Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Nguyễn Khoa

Lời mở đầu Công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ luôn là một vấn đề thời sự được các doanh nghiệp quan tâm vì nó là vấn đề thiết thực có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, việc tìm tòi một phương pháp quản lý tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm luôn là mục tiêu của các nhà quản lý. Công ty TNHH Nguyễn Khoa hoạt động sanr xuất kinh doanh của công ty rất đa dạng, phong phú. Vấn đề tổ chức công tác kế toán sản xuất và

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Nguyễn Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính giá thành như thế nào còn là vấn đề khó khăn.Trong thời gian thực tập tại công ty, em đã đi sâu tìm hiểu tình hình thực tế của công tác hạch toán chi phí sản xuất - tính giá thành và hoàn thành báo cáo thực tập với đề tài: “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH Nguyễn Khoa ” Đề tài này với mục đích làm rõ lý luận và thực tiễn của công tác hạch toán chi phí sản xuất tính giá thành, nhiệm vụ và tầm quan trọng của nó trong các doanh nghiệp trên cơ sở tìm hiểu quy trình hạch toán nghiệp vụ này tại công ty TNHH Nguyễn Khoa.Từ đó, rút ra những nhận xét, đánh giá và đưa ra những giải pháp hoàn thiện các vấn đề còn tồn tại hiện nay của hệ thống lý thuyết nói chung và vận dụng thực tế tại công ty TNHH Nguyễn Khoa. Ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận báo cáo thực tậ gồm 3 phần: Chương I: Các vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chương II: Thực tế công tác kế toán sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty Chương III: Nhận xét và kiến nghị công tác kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm của công ty Với điều kiện thời gian thực tập và trình độ còn hạn chế, báo cáo thực tập tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét của cô giáo hướng dẫn các thầy cô giáo trong khoa kế toán, các cô chú anh chị phòng tài chính- kế toán của công ty. Phần thứ nhất Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Sự cần thiết về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường có tính cạnh tranh gay gắt, để có chỗ đứng, thị phần trong nền kinh tế thì các doanh nghiệp phải tham gia vào cuộc canh tranh khốc liệt đó với những công cụ cạnh tranh hữu hiệu, phải tạo được sức hút thông qua cạnh tranh. Chính sách về giá là một trong những công cụ đó. Tại Việt Nam, do điều kiện sống còn hạn chế, người tiêu dùng khi mua bất kì sản phẩm nào, bên cạnh chất lượng mẫu mã thì giá cả là yếu tố quan tâm hàng đầu.Vì vậy để sản phẩm có thể tiêu thụ được, đem lại lợi nhuận thì doanh nghiệp phải chú trọng tới chất lượng, maũu mã và hơn hết là giá cả sản phẩm. Giá cả phải phù hợp với người tiêu dùng và với các loại sản phẩm cùng loại trên thị trường. Thực tế cho thấy ngày nay có rất nhiều doanh nghiệp sử dụng thành công chính sách về giá như là một công cụ cạnh tranh có hiệu quả. Để có một cơ chế giá phù hợp (đảmbảo thu nhập đủ bù đắp chi phí và phải có lãi), thì doanh nghiệp cần phải đảm bảo việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đúng, đủ và chính xác. Có như vậy các nhà quản trị doanh nghiệp mới có thể đề ra được đường lối đúng đắn trong việc thực hiện định mức chi phí kế hoạch và tính giá thành sản phẩm. Vậy có thể nói công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có một tầm quan trọng lớn dưới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc thực hiện tốt công tác này sẽ giup doanh nghiệp ngày càng đứng vững trong nền kinh tế thị trường. 1.2 Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất 1.2.1 Khái niệm chi phí sản xuất Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một thời kì nhất định. Để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, bất kì doanh nghiệp nào cũng phải có đủ ba yếu tố cơ bản sau: - Tư liệu lao động như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ… - Đối tượng lao động: nguyên vật liệu… - Sức lao động của con người Quá trình sản xuất củng chính là quá trình tiêu hao các yếu tố trên. Việc sử dụng các yếu tố cơ bản này cũng chính là quá trình doanh nghiệp phải chi ra các yếu tố tương ứng. Trong đó chi phí về nhân công là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống con các chi phí khác là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động vật hoá. Có thể thấy sự hình thành của các chi phí là tất yếu, khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất không chỉ bao gồm các yếu tố lao động sống, lao động vật hoá mà còn bao gồm cả các giá trị mới sáng tạo ra như các loại thuế không được hoàn lại, các chi phí lãi vay phải trả….Các chi phí sản xuất của doanh nghiệp luôn được tính toán và đo lường bằng tiền. Nó luôn gắn với một khoảng thời gian nhất định. Độ lớn của chi phí sản xuất là một đối tượng xác định và phụ thuộc hai yếu tố sau: - Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao và sản xuất trong một thời kì nhất định. - Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền công một đơn vị lao động đã hao phí Chi phí sản xuất là thường xuyên và trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất cần phải tính toán, tập hợp theo từng thời kì tuỳ thuộc vào đặc điểm của doanh nghiệp và phù hợp với kì báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp bỏ ra mới được tính vào chi phí sản xuất trong kì. 1.2.2 Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, phát sinh tại các địa điểm khác nhau, có công dụng và mục đích khác nhau. Để phục vụ cho công tác quản lý chi phí và tập hợp chi phí sản xuất thì việc phân loại chi phí là cần thiết. Có nhiều cách phân loại chi phí theo các tiêu thức và quan điểm khác nhau. Tuy nhiên do khuôn khổ của báo cáo có hạn, em xin trình bày bốn cách phân loại chủ yếu sau: 1.2.2.1 Phân loại chi phí sản xuất theo theo nội dung, tính chất kinh tế của các chi phí Cơ sở của cách phân loại này là nội dung và tính chất kinh tế của từng chi phí. Trên cơ sở đó chi phí sản xuất được chia thành các yếu tố chi phí. Mỗi yếu tố chi phí bao gồm các chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế, không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh vực hoạt động nào ở đâu, công dụng và mục đích ra sao. Toàn bộ chi phí sản xuất trong kì được chia thành các yếu tố sau: - Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị cơ bản đã sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì. - Chi phí nhân công: là toàn bộ tiền công và các khoản phải trả cho người lao động. Bao gồm tiền lương, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ phần trăm, chế độ qui định của công nhân viên trong doanh nghiệp. - Chi phí khấu hao tài sản cố định: bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định sử dung trong sản xuất của doanh nghiệp. - Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã chi trả về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp như: điện, nước… - Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ số chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất ngoài bốn yếu tố chi phí nêu trên. Việc phân loại chi phí theo cách này giúp cho ta biết được kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí sản xuất để phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị tại doanh nghiệp, để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí, lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố ở bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Ngoài ra còn lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh cho kì sau. Các yếu tố chi phí này còn gọi là yếu tố chi phí đơn nhất. 1.2.2.2 Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kì đều có mục đích và công dụng nhất định đối với họat động sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào công dụng, mục đích có thể chia chi phí sản xuất thành các khoản mục chi phí khác nhau. Mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích công dụng, không phân biệt chi phí có nội dung kinh tế như thế nào. Vì vậy cách phân chia này gọi là phân chia theo khoản mục: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm chi phí nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Không tính vào đây các chi phí nguyên liệu, nhiên liệu sử dụng vào mục đích chung và hoạt động ngoài sản xuất. - Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí tiền công, trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân viên trực tiếp sản xuất. Khoản mục này không bao gồm tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên sản xuất chung. - Chi phí sản xuất chung: gồm những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung tại các phân xưởng ngoài hai khoản mục nêu trên. Gồm sáu khoản mục sau: Chi phí nhân viên phân xưởng Chi phí vật liệu Chi phí dụng cụ sản xuất Chi phí khấu hao tài sản cố định Chi phí dịch vụ mua ngoài chi phí khác bằng tiền Việc phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng kinh tế có tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành làm tài liệu tham khảo để lập kế hoạch giá thành sản phẩm cho kì sau. 1.2.2.3 Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm của công việc lao vụ trong kì Theo cách này, chi phí được chia thành hai loại: - Chi phí khả biến (biến phí) là những chi phí có sự thay đổi lượng tỉ lệ với khối lượng hoạt động. - Chi phí cố định (định phí) là các chi phí mà tổng của chúng không thay đổi khi có sự thay đổi về khối lượng hoạt động. Việc phân loại chi phí sản xuất theo định phí và biến phí có tác dụng lớn đối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm và tăng hiệu quả kinh doanh. 1.2.2.4 Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và mối quan hệ với đối tượng chi phí Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia thành: - Chi phí trực tiếp: là các chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với việc sản xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định. Đối với chi phí này, kế toán có thể căn cứ vào các chứng từ để ghi trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí. - Chi phí gián tiếp: là những chi phí gián tiếp có liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc. Đối với các chi phí này kế toán phải tiến hành tập hợp và phân bổ cho từng đối tượng liên quan theo những tiêu thức phân bổ thích hợp. Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất cho các đối tượng một cách đúng đắn hợp lý. 1.2.3 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất Đối tượng kế toán tập hợp chi phí là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm Việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên quan trọng của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định đúng đắn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, phù hợp với đặc điểm tình hình sản xuất, quy trình sản xuất sản phẩm và yêu cầu quản lý chi phí sản xuất của doanh nghiệp thì việc tập hợp chi phí sản xuất mới đầy đủ và hợp lý. Mỗi doanh nghiệp khác nhau thì việc xác định đối tượng, tập hợp chi phí sản xuất có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của doanh nghiệp. Có thể theo một số căn cứ sau: - Mục đích sử dụng của chi phí - Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - Quy trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm - Địa điểm phát sinh chi phí, mục đích công nghệ chi phí - Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp - Đặc điểm tính chất của từng loại sản phẩm Dựa vào những căn cứ trên, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp có thể là phân xưởng sản xuất, từng loại sản phẩm, từng sản phẩm, từng đơn đặt hàng. Việc tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã được qui định hợp lý có tác dụng phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được đúng đắn kịp thời. 1.3 Khái niệm và phân loại về giá thành sản phẩm 1.3.1 Khái niệm về giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là sự biểu hiện bằng tiền của các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm do doanh nghiẹep sản xuất hoàn thành. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp là phải bỏ ra những chi phí sản xuất. Mặt khác, kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp sẽ thu được những kêt quả là sản phẩm công việc nhất định. Những sản phẩm này gọi là thành phẩm. Khi xuất bán thành phẩm thì bao giờ cũng phải tính giá thành tức là toàn bộ chi phí sản xuất ra chúng. Giá thành là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả sử dung tài sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất. Đồng thời nó cũng phản ánh sự đúng đắn của các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất: Đạt được nhiều sản phẩm nhất với khoản chi phí bỏ ra ít nhất. Giá thành còn là căn cứ để xác định giá bán và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu là chức năng bù đắp chi phí và chức năng lập giá. 1.3.2 Phân loại giá thành sản phẩm Cũng như chi phí sản phẩm, giá thành có nhiều cách phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Có thể kể ra đây những cách phân loại chủ yếu sau: 1.3.2.1 Phân loại giá thành trên cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành Giá thành sản phẩm chia làm ba loại: - Giá thành kế hoạch: là giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản phẩm sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. - Giá thành định mức: là giá thành được tính trên cơ sở định mức chi phí hiện hành trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp. Có thể coi giá thành định mức là thước đo chính xác tính hiệu quả của các giải pháp kinh tế, kỹ thuật đúng đắn của doanh nghiệp. - Giá thành thực tế: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp trong kỳ cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất. Nó là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hai loại giá thành đầu được tính toán trước khi tiến hành sản xuất, loại giá thành thứ ba được xác định sau khi tiến hành sản xuất. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kì hạch toán. Từ đó điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp. 1.3.2.2 Phân loại phạm vi chi phí cấu thành Bao gồm bốn loại: - Giá thành sản xuất toàn bộ: là giá thành bao gồm toàn bộ biến phí và định phí thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. - Giá thành sản xuất toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ: là giá thành bao gồm giá thành sản xuất cộng thêm các chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. - Giá thành sản xuất theo biến phí: là giá thành chỉ bao gồm các biến phí sản xuất kể cả biến phí trực tiếp và biến phí gián tiếp. - Giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý định phí: là giá thành bao gồm các biến phí sản xuất và một phần định phí hợp lý. Cách phân loại này giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh của từng mặt hàng, phục vụ cho yêu cầu công tác quản trị doanh nghiệp. 1.3.3 Đối tượng tính giá thành Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, cần phải tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị. Việc xác định đối tượng tính giá thành là căn cứ để kế toán mở các thẻ tính giá thành sản phẩm. Việc xác định đối tượng tính giá thành phải căn cứ vào - Đặc điểm tổ chức sản xuất và cơ cấu sản xuất - Quy trình công nghệ sản xuất và chế tạo sản phẩm - Đặc điểm sử dụng thành phẩm, bán thành phẩm - Các yêu cầu quản lý, yêu cầu cung cấp thông tin cho việc ra quyết định trong doanh nghiệp - Khả năng và trình độ quản lý, hạch toán hàng từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh Dựa vào những căn cứ trên đối tượng tính giá thành có thể là thành phẩm, bán thành phẩm, vhi tiết sản phẩm… Cùng với việc xác định đối tượng tính giá thành, doanh nghiệp còn phải xác định kì tính giá thành và đơn vị tính giá thành. 1.3.4 Kỳ tính giá thành Kỳ tính giá thành là thời kì bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Mỗi đối tượng tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất và chu kì sản xuất của chúng để xác định kì tính giá thành cho phù hợp. Nguyên tắc chung khi tính giá thành là khi kết thúc qui trình sản xuất hoặc kết thúc giai đoạn công nghệ. Có một số căn cứ sau: - Đối với những sản phẩm được tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt theo từng đơn đặt hàng của khách hàng, chu kì sản xuất của sản phẩm dài, sản phẩm chỉ hoàn thành, kết thúc chu kì sản xuất thì kì tính giá thành là thời điểm kết thúc chu kì sản xuất sản phẩm đã hoàn thành. - Đối với những sản phẩm sản xuất khối lượng lớn, chu kì sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục thì kì tính giá thành là hàng tháng. 1.3.5 Đơn vị tính giá thành Đơn vị tính giá thành: là đơn vị tính phải được thừa nhận phổ biến trong nền kinh tế quốc dân, đơn vị tính giá thành thực tế phải nhất trí với đơn vị tính giá thành ghi trong kế hoạch sản xuất của doan nghiệp. 1.4 Phân biệt chi phí sản xuất với giá thành sản phẩm và mối quan hệ giữa chúng 1.4.1 Phân biệt chi phí sản xuất với giá thành sản phẩm Nội dung của tính giá thành là chi phí nhưng không phải tất cả mọi chi phí đều được tính vào giá thành sản phẩm - Chi phí sản xuất chỉ tính cho một kì còn giá thành sản phẩm có liên quan đến chi phí kì trước chuyển sang, chi phí phát sinh kì này và chi phí kì này chuyển sang kì sau. - Chi phí sản xuất không liên quan đến khối lượng sản phẩm dịch vụ hoàn thành còn giá thành sản phẩm là giới hạn những chi phí liên quan tới khối lượng sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành. Zsx = Chi phí sản xuất dở dang đầu kì + Chi phí sản xuất phát sinh trong kì - Chi phí sản xuất dở dang cuối kì 1.4.2 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí và giá thành có mối quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau. Chúng vừa là tiền đề vừa là nguyên nhân kết quả của nhau. Chi phí sản xuất biểu hiện về mặt hao phí còn giá thành sản phẩm là biểu hiện về mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thông nhất của một quá trình, vì vậy chung giống nhau về chất. Tuy nhiên xết về lượng thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau. Điều này được thể hiện như sau: - Chi phí sản xuất luôn gắn liền với một thời kì nhất định còn giá thành phẩm gắn liền với một loại sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. - Chi phí sản xuất trong kì không chỉ liên quan tới những sản phẩm hoàn thành trong kì mà còn liên quan tới những sản phẩm dở dang cuối kì và sản phẩm hỏng trong kì. Trong khi đó giá thành sản phẩm không liên quan tới chi phí sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan tới chi phí sản phẩm dở dang cuối kì trước chuyển sang. Chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm như sau: Chi phí sản xuất dở dang đầu kì Chi phí sản xuất phát sinh trong kì Tổng giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất dở dang cuối kì Qua sơ đồ ta thấy: Tổng giá thành sản phẩm = Chi phí sản xuất dở dang đầu kì + Chi phí sản xuất phát sinh trong kì - Chi phí sản xuất dở dang cuối kì Mặc dù khác nhau về lượng nhưng hai khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại có mối quan hệ mật thiết vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất trong kì là căn cứ, cơ sở để tính giá thành của sản phẩm hoàn thành. Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và cuối kì bằng nhau thì tổng giá thành bằng chi phí sản xuất phát sinh trong kì. Sự tiết kiệm hay lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm cao hay thấp . Do đó quản lý giá thành sản phẩm phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. Phần thứ HAI Thực trạng công tác quản lý chi phí sản suất và giá thành sản phẩm tại công ty TNHH NGUYễN KHOA 2.1 Qúa trình hình thành và phát triển của công ty 2.1.1 Tìm hiểu sơ bộ về công ty Tên công ty : Công ty Nguyễn Khoa Tên giao dịch : Công ty Nguyễn Khoa Trụ sở :P508 Tòa nhà 17T6 khu Trung Hòa Nhân Chính Ngân hàng giao dich : Vietcombank Mã số thuế :01010101285908 Điện thoại :(04) 8215020 Fax :8226912 Vốn pháp định : 4 tỷ VNĐ 2.1.2 Qúa trình hình thành và phát triển của công ty Công ty TNHH Nguyễn Khoa được thành lập vào ngày 06 tháng 09 năm 2002. Số đăng kí kinh doanh 0102006247, hiện nay công ty có trụ sở chính tại Đồng Hới- Duy Tiên – Hà Nam. Nhưng công ty TNHH Nguyễn Khoa còn có một trụ sở nữa ở P508- Tòa nhà 17T6 khu Trung Hòa Nhân Chính. Là một doanh nghiệp được thành lập trong nền kinh tế thị trường, tuy mới thành lập trong thời gian không lâu nhưng sản phẩm công ty TNHH Nguyễn Khoa ngày càng được người tiêu dùng biết đến. Để đạt được kết quả này chính là nhờ sự nỗ lực cố gắng tìm hướng đi đúng đắn của ban lãnh đạo cũng như toàn bộ công nhân viên trong công ty.Công ty TNHH Nguyễn Khoa chuyên sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Với số vốn ban đầu là 4 tỷ VNĐ ( Bốn tỷ đồng), đến năm 2004 công ty TNHH Nguyễn Khoa đã bổ sung các ngành nghề kinh doanh: - Buôn bán hàng nông, lâm, thủy hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ - Buôn bán vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất, hàng kim khí, may mặc, điện máy, xe máy, phương tiện vận tải, trang thiết bị y tế, vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ công- nông- ngư nghiệp , xây dựng - Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hóa - Sản xuất hàng nội thất và gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ cao cấp. Nhờ đó vốn kinh doanh của công ty đã được bổ sung thành 5 tỷ đồng, việc đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh giúp cho doanh nghiệp thích ứng với sự vận động của thị trường. Song chủ yếu vẫn là hàng thủ công mỹ nghệ. 2.2 Chức năng và nhiệm vụ của công ty Công ty TNHH Nguyễn Khoa với mục đích hoạt động là đáp ứng nhu cầu hàng hóa tiêu dùng trong và ngoài nước sản phẩm đa dạng, phong phú, kích thích hoạt động của nền kinh tế, góp phần tăng thu nhập cho ngân sách và phát triển đất nước. Do đó nội dung hoạt động chủ yếu của công ty là kinh doanh thương mại, làm cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và được phép kinh doanh bằng tài sản hay nguồn vốn có liên doanh, liên kết. Trong bối cảnh hiện nay, công ty có nhiệm vụ sau: - Làm đầy đủ các thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định của nhà nước - Thực hiện đầy đủ nội dung trong đơn xin thành lập công ty và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật. - Tự tạo nguồn vốn và quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó, đảm bảo công ty làm ăn có lãi. - Tuân thủ chính sách, chế độ của nhà nước đã đề ra. Không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, đời sống, nghề nghiệp trong cán bộ công nhân viên và làm công tác tốt bảo hộ lao động, trật tự xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh. - Tăng cường đổi mới để tăng hiệu quả kinh doanh, mở rộng thị trường nhằm phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty, tăng thu cho ngân sách. 2.3 Đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý của công ty TNHH Nguyễn Khoa 2.3.1 Đặc điểm tổ chức sản xuất Đặc điểm tổ chức sản xuất hay còn gọi là công trình công nghệ là căn cứ để tập hợp đối tượng chi phí sản xuất. Theo nghĩa rộng, hoạt động sản xuất là một hoạt động đồng bộ, nối tiếp bốn khâu liên tiếp: sấy nguyên vật liệu - chế tạo thành sản phẩm - sấy sản phẩm - đóng gói. Theo nghĩa hẹp, hoạt động sản xuất là việc sản xuất ra được những sản phẩm, sửa chữa, hoàn thiện sản phẩm để phục vụ cho khách hàng yêu cầu. Mặt khác hàng thủ công mỹ nghệ là một mặt hàng không chỉ yêu cầu về chất lượng mà còn phải đảm bảo về mẫu mã đẹp. Hàng thủ công mỹ nghệ là một mặt hàng đặc biệt nó yêu cầu người công nhân phải tỉ mỉ.Vậy để hoàn thành một sản phẩm phải trải qua bốn quá trình sau: - Phải tiến hành sấy nguyên vật liệu trước khi đem vào sản xuất để đảm bảo nguyên vật liệu không bị mốc sau khi đã làm thành sản phẩm. - Tiến hành các công đoạn làm thành sản phẩm, khi nguyên vật liệu đã được sấy khô thì bắt đầu tiến hành đánh giấy giáp các mây, tre cho nhăn rồi tiến hành uốn theo những những sản phẩm mà công ty cần làm. Sau khi đã làm xong phần thô thì tiến hành phun lớp bảo vệ cho sản phẩm được bền hơn. - Sau khi đã làm xong tất cả mọi công việc thì lại đem sản phẩm vào sấy một lần nữa nhằm cho sản phẩm được khô hơn hơn và đảm bảo cho sản phẩm được tốt hơn. - Khi đã làm xong mọi công đọan thì đem sản phẩm đi đóng gói. 2.3.2 Đặc điểm công tác quản lý tại công ty TNHH Nguyễn Khoa Như trên đã trình bày công ty TNHH Nguyễn Khoa là một là công ty hạch toán độc lập: có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản tại ngân hàng, có giấy phép đăng ký kinh doanh.Công ty bao gôm bốn bộ phận chính: Phòng kinh doanh Phòng kế toán – tài vụ Xưởng sản xuất Phòng mẫu Giám đốc Có thể sơ đồ hóa bộ máy quản lý của công ty TNHH Nguyễn Khoa như sau: Phó giám đốc phân xưởng Kế toán trưởng Phó giám đốc Xưởng sản xuất Phòng kinh doanh Phòng mẫu Trong những năm gần đây, do thị trường phất triển nên lượng lưu chuyển hàng hóa ngày một nhiều, vì vậy việc tổ chức kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ của công ty có những biến chuyển theo xu hướng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Chất lượng hàng hóa phải đảm bảo tiến độ, thời gian yêu cầu của khách hàng không để nhầm lẫn hàng hóa giao nhận và đảm bảo tỷ lệ hao hụt hàng hóa không vượt quá định mức. Để phù hợp với đặc điểm kinh doanh, phù hợp với điểu kiện hiện nay, với quy mô và địa bàn hoạt động, công ty đã phân cấp quản lý theo phương thức trực tuyến chức năng. Theo mô hình này, công ty được chia thành những phòng ban đảm nhận chức năng cụ thể để phục vụ cho mục đích chung là tăng hiệu quả của toàn công ty. Mỗi bộ phận nhận lệnh từ một cấp trên, các phòng ban tham mưa cho giám đốc về nghiệp vụ chức năng của mình, giám đốc căn cứ vào các đề xuất đó để đưa ra quyết định, các phòng ban chức năng thực hiện theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quyết định đó. Chức năng nhiệm vụ của lãnh đạo và các phòng ban trong công ty: Giám đốc: Là đại diện pháp nhân của công ty, chịu trách nhiệm về tất cả kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước theo quy định hiện hành và điều hành sản xuất của công ty. Các phó giám đốc: giúp đỡ, chia sẻ nhiệm vụ với giám đốc chị trách nhiệm trước giám đốc về lĩnh vực được giao: Phó giám đốc phụ trách xuất nhập khẩu: chịu trách nhiệm về các hoạt động liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa tiêu thụ. Phó giám đốc phụ trách kinh doanh: chỉ đạo việc ký kết và kinh doanh. Phòng kế toán – tài chính: tổ chức và phản ánh chính xác kịp thời, đầy đủ tình hình hoạt động kinh doanh. Tổ chức hạch toán kế toán, lập báo quyết toán theo quy định của cấp trên. Xưởng sản xuất: là bộ phận trực tiếp sản xuất, chịu sự chỉ đạo của giám đốc. Nhiệm vụ chính của xưởng là làm và hoàn thiện các sản phẩm của công ty Phòng mẫu: dùng để trưng bày mẫu và nhiệm vụ chính là tìm tòi và phát hiện ra những mẫu mới. 2.3.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán Bộ phận kế toán của công ty TNHH Nguyễn Khoa gồm 3 người: - Kế toán trưởng: 1 người - Kế toán viên : 1 người - Thủ quỹ : 1 người Vai trò nhiệm vụ của từng người của từng người như sau: - Kế toán trưởng: là người đứng đầu phòng kế toán, chịu sự chỉ đạo của giám đốc.Vai trò chính của kế toán là theo dõi tập chung, lập kế hoạch tài chính, báo cáo sản xuất, quyết toán thuế….Kế toán trưởng là người phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của phòng kế toán. - Kế toán viên: Ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình các nghiệp vụ phát sinh trong tháng - Thủ quỹ: Có nhiệm vụ giữ tiền mặt. Căn cứ vào chứng từ gốc, thủ quỹ tiến hành thu, chi tiền mặt và ghi vào sổ quỹ. Cuối tháng đối chiếu sổ quỹ của kế toán tiền mặt. Ta có thể hình dung sơ đồ bộ máy kế toán của công ty TNHH Nguyễn Khoa được tổ chức như sau: Kế toán trưởng Thủ quỹ Kế toán viên 2.3.4 Hình thức kế toán của công ty TNHH Nguyễn Khoa Để phù hợp với sự thay đổi trong công tác quản lý, công ty TNHH Nguyễn Khoa đã không ngừng hoàn thiện chế độ hạch toán cũng như công tác kế toán. Hiện nay công ty đang sử dụng phần mềm Effect để làm kế toán trên máy vi tính, và hiện đang áp dụng hình thức “ chứng từ – ghi sổ” để ghi chép nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Đây là hình thức ghi sổ rất tiện lợi cho việc kiểm tra, đối chiếu các số liệu bởi vì các nghiệp vụ phát sinh mà có cùng tính chất, nội dung kinh tế sẽ được tập hợp trong cùng một chứng từ- ghi sổ trong một kỳ kế toán. Chứng từ – ghi sổ được kế toán lập hàng ngày và định kỳ 5 ngày thì đăng ký vào sổ Đăng ký chứng từ- ghi sổ. Trình tự ghi sổ kế toán: các chứng từ sau khi được tập hợp theo từng phần hanhfh cụ thể sẽ được kế toán viên nhập dữ liệu vào máy theo từng nội dung của các chứng từ đó thông qua thiết bị nhập liệu là bàn phím và được tổ chức lưu giữ trên thiết bị nhớ ngoài ở dạng tệp dữ liệu nghiệp vụ. Có thể mô hình hóa trình tự ghi sổ và lên báo cáo tài chính Chứng từ gốc Sổ quỹ Bảng tổng hợp chứng từ gốc Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ Sổ chi tiết Chứng từ- ghi sổ Sổ cái Bảng tổng hợp chi tiết Bảng cân đối tài khoản Báo cáo tài chính : Ghi hàng ngày : Quan hệ đối chiếu : Ghi sổ cuối tháng 2.4 Đối tượng tập hợp chi phí tại công ty TNHH Nguyễn Khoa Trong bất kỳ doanh nghiệp nào việc xác định đối tượng tập chi phí sản xuất là khâu đầu tiên quan trọng trong toàn bộ quá trình xác định toàn bộ chi phí sản xuất và tính giá thành. Tại công ty TNHH Nguyễn Khoa việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất diễn ra trên cơ sở đặc điểm của quá trình sản xuất sản phẩm. Như ta đã biết quy trình sản xuất sản phẩm là một quy trình liên tục và khép kín. Sản phẩm làm ra mặc dù có kích cỡ, chất lượng khác nhau nhưng đều có chung một quy trình công nghệ, chung các yếu tố đầu vào tức là đều qua các giai đoạn cơ bản: sấy nguyên vật liệu, chế tạo thành sản phẩm, sấy sản phẩm, đóng gói…Vì vậy tập hợp chi phí là toàn bộ quy trình sản xuất. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là tất cả các sản phẩm làm ra đều bao gồm các khoản mục chi phí như nhau mà tùy vào từng loại sản phẩm các khoản mục chi phí là khác nhau. Do đó mặc dù đối tượng tập hợp chi phí là toàn bộ quy trình sản xuất nhưng kế toán phải theo dõi từng loại sản phẩm để việ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0743.doc