dẫn của Nhà giáo ưu tú Vũ Thiện Thập đã giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp: "Một số ý kiến về hoàn thiện kế toán cho vay nhằm góp phần phát triển và nâng cao chất lượng tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hà Nội".
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã giúp tôi hoàn thành khoá luận này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Chế độ hạch toán- kế toán và xử lý thông tin trong hệ thống ngân hàng
( Trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học Ngân hàng 1999).
2. Giáo trình kế toán Ngân hàng
( Nhà xuất bản thống kê 2002 - Chủ biên - NGƯT. Vũ Thiện Thập)
3. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng - Học viện Ngân hàng.
4. Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Tây Hà Nội năm
2003 và quý 1 năm 2004.
5. Một số khoá luận của khoá trước.
6. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng - Học viện Ngân hàng.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36153.doc