Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Xí nghiệp cơ khí và xây lắp xăng dầu

LỜI NÓI ĐẦU Xây dựng cơ bản là một trong những ngành sản xuất có vị trí hết sức quan trọng tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, ngành xây dựng Việt Nam đã phát triển hết sức nhanh chóng, hàng năm chi phí đầu tư cho xây dựng cơ bản luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của cả nước về quy mô và chất lượng. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường cạnh

doc133 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Xí nghiệp cơ khí và xây lắp xăng dầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tranh gay gắt, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận luôn là mục tiêu cơ bản của các doanh nghiệp, nó chi phối mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp xây lắp nói riêng phải sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất, kiểm soát tốt, tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất để có thể bỏ thầu với mức giá hợp lý nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng các công trình. Do đó, việc kế toán chính xác, khoa học chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa vô cùng to lớn trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế thời gian qua, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp đã phát huy được tác dụng nhất định trong quản lý. Tuy nhiên, các quan điểm và phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp còn có nhiều hạn chế do nhận thức theo tư duy cũ, có tính chất truyền thống chưa thay đổi kịp với nền kinh tế thị trường, phản ánh chưa đầy đủ thực trạng của quá trình sản xuất. Vì vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp chưa thực sự là cơ sở tin cậy để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với những lý do trên, việc tổ chức hợp lý và khoa học quá trình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp đang là một yêu cầu bức xúc không chỉ với bản thân doanh nghiệp mà còn là yêu cầu nâng cao chất lượng quản lý kinh tế. Hơn nữa, tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp chính xác cũng chính là biện pháp để sử dụng vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước có hiệu quả tránh thất thoát lãng phí. Nhận thức rõ vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác kế toán nói chung, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng, cùng với thời gian thực tập tại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.S Trần Thu Phong, em đã lựa chọn nghiên cứu v à vi ết đ ề t ài: “ Kế toán chi phí sản xuất v à t ính giá thành sản phẩm xây lắp t ại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu”. N ội dung c ủa kho á lu ận g ồm ba ph ần: Ph ần I: Nh ững v ấn đ ề l ý lu ận chung v ề kế toán chi phí sản xuất v à t ính giá thành sản phẩm t rong doanh nghi ệp xây lắp. Ph ần II: Th ực tr ạng kế toán chi phí sản xuất v à t ính giá thành sản phẩm xây lắp t ại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu. Ph ần III: M ột s ố ý ki ến ho àn thi ện kế toán chi phí sản xuất v à t ính giá thành sản phẩm xây lắp t ại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu. M ặc d ù đ ã c ó nh ững c ố g ắng t ìm hi ểu v à đ ư ợc s ự gi úp đ ỡ t ận t ình c ủa c ô gi áo, c ác anh ch ị t ại ph òng kế toán Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu nh ưng do tr ình đ ộ v à nh ận t h ức c òn h ạn ch ế n ên b ài kho á lu ận c ủa em c òn nhi ều thi ếu s ót. V ì v ậy em k ính mong c ác th ầy c ô gi áo đ óng g óp ý ki ến đ ể b ài kho á lu ận c ủa em đ ư ợc ho àn th i ện h ơn. Em xin ch ân th ành c ảm ơn! PH ẦN I: NH ỮNG V ẤN Đ Ề L Ý LU ẬN CHUNG V Ề K Ế TO ÁN CHI PH Í S ẢN XU ẤT V À T ÍNH GI Á TH ÀNH S ẢN PH ẨM X ÂY L ẮP Đ ặc đi ểm ho ạt đ ộng kinh doanh xây lắp c ó ảnh h ư ởng đ ến h ạch to án chi phí sản xuất v à t ính giá thành sản phẩm. Đặc điểm sản phẩm xây lắp của ngành xây dựng và ảnh hưởng của nó tới việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất mang tính chất công nghiệp với chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm của ngành xây dựng là công trình, hạng mục công trình, vật kiến trúc… được tiến hành một cách liên tục từ khâu thăm dò, điều tra, khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình khi hoàn thành. Như vậy, cũng giống như một số ngành sản xuất công nghiệp khác, sản xuất xây dựng cơ bản cũng có tính chất dây chuyền, giữa các khâu của hoạt động sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu một khâu ngưng trệ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các khâu khác. Tuy nhiên, sản xuất xây lắp có những đặc điểm riêng sau: Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện địa chất, thuỷ văn, khí hậu. Đặc điểm này cho thấy: Nơi tiêu thụ sản phẩm cố định Nơi sản xuất biến động nên lực lượng sản xuất thi công (lao động, thiết bị thi công, phục vụ thi công, vật tư kỹ thuật…) luôn luôn di động. Chất lượng và giá cả (chi phí xây lắp) sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện tự nhiên. Do vậy để giảm thiểu lãng phí, thất thoát cho nguyên nhân khách quan bởi các tác động trên đòi hỏi trước khi xây lắp công trình phải làm thật tốt công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây lắp. Công tác điều tra khảo sát, thăm dò các điều kiện tự nhiên không chính xác sẽ dẫn đến lãng phí nghiêm trọng vì thiết kế công trình, dự án không đảm bảo đúng yêu cầu các quy phạm kỹ thuật, kết cấu phù hợp với các quy phạm kỹ thuật, kết cấu phù hợp với các điều kiện và đặc điểm tự nhiên, chất lượng công trình kém. Đặc điểm này đòi hỏi cần có giải pháp tài chính để kiểm tra việc sử dụg và quản lý vốn đầu tư ngay từ khâu đầu tiên là xác định chủ trương đầu tư, lựa chọn địa điểm, điều tra khảo sát, thăm dò… để dự án đầu tư đảm báo tính khả thi cao. Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác. Sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác là vật phẩm tiêu dùng (dùng cho sản xuất hay dùng cho đời sống sinh hoạt của con người, của xã hội) có thời gian sử dụng rất ngắn như: nguyên vật liệu dùng vào sản xuất để sau đó biến đổi thành bán thành phẩm và thành phẩm. Sản phẩm xây lắp với tư cách là công trình xây lắp đã hoàn thành mang tính chất là tài sản cố định nên nó có thời gian sử dụng rất lâu dài và tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, sử dụng nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho tới khi thanh lý. Từ đặc điểm này đòi hỏi chất lượng công trình phải tốt, muốn vậy phải chú trọng nâng cao công tác quản lý kinh tế, quản lý tài chính và chất lượng xây lắp ở trong tất cả các khâu công tác: điều tra, khảo sát, lập dự án đầu tư, thiết kế, thực hiện tốt quy chế đấu thầu, thi công, thanh toán vốn đầu tư, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành và chế độ bảo hành công trình. Do đặc điểm thời gian sử dụng dài, tuổi thọ cao nên sai lầm trong xây lắp sẽ gây tổn thất lớn cả về giá trị (chi phí xây lắp công trình) và chất lượng công trình, từ đó gây hậu quả trước mắt và lâu dài. Do đó, trong quá trình thực hiện phải giám sát chặt chẽ mọi chi phí phát sinh ở từng giai đoạn xây lắp và giám sát chất lượng công trình. Đó là công việc thường xuyên, hàng ngày, theo từng giai đoạn, thông qua công tác thanh quyết toán để kiểm tra giám sát chất lượng công trình, đảm bảo việc sử vốn đúng mục đích, có hiệu quả. Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá nghệ thuật và quốc phòng. Đặc điểm này có thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, mất cân đối trong quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các khâu công tác từ quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng cũng như quá trình thi công. Để khắc phục thất thoát, lãng phí có thể xảy ra chẳng những phải thận trọng về chủ trương mà đòi hỏi phải có trình độ tổ chức, phối hợp các khâu từ công tác thẩm định dự án, thẩm định đấu thầu xây dựng, đấu thầu mua sắm thiết bị, kiểm tra chất lượng từng loại khối lượng theo kết cấu công trình trong quá trình thi công… đến khi nghiệm thu khối lượng thực hiện từng phần, tổng nghiệm thu và quyết toán dự án hoàn chỉnh và đưa vào khai thác sử dụng. Sản phẩm xây lắp có tính chất đơn chiếc, riêng lẻ. Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng theo yêu cầu của nhiệm vụ thiết kế. Mỗi công trình có yêu cầu riêng về công nghệ, về quy phạm, về tiện nghi, về mỹ quan, về an toàn. Do đó khối lượng, chất lượng và xp xây lắp của mỗi công trình đều khác nhau, mặc dù về hình thức có thể giống nhau khi xây lắp trên những địa điểm khác nhau. Từ đặc điểm này cho thấy, sản phẩm xây lắp xó thể giống nhau về hình thức nhưng về kết cấu, quy phạm thì không giống nhau hoàn toàn nếu xây lắp ở những địa điểm khác nhau. Chính vì vậy mà mặc dù có thể sản xuất hàng loạt theo mẫu thiết kế thống nhất nhưng chi phí xây lắp không thống nhất. Mỗi công trình, dự án đầu tư đều bị chi phối bởi các điều kiện, đặc điểm tự nhiên yêu cầu khác nhâu nên chi phí xây lắp cũng khác nhau. Đặc điểm của quá trình sản xuất xây lắp và ảnh hưởng của nó tới việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Địa điểm sản xuất không cố định Khi chọn địa điểm xây dựng phải điều tra nghiên cứu khảo sát thật kỹ về điều kiện kinh tế, địa chất, thuỷ văn, kết hợp với các yêu cầu về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Sau khi đi vào sử dụng, công trình không thể di dời cho nên nếu công trình là nhà máy, Xí nghiệp cần nghiên cứu các điều kiện về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, nguồn lực lao động, nguồn tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo điều kiện thuận lợi khi công trình đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh sau này. Một công trình xây dựng cơ bản hoàn thành điều đó có nghĩa là người công nhân xây dựng phải chuyển đến thi công ở một công trình khác. Do đó, sẽ phát sinh các chi phí như điều động công nhân, máy móc thi công, chi phí về xây dựng các công trình tạm thời cho công nhân và cho máy móc thi công. Cũng do đặc điểm này mà các đơn vị xây lắp thường sử dụng lực lượng lao động thuê tại chỗ để giảm bớt chi phí khi di dời. Thời gian xây lắp công trình kéo dài Các công trình xây dựng cơ bản thường có thời gian sử dụng dài nên mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa chữa phải phá đi làm lại. Sai lầm trong xây dựng cơ bản vừa gây lãng phí, vừa để lại hậu quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần phải thường xuyên kiểm tra giám sát chất lượng công trình. Sản xuất tiến hành ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi điều kiện thiên nhiên, điều kiện làm việc nặng nhọc. Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần tổ chức quản lý lao động, vật tư chặt chẽ, đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ khi điều kiện thời tiết thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi ảnh hưởng đến chất lượng thi công, có thể sản xuất phát sinh các khối lượng các công trình phải phá đi làm lại và các thiệt hại phát sinh do ngừng sản xuất, doanh nghiệp cần có kế hoạch điều độ cho phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành. Kỹ thuật thi công phức tạp, trang bị kỹ thuật tốn kém. Trong quá trình thi công xây lắp thường có nhiều đơn vị tham gia, nhiều thành phần kinh tế tham gia thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian trên một mặt bằng thi công chật hẹp nên đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ phối hợp cao trong sản xuất để đảm bảo tiến độ thi công và chất lượng công trình. Vấn đề trang thiết bị kỹ thuật dùng trong quá trình sản xuất xây lắp nhiều khi đòi hỏi những máy móc kỹ thuật hiện đại, giá trị vật chất lớn. Trong những trường hợp như vậy doanh nghiệp xây lắp có thể lựa chọn một trong hai phương án sau: một là doanh nghiệp bỏ ra một số vốn lớn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công, hai là đi thuê của đơn vị khác về sử dụng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tính toán cụ thể và so sánh lựa chọn phương án nào là tốt hơn nhất để đảm bảo máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kịp thời đầy đủ, tiêu tốn chi phí thấp nhất nhưng đạt hiệu quả sản xuất tối ưu nhất. Sản xuất xây lắp mang tính chất đơn chiếc theo đơn đặt hàng. Sản phẩm xây lắp không có sự giống nhau hoàn toàn, không thể tiến hành sản xuất hàng loạt mà phải sản xuất từng chiếc theo đơn đặt hàng thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu (hoặc do thầu trong trường hợp chỉ định thầu). Sau khi sản phẩm hoàn thành thì không cần thiết phải tìm thị trường để bán sản phẩm. Sản xuất xây lắp chỉ tiến hành khi đã được chủ đầu tư chấp nhận và ký hợp đồng giao nhận thầu. Trong quá trình thi công công trình được thực hiện với sự tham gia giám định kỹ thuật của người mua. Mục tiêu kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp Trong doanh nghiệp xây lắp thông tin chi phí và giá thành xây lắp giữ vai trò quan trọng trong hệ thống thông tin của doanh nghiệp. Ngày này với những tiến bộ kỹ thuật, phương thức quản lý và sự toàn cầu hoá kinh tế, mở rộng phạm vi cạnh tranh thì sự tăng nhanh nhu cầu, tính tốc độ, tính linh hoạt, chính xác của thông tin chi phí ngày càng bức thiết hơn cho việc đưa ra các quyết định kinh tế liên quan đến giá vốn, giá bán, lợi nhuận, kiểm soát, hoàn thiện định mức chi phí của các nhà quản trị doanh nghiệp. Như vậy, cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp chính là mục tiêu của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Điều này được thể hiện rõ hơn qua ba mục tiêu chính sau: Việc cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp để phục vụ cho việc định giá thành các công trình, đưa ra được mức giá thầu nhỏ hơn tổng dự toán được duyệt nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng công trình cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp phục vụ tốt hơn quá trình kiểm soát chi phí, bảo đảm tính tiết kiệm hiệu quả và gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp nhằm phục vụ cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống định mức chi phí, cũng như phục vụ cho việc kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp từ đó thiết lập được các đòn bẩy kinh tế. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp Chi phí sản xuất xây lắp và tính giá thành sản phẩm xây lắp là hai mặt của quá trình sản xuất, nó là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Trong công tác quản lý thông qua các thông tin về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp, những nhà quản lý nắm được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng công trình, hạng mục công trình để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật, các dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành để có các quyết định đúng đắn nhằm quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Kế toán là công cụ quản lý kinh tế quan trọng được tổ chức ở các doanh nghiệp cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Căn cứ vào đặc điểm tổ chức quản lý và quy trình công nghệ để xác định chính xác đối tượng tập hợp chi phí và phương pháp kế toán chi phí hợp lý. Ghi chép tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chính xác cho từng đối tượng tập hợp chi phí, trên cơ sở đó kế toán tình hình thực hiện định mức chi phí và dự toán chi phí, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chi phí phát sinh. Xác định đối tượng tính giá thành, lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp. Tính toán chính xác giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình, kiểm tra tình hình thực hiện giá thành của doanh nghiệp. Xác định đúng đắn, bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác xây lắp hoàn thành. Định kỳ kiểm tra, đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên tắc quy định. Xác định đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng công trình, từng tổ đội thi công trong thời kỳ nhất định. Kịp thời lập báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Cung cấp chính xác, nhanh chóng các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo. 1.2 Các vấn đề về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp Do đặc thù hoạt động của các doanh nghiệp xây lắp, do đặc điểm của các sản phẩm xây lắp mà trong việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp xây lắp cần phải thực hiện theo những đặc điểm và yêu cầu riêng của ngành xây lắp. Về kế toán chi phí nhất thiết phải được phân tích chi tiết theo từng khoản mục chi phí, từng hạng mục công trình hoặc là công trình theo từng đối tượng cụ thể nhằm mục đích so sánh, kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí, đồng thời để xem xét, đánh giá hiệu quả trong kinh doanh xây lắp. Đối tượng hạch toán chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp là các công trình, hạng mục công trình, các đơn đặt hàng trong các giai đoạn công việc của từng hạng mục công trình. Đặc biệt, đối với giá thành các công trình lắp đặt không bao gồm giá trị thiết bị do chủ đầu tư bỏ ra đưa vào lắp đặt mà chỉ tính đến những thiết bị, chi phí do doanh nghiệp xây lắp bỏ ra. Như vậy, về giá thành xây dựng và lắp đặt chỉ bao gồm giá trị xây dựng và các thiết bị chính kèm theo (theo yêu cầu đặt hàng, theo thiết kê). 1.2.1 Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp 1.2.1.1 Khái niệm, nội dung, bản chất kinh tế của chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào tạo thành các công trình, hạng mục công trình, các sản phẩm lao vụ… Các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (biểu hiện cụ thê là hao phí về lao động vật hoá) dưới sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu hiện cụ thể là hao phí về lao động sống) qua quá trình biến đổi sẽ trở thành các công trình, hạng mục công trình… Để đo lường các hao phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong từng thời kỳ sản xuất kinh doanh nhằm tổng hợp, xác định kết quả đầu ra, phục vụ yêu cầu quản lý. Mọi hao phí đều được thể hiện bằng thước đo tiền tệ gọi là chi phí sản xuất kinh doanh. Vậy, Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền những hao phí lao động sống và lao động vật hoá mà mọi doanh nghiệp xây lắp bỏ ra trong quá trình sản xuất thi công và bàn giao sản phẩm xây lắp trong một thời kỳ nhất định. Đứng trên góc độ nghiên cứu và quản lý khác nhau thì chi phí sản xuất cũng có những cách hiểu khác nhau: Đối với nhà quản lý doanh nghiệp: Chi phí sản xuất kinh doanh là tổng số tiền phải bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết tạo ra sản phẩm, dịch vụ mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Đối với kế toán: Chi phí sản xuất kinh doanh gắn liền với một kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và phải là chi phí thực. Như vậy, nhận thức chi phí có thể khác nhau về quan điểm và hình thức thể hiện chi phí nhưng tất cả đều thừa nhận vấn đề chung: Chi phí là phí tổn tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh. Đây chính là bản chất kinh tế của chi phí sản xuất, nó giúp các nhà quản trị phân biệt được chi phí với chi tiêu: Theo khái niệm về chi phí sản xuất như đã nêu ở trên thì chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm xây lắp làm ra trong kỳ hạch toán. Như vậy, về phương diện kê toán, nó được ghi vào bên Nợ của tài khoản chi phí. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kỳ nó được dùng vào mục đích gì. Về phương diện kế toán, nó được ghi vào bên Có của tài khoản tài sản. Tổng số chi tiêu của một doanh nghiệp trong kỳ bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư…), chi tiêu cho quá trình kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ. Mặc dù chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Chi tiêu chỉ được coi là chi phí khi khoản chi tiêu đó được sử dụng ngay vào quá trình sản xuất trong kỳ. Tỏng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất xây lắp tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này tính vào chi phí kỳ sau (chẳng hạn xuất công cụ dụng cụ nhưng phân bổ vào chi phí nhiều kỳ, chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng…) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí phải trả). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi phí và chi tiêu trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp và yêu cầu kỹ thuật hạch toán của chúng. Chi phí sản xuất gắn liền với việc sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn. Vì thế quản lý chi phí sản xuất thực chất là việc quản lý việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, chi phí sản xuất là cơ sở tạo nên giá thành sản phẩm xây lắp là các công trình, hạng mục công trình hoàn thành nên quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất là mục tiêu hạ giá thành sản phẩm xây lắp. Việc tập hợp chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp cần phải được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định không phân biệt sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Để quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chặt chẽ, làm cơ sở cho việc phân tích quá trình phát sinh chi phí sản xuất hình thành giá thành sản phẩm cũng như kết cấu tỷ trọng của chi phí sản xuất, người ta cần tiến hành phân loại chi phí. 1.2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh là việc sắp xếp chi phí sản xuất kinh doanh vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học, hợp lý là tiền đề của việc kiểm tra, phân tích chi phí, thúc đẩy việc quản lý chặt chẽ chi phí để tiến tới tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay mỗi doanh nghiệp có các cách phân loại khác nhau nhưng nhìn chung có 9 cách phân loại sau: Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí (phân loại chi phí theo nội dung kinh tế): Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia ra thành các yếu tố sau: Chi phí nguyên vật liệu: là toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí nhân công: Là toàn bộ tiền công, tiền lương phải trả, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân sản xuất trong doanh nghiệp. Chi phí công cụ, dụng cụ: Là phần giá trị hao mòn của các loại công cụ, dụng cụ trong quá trình xây lắp. Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định (giá trị bộ phận tài sản cố định bị hao mòn) sử dụng vào hoạt động xây lắp của doanh nghiệp. Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải trả về các loại dịch vụ mua bên ngoài sử dụng vào quá trình xây lắp của doanh nghiệp như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại… Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ khoản chi phí phát sinh trong quá trình xây lắp của doanh nghiệp ngoài các yếu tố trên và được thanh toán bằng tiền. Ngoài ra chi phí khác bằng tiền còn bao gồm các khoản chi phí bảo hành, chi phí bảo hiểm cho các công trình xây lắp trong nhiều năm. Ý nghĩa của việc phân loại chi phí theo yếu tố chi phí: Cách phân loại này giúp cho các nhà quản trị có được thông tin về kết cấu, tỷ trọng của từng loại yếu tố chi phí mà doanh nghiệp đã chi trong hoạt động kinh doanh nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập, phân tích và đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất cũng như có kế hoạch cung ứng vật tư. Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm (phân loại theo công dụng kinh tế): Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành xây lắp và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm sản phẩm xây lắp ở Việt Nam gồm các khoản mục chi phí sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu... thực tế sử dụng trong quá trình xây lắp cho từng công trình, hạng mục công trình. Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương, phụ cấp lương trả cho công nhân trong danh sách mà doanh nghiệp quản lý và lao động thuê ngoài sử dụng trực tiếp vào trong quá trình xây lắp. Trong doanh nghiệp xây dựng khi hạch toán chi phí nhân công trực tiếp sản xuất không bao gồm các khoản trích theo lương và tiền ăn giữa ca của công nhân trực tiếp xây lắp. Chi phí máy thi công: Là toàn bộ chi phí có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình vận hành máy thi công tại công trường. Chi phí này cũng không bao gồm BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân vận hành máy thi công. Chi phí sản xuất chung: Đối với ngành xây dựng, chi phí sản xuất chung là những chi phí phát sinh trong phạm vi công trường, đội xây lắp (trừ chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí máy thi công). Ngoài ra, nó còn bao gồm lương nhân viên quản lý đội, chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ, tiền ăn giữa ca của toàn bộ công nhân trong đội. Khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu gr còn bao gồm cả hai khoản mục sau: Chi phí bán hàng: Là những chi phí bảo đảm cho việc thực hiện chiến lược, và chính sách bán hàng của doanh nghiệp. Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm chi phí liên quan đến công việc hành chính, quản trị ở phạm vị toán doanh nghiệp. Ngoài ra, chi phí quản lý doanh nghiệp còn bao gồm cả những chi phí mà không thể ghi nhận vào các khoản mục chi phí nói trên. Ý nghĩa cách phân loại này: Cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý, kế toán thấy được vai trò, vị trí chi phí trong hoạt động doanh nghiệp. Trên cơ sở đó giúp nhà quản lý đánh giá được kết cấu chi phí trong sản xuất kinh doanh, xây dựng dự toán theo khoản mục. Đồng thời giúp cho kế toán xác định tốt hơn mối quan hệ chuyển đổi giữa chi phí đầu vào và chi phí sản phẩm. Hơn nữa cách phân loại này cũng giúp nhà quản trị xác định được giá thành sản phẩm và giá thành toàn bộ để từ đó có kế hoạch, chính sách hợp lý thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhằm bù đắp chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh: Dựa vào chức năng của các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện chức năng mà chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm 3 loại: Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng. Nó bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung. Chi phí tiêu thụ: Bao gồm toàn bộ chi phí cần thiết để đảy mạnh quá trình lưu thông hàng hoá, đảm bảo việc đưa hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Chi phí quản lý: Là những chi phí liên quan đến việc tổ chức hành chính và các hoạt động văn phòng của doanh nghiệp. Trong đó, chi phí tiêu thụ và chi phí quản lý cũng được coi là chi phí ngoài sản xuất. Ý nghĩa của cách phân loại này: Cách phân loại này là cơ sở xây dựng giá thành và giá thành toàn bộ. Phân loại chi phí theo chức năng cũng giúp xác định rõ vai trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá tình hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp đồng thời cung cấp thông tin một cách hệ thống cho việc lập báo cáo tài chính. Việc phân biệt chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất cũng giúp cho nhà quản trị xây dựng kế hoạch tăng giảm chi phí ngoài sản xuất ở các giai đoạn khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí: Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm: Là những chi phí gắn liền với công trình được thi công xây dựng, bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung. Như vậy, chi phí sản phẩm luôn gắn liền với sản phẩm và chỉ được thu hồi khi sản phẩm tiêu thụ. Chi phí thời kỳ: Bao gồm những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán và nó không phải là một phần giá trị sản phẩm xây lắp được sản xuất. Vì vậy, chi phí này được xem là phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Chi phí này gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Ý nghĩa của cách phân loại này: Chi phí thời kỳ phát sinh ở thời kỳ nào thì giảm lợi tức của kỳ đó nên nếu trong kỳ không tiêu thụ được sản phẩm tức là không có doanh thu thì không thể bù đắp được chi phí này. Như vậy, tiêu thụ sản phẩm không chỉ nhằm mục đích bù đắp chi phí sản phẩm mà còn tạo ra donah thu để bù đắp chi phí thời kỳ. Vì vậy phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí giúp cho nhà quản trị thấy được ý nghĩa quyết định của tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy họ đưa ra biện pháp hữu hiệu nhất nhằm tiêu thụ sản phẩm đồng thời sử dụng có hiệu quả và giảm chi phí thời kỳ để đạt được lợi nhuận cao nhất. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí: Theo cách phân loại này thì toàn bộ chi phí của doanh nghiệp được phân thành 3 loại sau: Định phí: Là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi về khối lượng của hoạt động sản xuất hoặc khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ theo mức thay đổi của mức độ hoạt động, khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn định phí như chi phí điện, nước, điện thoại… ở mức độ hoạt động căn bản. Chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điẻm của định phí, quá mức độ đó nó thể hiện đặc điểm của biến phí. Ý nghĩa của cách phân loại này: Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với nhà quản trị. Trước hết nó thúc đẩy nhà quản trị tăng năng suất lao động tức là tăng năng lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian nhằm giảm định phí. Thứ hai nó được sử dụng để lập báo cáo quản trị cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và chủ động điều tiết chi phí cho phù hợp. Bên cạnh đó do cách phân loại này giúp cho nhà quản trị xác định được sản lượng hoà vốn, doanh t._.hu hoà vốn và đòn bẩy kinh doanh tạo điều kiện cho họ đưa được các quyết định ngắn hạn nhanh chóng, chính xác khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động. Sản lượng hoà vốn = Tổng định phí Số dư đảm phí Doanh thu hoà vốn = Tổng định phí Tỷ lệ số dư đảm phí Độ lớn đòn bẩy kinh doanh = Số dư đảm phí Thu nhập thuần Trong đó: Số dư đảm phí = Doanh thu - Biến phí Tỷ lệ số dư đảm phí = Số dư đảm phí Doanh thu x 100 Phân loại chi phí theo quan hệ với quá trình sản xuất (phân loại chi phí theo phương pháp quy nạp): Theo cách phân loại này, chi phí được phân thành hai loại là: Chi phí trực tiếp: Là chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu chi phí, có thể quy nạp trực tiếp vào từng đối tượng chịu chi phí. Chi phí gián tiếp: Là những chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đói tượng chi phí như chi phí nguyên vật liệu phụ, chi phí nhân công phụ, chi phí quảng cáo… Với chi phí gián tiếp, nguyên nhân gây ra chi phí và đối tượng chịu chi phí rất khó nhận dạng. Vì vậy thường phải tập hợp chung, sau đó lựa chọn tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí. Ý nghĩa của cách phân loại này: Trước hết, do chi phí trực tiếp liên quan đến từng đối tượng chịu chi phí và thông tin ít sai lệch nên giúp cho các nhà quản trị xác định tỷ lệ các chi phí trong sản xuất một cách hợp lý từ đó thúc đẩy họ thực hiện giảm chi phí nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Còn đối với chi phí gián tiếp thường gây ra những sai lệch khi lựa chọn tiêu thức phân bổ khác nhau nên nó tác động tích cực đến nhận thức khi lựa chọn phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí thích hợp, giúp các nhà quản trị đưa ra được quyết định chính xác. Phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh: Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động sản xuất kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia thành 3 loại: Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất tiêu thụ và quản lý. Chi phí hoạt động tài chính: Là những chi phí liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính. Chi phí bất thường: Gồm những chi phí ngoài dự kiến do chủ quan hay khách quan đưa tới. Ý nghĩa của cách phân loại này: Cách phân loại này giúp doanh nghiệp xác định mức độ ảnh hưởng của các loại chi phí tác động đến hoạt động của doanh nghiệp để từ đó có sách lược tiết kiệm chi phí cũng như trích trước chi phí tránh gây sự biến động khi phát sinh chi phí lớn hay chi phí bất thường đảm bảo mục tiêu lợi nhuận và nâng cao chất lượng sản phẩm. Phân loại chi phí theo mức độ kiểm soát chi phí: Theo cách phân loại này có các chi phí sau: Chi phí kiểm soát được: Là những chi phí mà nhà quản trị xác định được chính xác mức phát sinh của nó trong kỳ, đồng thời nhà quản trị cũng có quyền quyết định về sự phát sinh của nó. Chi phí không kiểm soát được: Là những chi phí mà nhà quản trị không thể dự đoán chính xác định mức phát sinh của nó trong kỳ và sự phát sinh của nó vượt quá tầm kiểm soát, quyết định của nhà quản trị. Ý nghĩa của cách phân loại này: Xác định chi phí nào là chi phí kiểm soát được, chi phí không kiểm soát được là một vấn đề quan trọng đối với nhà quản trị, giúp các nhà quản trị hoạch định được ngân sách chi phí chính xác hơn, tạo điều kiện hạn chế tình trạng bị động về vốn và trách nhiệm quản lý. Một số cách phân loại chi phí khác: Ngoài một số cách phân loại trên, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp còn sử dụng một số các thuật ngữ khác về chi phí như: Chi phí chênh lệch: Để thực hiện việc ra quyết định, nhà quản trị phải so sánh nhiều phương án khác nhau, các phương an này thường có sự khác nhau về số lượng và loại dự phí. Những khoản chi phí nào có ở phương án này nhưng chỉ có một phân loại không có ở phương án gọi là chi phí chênh lệch. Chi phí chênh lệch là một khái niệm để nhận thức, so sánh chi phí khi lựa chọn các phương án kinh doanh. Nó giúp các nhà quản trị thấy được sự khác biệt về chi phí, lợi ích trong các phương án tốt hơn. Chi phí chìm: Là những chi phí luôn xuất hiện trong tất cả các quyết định của nhà quản trị hoặc trong các phương án sản xuất kinh doanh khác. Chi phí chìm không phải là định phí mà nó là chi phí mà nhà quản trị phải chấp nhận trong các quyết định khác nhau. Chi phí chìm là một khái niệm được dùng trong lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, nó giúp giảm bớt thông tin, tính phức tạp trong lựa chọn phương án mà vẫn đạt được một quyết định thích hợp, hiệu quả. Chi phí cơ hội: Là nguồn thu nhập tiềm tàng bị mất đi hay phải hy sinh để lựa chọn, thực hiện một hành động. Chi phí cơ hội không xuất hiện trên tài liệu chi phí ở phạm vi chi phí của kế toán tài chính. Chi phí cơ hội là một khái niệm bổ sung để nhận thức tốt hơn tiềm năng, lợi ích kinh tế trong hoạt động của doanh nghiệp. Cách phân loại này có tác dụng rất lớn đối với các nhà quản trị trong việc lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, tìm ra được cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao nhất, tiết kiệm chi phí và làm tăng lợi nhuận. 1.2.2 Giá thành xây lắp 1.2.2.1 Khái niệm Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao động sống và lao động vật hoá để hoàn thành khối lượng sản phẩm xây lắp nhất định. Sản phẩm xây lắp có thể là một hạng mục công trình, một công trình hoàn thành toàn bộ. 1.2.2.2 Bản chất của giá thành sản phẩm xây lắp và mối quan hệ giữa chi phí với giá thành sản phẩm Trong quá trình sản xuất thi công, chi phí sản xuất xây lắp thể hiện hao phí trong kỳ của một doanh nghiệp xây lắp. Chi phí này phải được xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai của quá trình sản xuất đó là kết quả sản xuất. Quan hệ so sánh này đã hình thành chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp. Nói cách khác, giá thành xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra bất kể ở thời kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm xây lắp hoàn thành. Như vậy, giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí và giá thành xây lắp qua sơ đồ sau: đChi phí sản xuất dở dang đầu kỳ CHI PHÍ SẢN XUẤT PHÁT SINH TRONG KỲ TỔNG GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ A B C D AC = AB + BD – CD Hay: Tổng giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành = Chi phí sản xuất xây lắp dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất xây lắp phát sinh trong kỳ - Chi phí sản xuất xây lắp dở dang cuối kỳ Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc không có sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Như vậy, giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có bên trong của nó là phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, và lượng giá trị sử dụng thu hồi được cấu thành trong khối lượng sản phẩm công việc lao vụ xây dựng cơ bản hoàn thành. Như vạy bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào sản phẩm xây lắp công việc lao vụ nhất định đã hoàn thành. Cũng qua sơ đồ trên ta thấy được giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình thể hiện ở các mặt sau: Chi phí sản xuất là căn cứ, cơ sở để tính giá thành sản phẩm lao vụ, công trình đã hoàn thành. Chi phí sản xuất trước hết thể hiện theo các yếu tố chi phí, sau đó đến giai đoạn tính giá thành, chi phí sản xuất được thể hiện theo các khoản mục tính giá thành. Mức tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực sẽ ảnh hưởng tới giá thành dẫn đến kết quả tài chính khi thi công công trình. Chi phí và giá thành sản phẩm là hai khái niệm khác nhau thể hiện ở những điểm sau: Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền tổng hợp những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Chi phí sản xuất gắn liền với từng thời kỳ phát sinh. Giá thành sản phẩm xây lắp là tổng hợp các hao phí gắn liền với một khối lượng xây lắp đã hoàn thành bàn giao. 1.2.2.3 Dự toán xây lắp và kết cấu giá thành sản phẩm xây lắp trong kế toán Để thực hiện tốt kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp cần phải phân biệt dự toán sản phẩm xây lắp và giá thành sản phẩm xây lắp. Dự toán xây lắp là dự kiến, tính toán một cách tỉ mỉ, chi tiết về lượng giá trị vật tư, nhân lực, máy móc thiết bị… theo một điều kiện thi công sản xuất trung bình, mức giá trung bình từng vùng và mức lợi nhuận cho phép, thuế GTGT để thực hiện thi công xây lắp một khối lượng công việc, hạng mục công trình, một công trình nhất định. Theo quy định hiện hành dự toán xây lắp của một công trình bao gồm các khoản mục sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí máy thi công Chi phí sản xuất chung Tuy nhiên giữa kết cấu các khoản mục chi phí trong dự toán xây lắp và giá thành sản phẩm xây lắp tồn tại một số khác biệt. Điều này thể hiện ở khoản mục chi phí sản xuất chung: Trong khoản mục chi phí sản xuất chung của dự toán xây lắp bao gồm toàn bộ chi phí trực tiếp khác (ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công). Bên cạnh đó còn có chi phí phục vụ, quản lý quá trình thi công được tính theo một tỷ lệ quy định trên chi phí nhân công trực tiếp. Trong khoản mục chi phí sản xuất chung của giá thành sản phẩm xây lắp chỉ gồm toàn bộ chi phí trực tiếp thi công xây lắp ngoài hiện trường nhưng không thuộc những khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công. Như vậy, trong kế toán, khoản mục chi phí sản xuất chung chỉ là một bộ phận của chi phí chung trong dự toán xây lắp. Để thể hiện rõ hơn mối quan hệ giữa chi phí dự toán xây lắp và chi phí kế toán ta có bảng sau: Biểu 1.1: Mối quan hệ giữa chi phí dự toán xây lắp và chi phí kế toán xây lắp Khoản mục chi phí dự toán Khoản mục chi phí kế toán 1. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 1. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK 621 2. Chi phí nhân công trực tiếp 2. Chi phí nhân công trực tiếp TK 622 3. Chi phí máy thi công 3. Chi phí máy thi công TK 623 4. Chi phí sản xuất chung 4a. Chi phí sản xuất chung TK 627 4b. Chi phí bán hàng TK 641 4c. Chi phí quản lý doanh nghiệp TK 642 5. Lợi nhuận định mức 5. Lợi nhuận (lỗ) TK 421 6. Giá trị dự toán 6. Giá trị dự toán TK 511 7. Thuế GTGT đầu ra 7. Thuế GTGT đầu ra TK 333 8. Tổng giá trị thanh toán 8. Tổng giá trị thanh toán TK 131 Như vậy, trong quản lý giá thành cần phải quan tâm tới giá thành xây lắp và dự toán xây lắp để đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về quản lý giá thành là kịp thời, chính xác, toàn diện và có hiệu quả. 1.2.2.4 Phân loại giá thành Để đáp ứng các yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành, cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Phân loại giá thành xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu Theo cách phân loại này giá thành phân thành 4 loại: Giá thành dự toán Trong xây dựng cơ bản, sản phẩm xây dựng là nhà cửa, vật kiến trúc… với giá trị lớn, thời gian thi công dài nên giá thành của nó được xác định bằng giá trị dự toán thông qua hợp đồng giữa bên giao thầu và bên nhận thầu trên cơ sở thiết kế kỹ thuật thi công, định mức và đơn giá do Nhà nước quy định cho từng khu vực thi công và phần tích luỹ theo định mức. Giá trị dự toán là giá thanh toán cho khối lượng công tác xây lắp hoàn thành theo dự toán. Giá trị dự toán là cơ sở để kế hoạch hoá việc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản, là căn cứ xác định hiệu quả công tác thiết kế cũng như căn cứ để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch khối lượng thi công và xác định hiệu quả hoạt động kinh tế của doanh nghiệp xây lắp. Còn giá thành dự toán xây lắp là toàn bộ các chi phí để hoàn thành khối lượng công tác xây lắp theo dự toán. Như vậy, giá thành dự toán là bộ phận của giá trị dự toán của từng công trình xây lắp riêng biệt và được xác định theo công thức sau: Giá thành dự toán = Giá trị dự toán xây lắp sau thuế - Thu nhập chịu thuế tính trước - Thuế GTGT - Giá thành kế hoạch Giá thành kế hoạch là giá thành được xác định từ những điều kiện và đặc điểm cụ thể của một doanh nghiệp xây lắp trong một kỳ kế hoạch nhất định. Nó được xác định trước khi bước vào kinh doanh. Căn cứ vào giá thành dự toán và căn cứ vào điều kiện cụ thể, năng lực thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch, doanh nghiệp tự xây dựng những định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá để xác định những hao phí cần thiết để thi công công trình trong một kỳ kế hoạch. Như vậy, giá thành kế hoạch là một chỉ tiêu để các doanh nghiệp xây lắp tự phấn đấu để thực hiện mức lợi nhuận do hạ giá thành trong kỳ kế hoạch: Giá thành kế hoạch = Giá thánh dự toán - Lãi do hạ giá thành + Chênh lệch so với dự toán -Giá thành định mức Giá thành định mức là tổng số chi phí để hoàn thành một khối lượng xây lắp cụ thể được tính toán trên cơ sở đặc điểm, kết cấu công trình về phương pháp tổ chức thi công và quản lý thi công theo các định mức chi phí đã đạt được ở tại các doanh nghiệp, công trường tại thời điểm bắt đầu thi công. Khi đặc điểm kết cấu công trình thay đổi hay có sự thay đổi về phương pháp tổ chức, quản lý thi công thì định mức sẽ thay đổi và khi đó, giá thành định mức được tính toán lại cho phù hợp. - Giá thành thực tế Giá thành thực tế là toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh để thực hiện hoàn thành quá trình thi công do kế toán tập hợp được. Giá thành thực tế biểu hiện chất lượng, hiệu quả về hoạt động của doanh nghiệp xây lắp. Giá thành thực tế không chỉ bao gồm những chi phí trong định mức mà còn bao gồm những chi phí thực tế phát sinh không nằm trong kế hoạch dự toán như: thiệt hại phá đi làm lại, thiệt hại ngừng sản xuất, những mất mát hao hụt vật tư… do nguyên nhân chủ quan của bản thân doanh nghiệp. Như vậy, việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán, giá thành định mức, giá thành kế hoạch là hết sức cần thiết bởi: - So sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch cho thấy mức độ hạ giá thành kế hoạch của doanh nghiệp. - So sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán phản ánh chỉ tiêu tích luỹ của doanh nghiệp từ đó có thể dự tính khả năng của doanh nghiệp trong năm tới. - So sánh giá thành thực tế với giá thành định mức cho thấy mức độ hoàn thành định mức đã đề ra của doanh nghiệp đối với từng khối lượng xây lắp cụ thể. b) Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí Theo cách phân loại này, giá thành được chia làm hai loại: - Giá thành sản xuất: Là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất thi công sản phẩm xây lắp trong phạm vi công trình thi công. Như vậy, giá thành sản xuất bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung. - Giá thành tiêu thụ hay giá thành toàn bộ: Là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ bao gồm chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây lắp = Giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp + Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp Đối tượng và phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn mà chi phí sản xuất cần được tổ chức, tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát chi phí và tổ chức tính giá thành. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên quan trọng cần thiết của công tác kế toán chi phí sản xuất. Để xác định đúng đối tượng kế toán chi phí sản xuất cần dựa vào những căn cứ sau: - Đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp - Đặc điểm quy trình sản xuất sản phẩm đơn giản hay phức tạp - Đặc điểm loại hình sản xuất: đơn chiếc hay hàng loạt - Yêu cầu trình độ quản lý của doanh nghiệp Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp là đơn chiếc, thời gian sử dụng dài… mỗi hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng tập hợp chi phí sản xuất của đơn vị xây lắp được xác định: - Tập hợp theo đội thầu - Theo Xí nghiệp hạch toán phụ thuộc - Theo đơn đặt hàng hoặc hợp đồng kinh tế - Theo công trình, hạng mục công trình Hạch toán chi phí sản xuất theo đúng đối tượng có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý sản xuất và chi phí sản xuất cho công tác hạch toán kinh tế nội bộ và hạch toán kinh tế toàn doanh nghiệp, phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp thời, chính xác. Đối tượng tính giá thành xây lắp Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra và cần phải tính được giá thành và giá thành đơn vị. Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong công tác tính giá thành sản phẩm. Trong ngành xây dựng cơ bản do đặc điểm sản xuất mang tính chất đơn chiếc, mỗi sản phẩm có một dự toán riêng nên đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp thường là các công trình, hạng mục công trình hay khối lượng công việc có thiết kế và dự toán riêng đã hoàn thành. Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã xác định được, phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản phẩm và tổ chức công tác kế toán để doanh nghiệp xác định kỳ tính giá thành nhằm đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời phục vụ cho công tác quản lý của doanh nghiệp. Kỳ tính giá thành trong sản xuất xây dựng cơ bản Do sản phẩm xây dựng cơ bản được sản xuất theo từng đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài. Công trình, hạng mục công trình chỉ hoàn thành khi kết thúc một chu kỳ sản xuất sản phẩm cho nên kỳ tính giá thành thường được chọn là thời điểm mà công trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao và đưa vào sử dụng. Hàng tháng, kế toán tiến hanh tập hợp các chi phí sản xuất theo các đối tượng tính giá thành (đơn đặt hàng). Khi nhận được biên bản nghiệm thu bàn giao công trình hoàn thành đưa vào sử dụng mới dùng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp theo từng đối tượng từ khi bắt đầu thi công cho đến khi hoàn thành để tính giá thành và giá thành đơn vị. Như vậy, kỳ tính giá thành sẽ có thể không phù hợp với kỳ báo cáo kế toán mà phù hợp với chu kỳ sản xuất sản phẩm. Do đó, việc phản ánh và giám sát kiểm tra của kế toán đối với tình hình thực hiện kế hoạch chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi chu kỳ sản xuất sản phẩm đã kết thúc. Phân biệt đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm sản xuất Qua hai khái niệm về đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ta thấy có những điểm khác nhau. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là căn cứ để mở các tài khoản, các sổ chi tiết, tổ chức ghi chép ban đầu, tập hợp số liệu chi phí sản xuất chi tiết theo từng đối tượng. Còn việc xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán lập các biểu chi tiết tính giá và tổ chức công tác tính giá thành theo từng đối tượng. Tuy nhiên giữa đối tượng tính giá và đối tượng hạch toán chi phí lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Về bản chất, chúng là nhựng phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí. Số liệu về chi phí sản xuất được tập hợp trong nhiều kỳ là cơ sở và căn cứ để tính giá thành. Mối quan hệ giữa đối tượng tính giá thành và đối tượng hạch toán chi phí biểu hiện theo một trong các trường hợp sau: - Tương ứng với một đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là nhiều đối tượng tính giá thành có liên quan. - Tương ứng với nhiều đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chỉ có một đối tượng tính giá thành. - Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành tương ứng phù hợp nhau. - Tuỳ vào đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà ta cần lựa chọn phương pháp tính giá thành phù hợp. Như vậy, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm vừa có sự khác biệt vừa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do vậy, để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần phải dựa vào các cơ sở sau: Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: - Với sản phẩm giản đơn: Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản xuất sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một loại sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu nhiều loại sản phẩm cùng tiến hành trong cùng một quá trình lao động). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. - Với sản xuất phức tạp: Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, các phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết sản xuất, bộ phận sản phẩm. Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở từng bước chế tạo. Loại hình sản xuất: - Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt với khối lượng nhỏ: Đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. - Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn: Đối tượng hạch toán chi phí phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (giản đơn hay phức tạp), còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hoặc bán thành phẩm như trên. Yêu cầu có trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên cơ sở trình độ yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở các góc độ khác nhau. Ngược lại, nếu không thì đó có thể là tự hạn chế và thu hẹp lại. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán. Đồng thời thể hiện được mục đích phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống phương pháp sử dụng để tập hợp hay phân loại các chi phí. Về cơ bản phương pháp hạch toán chi phí sản xuất bao gồm các phương pháp sau: - Phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm Sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp là công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì tập hợp vào đối tượng đó một cách thích hợp. Khi hoàn thành, tổng chi phí theo đối tượng hạch toán cũng chính là giá thành sản phẩm xây lắp. Phương pháp hạch toán chi phí theo bộ phận sản phẩm Bộ phận sản phẩm xây dựng cơ bản là các giai đoạn xây lắp của các công trình, hạng mục công trình có dự toán riêng. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp cho từng giai đoạn xây lắp có liên quan. Khi hoàn thành, tổng cộng chi phí theo các giai đoạn chính là giá thành xây lắp. - Phương pháp hạch toán chi phí theo nhóm sản phẩm Phương pháp này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp xây lắp cùng lúc thi công một số công trình theo cùng một thiết kế hoặc thiết kế theo một phương thức thi công nhất định và trên cùng một địa điểm. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp theo nhóm sản phẩm, khi hoàn thành toàn bộ, kế toán phải xác định giá đơn vị sản phẩm hoàn thành. - Phương pháp hạch toán chi phí theo giai đoạn công nghệ Phương pháp này được áp dụng đối với Xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất các cấu kiện lắp sẵn. Trong các Xí nghiệp đó, toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất được chia ra nhiều giai đoạn công nghệ vật liệu được chế biến liên tục từ khâu đầu cho đến khâu cuối theo một trình tự nhất định. Như vậy có thể thấy mỗi một phương pháp hạch toán chi phí sản xuất ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp này chính là biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí. Nhìn chung, các phương pháp hạch toán chi phí có sự khác nhau nhưng nội dung của hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ hoặc sổ chi tiết theo từng đối tượng đã xác định và phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng. Hàng tháng, tiến hành tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Như vậy quá trình này được tiến hành qua các bước: -Những chi phí sản xuất phát sinh liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được tập hợp trực tiếp vào từng đối tượng chịu chi phí sản xuất như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công. -Mọi chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được tập hợp thành từng nhóm và chọn tiêu thức để phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí: Hệ số phân bổ chi phí = Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ Tổng tiêu thức phân bổ Mức phân bổ chi phí cho đối tượng i = Hệ số phân bổ chi phí x Tiêu thức phân bổ của đối tượng i Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp là phương pháp sử dụng số liệu về chi phí để tính tổng giá thành và giá thành đơn vị thực tế của sản phẩm xây lắp đã hoàn thành theo các yếu tố hoặc các khoản mục giá thành trong kỳ tính giá thành đã được xác định. Trong đó, kỳ tính giá thành xây lắp là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tính giá thành cho các công trình, hạng mục công trình. Trong các doanh nghiệp xây lắp thường áp dụng các phương pháp tính giá thành sau: Phương pháp giản đơn (phương pháp tính giá thành trực tiếp) Đây là phương pháp tính giá thành được phổ biến rộng rãi trong các công ty xây lắp hiện nay, vì sản xuất thi công mang tính đơn chiếc, đối tượng chi phí sản xuất phù hợp với đối tượng tính. Hơn nữa, việc áp dụng phương pháp này cho phép cung cấp kịp thời số liệu giá thành cho mỗi kỳ báo cáo và cách tính đơn giản dễ thực hiện. Theo phương pháp này, tất cả các chi phí sản xuất phát sinh trực tiếp cho một công trình hoặc hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình đó. Có thể căn cứ vào chi phí sản xuất của cả nhóm và hệ số kinh tế kỹ thuật cho từng công trình, hạng mục công trình nhằm tính giá thành thực tế cho hạng mục công trình đó. Trong trường hợp công trình, hạng mục công trình chưa hoàn thành mà có khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao thì cần phải tính giá thành thực tế. Giá thành thực tế khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao = Chi phí thực tế dở dang đầu kỳ + Chi phí thực tế phát sinh trong kỳ - Chi phí thực tế dở dang cuối kỳ Giá thành đơn vị khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao từng công trình, hạng mục công trình = Giá thành thực tế khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao Khối lượng sản phẩm hoàn thành Nếu các công trình, hạng mục công trình có thiết kế, dự toán khác nhau nhưng cùng thi công trên cùng một địa điểm do một đơn vị công trình sản xuất đảm nhiệm và không có điều kiện quản lý, theo dõi riêng việc sử dụng các loại chi phí khác nhau cho từng công trình, hạng mục công trình thì từng loại chi phí trên toàn bộ công trình đều phải tiến hành phân bổ cho từng hạng mục công trình. Khi đó giá thành thực tế của hạng mục công trình: ZTT = Gdti x H Trong đó: - H: Tỷ lệ phân bổ giá thành thực tế H = TC TGdt x 100% - Gdti: Giá thành dự toán của công trình i - TC: Tổng chi phí thực tế của hạng mục công trình - TGdt: Tổng giá dự toán của tất cả các hạng mục công trình 1.3.6.2 Phương pháp tính giá theo đơn đặt hàng Phương pháp này áp dụng đối với công ty nhận thầu xây lắp theo đơn đặt hàng. Đối tượng chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng. Khi đó, bắt đầu sản xuất, bộ phận kế toán mở ra một bảng chi tiết tính riêng các chi phí sản xuất theo từng khoản mục giá thành. Đối tượng tính giá thành là đơn đặt hàng hoàn thành. Vì thế, kỳ tính giá thành không phù hợp với kỳ báo cáo mà tính giá thành khi đơn đặt hàng hoàn thành. Theo phương pháp này, hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp theo từng đơn đặt hàng: Chi phí được căn cứ theo chứng từ gốc ghi trực tiếp vào từng đơn đặt hàng, các chi phí gián tiếp, chi phí chung được tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí và định kỳ phân bổ vào giá thành của các đơn đặt hàng có liên quan theo tiêu chuẩn nhất định. Do đơn đặt hàng làm xong mới tính giá thành nên chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng tập hợp cũng chính là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó. 1.3.6.3 Phương pháp tính giá thành theo tổng cộng chi phí Phương pháp này áp dụng cho doanh nghiệp xây lắp những công trình lớn, quá trình xây lắp có thể chia thành các đội sản xuất khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng đội sản xuất, đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng. Giá thành thực tế của toàn bộ công trình, hạng mục công trình được xác định như sau: Z = Ddk + C1 + C2 + … + Cn – Dck Trong đó: Z: Giá thành thực tế của toàn bộ công trình, hạng mục công trình C1, C2, …, Cn: Chi phí thực tế từng giai đoạn thi công công trình, từng hạng mục công trình. Ddk , Dck: Giá sản phẩm dở dang đầu kỳ, cuối kỳ. 1.3.6.4 Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ Phương pháp này áp dụng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí là nhóm sản phẩm nhưng đối tượng tính giá thành lại là từng sản phẩm. Trong trường hợp này phải căn cứ vào tổng chi phí thực tế và tổng chi phí kế hoạch hoặc tổng chi phí dự toán của các hạng mục công trình có liên quan để xác định tỷ lệ phân bổ. Khi đó giá thành thực tế của sản phẩm được xác định theo công thức: Giá thành thực tế khối lượng, hạng mục công trình bàn giao = Chi phí thi công xây lắp dở dang đầu kỳ + Chi phí thi công xây lắp phát sinh trong kỳ - Chi phí thi công xây lắp dở dang cuối kỳ - Khoản điều chỉnh giảm giá thành Tỷ lệ điều chỉnh (tỷ lệ phân bổ) = Giá thành thực tế công trình hoàn thành bàn giao Giá thành dự toán khối lượng, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao Giá thành thực tế hạng mục i = Giá thành kế hoạch (dự toán) hạng mục i x Tỷ lệ điều chỉnh (tỷ lệ phân bổ) 1.3.7 Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Trình tự hạch toán là thứ tự các bước tiến hành công tác tập hợp chi phí để phục vụ tính giá thành sản phẩm. Bước 1: Tập hợp chi phí sản xuất có li._. sổ, kế toán tập hợp số liệu trên các chứng từ ghi sổ để vào Sổ Cái TK 623. Tổng hợp số liệu trên TK 623, kế toán tiến hành phân bổ chi phí máy thi công theo chi phí nhân công trực tiếp để kết chuyển vào giá thành của từng công trình. VD: Căn cứ vào phiếu xuất kho số 029 ngày 10/4/07 xuất kho dầu Diezel và bình khí oxy phục vụ cho máy thi công công trình, kế toán định khoản: Nợ TK 623: 737.000 Có TK 152: 737.000 Căn cứ vào phiếu chi tiền mặt số 0151 ngày 15/04/07, chi tiền mặt trả tiền sửa chữa máy hàn và tiền thuê máy ủi đất, kế toán định khoản: Nợ TK 623: 1.718.230 Có TK 111: 1.718.230 Cu ối qu ý kế toán đ ịnh kho ản chi phí kh ấu hao m áy thi c ông l à 65.043.681 đ: N ợ TK 623: 65.043.681 C ó TK 214: 65.043.681 T ổng h ợp s ố li ệu t ừ c ác ch ứng t ừ, b ảng bi ểu li ên quan đ ến chi phí s ử d ụng m áy thi c ông công trình ph át sinh trong qu ý II n ăm 2007 l à 95.121.299đ. Đối với công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” chi phí cho công nhân tr ực ti ếp đi ều khiển máy kh ông nhi ều, đội thi công thuê thêm một số máy móc thiết bị bên ngoài để thuận tiện cho việc tiến hành xây lắp công trình, chi phí nhân công điều khiển máy thuê ngoài đã được tính luôn vào chi phí thuê máy móc. Kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê máy, phi ếu chi ti ền m ặt để làm chứng từ và hạch toán vào Sổ chi tiết chi phí máy thi công (Bi ểu 2.19). T ừ s ố li ệu t ổng h ợp tr ên c ác S ổ chi ti ết TK 623 trong qu ý II n ăm 2007, kế toán ti ến h ành ph ân b ổ chi phí m áy thi c ông cho công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” theo chi phí nh ân c ông tr ực ti ếp. Chi phí máy thi công công trình “CHXDYên Hưng-QN” = 95.121.299 x 65.684.000 = 28.796.631 đ 216.968.000 Chi phí m áy thi c ông công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” cu ối qu ý sau khi đ ư ợc ph ân b ổ l à 28.796.631 đ s ẽ đ ư ợc kết chuyển về TK 154 và l àm c ăn c ứ đ ể l ập Chứng từ ghi sổ (Biểu 2.20, 2.21), v ào Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ (mẫu Biểu 2.9), kế toán tập hợp số liệu trên các chứng từ ghi sổ để vào Sổ Cái TK 623 (Biểu 2.22). Khi kết chuyển chi phí máy thi công sau khi ph ân b ổ c ủa công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” kế toán ghi như sau: N ợ TK 154: 28.796.631 C ó TK 623: 28.796.631 Biểu 2.20: Chứng từ ghi sổ CHỨNG TỪ GHI SỔ Ngày 30 tháng 06 năm 2007 Số: 412 Trích yếu Số hiệu tài khoản Số tiền (đồng) Ghi chú Nợ Có Chi phí m áy thi c ông công trình 623 334 2.580.000 152 8.662.308 153 7.279.684 214 65.043.681 111 11.555.626 Cộng 95.121.299 Kèm theo… chứng từ gốc. Biểu 2.21: Chứng từ ghi sổ CHỨNG TỪ GHI SỔ Ngày 30 tháng 06 năm 2007 Số: 428 Trích yếu Số hiệu tài khoản Số tiền (đồng) Ghi chú Nợ Có K ết chuy ển chi phí máy thi công công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - QN”sang TK 154 154 623 28.796.631 Cộng 28.796.631 Kèm theo… chứng từ gốc. Biểu 2.22: Sổ Cái TK 623 Công ty CP thiết bị xăng dầu Petrolimex XN Cơ khí và xây lắp xăng dầu SỔ CÁI TK 623 Quý II năm 2007 Đơn vị tính: đồng Ngày tháng ghi sổ Chứng từ Diễn giải TK đ ối ứng Số tiền Số hiệu Ngày Nợ Có Số dư đầu kỳ: 30/06 412 30/06 Chi phí máy thi công công trình 334 2.580.000 152 8.662.308 153 7.279.684 214 65.043.681 111 11.555.626 30/06 428 30/06 Kết chuyển chi phí máy thi công công trình CHXD Yên Hưng 154 28.796.631 30/06 434 30/06 Kết chuyển chi phí máy thi công công trình kho gas HP 154 24.285.375 … … … … … … … Cộng số phát sinh 95.121.299 95.121.299 Số dư cuối kỳ Ng ày 03 th áng 07 n ăm 2007 Người lập biểu Kế toán trưởng Giám đốc 2.2.2.4 Kế toán chi phí sản xuất chung Để thi công công trình, ngoài các yếu tố cơ bản như nguyên vật liệu, lao động, máy móc, doanh nghiệp còn phải tiêu hao một số chi phí khác có tính chất chung liên quan đến nhiều công trình khác nhau, đó là chi phí sản xuất chung ở Xí nghiệp. Chi phí sản xuất chung này bao gồm các chi phí phát sinh ở bộ phận quản lý, tổ đội thi công, ở phân xưởng và các chi phí phát sinh ở bộ phận quản lý toàn doanh nghiệp. Chi phí sản xuất chung bao gồm: - Chi phí nhân viên phân xưởng Chi phí công cụ dụng cụ phục vụ cho tổ đội, bộ máy quản lý. Khấu hao TSCĐ các thiết bị quản lý. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Chi phí phát sinh bằng tiền khác. Các chi phí sản xuất chung được hạch toán như sau: Chi phí nhân viên phân xưởng (TK 6271): Phản ánh các khoản tiền lương, lương phụ, phụ cấp lương, phụ cấp lao động trả cho nhân viên quản lý đội xây lắp (là bộ phận gián tiếp nên việc tính lương được áp dụng theo hình thức lương thời gian), các khoản trích theo lương (KPCĐ, BHXH, BHYT) tính theo quy định hiện hành trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp, nhân viên sử dụng máy thi công và nhân viên quản lý đội. Cuối tháng, dựa trên cơ sở bảng chấm công kế toán lập bảng thanh toán lương ở bộ phận quản lý. Chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ (TK 6272, 6273): Phản ánh các loại nguyên vật liệu tiêu hao phục vụ cho công tác quản lý đội, các loại dụng cụ cầm tay phục vụ xây lắp như: dàn giáo, cốp pha… Khi phát sinh chi phí này, kế toán cũng căn cứ vào phiếu xuất kho để lên bảng kê phân loại tài khoản (TK152, 153). Toàn bộ số liệu trên bảng này đều được tập hợp vào bên Nợ TK 627. Chi phí kh ấu hao TSC Đ (TK 6274): Ph ản ánh kh ấu hao c ủa c ác TSC Đ ph ục v ụ thi c ông, ngo ại tr ừ kh ấu hao m áy m óc thi ết b ị đ ã đ ư ợc t ập h ợp v ào TK 623 Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền (TK 6277, 6278): Chi phí này khi phát sinh, kế toán căn cứ vào chứng từ gốc như hoá đơn điện, nước, điện thoại…, phiếu chi tiền mặt các khoản chi phí tiếp khách, giao dịch, lệ phí phát sinh theo quy định được tập hợp vào chi phí sản xuất chung để phản ánh vào bảng kê phân loại (TK 111), Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung, Chứng từ ghi sổ, Sổ Cái TK 627. Cuối tháng, kế toán căn cứ vào phiếu xuất kho, phiếu chi tiền mặt, hoá đơn GTGT, B ảng thanh toán lương, Bảng phân bổ lương, c ác ch ứng t ừ li ên quan… để lập Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung. Cu ối qu ý, kế toán phân bổ to àn b ộ chi phí sản xuất chung c ủa c ả qu ý cho từng công trình theo chi phí nhân công trực tiếp, sau đó l ập bảng kê chứng từ ghi sổ, Sổ Cái TK 627 đ ể k ết chuy ển v ào gi á th ành c ủa t ừng công trình. VD: Theo phi ếu xu ất kho số 042 ngày 12/4/07 xu ất Ampe k ìm hi ện s ố Đ ài Loan v à c ân đ ĩa Nh ơn Ho à cho công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” tr ị gi á 719.500 đ , kế toán định khoản: Nợ TK 627: 719.500 Có TK 153: 719.500 Căn cứ vào phiếu chi tiền g ửi ng ân h àng số 2012 ngày 17/04/07, tr ả ti ền đi ện, n ư ớc 847.038 đ , kế toán định khoản: Nợ TK 627: 847.038 Có TK 112: 847.038 C ăn c ứ v ào b ảng thanh to án l ư ơng v à b ảng ph ân b ổ l ư ơng th áng 4/07, ti ền l ư ơng v à c ác kho ản tr ích theo l ư ơng ph ải tr ả nh ân vi ên qu ản l ý, c ác kho ản tr ích theo l ư ơng ph ải tr ả ch o c ông nh ân tr ực ti ếp sản xuất, công nhân trực tiếp điều khiển máy là 36.749.813đ, kế toán định khoản: Nợ TK 627: 36.749.813 Có TK 334: 25.288.215 Có TK 338: 11.461.598 Cu ối qu ý kế toán đ ịnh kho ản chi phí kh ấu hao tài sản cố định phục vụ quản lý l à 74.821.358 đ: N ợ TK 627: 74.821.358 C ó TK 214: 74.821.358 T ổng h ợp s ố li ệu t ừ c ác ch ứng t ừ, b ảng bi ểu li ên quan đ ến chi phí sản xuất chung cho việc thi công các công trình ph át sinh trong qu ý II n ăm 2007 l à 198.248.365đ. T ừ s ố li ệu t ổng h ợp tr ên c ác S ổ chi ti ết TK 623 (Biểu 2.23) trong qu ý II n ăm 2007, kế toán ti ến h ành ph ân b ổ chi phí sản xuất chung cho công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” theo chi phí nh ân c ông tr ực ti ếp. Chi phí sản xuất chung công trình “CHXDYên Hưng-QN” = 198.248.365 x 65.684.000 = 60.016.895đ 216.968.000 Chi phí m áy thi c ông công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” cu ối qu ý sau khi đ ư ợc ph ân b ổ l à 60.016.895 đ s ẽ đ ư ợc kết chuyển về TK 154 và l àm c ăn c ứ đ ể l ập chứng từ ghi sổ (Biểu 2.24, 2.25), v ào Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ (mẫu Biểu 2.9), kế toán tập hợp số liệu trên các chứng từ ghi sổ để vào Sổ Cái TK 623 (Biểu 2.26). Khi k ết chuy ển chi phí sản xuất chung đ ã đ ư ợc ph ân b ổ c ủa công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” v ề TK 154 đ ể t ính gi á th ành, kế toán ghi: N ợ TK 154: 60.016.895 C ó TK 627: 60.016.895 Biểu 2.24: Chứng từ ghi sổ CHỨNG TỪ GHI SỔ Ngày 30 tháng 06 năm 2007 Số: 421 Trích yếu Số hiệu tài khoản Số tiền (đồng) Ghi chú Nợ Có Chi phí sản xuất chung ph ục v ụ công trình 627 334 75.846.645 338 34.384.793 152 73.719 153 6.168.500 214 74.821.358 111, 112 7.952.350 Cộng 198.248.365 Kèm theo… chứng từ gốc. Biểu 2.25: Chứng từ ghi sổ CHỨNG TỪ GHI SỔ Ngày 30 tháng 06 năm 2007 Số: 429 Trích yếu Số hiệu tài khoản Số tiền (đồng) Ghi chú Nợ Có K ết chuy ển chi phí sản xuất chung công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - QN”sang TK 154 154 623 60.016.895 Cộng 60.016.895 Kèm theo… chứng từ gốc. Biểu 2.26: Sổ Cái TK 627 Công ty CP thiết bị xăng dầu Petrolimex XN Cơ khí và xây lắp xăng dầu SỔ CÁI TK 627 Quý II năm 2007 Đơn vị tính: đồng Ngày tháng ghi sổ Chứng từ Diễn giải TK đ ối ứng Số tiền Số hiệu Ngày Nợ Có Số dư đầu kỳ: 30/06 421 30/06 Chi phí sản xuất chung ph ục v ụ công trình 334 75.846.645 338 34.384.793 152 73.719 153 6.168.500 214 74.821.358 111 7.952.350 30/06 429 30/06 Kết chuyển chi phí sản xuất chung công trình CHXD Yên Hưng 154 60.016.895 30/06 435 30/06 Kết chuyển chi phí sản xuất chung công trình kho gas HP 154 50.614.699 … … … … … … … Cộng số phát sinh 198.248.365 198.248.365 Số dư cuối kỳ Ng ày 03 th áng 07 n ăm 2007 Người lập biểu Kế toán trưởng Giám đốc 2.3 Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất toàn Xí nghiệp, kiểm kê đánh giá sản phẩm xây lắp dở dang 2.3.1 Tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp Sau khi tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí (chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung) tổng hợp cho toàn Xí nghiệp, cu ối qu ý kế toán lấy số liệu từ Sổ chi ti ết các TK 621, 622, 623, 627 để kết chuyển chi phí phát sinh vào TK 154. Kế toán lập các chứng từ ghi sổ sau đó phản ánh vào Sổ Cái TK 154 (Biểu 2.27). Biểu 2.27: Sổ Cái TK 154 Công ty CP thiết bị xăng dầu Petrolimex XN Cơ khí và đi ện t ử xăng dầu SỔ CÁI TÀI KHOẢN 154 Quý II năm 2007 Đơn vị tính: đồng Ngày tháng ghi sổ Chứng từ Diễn giải TK đ ối ứng Số tiền Số hiệu Ngày Nợ Có Số dư đầu kỳ: 829.136.476 30/06 426 30/06 Kết chuyển chi phí vật tư công trình CHXD Yên Hưng 621 312.136.000 30/06 432 30/06 Kết chuyển chi phí vật tư công trình kho gas HP 621 239.043.976 … … … … … … … 30/06 427 30/06 Kết chuyển chi phí nhân công xây lắp công trình CHXD Yên Hưng 622 65.684.000 30/06 433 30/06 Kết chuyển chi phí nhân công xây lắp công trình kho gas HP 622 55.394.000 … … … … … … … 30/06 428 30/06 Kết chuyển chi phí máy thi công công trình CHXD Yên Hưng 623 28.796.631 30/06 434 30/06 Kết chuyển chi phí máy thi công công trình kho gas HP 623 24.285.375 … … … … … … … 30/06 429 30/06 Kết chuyển chi phí sản xuất chung công trình CHXD Yên Hưng 627 60.016.895 30/06 435 30/06 Kết chuyển chi phí sản xuất chung công trình kho gas HP 627 50.614.699 … … … … … … … 30/06 462 30/06 Kết chuyển chi phí xây lắp công trình CHXDYên Hưng hoàn thành bàn giao vào TK 632 632 466.633.526 … … … … … … … Cộng số phát sinh 1.496.658.564 1.765.578.854 Số dư cuối kỳ 560.216.186 Ng ày 03 th áng 07 n ăm 2007 Người lập biểu Kế toán trưởng Giám đốc 2.2.3.2 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang tại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu Để tính được giá thành sản phẩm hoàn thành, cuối mỗi kỳ doanh nghiệp tiến hành kiểm kê và xác định sản phẩm dở dang tại mỗi bộ phận sản xuất. Trong doanh nghiệp xây lắp, sản phẩm dở dang được xác định bằng phương pháp kiểm kê hàng tháng. Việc tính giá thành sản phẩm dở dang trong sản xuất xây lắp phụ thuộc vào phương thức thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành giữa bên nhận thầu và bên giao thầu. Nếu quy định thanh toán sản phẩm xây lắp theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý (xác định được giá dự toán) thì sản phẩm dở dang là khối lượng xây lắp chưa đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được tính theo chi phí thực tế trên cơ sở phân bổ chi phí thực tế của hạng mục công trình đó cho các giai đoạn, tổ hợp công việc đã hoàn thành và các giai đoạn còn dở dang theo giá dự toán của chúng. Đây chính là phương pháp mà Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu lựa chọn để đánh giá sản phẩm dở dang. Đối với những công trình xây lắp bàn giao một lần, chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ thường được đánh giá theo chi phí thực tế. Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ = Tổng chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh - Đối với những công trình bàn giao nhiều lần, chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ được Xí nghiệp đánh giá theo chi phí sản xuất định mức Phương pháp này được Xí nghiệp áp dụng vì nó rất thích hợp với chi phí NVLTT chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành công trình. Theo phương pháp này, căn cứ vào khối lượng sản phẩm dở dang và chi phí sản xuất định mức cho một đơn vị sản phẩm ở từng công trình, giai đoạn, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ được tính theo công thức sau: Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ = Khối lượng công việc thi công công trình xây lắp dở dang cuối kỳ x Định mức chi phí sản xuất (chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung) Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà có thể chỉ tính theo định mức chi phí NVLTT hoặc cho toàn bộ các khoản. 2.2.4 Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu 2.2.4.1 Đối tượng tính giá thành sản phẩm Xí nghiệp dựa trên cơ sở đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành sản phẩm cuối cùng là từng công trình hoàn thành. Tuy nhiên cũng do đặc điểm của ngành xây lắp là quy trình sản xuất liên tục, thời gian kéo dài nhiều kỳ nên đối tượng tính giá thành nhỏ nhất là từng giai đoạn công việc hoàn thành. Công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” được thực hiện theo phương thức trọn gói, thời gian thực hiện ngắn (04 tháng) nên đối tượng tính giá thành là khi công trình này hoàn thành bàn giao. 2.2.4.2 Phương pháp hạch toán giá thành sản phẩm xây lắp Xí nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành công trình hoàn thành bằng tổng chi phí phát sinh từ khi công trình khởi công cho đến khi kết thúc, được nghiệm thu bàn giao. Tại Xí nghiệp, việc hạch toán sản phẩm xây lắp hoàn thành là theo điểm dừng kỹ thuật, kỳ tính giá thành xây dựng hoàn thành là quý. Do đó để xác định được khối lượng xây lắp thực tế hoàn thành trong quý phải tính được chi phí thực tế khối lượng sản phẩm dở dang cuối quý. Khối lượng xây lắp dở dang cuối quý là khối lượng xây lắp chưa đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được xác định bằng phương pháp kiểm kê. Đơn vị tính là từng công trình. Đối với công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh”, phương thức thanh toán là theo thời gian từ khi khởi công đến khi hoàn thiện (từ ngày 01/03/2007 đến ngày 30/06/2007). Toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình xây dựng công trình này chính là giá thành, căn cứ vào biên bản kiểm kê cuối kỳ trước, chi phí dở dang của công trình “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh”là 82.469.000đ. Để tính giá thành công trình hoàn thành, kế toán căn cứ vào chi phí thực tế phát sinh trong quý trừ đi các khoản giảm trừ (nếu có), đồng thời căn cứ vào giá trị sản phẩm dở dang, kế toán xác định tổng giá thành xây lắp công trình theo công thức sau: Tổng giá thành xây dựng công trình = Tổng giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ + Tổng chi phí phát sinh trong kỳ - Tổng giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Kế toán căn cứ vào bảng tổng hợp chi phí NVLTT (TK 621), bảng phân bổ tiền lương, sổ Cái TK 623, TK 627 để tiến hành phân bổ chi phí, tính giá thành cho từng công trình (“Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh”). Giá thành công trình = 82.469.000 + 312.136.000 + 65.684.000 + 28.796.631 + 60.016.895 - 0 = 549.102.526 (đồng) Sau đó vào bảng tính giá thành (Biểu 2.28). Bảng tính giá thành mở chi tiết cho từng công trình. Biểu 2.28: Bảng tính giá thành sản phẩm hoàn thành Công ty CP thiết bị xăng dầu Petrolimex XN Cơ khí và đi ện t ử xăng dầu BẢNG TÍNH GIÁ THÀNH Công trình: “Cửa hàng xăng dầu Yên Hưng - Quảng Ninh” Đơn vị tính: đồng Sau khi c ông tr ình ho àn th ành b àn gia o, kế toán ghi: N ợ TK 632: 549.102.526 C ó TK 154: 549.102.526 PHẦN III: MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI XÍ NGHIỆP CƠ KHÍ VÀ XÂY LẮP XĂNG DẦU Qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu, được tìm hiểu chung về Xí nghiệp cũng như công tác kế toán, em nhận thấy Xí nghiệp đã không ngừng phấn đấu ngay từ những ngày đầu được thành lập, có những đổi mới và đóng góp công sức vào mục tiêu xây dựng, phát triển chung của Công ty. Không chỉ hoàn thành tốt các nhiệm vụ được Công ty giao, Xí nghiệp còn năng động tiếp cận thị trường, mở rộng quy mô kinh doanh, tự tham gia vào các cuộc đấu thầu để nhận thêm nhiều công trình mới, đơn đặt hàng mới tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống người lao động. Sự thành công của ngày hôm nay chính là kết quả của sự sáng suốt, nhạy bén của ban lãnh đạo, của sự đoàn kết, phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong toàn Xí nghiệp. Là một sinh viên lần đầu được làm quen với thực tế, mặc dù còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm tuy nhiên em cũng xin mạnh dạn đưa ra một số đánh giá về những ưu điểm cũng như những tồn tại cần tiếp tục hoàn thiện trong công tác kế toán nói chung và kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng. 3.1 NHẬN XÉT CHUNG VỀ THỰC TRẠNG KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI XÍ NGHIỆP CƠ KHÍ VÀ XÂY LẮP XĂNG DẦU 3.1.1 Những ưu điểm của Xí nghiệp Về tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp: Xí nghiệp đã xây dựng được một bộ máy gọn nhẹ nhưng rất có hiệu quả. Các cán bộ trong Xí nghiệp đều có trình độ chuyên môn và được bố trí đúng người đúng việc nên đã phát huy được hiệu quả lao động. Các phòng ban trong Xí nghiệp được bố trí hợp lý và có sự gắn kết chặt chẽ với nhau nhờ vậy mà việc chỉ đạo và thực hiện được thống nhất từ trên xuống dưới, không có sự chồng chéo trong công tác quản lý. Về tổ chức bộ máy kế toán của Xí nghiệp: Bộ máy kế toán của Xí nghiệp được tổ chức theo hình thức tập trung. Nhân viên kế toán trong Xí nghiệp đều là những người có trình độ đại học, trung thực, có kinh nghiệm và nhiệt tình với công việc. Phòng kế toán của Xí nghiệp được bố trí gọn nhẹ, quy trình làm việc khoa học, phù hợp với khả năng của từng người. Các thành viên trong phòng cũng rất đoàn kết, có ý thức tự giác cao. Nhờ vậy, phòng kế toán luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà ban lãnh đạo giao cho. Về hệ thống chứng từ kế toán và phương pháp kế toán của Xí nghiệp: Nhìn chung hệ thống chứng từ ban đầu được tổ chức hợp pháp, hợp lệ và được tập hợp đầy đủ, kịp thời tạo điều kiện cho Xí nghiệp quản lý tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh được hiệu quả. Xí nghiệp sử dụng hệ thống chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính, ngoài ra còn có một số chứng từ khác theo quy định riêng của Công ty. Phương pháp kế toán được sử dụng ở Xí nghiệp là phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp này tương đối phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý ở Xí nghiệp vì nó cho phép phản ánh một cách kịp thời và thường xuyên tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị, cung cấp đầy đủ các thông tin cho nhà quản lý doanh nghiệp. Việc áp dụng hình thức chứng từ ghi sổ phù hợp với quy mô, đặc điểm của Xí nghiệp. Hình thức này dễ làm, dễ kiểm tra đối chiếu, thuận tiện cho việc áp dụng phần mềm kế toán máy Esoft mà Xí nghiệp đang sử dụng. Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được xác định phù hợp với đặc điểm của đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, phù hợp với yêu cầu và khả năng của Xí nghiệp. Nói chung ở Xí nghiệp, công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã đáp ứng được yêu cầu quản lý đặt ra và đảm bảo tính chính xác. Xí nghiệp tính giá xuất kho nguyên vật liệu theo phương pháp nhập trước xuất trước. Việc lựa chọn áp dụng phương pháp này là hết sức phù hợp đối với đơn vị hoạt động xây lắp như Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Sự biến động của nền kinh tế trong nước và thế giới đã tác động không nhỏ tới sự leo thang của giá cả nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho các hoạt động xây lắp của Xí nghiệp, giảm bớt được chênh lệch giữa giá thành dự toán và giá thành thực tế. Tuy nhiên bên cạnh đó, công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vẫn còn tồn tại những thiếu xót, hạn chế. 3.1.2 Những hạn chế của Xí nghiệp Do tính chất phức tạp của ngành xây dựng nên trong quá trình sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp còn tồn tại những mặt hạn chế sau: Thứ nhất: Về chế độ các khoản trích theo lương áp dụng tại Xí nghiệp: Xí nghiệp chỉ trích BHXH, BHYT, KPCĐ cho cán bộ quản lý tại đơn vị còn đối với công nhân ký hợp đồng lao động có thời hạn tham gia quản lý trực tiếp tại công trình thì Xí nghiệp chưa tiến hành trích BHXH, BHYT, KPCĐ. - Thứ hai: Về việc giảm các thủ tục nhập, xuất kho vật tư. Tại Xí nghiệp, đối với vật tư được mua và xuất sử dụng ngay nhưng theo nhu cầu với các nghiệp vụ nhập, xuất kho, kế toán thường viết cá phiếu nhập kho sau đó viết luôn phiếu xuất kho. Như vậy việc thực hiện các thủ tục nhập, xuất nhiều khi chỉ mang tính hình thức, phục vụ cho nhu cầu quản lý. Theo em, Xí nghiệp nên xem xét xoá bỏ hình thức này. - Thứ ba: Về việc chậm chuyển chứng từ Việc phản ánh chi phí phát sinh của công trình thi công là không kịp thời do chứng từ các đội thi công chuyển lên không thường xuyên mà thường gửi vào cuối tháng. Chính điều này không những khiến cho công tác kế toán vào cuối tháng là rất bận rộn, đặc biệt là vào cuối quý mà còn làm ảnh hưởng đến việc thông tin cho lãnh đạo doanh nghiệp trong việc kiểm soát chi phí một cách chặt chẽ. - Thứ tư: Về chi phí máy thi công Việc Xí nghiệp hạch toán chi phí khấu hao TSCĐ (liên quan đến nhà xưởng, kho tàng, trụ sở) của Xí nghiệp vào chi phí khấu hao máy thi công là không hợp lý, không phản ánh đúng bản chất của chi phí sử dụng máy thi công vào giá thành của từng công trình. Kế toán sử dụng tiêu thức phân bổ “chi phí nhân công trực tiếp” cũng không hợp lý, không tính đúng giá thành của từng công trình. Vì thực tế chi phí máy thi công ở Xí nghiệp chỉ bao gồm các chi phí cho hoạt động của máy, không bao gồm chi phí nhân công điều khiển máy. Chi phí nhân công điều khiển máy chỉ chiếm một phần nhỏ trong toàn bộ chi phí liên quan đến máy thi công phát sinh. Bên cạnh đó, có công trình Xí nghiệp thi công đòi hỏi phải sử dụng máy thi công nhiều, lao động thủ công ít và ngược lại có công trình lại yêu cầu lao động chân tay nhiều, cơ giới ít. Tại Xí nghiệp, toàn bộ chi phí máy thi công của các công trình, hạng mục được theo dõi chung trên sổ chi tiết, đến cuối kỳ kế toán mới tiến hành phân bổ chi phí này để kết chuyển về tài khoản 154 tính giá thành của công trình, hạng mục công trình. Do vậy Xí nghiệp gặp khó khăn trong việc quản lý, theo dõi chi tiết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh cho từng công trình cụ thể. - Thứ năm: Về chi phí sản xuất chung Tại Xí nghiệp, chi phí sản xuất chung là chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá thành sản phẩm. Chi phí này không chỉ bao gồm các chi phí chung phát sinh ở bộ phận quản lý đội mà còn bao gồm cả chi phí quản lý hành chính. Do vậy, việc Xí nghiệp hạch toán toàn bộ chi phí sản xuất chung phát sinh vào sổ chi tiết TK 627 chung cho tất cả các công trình, hạng mục công trình cuối kỳ mới phân bổ gây ra việc công trình này gánh bù chi phí cho công trình khác, chi phí của công trình được tập hợp không phản ánh chính xác các khoản phát sinh thực tế của công trình đó dẫn đến việc tính giá thành sẽ có những sai sót. Để giải quyết các hạn chế này, em xin được trình bày như sau: 3.2 MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI XÍ NGHIỆP CƠ KHÍ VÀ XÂY LẮP XĂNG DẦU Xuất phát từ yêu cầu chức năng cơ bản của kế toán, từ những tồn tại trong công tác tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp đã nêu ở trên và từ đặc điểm cụ thể đã nêu của Xí nghiệp, em xin có ý kiến đề xuất với mong muốn góp phần vaà quá trình củng cố hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp của Xí nghiệp nhằm phát huy vai trò của kế toán trong quản lý kinh tế. 3.2.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp Chi phí sản xuất xây lắp gắn liền với sử dụng vật tư, lao động. Trong sản xuất xây lắp thực chất quản lý chi phí sản xuất xây lắp là quản lý việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các yếu tố sản xuất xây lắp, hạ giá thành sản phẩm xây lắp, cung cấp đầy đủ các thông tin cho nhà quản lý. Vấn đề hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong các doanh nghiệp đều đề cập giải quyết đến các nội dung sau: Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và phân bổ chi phí sản xuất một cách thích hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp. Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Như vậy hoàn thiện có nghĩa là hoàn thiện hơn, sao cho lý luận phải phù hợp với thực tiễn và ngược lại. 3.2.2 Yêu cầu hoàn thiện - Phương án mới phải tuân thủ các chính sách của Nhà nước, các nguyên tắc tài chính – kế toán hiện hành của Bộ Tài chính quy định chung cho các doanh nghiệp. - Phải đưa ra những dự án có tính khả thi cao mà doanh nghiệp có thể thực hiện được sao cho không có rủi ro. - Khi thực hiện phương án mới phải đem lại hiệu quả cao hơn hay khả thi hơn cách làm cũ. 3.2.3 Một số ý kiến đóng góp 3.2.3.1 Ý kiến thứ nhất: Về chế độ các khoản trích theo lương áp dụng tại Xí nghiệp Xí nghiệp nên mua BHYT cho tất cả các nhân viên làm việc có ký hợp đồng lao động trên một năm để đảm bảo quyền lợi vật chất, góp phần nâng cao đời sống cho công nhân viên khi họ gặp những rủi ro như: ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng lao động, tai nạn trong lao động… 3.2.3.2 Ý kiến thứ hai: Về việc giảm các thủ tục nhập, xuất kho vật tư Để xác định bộ chứng từ gốc làm căn cứ ghi Nợ TK 621, Xí nghiệp có thể chỉ sử dụng hoá đơn mua hàng và biên bản giao nhận vật tư giữa bộ phận cung ứng và bộ phận sản xuất. Biên bản được lập như sau: Biểu 3.1: Biên bản giao nhận vật tư BIÊN BẢN GIAO NHẬN VẬT TƯ Ngày… tháng… năm… Chúng tôi gồm: Ông (bà): Người cung ứng vật tư. Ông (bà): Người nhận. Đã tiến hành bàn giao số lượng vật tư sau đây: STT Quy cách, chủng loại vật tư Đơn vị tính Số lượng 1 2 3 4 … Đại diện bên cung ứng (Ký, họ tên) Đại diện bên nhận (Ký, họ tên) (Biên bản trên được lập tại chỗ. Sau đó chuyển hoá đơn và biên bản về phòng kế toán làm căn cứ pháp lý để ghi sổ kế toán). 3.2.3.3 Ý kiến thứ ba: Về tập hợp chứng từ Với các đội xây lắp phân bổ ở nhiều nơi trong nước để thi công công trình, việc tập hợp chứng từ vào cuối mỗi tháng sẽ không thể phản ánh được chi phí phát sinh trong kỳ một cách kịp thời cho ban lãnh đạo Xí nghiệp. Do vậy lãnh đạo Xí nghiệp không thể kịp thời đưa ra được những quyết sách điều chỉnh. Hơn nữa, việc chuyển chứng từ dồn dập vào cuối tháng sẽ tạo ra một khối lượng công việc khổng lồ mà phòng kế toán Xí nghiệp phải giải quyết đặc biệt là vào cuối quý. Điều này cũng tạo ra áp lực không nhỏ khiến cho sai sót có thể xảy ra. Vì vậy, để những chi phí phát sinh trong quá trình thi công được phản ánh kịp thời vào sổ sách kế toán, giảm bớt khối lượng công việc tồn đọng dồn vào cuối tháng, Xí nghiệp nên có biện pháp đôn đốc quản lý đội tập hợp và chuyển chứng từ hàng tuần vào một ngày quy định. Như vậy, công việc phản ánh chi phí vào sổ sách được dàn trải đều đồng thời cung cấp thông tin chi phí kịp thời cho ban lãnh đạo. Việc chuyển chứng từ về Xí nghiệp hàng tuần có thể gây ra khó khăn cho người quản lý đội trong việc tập hợp vào sổ sách theo dõi tại đội. Vì thế người quản lý đội cũng cần có kế hoạch tập hợp chứng từ ngay khi phát sinh vào sổ sách của mình để kịp thời chuyển về Xí nghiệp theo đúng ngày quy định. 3.2.3.4 Ý kiến thứ tư: Về chi phí máy thi công Theo em để phản ánh đúng bản chất chi phí máy thi công và tính chính xác giá thành của từng công trình, Xí nghiệp nên tách phần chi phí khấu hao TSCĐ (liên quan đến nhà xưởng…) để hạch toán vào chi phí sản xuất chung. Xí nghiệp có thể tiến hành phân bổ chi phí máy thi công theo ca máy hoạt động (giờ máy hoạt động). Để xác định ca máy hoạt động cho từng công trình, Xí nghiệp nên yêu cầu các tổ trưởng quản lý đội thi công hàng tháng phải theo dõi giờ máy hoạt động của công trình mình chịu trách nhiệm thi công. Xí nghiệp có thể mở Bảng phân bổ chi phí máy thi công theo mẫu sau: Biểu 3.2: Bảng phân bổ chi phí sử dụng máy thi công BẢNG PHÂN BỔ CHI PHÍ SỬ DỤNG MÁY THI CÔNG Tháng… năm… STT Tên xe, máy thi công Tổng số chi phí phân bổ Số ca, giờ máy hoạt động Số chi phí phân bổ cho 1 ca máy Công trình … Số ca, giờ máy Chi phí máy thi công phân bổ 1 2 3 4 5 = 3 / 4 6 7 = 5 x 6 Cộng Xí nghiệp nên mở sổ chi tiết TK 623 cho từng công trình, hạng mục công trình để tiện theo dõi các chi phí phát sinh liên quan đến công trình, hạng mục công trình ấy. 3.2.3.5 Ý kiến thứ năm: Về chi phí sản xuất chung Cũng giống như chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung của Xí nghiệp cũng nên mở sổ chi tiết TK 627 cho từng công trình, hạng mục công trình cho các chi phí sản xuất chung phát sinh liên quan đến công trình, hạng mục công trình đó. Những chi phí sản xuất chung thuộc bộ phận quản lý không thể tập hợp vào một công trình riêng nào thì đến cuối kỳ, kế toán tập hợp rồi phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng công trình, hạng mục công trình theo “chi phí nhân công trực tiếp”. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnd2.doc
  • xlsbang bieu bc exel.xls
Tài liệu liên quan