Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên

Lời mở đầu Để quản lý một cách có hiệu quả đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh hay sản xuất dịch vụ của một doanh nghiệp nói riêng, một nền kinh tế quốc dân của một nước nói chung đều cần phải sử dụng các công cụ quản lý khác nhau và một trong những công cụ quản lý không thể thiếu được đó là kế toán. Trong đó hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm giữ một vai trò rất quan trọng trong công tác kế toán của doanh nghiệp. Vì đối với các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh t

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế thị trường có sự điều tiết và cạnh tranh quyết liệt, khi quyết định lựa chọn phương án sản xuất một loại sản phẩm nào đó đều cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và lợi nhuận thu được khi tiêu thụ. Điều đó có nghĩa doanh nghiệp phải tập hợp đầy đủ và chính xác chi phí sản xuất. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất. Giá thành sản phẩm thấp hay cao, giảm hay tăng thể hiện kết quả của việc quản lý vật tư, lao động, tiền vốn. Điều này phụ thuộc vào quá trình tập hợp chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Chính vì thế kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai quá trình liên tục, mật thiết với nhau. Thông qua chỉ tiêu về chi phí và giá thành sản phẩm các nhà quản lý sẽ biết được nguyên nhân gây biến động chi phí và giá thành là do đâu và từ đó tìm ra biện pháp khắc phục. Việc phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm là một trong những mục tiêu quan trọng không những của mọi doanh nghiệp mà còn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Công ty thiết bị lạnh Long Biên là một doanh nghiệp sản xuất, có bề dầy kinh nghiệm. Sản phẩm của công ty rất đa dạng và phong phú cả về quy cách, chủng loại, mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Công ty đã xác định được quy trình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, qua thời gian thực tập tại công ty, được tiếp xúc trực tiếp với công tác kế toán ở công ty, thấy được tầm quan trọng của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, em muốn hiểu thêm nữa về phần hành kế toán này nên em đã lựa chọn đề tài: " Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên". Trong đề tài này em xin trình bày về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của máy nén lạnh 2AD150- sản phẩm chủ yếu của công ty. Nội dung khoá luận gồm ba chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất. Chương II: Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên. Chương III: Một số ý kiến góp phần hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công Ty Thiết bị lạnh Long Biên. Chương I Một số vấn đề lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh 1.1. Tổng quan về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1.1.1. Khái niệm và phân biệt sự khác nhau giữa CPSX và giá thành sản phẩm. 1.1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. * Chi phí sản xuất: Trong quá trình sản xuất, để tiến hành sản xuất, DN phải bỏ ra một số chi phí bao gồm những chi phí về lao động sống ( những chi phí về nhân công) và những chi phí về lao động vật hoá ( những tiêu hao về nguyên liệu, vật liệu, chi phí khấu hao tài sản cố định) để phục vụ cho việc sản xuất ra sản phẩm. Và chỉ những chi phí phục vụ cho quá trình SX mới được gọi là CPSX vì trong doanh nghiệp ngoài hoạt động SXKD cơ bản còn có các hoạt động khác như xây dựng cơ bản, vận tải... Chính vì vậy khi nói đến CPSX là nói đến toàn bộ hao phí về lao động sống, về lao động vật hoá biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp thực tế đã bỏ ra để tiến hành các hoạt động SXKD trong một thời kỳ nhất định. Trong thực tế CPSX thường được tập hợp theo tháng, quý, năm. Trong sản xuất cần phải tiết kiệm chi phí vì có tiết kiệm chi phí mới tạo những điều kiện để hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, ở doanh nghiệp cũng cần phải phân biệt giữa chi phí và chi tiêu: - Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động SXKD mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ hạch toán. - Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu cho quá trình sản xuất trong kỳ của DN bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp, quá trình SXKD và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ. Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu. Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các DN là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng. * Giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống, lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra tính cho 1 đơn vị sản phẩm hoặc là công việc lao vụ sản xuất đã hoàn thành. Giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động SXKD của doanh nghiệp trong đó phản ánh kết quả sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn, các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích là sản xuất được nhiều sản phẩm nhưng tiết kiệm được chi phí sản xuất và hạ thấp giá thành sản phẩm. 1.1.1.2. Sự khác nhau giữa CPSX và giá thành sản phẩm. Trong cơ chế thị trường đòi hỏi các DN phải tiết kiệm CPSX và đó là mục tiêu phấn đấu của mỗi DN và trên cơ sở đó mới hạ được giá thành, mới xác định được hiệu quả SXKD và tăng được lợi nhuận. Giữa CPSX và giá thành sản phẩm thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. CPSX là biểu hiện mặt hao phí còn giá thành sản phẩm là biểu hiện kết quả của sản xuất. Nó là hai mặt thống nhất của một quá trình sản xuất vì nội dung cơ bản của chúng đều là những chi phí biểu hiện bằng tiền mà DN đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. CPSX khi đã tập hợp được là cơ sở, là điều kiện để tính giá thành sản phẩm, tiết kiệm CPSX hoặc lãng phí đều ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành. Do đó việc quản lý giá thành phải gắn liền với CPSX. Tuy nhiên giữa chúng vẫn là hai khái niệm riêng biệt và có những mặt khác nhau biểu hiện như sau: CPSX - Gắn với từng thời kỳ phát sinh chi phí - Bao gồm: + Chi phí trả trước chưa phân bổ kỳ này + Chi phí phải trả ( CP trả trước) đã tính vào giá thành nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế + Liên quan đến sản phẩm hoàn thành, sản phẩm làm dở cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Giá thành sản phẩm - Gắn với khối lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành - Bao gồm: + Chi phí trả trước phân bổ kỳ này + Chi phí phải trả kỳ này nhưng thực tế chưa chi, chưa phát sinh + Liên quan đến CPSX của sản phẩm làm dở kỳ trước chuyển sang, không liên quan đến sản phẩm làm dở cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Có thể khái quát sự khác nhau giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ sau: Chi phí dở dang đầu kỳ Chi phí phát sinh trong kỳ Sản phẩm hoàn thành (giá thành sản phẩm ) Chi phí dở dang cuối kỳ Chi phí sản xuất 1.1.2. Sự cần thiết và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Hiện nay, cùng với chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm luôn được coi là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Phấn đấu hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm là nhân tố quyết định nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp và nâng cao thu nhập của người lao động. Do đó hạch toán chi phí sản xuất có một vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trước kia trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung do các xí nghiệp được bao cấp toàn bộ lâu dài, bao tiêu toàn bộ đầu ra nên các xí nghiệp không quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, không chú ý đến chi phí sản xuất (CPSX) và giá thành sản phẩm bị bóp méo trong báo cáo hoặc do nguyên nhân nào đó mà đơn vị không phản ánh đúng CPSX và giá thành sản phẩm của mình. Vì vậy CPSX và giá thành sản phẩm không phải là cơ sở để xác định hiệu quả kinh tế của quy trình sản xuất ở xí nghiệp. Kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều phải cạnh tranh gay gắt với nhau trên thị trường để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp (DN) phải thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tự bù đắp thu chi và đảm bảo có lãi. Vì vậy hơn bao giờ hết, các doanh nghiệp phải nắm bắt được thông tin một cách chính xác về chi phí và giá thành của mình để từ đó có các quyết định kinh doanh thích hợp và tìm ra được các biện pháp làm giảm chi phí và tăng lợi nhuận cho DN. Từ đó điều cần thiết đối với mỗi DN là phải tổ chức hạch toán chi phí sản xuất một cách chính xác và tính đúng tính đủ giá thành, nó cũng là yếu tố quyết định đối với sự sống còn của mỗi DN. Kế toán chính xác chi phí phát sinh không chỉ là việc tổ chức ghi chép, phản ánh một cách đầy đủ trung thực về mặt lượng hao phí mà cả việc tính toán giá trị thực tế chi phí ở thời điểm phát sinh chi phí. Kế toán chính xác chi phí đòi hỏi phải tổ chức việc ghi chép tính toán và phản ánh từng loại chi phí theo đúng địa điểm phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Giá thành là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Tính đúng giá thành là tính toán chính xác và hạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã hao phí để sản xuất ra sản phẩm. Muốn vậy phải xác định đúng đối tượng tính giá thành, vận dụng phương pháp tính giá thành hợp lý và giá thành tính trên cơ sở số liệu kế toán tập hợp CPSX một cách chính xác. Tính đủ giá thành là tính toán đầy đủ mọi hao phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh, loại bỏ mọi yếu tố bao cấp để tính đủ đầu vào theo đúng chế độ quy định. Tính đủ cũng đòi hỏi phải loại bỏ những chi phí không liên quan đến giá thành sản phẩm như các loại chi phí mang tính chất tiêu cực, lãng phí không hợp lý, những khoản thiệt hại được quy trách nhiệm rõ ràng. Chính từ ý nghĩa đó mà nhiệm vụ đặt ra cho công tác hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm là: - Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm của quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm để xác định đúng đắn đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành. - Tính toán tập hợp phân bổ từng loại CPSX theo đúng đối tượng tập hợp chi phí đã xác định bằng phương pháp thích hợp, cung cấp kịp thời thông tin về CPSX và xác định chính xác chi phí cho sản phẩm làm dở cuối kỳ. - Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính tổng giá thành và giá thành đơn vị của sản phẩm theo đúng đối tượng tính giá thành quy định.Định kỳ phải lập báo cáo CPSX và tính giá thành sản phẩm để cung cấp thông tin cho người quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp, tiến hành việc phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm và đề xuất các biện pháp cần thiết để tiết kiệm chi phí và hạ thấp giá thành sản phẩm 1.1.3. Phân loại chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất có nhiều loại khác nhau, có nội dung kinh tế, có công dụng trong sản xuất cũng khác nhau. Do đó cần phải tiến hành việc phân loại CPSX nhằm để phục vụ cho yêu cầu quản lý và hạch toán. CPSX trong DN có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng trong hạch toán thường được phân loại theo hai cách chủ yếu sau: 1.1.3.1.Phân loại CPSX theo nội dung và tính chất kinh tế của chi phí. Theo cách phân loại này, căn cứ vào nội dung, tính chất kinh tế của chi phí để chia ra các yếu tố chi phí, những chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế thì được xếp vào một yếu tố chi phí không phân biệt chi phí đó phát sinh ở điạ điểm nào và dùng vào mục đích gì. Do đó cách phân loại này còn gọi là phân loại theo yếu tố chi phí. Toàn bộ CPSX được chia ra các yếu tố chi phí như sau: - Chi phí nguyên vật liệu. - Chi phí nhân công. - Chi phí khấu hao tài sản cố định. - Chi phí dịch vụ mua ngoài. - Chi phí bằng tiền khác. Cách phân loại này có tác dụng cho biết doanh nghiệp đã chỉ ra những yếu tố chi phí nào, kết cấu và tỷ trọng của từng yếu tố chi phí để từ đó phân tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán CPSX. Trên cơ sở các yếu tố chi phí đã tập hợp được để lập báo cáo CPSX theo yếu tố. Ngoài ra, nó còn là tài liệu tham khảo để lập dự toán CPSX, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động và tính toán thu nhập quốc dân. 1.1.3.2. Phân loại CPSX theo mục đích và công dụng của chi phí. Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau. Những chi phí có cùng mục đích, công dụng được xếp vào khoản mục chi phí và không cần phải phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Do đó cách phân loại này cũng còn gọi là phân loại chi phí theo khoản mục. Toàn bộ chi phí được chia ra thành các khoản mục: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. - Chi phí nhân công trực tiếp. - Chi phí sản xuất chung. Ngoài ra khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng. Cách phân loại này có tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý CPSX theo định mức, nó cung cấp số liệu để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Nó dùng để phân tích tình hình thực hiện giá thành và là tài liệu tham khảo để lập CPSX định mức và lập giá thành cho kỳ sau. * Ngoài 2 cách phân loại chủ yếu trên phục vụ cho công tác quản lý và công tác kế hoạch, còn có các phương pháp phân loại CPSX khác như: - Phân loại chi phí theo chức năng trong SXKD được chia thành 3 loại: chi phí thực hiện chức năng sản xuất, chi phí thực hiện chức năng tiêu thụ và chi phí thực hiện chức năng quản lý. - Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí: Toàn bộ chi phí SXKD được chia thành chi phí toàn bộ và chi phí thời kỳ. - Phân loại chi phí theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành: Theo cách phân loại này chi phí được chia thành biến phí và định phí. - Phân loại chi phí theo quan hệ với quá trình sản xuất: được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. - Phân loại chi phí theo khả năng kiểm soát: Được chia thành chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được. Có thể nói, mỗi cách phân loại CPSX đều có ý nghĩa riêng, phục vụ cho từng yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể, nhưng chúng luôn bổ sung lẫn nhau, nhằm quản lý có hiệu quả tốt nhất về toàn bộ CPSX phát sinh trong toàn DN ở từng thời kỳ nhất định. 1.1.4. Phân loại giá thành sản phẩm. Để phục vụ cho yêu cầu quản lý và hạch toán, trong giá thành cũng có hai cách phân loại chủ yếu: 1.1.4.1. Phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu để tính giá thành. Theo cách phân loại này thì giá thành sản phẩm được chia ra: - Giá thành kế hoạch: Được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch do bộ phận kinh doanh của DN tính toán trước khi bắt đầu sản xuất. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của DN là căn cứ để đánh giá, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của DN. - Giá thành định mức: Thường căn cứ vào các định mức chi phí hiện hành để tính cho một đơn vị sản phẩm. Giá thành định mức cũng được xây dựng, được tính toán trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức, là thước đo chính xác kết quả sản xuất, giúp cho DN đánh giá được các giải pháp kinh tế, khoa học mà DN đã thực hiện trong quá trình hoạt động SXKD nhằm nâng cao hiệu quả SXKD. - Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi đã kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế phản ánh kết quả phấn đấu của DN trong việc tổ chức quản lý và sử dụng các giải pháp kinh tế kỹ thuật trong quá trình sản xuất. Đồng thời là cơ sở để xác định giá bán, cơ sở để xác định kết quả kinh doanh của DN. 1.1.4.2. Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán. Theo cách phân loại này, giá thành được chia làm hai loại: - Giá thành sản xuất (Giá thành công xưởng): Bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp(CPNVLTT), chi phí nhân công trực tiếp (CPNCTT) và chi phí sản xuất chung(CPSXC) tính trên sản phẩm đã hoàn thành. Giá thành sản xuất dùng để ghi sổ khi sản phẩm đã hoàn thành nhập kho, là căn cứ để tính giá vốn của hàng bán ra và để tính lãi gộp của DN. - Giá thành tiêu thụ(Giá thành toàn bộ): Bao gồm giá thành sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí quản lý DN tính cho sản phẩm đó. Giá thành toàn bộ chỉ tính toán khi sản phẩm đã được tiêu thụ, là căn cứ để tính toán xác định lợi nhuận trước thuế của DN. 1.1.5. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán CPSX- tức là đối tượng hạch toán CPSX - và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị - tức là đối tượng tính giá thành Xác định đối tượng hạch toán CPSX chính là việc xác định giới hạn tập hợp CPSX mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Để phân biệt được đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một cần dựa vào các cơ sở sau đây: - Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Sản xuất giản đơn hay sản xuất phức tạp. + Với sản xuất giản đơn : Đối tượng hạch toán CPSX có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất hoặc có thể là một nhóm sản phẩm còn đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. + Với sản xuất phức tạp : Đối tượng hạch toán CPSX có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến... Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. - Loại hình sản xuất: Đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. + Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ: Đối tượng hạch toán CPSX là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn. + Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn: Phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất ( đơn giản hay phức tạp ) mà đối tượng hạch toán CPSX có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết ... còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm như đã nêu ở trên. - Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: + Với trình độ cao: Có thể chi tiết đối tượng hạch toán CPSX và tính giá thành ở các góc độ khác nhau + Với trình độ thấp : Thì đối tượng có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên. 1.1.6. Sự khác nhau giữa đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành. - Giống nhau ở bản chất chung: đều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí theo đó và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích kiểm tra chi phí và giá thành. - Khác nhau: + Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định phạm vi phát sinh chi phí để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ còn xác định đối tượng tính giá thành lại liên quan đến kết quả của quá trình sản xuất. + Một đối tượng tập hợp chi phí có thể có nhiều đối tượng tính giá thành. + Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành có nội dung khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. + Trong nhiều trường hợp, đối tượng tập hợp chi phí có thể phù hợp với đối tượng tính giá thành. + Số liệu về CPSX đã tập hợp trong kỳ theo từng đối tượng tập hợp chi phí là cơ sở và căn cứ để tính giá thành và giá thành đơn vị cho từng đối tượng có liên quan. 1.1.7. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất. Việc tập hợp CPSX phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời. Ta có thể khái quát chung việc tập hợp CPSX qua các bước sau: - Bước 1: Tập hợp chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng. - Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ. - Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan. - Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Tuỳ theo từng phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà nội dung, cách thức hạch toán chi phí sản xuất có những điểm khác nhau. 1.2. Kế toán chi phí sản xuất Trong doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh một cách thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn kho nguyên vật liệu, hàng hoá, sản phẩm dở dang, thành phẩm trên sổ kế toán sau mỗi lần phát sinh nghiệp vụ mua(nhập) hoặc bán(xuất). Nội dung hạch toán gồm: 1.2.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp(NVLTT). Chi phí NVLTT thường bao gồm chi phí NVL chính, chi phí vật liệu phụ, chi phí nhiên liệu... được xuất dùng trực tiếp để sản xuất sản phẩm. Nếu chi phí NVLTT xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt thì được hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Còn nếu liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí và không hạch toán riêng được thì phải dùng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các đối tượng có liên quan. Đối với NVL chính thường phân bổ theo tiêu chuẩn chi phí định mức của NVL chính hoặc theo khối lượng sản phẩm đã sản xuất ra. Đối với vật liệu phụ thường dùng tiêu chuẩn phân bổ theo chi phí định mức tiêu hao hoặc theo chi phí kế hoạch hoặc theo chi phí của NVL chính hoặc theo khối lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc theo giờ máy hoạt động. Đối với nhiên liệu thì tiêu chuẩn phân bổ thường dùng giống như là phân bổ vật liệu phụ, ngoài ra còn vận dụng tiêu chuẩn phân bổ theo công suất của máy. Công thức phân bổ như sau: CPVL phân bổ cho từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng x Tỷ lệ ( hay hệ số ) phân bổ = Trong đó: Tỷ lệ(hay hệ số) phân bổ = Tổng CP vật liệu cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng CPNVL thực tế trong kỳ = Giá trị NVL xuất dùng để SXSP Giá trị NVL chưa sử dụng cuối kỳ Giá trị phế liệu thu hồi - - Để đảm bảo cho việc tập hợp chi phí được chính xác thì chi phí NVLTT còn phải chú ý trừ giá trị NVL đã lĩnh dùng nhưng chưa sử dụng hết và giá trị phế liệu thu hồi (nếu có): Để theo dõi các khoản chi phí NVLTT, kế toán sử dụng TK621- CPNVL trực tiếp. Tài khoản này được mở sổ chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí(phân xưởng, bộ phận sản xuất). Nội dung kết cấu TK621: - Bên nợ: Giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm - Bên có: + Giá trị vật liệu không dùng hết trả lại kho + Kết chuyển chi phí NVLTT vào TK154 để tính giá thành sản phẩm. TK621 cuối kỳ không có số dư. Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí NVL trực tiếp TK154 TK1331 TK152 TK621 TK 152 TK 111,112 NVL xuất dùng trực tiếp để sản xuất NVL không dùng hết trả lại nhập kho Kết chuyển CPNVLTT để dùng tính giá thành SP Giá trị NVL mua ngoài dùng trực tiếp sx Thuế VAT được khấu trừ của VL mua ngoài 1.2.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp (CPNCTT). Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Ngoài ra, CPNCTT còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. CPNCTT thường được hạch toán trực tiếp cho các đối tượng chịu chi phí có liên quan. Trường hợp không tính trực tiếp được mà có liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí thì thường chọn tiêu chuẩn phân bổ như là chi phí tiền lương định mức, chi phí giờ công định mức hoặc giờ công thực tế hoặc có thể phân bổ theo khối lượng sản phẩm đã sản xuất ra. Trong hạch toán, kế toán sử dụng TK622- CPNCTT để phản ánh chi phí nhân công của người lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm. Nội dung kết cấu TK622: - Bên nợ: Chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm - Bên có: Kết chuyển CPNCTT vào TK154 để tính giá thành sản phẩm. TK622 cuối kỳ không có số dư. Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp TK154 TK622 TK 334 TK 338 Tiền lương và phụ cấp phải trả cho công nhân trực tiếp K/chuyển CP nhân công trực tiếp để tính giá thành sản phẩm Các khoản trích theo lương được tính vào chi phí Trích trước tiền lương cuả công nhân sx vào chi phí TK 335 1.2.3. Hạch toán các chi phí trả trước. Chi phí trả trước thực chất là số chi phí chờ phân bổ thực tế đã phát sinh trong kỳ nhưng chưa tính hết vào chi phí SXKD và sẽ được phân bổ dần vào các kỳ sau. Đây là những chi phí phát sinh quá lớn hoặc là những chi phí có liên quan tới nhiều kỳ hạch toán và phát huy tác dụng vào các kỳ sau như là: giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng thuộc loại phân bổ nhiều lần; chi phí sửa chữa lớn ngoài kế hoạch; giá trị bao bì luân chuyển và đồ dùng cho thuê; chi phí mua bảo hiểm về tài sản kinh doanh; chi phí nghiên cứu thí nghiệm phát minh sáng chế chưa tính vào giá trị của TSCĐ vô hình... Trong hạch toán kế toán sử dụng TK142- Chi phí trả trước để phản ánh những khoản chi phí chưa phân bổ hết và phát huy hiệu quả có liên quan tới nhiều kỳ hạch toán sau. * Nội dung kết cấu TK142: - Bên nợ: Chi phí trả trước thực tế phát sinh - Bên có: Chi phí trả trước đã phân bổ vào chi phí SXKD. - Dư nợ: Phản ánh chi phí trả trước thực tế đã phát sinh nhưng chưa phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh. TK142 có 2 TK cấp hai: + TK1421: Chi phí trả trước + TK1422: Chi phí chờ kết chuyển Sơ đồ 3: Trình tự kế toán chi phí trả trước TK 627, 641, 642... TK1421 TK 111,122,342,153... TK 641, 642 Tập hợp CP chờ phân bổ Số phân bổ dần vào CPSXKD K/chuyển CPBH, CPQLDN để xác định kết quả Số phân bổ CP chờ k/chuyển vào kỳ sau để xác định kết quả. TK 1422 TK 911 K/chuyển vào CP chờ k/chuyển (không phù hợp với doanh thu) 1.2.4. Hạch toán chi phí phải trả. Chi phí phải trả là những khoản chi phí trích trước thực tế chưa phát sinh nhưng theo kế hoạch cần tính trước vào sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo cho giá thành được ổn định. Các khoản thuộc chi phí phải trả thường bao gồm các khoản trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất sản phẩm, trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ theo kế hoạch, trích trước chi phí ngừng sản xuất theo kế hoạch, trích trước chi phí bảo hành sản phẩm... Trong hạch toán kế toán sử dụng TK335 - Chi phí phải trả để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế có nội dung như trên. * Nội dung kết cấu TK335: - Bên nợ: Chi phí phải trả thực tế phát sinh - Bên có: Chi phí phải trả trích trước tính vào SXKD. - Dư có: Phản ánh chi phí phải trả đã trích trước tính vào chi phí SXKD nhưng thực tế chưa phát sinh. Cuối kỳ hạch toán, kế toán phải điều chỉnh giữa chi phí thực tế phát sinh và số trích trước theo kế hoạch. Sơ đồ 4: Trình tự hạch toán chi phí phải trả TK 662 TK335 TK 334 Tính lương thực tế phải trả cho công nhân sxsp nghỉ phép Trích trước tiền lương nghỉ phép công nhân sxsp TK 627,641,642 TK 241,331,111,112 Các cp phải trả khác thực tế phát sinh Trích trước cp sửa chữa lớn theo kế hoạch 1.2.5. Hạch toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh phụ. Hiện nay, trong các doanh nghiệp sản xuất đều tổ chức ra các bộ phận SXKD phụ nhằm mục đích để phục vụ cho SXKD chính, phần còn lại dùng để cung cấp cho bộ phận có liên quan hoặc bán ra cho bên ngoài. Sản xuất kinh doanh phụ thường bao gồm các phân xưởng sản xuất phụ như là phân xưởng cơ điện, phân xưởng sửa chữa, phân xưởng lò hơi. Ngoài các phân xưởng sản xuất phụ thì có tổ chức các mặt hàng phụ đó là hoạt động sản xuất nhằm tận dụng những phế liệu, phế thải do sản xuất loại ra nhằm để tăng sản phẩm cho sản xuất, tăng thu nhập cho công nhân viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra còn tổ chức kinh doanh dịch vụ như là nhà ở, nhà nghỉ, nhà ăn, các dịch vụ ăn uống giải khát. Trong hạch toán về chi phí SXKD phụ cũng được tổng hợp thông qua các TK 621, 622, 627 để phục vụ cho việc tập hợp chi phí và cuối kỳ thì kết chuyển các chi phí có liên quan như chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí SXC vào TK 154 chi tiết theo từng phân xưởng sản xuất phụ để tính giá thành cho từng loại sản phẩm lao vụ dịch vụ của sản xuất kinh doanh phụ. Tổng giá thành thực tế sp lao vụ = + - Giá trị sp dở dang đầu kỳ CPSX trong kỳ Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Công thức tính giá thành thực tế của sản phẩm lao vụ trong sản xuất kinh doanh phụ (của từng phân xưởng, bộ phận): Giá thành đơn vị sp phụ Khối lượng sp lao vụ hoàn thành = Tổng giá thành Trường hợp giữa các phân xưởng, bộ phận SXKD phụ có sự cung cấp lẫn nhau để tính thêm phần lao vụ nhận của phân xưởng khác và trừ đi phần cung cấp phục vụ cho phân xưởng khác, sau đó mới tính giá thành thực tế sản phẩm, lao vụ từng phân xưởng, bộ phận. Tổng giá thành sản phẩm lao vụ từng PX, từng bộ phận = + - Giá trị SP dở dang đầu kỳ Chi phí ban đầu Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ + Giá trị lao vụ nhận từ px khác Giá trị lao vụ phục vụ px khác - Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm, lao vụ Khối lượng SP hoàn thành - Khối lượng phục vụ px khác = Tổng giá thành Sơ đồ 5. Kế toán tập hợp và phân bổ chi phí SXKD phụ Phục vụ sxkd TK154-chi tiết sxkd phụ TK155,152 TK 334 CPNVL Nhập kho TK 632,157 TK 334,338 TK 627 Tiêu thụ TK 621 TK 622 TK 153, 241,111 TK 627 TK 641, 642 Phục vụ quản lý, bán hàng Giá thành sp hoàn thành CPNC CPSXC K/chuyển CPSXKD phụ 1.2.6. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất. Trong quá trình sản xuất sản phẩm thường phát sinh các khoản thiệt hại như là thiệt hại về sản phẩm hỏ._.ng, thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch. Khi phát sinh các khoản thiệt hại thì kế toán phải xác định nguyên nhân và có cách xử lý thích hợp theo chế độ quy định và theo ý kiến của cấp có thẩm quyền. 1.2.6.1. Hạch toán các thiệt hại về sản phẩm hỏng. Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật về sản xuất sản phẩm như mẫu mã, kích cỡ, cách lắp ráp, màu sắc của sản phẩm... Tuỳ theo mức độ hư hỏng của sản phẩm mà sản phẩm hỏng chia ra làm hai loại khác nhau: - Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được: Là những sản phẩm hỏng mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được, chi phí về sửa chữa mặc dù có bỏ ra nhưng vẫn còn lợi ích kinh tế. - Sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được: Là những sản phẩm hỏng về mặt kỹ thuật không sửa chữa được, không khôi phục lại được giá trị sử dụng ban đầu của sản phẩm và chi phí sửa chữa bỏ ra không mang lại lợi ích kinh tế. Hiện nay trong một số doanh nghiệp ở nước ta có quy định sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Đối với sản phẩm hỏng trong định mức thường được quy định theo một tỷ lệ nhất định và những chi phí đối với sản phẩm hỏng trong định mức được coi như là chi phí chính phẩm. Còn đối với chi phí sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm hỏng ngoài dự kiến, ngoài những quy định do những nguyên nhân bất thường không lường trước được và khi đã được xác định và có ý kiến giải quyết thì xem như đó là một khoản chi phí về thiệt hại những tổn thất bất thường. Đối với sản phẩm hỏng trong định mức thì chi phí đó vẫn tính vào chi phí chung trong quá trình sản xuất sản phẩm. Còn đối với sản phẩm hỏng ngoài định mức thì phải hạch toán riêng vào TK 154 và được chi tiết theo sản phẩm hỏng ngoài định mức. Sơ đồ 6: Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được (sản phẩm hỏng trong định mức). K/chuyển vào TK154 để tính giá thành TK 152,155,334 TK 621, 622, 627 TK 154 TK155 CP sửa chữa SP hỏng Giá thực tế sp hthành nhập kho Sơ đồ 7. Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được (sản phẩm hỏng ngoài định mức). TK 621, 622, 627 Số sp hỏng ngoài định mức TK 821 TK 154(SP) TK 154(sp hỏng ngoài định mức) TK1388, 1528 K/chuyển cp để tính giá thành sp Xử lý bồi thường hoặc thu hồi phế liệu Khoản thiệt hại về sp hỏng 1.2.6.2. Hạch toán thiệt hại ngừng sản xuất. Thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch thường do một nguyên nhân chủ quan (máy móc hư hỏng) hoặc nguyên nhân khách quan (bão lụt, thiên tai...) gây ra. Trong thời gian ngừng sản xuất các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động, khấu hao TSCĐ, chi phí bảo dưỡng... Những khoản chi phí chi ra trong thời gian này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất. Chi phí thiệt hại ngừng sản xuất phải được theo dõi riêng và sau khi đã trừ phần bồi thường, trừ phần thu hồi phế liệu (nếu có) thì số còn lại được coi là khoản thiệt hại ngừng sản xuất và ghi vào TK 821. Sơ đồ 8. Hạch toán tổng hợp thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch. TK 152,334,111,112,331 TK1388, 1528 TK 621,622, 627 TK154(T/hại ngừng sx) CP phát sinh liên quan t/hại ngừng sx ngoài kế hoạch K/chuyển cp về thiệt hại ngừng sx ngoài kế hoạch Bồi thường, thu hồi phế liệu Thiệt hại ngừng sx ngoài kế hoạch TK 821 1.2.7. Hạch toán chi phí sản xuất chung. (CPSXC) Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí NVLTT và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627- CPSXC, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. * Nội dung kết cấu TK 627: - Bên nợ: Chi phí SXC thực tế phát sinh trong kỳ. - Bên có: Kết chuyển chi phí SXC vào TK 154 để tính giá thành sản phẩm và lao vụ dịch vụ. TK 627 cuối kỳ không có số dư. TK 627 được chi tiết thành 6 TK cấp 2: + TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng + TK 6272: Chi phí vật liệu xuất dùng chung cho phân xưởng + TK 6273: Chi phí công cụ dụng cụ xuất dùng cho phân xưởng + TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ tại phân xưởng +TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động SXKD của phân xưởng + TK 6278: Chi phí khác bằng tiền của phân xưởng. TK 627 cuối kỳ phải tiến hành phân bổ cho từng loại sản phẩm mà người ta thường chọn tiêu thức phân bổ là phân bổ theo chi phí định mức giờ làm việc thực tế của công nhân sản xuất và phân bổ theo tiền lương trực tiếp của công nhân sản xuất sản phẩm. TK 338,334 TK 627 TK111, 112,152 TK 152 TK153 TK 214 TK 331 TK111,112 Tập hợp cp nhân viên px Tập hợp CPVL Các khoản ghi giảm CPSX K/ chuyển (phân bổ) CPSX vào đối tượng tính giá thành Chi phí khấu hao TSCĐ Tập hợp CP CCDC CP dịch vụ mua ngoài CP khác bằng tiền TK 154(chi tiết..) Sơ đồ 9. Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung. 1.2.8. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. 1.2.8.1. Tổng hợp chi phí sản xuất. Sau khi đã tập hợp chi phí như là chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí SXC thì cuối kỳ hạch toán (tháng, quý) phải kết chuyển vào bên nợ của TK 154 để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. TK 154 phải được mở chi tiết theo từng đối tượng tính giá thành. * Nội dung kết cấu TK 154: - Bên nợ: Tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ (CPNVLTT, CPNCTT,CPSXC) - Bên có: + Các khoản chi phí được giảm như là phế liệu thu hồi hoặc sản phẩm hỏng ngoài định mức. + Giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành đã nhập kho. - Số dư nợ: Phản ánh chi phí thực tế của sản phẩm còn dở dang chưa hoàn thành. x x x TK 621 TK 154(chi tiết...) TK 152,111 TK 622 TK627 TK 157 K/chuyển CPNVLTT K/chuyển CPNCTT Các khoản ghi giảm CPSX Tổng giá thành sx thực tế của sp hoàn thành K/chuyển CPSXC TK 155 TK 632 Nhập kho Gửi bán x x x Tiêu thụ ngay Sơ đồ 10. Sơ đồ tổng hợp kế toán chi phí sản xuất. 1.2.8.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong số các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: - Với bán thành phẩm: Có thể tính theo chi phí thực tế hoặc kế hoạch. - Với sản phẩm đang chế tạo dở dang: Có thể áp dụng một trong các phương pháp: + Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo chi phí NVLTT hay chi phí NVL chính trực tiếp: Trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất có chi phí NVLTT chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong giá thành của sản phẩm và sản phẩm làm dở nhỏ, không chênh lệch nhiều giữa các kỳ thì doanh nghiệp áp dụng phương pháp này để đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ. Theo phương pháp này, chi phí làm dở cuối kỳ chỉ tính chi phí NVLTT hay chi phí NVL chính trực tiếp, còn các chi phí khác tính hết cho thành phẩm. Chi phí sản phẩm làm dở cuối kỳ được tính theo công thức: CPSP làm dở cuối kỳ + CPSP làm dở đầu kỳ (khoản mục NVLTT) Số lượng SP hoàn thành trong kỳ + CPNVLTT Số lượng SP làm dở cuối kỳ x Số lượng SP dở dang cuối kỳ = Trường hợp doanh nghiệp chỉ tính cho sản phẩm làm dở cuối kỳ phần chi phí NVL chính trực tiếp thì cần tổ chức kế toán chi tiết khoản mục chi phí NVLTT thành chi phí NVL chính và các chi phí NVL trực tiếp khác. Nếu quy trình của doanh nghiệp là phức tạp, chế biến kiểu liên tục, qua nhiều giai đoạn thì sản phẩm dở cuối kỳ ở giai đoạn đầu tính theo NVLTT, còn các giai đoạn tiếp theo tính theo giá trị của bán thành phẩm của giai đoạn trước chuyển sang, coi đó là NVLTT của giai đoạn tiếp theo. + Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp sản lượng hoàn thành tương đương: Theo phương pháp này căn cứ vào mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến ( CPNCTT, CPSXC) còn các chi phí NVL chính phải xác định theo số thực tế đã dùng. Giá trị NVL chính nằm trong sp dở dang Toàn bộ giá trị VL chính xuất dùng Số lượng thành phẩm + Số lượng dở dang x Số lượng SP dở dang cuối kỳ(không quy đổi) = Chi phí chế biến nằm trong sp dở dang (theo từngloại) phần CPSP làm dở đầu kỳ (khoản mục NVLTT) Số lượng SP hoàn thành trong kỳ + Số lượng sp dở dang quy đổi x Số lượng sp dở dang cuối kỳ quy đổi ra thành phẩm = + Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo 50% chi phí chế biến. Giá trị sp dở dang chưa hoàn thành Giá trị NVL chính nằm trong sp dở dang + 50% chi phí chế biến = Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng hoàn thành tương đương trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm: + Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch. Căn cứ vào định mức tiêu hao ( hoặc chi phí kế hoạch) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang. * Ngoài ra trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang. 1.3. Kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Theo phương pháp kiểm kê định kỳ thì kế toán sử dụng TK 631- Giá thành sản xuất. Kế toán vẫn sử dụng các TK621, 622, 627 để tập hợp chi phí và TK 154 nhưng TK 154 chỉ dùng để phản ánh số dư đầu kỳ và cuối kỳ. Bên nợ TK 631 tập hợp các chi phí NVLTT, CPNCTT, CPSXC và giá trị sản phẩm làm dở đầu kỳ chuyển sang. Cuối kỳ sau khi đã kiểm kê đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ thì kết chuyển giá trị sản phẩm làm dở cuối kỳ từ TK 631 sang TK 154. Và trên cơ sở số dư đầu kỳ cộng chi phí tập hợp được trong kỳ trừ giá trị sản phẩm làm dở kiểm kê cuối kỳ thì sẽ tính được giá thực tế của sản phẩm hoàn thành nhập kho. * Nội dung kết cấu TK 631: - Bên nợ: Giá trị sản phẩm làm dở đầu kỳ, các chi phí phát sinh trong kỳ (CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC) - Bên có: + Kết chuyển giá trị sản phẩm làm dở kiểm kê cuối kỳ + Giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành nhập kho TK 631 cuối kỳ không có số dư. Sơ đồ 11. Sơ đồ hạch toán CPSX theo phương pháp kiểm kê định kỳ. TK 627 K/chuyển giá trị sp dở dang đầu kỳ TK 154 TK 631 TK 154 TK 621 TK622 K/chuyển CPNVTT K/chuyển giá trị sp làm dở kiểm kê cuối kỳ Giá thành thực tế sp đã hoàn thành nhập kho K/chuyển CPNCTT TK 632 K/ chuyển CPSX chung 1.4. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm. Phương pháp tính giá thành là phương pháp kỹ thuật sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được của kế toán và các tài liệu liên quan để tính tổng giá thành sản xuất và giá thành đơn vị của sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành theo đối tượng tính giá sản phẩm đã định. Số liệu kết quả tính toán giá thành sản phẩm phải được phản ánh trên các bảng, biểu tính giá thành, thể hiện được nội dung, phương pháp tính giá thành mà doanh nghiệp áp dụng. Hiện nay ở các doanh nghiệp sản xuất trong nước ta đều thực hiện một trong bẩy phương pháp tính gía thành sau: 1.4.1. Phương pháp tính giá thành giản đơn. Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp sản xuất có loại hình sản xuất giản đơn, quy trình công nghệ sản xuất giản đơn, khép kín, tổ chức sản xuất ra nhiều sản phẩm, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục. Do đó đối tượng tính giá thành phù hợp với chu kỳ sản xuất sản phẩm, kỳ tính giá thành thường vào cuối tháng. Các doanh nghiệp như sản xuất điện, nước, sản xuất bánh kẹo, khai thác than, quặng đều vận dụng phương pháp này. Giá thành đơn vị Tổng giá thành Số lượng SP hoàn thành = Trong trường hợp không cần phải đánh giá sản phẩm làm dở vì không có hoặc nếu có thì rất ít, rất ổn định do đó thường thì tổng giá thành bằng tổng chi phí và: Còn nếu cần phải đánh giá sản phẩm làm dở thì DN sẽ vận dụng phương pháp thích hợp và tổng giá thành sẽ là: + Tổng giá thành sản phẩm Giá trị sp làm dở đầu kỳ CPSX trong kỳ - Giá trị sp làm dở cuối kỳ = Giá thành đơn vị Tổng giá thành sản phẩm Khối lượng sp hoàn thành = Và: 1.4.2. Phương pháp tính giá thành phân bước. Phương pháp này còn gọi là phương pháp tổng cộng chi phí và được áp dụng trong các trường hợp những doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, sản xuất chế biến liên tục, sản xuất sản phẩm phải trải qua nhiều giai đoạn chế biến, nửa thành phẩm của giai đoạn trước là đối tượng tiếp tục chế biến của giai đoạn sau. Đối tượng tính giá thành là thành phẩm đã hoàn thành ở giai đoạn công nghệ cuối cùng hoặc là nửa thành phẩm ở từng giai đoạn công nghệ. Kỳ tính giá thành vào thời điểm cuối tháng do việc xác định đối tượng giá thành là thành phẩm hoặc là nửa thành phẩm. Do đó phương pháp tính giá thành phân bước cũng chia làm hai phương pháp riêng là phương pháp tính giá thành phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm và phương pháp tính giá thành phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm. 1.4.2.1. Phương pháp tính giá thành phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm. Theo phương pháp này thì kế toán phải lần lượt tính giá thành của nửa thành phẩm giai đoạn trước và kết chuyển sang giai đoạn sau một cách tuần tự để tiếp tục tính gía thành nửa thành phẩm của giai đoạn sau và cứ thế tiếp tục cho đến khi tính được giá thành của thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng. Vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp kết chuyển tuần tự chi phí. Sơ đồ 12. Sơ đồ tính giá thành phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm. CPNVLTT(bỏ vào từ đầu ) CPSX khác giai đoạn I Tổng giá thành và giá thành sản phẩm đơn vị nửa TPgiai đoạn I Giá thành nửa TP giai đoạn I chuyển sang CPSX khác giai đoạn II Giá và giá thành đơn vị nửa TP giai đoạn II Giá thành nửa TP giai đoạn n-1 chuyển sang CPSX khác giai đoạn n Tổng giá thành và giá thành đơn vị Tphẩm Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn n * Phương pháp này có tác dụng: Vì tính được giá thành nửa thành phẩm ở từng giai đoạn công nghệ cho nên nó thuận tiện cho việc tính toán hiệu quả kinh tế ở từng giai đoạn sản xuất, từng phân xưởng sản xuất đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghi chép nửa thành phẩm nhập kho và sự di chuyển nửa thành phẩm giữa các phân xưởng sản xuất hoặc là có tiêu thụ nửa thành phẩm ra ngoài. Do đó phương pháp này áp dụng thích hợp đối với những doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp chế biến liên tục mà nửa thành phẩm có tiêu thụ ra ngoài như là các công ty dệt có bán sợi và vải mộc ra ngoài hoặc đối với những công ty luyện gang nếu có bán nửa thành phẩm gang ra ngoài. 1.4.2.2. Phương pháp tính giá thành phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm. Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp xác định đối tượng tính giá thành chỉ là thành phẩm, là sản phẩm đã hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng của giai đoạn công nghệ sản xuất sản phẩm. Theo phương pháp này trước hết căn cứ vào số liệu chi phí sản xuất trong kỳ đã tập hợp được cho từng giai đoạn sản xuất, cho từng phân xưởng và tính toán phần chi phí sản xuất nằm trong giá thành thành phẩm theo từng khoản mục chi phí quy định. Sơ đồ 13: Sơ đồ tính giá thành phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm. CPSX phát sinh giai đoạn I CPSX giai đoạn I (trong thành phẩm) CPSX phát sinh giai đoạn II CPSX giai đoạn II (trong thành phẩm CPSX phát sinh giai đoạn n CPSX giai đoạn n (trong thành phẩm) K/ chuyển song song từng khoản mục Giá thành sx của thành phẩm Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn n * Phương pháp này có tác dụng: Giúp cho việc tính giá thành nửa thành phẩm được nhanh chóng vì không phải tính giá thành nửa thành phẩm ở từng giai đoạn. Tuy nhiên phương pháp này nó hạn chế đến tác dụng trong việc xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh ở từng phân xưởng sản xuất, từng giai đoạn sản xuất, nó không có số liệu để kế toán tổng hợp giá trị của nửa thành phẩm khi có trường hợp nửa thành phẩm nhập kho, không phản ánh được giá trị nửa thành phẩm từ giai đoạn trước chuyển sang giai đoạn sau. Mặt khác, số dư cuối kỳ trên sổ chi tiết ở từng phân xưởng sản xuất không thể hiện chính xác khối lượng sản phẩm làm dở hiện có của các phân xưởng. 1.4.3. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. Phương pháp này thường được áp dụng đối với những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất theo đơn chiếc hoặc là hàng loạt mặt hàng, sản phẩm nhiều nhưng không ổn định, sản xuất theo đơn đặt hàng của người mua sau 1 lần sản xuất không sản xuất lại nữa. Quy trình công nghệ sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến song song, lắp ráp, chu kỳ sản xuất dài, khi kết thúc chu kỳ sản xuất mới tính giá thành còn nếu sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng chưa hoàn thành thì đó đều là chi phí của sản phẩm làm dở. Tính giá thành theo đơn đặt hàng thì đối tượng tính giá thành là những sản phẩm đơn chiếc hoặc theo đơn đặt hàng. VD: các doanh nghiệp đóng tàu, các doanh nghiệp chế tạo máy... Khi tiến hành sản xuất theo đơn đặt hàng thì mỗi đơn đặt hàng mở ra một phiếu tính giá thành, cuối tháng tập hợp chi phí có liên quan theo từng đơn đặt hàng và chi phí sản xuất chung. Sau khi tập hợp thì sẽ tiến hành phân bổ cho các đơn đặt hàng có liên quan theo tiêu chuẩn thích hợp. Khi đơn đặt hàng đã hoàn thành kế hoạch căn cứ vào số liệu trên phiếu giá thành để tính ra tổng giá thành đơn vị của đơn đặt hàng. * Phương pháp này có tác dụng: Việc tính toán giản đơn, chi phí sản xuất được tập hợp theo từng đơn đặt hàng do đó thuận lợi cho việc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất của đơn đặt hàng. Tuy nhiên, chu kỳ sản xuất của đơn đặt hàng dài do đó nó có hạn chế trong việc tính toán hiệu quả sản xuất, thời gian tính giá thành bị kéo dài. 1.4.4. Phương pháp tính giá thành loại trừ chi phí sản xuất của sản phẩm phụ. Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp trong cùng một quy trình công nghệ sản xuất ngoài việc chế tạo sản phẩm chính ra còn thu thêm được sản phẩm phụ. Nói là sản phẩm phụ vì nó không thuộc danh mục của sản phẩm chủ yếu của quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, về khối lượng và giá trị của sản phẩm phụ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ so với sản phẩm chính. VD: Trong công ty sản xuất đường thì sản phẩm phụ là rỉ đường, trong nhà máy xay xát gạo thì sản phẩm phụ là cám... Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp này là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm chính đã hoàn thành trên cơ sở tập hợp chi phí cho toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất trừ phần chi phí của sản phẩm phụ được tính theo quy ước nhất định. Chi phí sản xuất của sản phẩm phụ có thể tính theo chi phí định mức hoặc giá kế hoạch hoặc giá bán trừ đi lợi nhuận định mức và thuế (nếu có). Để đảm bảo cho giá thành sản phẩm chính được chính xác cần phải lựa chọn cách tính về chi phí sản xuất của sản phẩm phụ thích hợp và cách tính CPSX của sản phẩm phụ phải được thống nhất trong doanh nghiệp và trong quy tắc tính giá thành. 1.4.5. Phương pháp tính giá thành theo hệ số. Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được nhiều sản phẩm khác nhau còn gọi là sản xuất liên sản phẩm, và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho quá trình sản xuất. Đối với loại hình sản xuất này đối tượng tập hợp chi phí là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm do quy trình công nghệ đó đã sản xuất hoàn thành. Muốn tính giá thành cho từng loại sản phẩm thì kế toán căn cứ vào tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật để định cho mỗi loại sản phẩm một hệ số trong đó lấy loại có hệ số là 1 là sản phẩm tiêu chuẩn. Hệ số đã quy định được sử dụng để tính giá thành cho từng loại sản phẩm. Theo phương pháp này trình tự tính giá thành được quy định như sau: - Quy đổi sản lượng thực tế của từng loại sản phẩm theo hệ số tính giá thành để làm tiêu chuẩn phân bổ. Sản lượng đã quy đổi Hệ số phẩn bổ giá thành cho từng loại sản phẩm Tổng sản lượng quy đổi = - Sản lượng quy đổi = Sản lượng thực tế x Hệ số quy đổi - Giá thành sản phẩm của SP i = Giá trị dở dang đầu kỳ + Chi phí trong kỳ - Giá trị dở dang cuối kỳ x Hệ số phân bổ giá thành cho sp i - Trên cơ sở hệ số đã tính được sẽ tính ra giá thành thực tế của từng loại sản phẩm theo khoản mục thì: 1.4.6. Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ. Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp mà trong cùng một quy trình công nghệ sản xuất có thể sản xuất ra một nhóm sản phẩm cùng loại với những quy cách kích cỡ, chủng loại khác nhau như doanh nghiệp sản xuất ra các ống nước có quy cách khác nhau, các công ty dệt kim, công ty may mặc, đóng giày... Với phương pháp tính giá thành này thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất của từng nhóm sản phẩm, đối tượng tính giá thành là từng nhóm sản phẩm có cùng quy cách . Trình tự tính giá thành như sau: Tính tỷ lệ giá thành theo từng khoản mục Tổng CP thực tế của nhóm SP Tổng tiêu chuẩn phân bổ = - Xác định tiêu chuẩn phân bổ = sản lượng thực tế x giá đơn vị kế hoạch - Tính giá thành sản phẩm cho nhóm sản phẩm cùng một quy cách. Tổng giá thành SP có quy cách i Tiêu chuẩn phân bổ của nhóm SP quy cách i Tỷ lệ tính giá thành = x 1.4.7. Phương pháp tính giá thành theo định mức. Phương pháp này chỉ áp dụng thích hợp với những doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm ổn định, đã xây dựng được các định mức kinh tế kỹ thuật tương đối hợp lý và các định mức đã thực hiện có nề nếp thường xuyên, việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có trình độ nghiệp vụ vững vàng, chế độ hạch toán ban đầu có nề nếp chặt chẽ. Đặc điểm nổi bật của phương pháp này là thực hiện được việc kiểm tra thường xuyên, kịp thời việc thực hiện các định mức chi phí để phát hiện ra các khoản chi phí vượt định mức (là những chi phí chênh lệch so với định mức đã đề ra) * Nội dung chủ yếu của phương pháp này: - Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật và dự toán chi phí đã được duyệt để tính ra giá thành định mức của sản phẩm. - Phải hạch toán riêng chi phí sản xuất phù hợp với định mức và số chênh lệch thoát ly định mức. - Khi có thay đổi định mức phải tính lại giá thành định mức và số chênh lệch do thay đổi định mức của sản phẩm làm dở. Trên cơ sở của giá thành định mức số chênh lệch do thay đổi định mức, số chênh lệch do thoát ly định mức sẽ tính được giá thành thực tế của sản phẩm theo công thức: Giá thành thực tế sản phẩm = Giá thành định mức Chênh lệch do thay đổi định mức Chênh lệch do thoát ly định mức x x Chương II Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết bị lạnh Long Biên 2.1 Giới thiệu tổng quan về Công ty thiết bị lạnh Long Biên 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Thiết bị lạnh Long Biên là một Doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở Công Nghiệp Hà Nội, sản xuất thiết bị lạnh theo kế hoạch và theo đơn đặt hàng của những đơn vị hay cá nhân có nhu cầu. Công ty thành lập ngày 23/3/1969 trên cơ sở xí nghiệp liên xưởng: Công ty hợp doanh Minh Nam và Xí nghiệp Công lực được thành phố quyết định sát nhập thành nhà máy cơ khí Long Biên với vốn pháp định là 6 tỷ đồng, mặt bằng sản xuất 9800 m2, tổng số cán bộ công nhân viên là 550 người, trụ sở tại số 2 Giảng Võ - Đống Đa - Hà nội . Nhà máy có nhiệm vụ sản xuất các loại máy công cụ: Máy tiện, máy phay, máy bào ... và sản xuất các loại bể xăng, thùng gang, và đinh các loại. Trong những năm đầu thành lập, nhà máy gặp không ít những khó khăn về cơ sở vật chất: trang thiết bị không đồng bộ, cũ kỹ, lạc hậu, sản phẩm sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Nhà máy công cụ số 1 và các nhà máy khác cùng thời. Đứng trước tình hình đó bắt đầu từ năm 1970 nhà máy đã từng bước nghiên cứu và chế thử thành công máy kem lạnh công nghiệp với công suất 25000 kcal/ giờ và đến năm 1979 nhà máy đã chế tạo được các hệ thống làm nước đá với công suất 3 tấn /ngày. Năm 1982, các sản phẩm thiết bị lạnh của nhà máy đã chiếm 80% trong cơ cấu sản phẩm. Để phù hợp với tình hình kinh doanh mới, ngày 12/6/1982 nhà máy chính thức đổi tên thành : Nhà máy Thiết bị lạnh Long Biên. Sản phẩm chính của nhà máy lúc này là máy kem lạnh 2AT80, 2AT125..., các kho lạnh bảo quản sản phẩm, các loại bể đá công suất 1 tấn trở lên... sản phẩm của nhà máy ngày một đa dạng, lợi nhuận thu được ngày càng tăng, đời sống của cán bộ công nhân viên nhà máy được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên khi bước sang nền kinh tế thị trường, nhà máy đã gặp rất nhiều khó khăn: Thiếu vốn, máy móc thiết bị già cỗi, lạc hậu... Trước tình hình đó, Ban Giám Đốc nhà máy quyết định đổi phương thức sản xuất, chuyển sang sản xuất theo đơn đặt hàng. Xác định lượng dự trữ nhất định cho thị trường để tránh ứ đọng vốn. Với phương châm cải tiến kỹ thuật mặt hàng chế tạo thiết bị lạnh có công suất lớn phù hợp với yêu cầu bảo quản lạnh như: làm bia công suất 5 triệu lít/ năm, làm đá 1-40 tấn /ngày... và sản xuất các thiết bị công nghệ chế biến thực phẩm kèm theo như bình lên men, bình xạc CO2 ... Chính vì vậy sản phẩm của nhà máy đã chiếm lĩnh được thị trường miền Trung và Miền Nam. Ngày 14/ 4/1993 nhà máy chính thức đổi tên thành Công ty Thiết bị lạnh Long Biên. Để phù hợp với cơ chế thị trường, mục tiêu sản xuất của công ty là giảm số lượng thiết bị lạnh có công suất thấp và tăng số lượng máy có công suất lớn và kèm theo các thiết bị đồng bộ phục vụ cho ngành chế biến thực phẩm tiến tới ổn định thị trường thiết bị lạnh trên cả nước. 2.1.2. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 2.1.2.1. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Sản phẩm sản xuất tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên phải qua nhiều bước công nghệ mới đi đến sản phẩm hoàn chỉnh nhập kho. Sản phẩm chủ yếu của công ty là các loại máy kem lạnh 2AT180, 2AT125, 2AT150... máy nén lạnh 2AD150... các loại técbia, thùng ngâm hoa quả, dàn lạnh... Đối với 2AD150 là sản phẩm chủ yếu, được cấu thành bởi hơn 800 chi tiết khác nhau chia thành 3 nhóm chính: chi tiết đầu máy, chi tiết bình- bể-dàn lạnh, hệ thống điện. Mỗi nhóm có quy trình công nghệ khác nhau. * Đối với chi tiết đầu máy: Đầu máy được cấu tạo bằng gang, gang được lấy từ kho vật liệu về phân xưởng đúc để gia công, chế biến tạo thành phôi. Các phôi này sẽ được chuyển sang phân xưởng cơ khí, ở đây tuỳ theo mức độ phức tạp của từng chi tiết mà phôi phải đi qua các bước gia công như: tiện thô, bào, phay, doa... để tạo thành một đầu máy hoàn chỉnh. Đầu máy này sẽ được bộ phận KCS kiểm tra trước khi nhập kho bán thành phẩm. *Đối với chi tiết bình-bể-dàn lạnh. Thép lá, thép tấm, Inox... được lĩnh tại kho vật liệu về phân xưởng gia công nóng để rèn, gò, nhiệt luyện... thành những hình đã định theo quy cách mà phòng kỹ thuật đã yêu cầu đối với chi tiết. Các chi tiết này phải qua bộ phận KCS kiểm tra trước khi nhập kho bán thành phẩm. *Hệ thống điện. Phân xưởng cơ điện lĩnh về các loại dây điện, tủ điện, bóng đèn, ổ cắm, phích cắm... tại kho vật liệu để lắp các bảng điện, tủ điện. Các chi tiết này cũng được qua bộ phận KCS kiểm tra trước khi nhập kho bán thành phẩm. Tại phân xưởng lắp ráp: Ba nhóm chi tiết được xuất kho bán thành phẩm để đưa vào lắp ráp hoàn thiện theo đúng tiến độ kế hoạch. Sản phẩm sau khi được lắp ráp hoàn chỉnh phải qua bộ phận KCS kiểm tra mới đem nhập kho thành phẩm. Sau đây là quy trình công nghệ sản xuất máy nén lạnh 2AD150( sản phẩm chủ yếu của công ty ). Sơ đồ 1. Quy trình sản xuất máy nén lạnh 2AD150. Gang Sắt, thép, Inox Đúc tạo phôi (PX đúc) Gia công cơ (PX cơ khí ) Rèn, gò, nhiệt luyện (PX gia công nóng ) Nhập kho bán thành phẩm Dây điện, tủ điện, bảng điện. Lắp tủ điện (PX cơ điện) Nhập kho bán thành phẩm Nhập kho bán thành phẩm Lắp ráp (PX lắp ráp) Thành phẩm Nhóm 1 Chi tiết đầu máy Nhóm 2 Chi tiết bình-bể-dàn lạnh Nhóm 3 Hệ thống điện 2.1.2.2. Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty. Để phù hợp với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, công ty tổ chức sản xuất sản phẩm theo 5 phân xưởng sản xuất : - Phân xưởng đúc: Có nhiệm vụ đúc các chi tiết bằng gang như đầu máy, thân máy, quả sơ mi máy lạnh... - Phân xưởng cơ khí: Gia công cơ khí các chi tiết bằng kim loại. Để phù hợp với yêu cầu sản xuất, phân xưởng đã lập ra các tổ sản xuất: Tổ tiện, tổ phay bào, tổ khoan doa. - Phân xưởng gia công nóng: Nhiệt luyện các chi tiết theo yêu cầu kỹ thuật, gò các bình, bể, dàn... phân xưởng này cũng được chia thành các tổ sản xuất là tổ gò và tổ nhiệt luyện. - Phân xưởng cơ điện: Nhiệm vụ chủ yếu là sửa chữa các thiết bị điện, lắp bảng điện, tủ điện... - Phân xưởng lắp ráp: Lắp ráp các bộ phận, chi tiết của máy thành sản phẩm hoàn chỉnh. ở tất cả các phân xưởng, các chi tiết sau khi đã gia công xong đều phải qua bộ phận KCS kiểm tra rồi mới nhập kho bán thành phẩm. Sau đó các chi tiết này mới được xuất sang phân xưởng khác để tiếp tục gia công chế biến theo kế hoạch. 2.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty. Công ty thiết bị lạnh Long Biên là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, tổ chức quản lý theo một cấp và để đáp ứng yêu cầu quản lý của mình, bộ máy quản lý của công ty được chia thành nhiều phòng ban khác nhau. Mỗi phòng ban đều có chức năng, nhiệm vụ riêng. * Ban giám đốc: Gồm có Giám đốc và một Phó giám đốc. - Giám đốc: Là người quyết định việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đúng theo chế độ pháp luật của nhà nước và nghị quyết của Đaị hội công nhân viên chức, là người chịu trách nhiệm trước nhà nước và tập thể lao động về kết quả kinh doanh của công ty. Đồng thời Giám đốc có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch SXKD dài hạn và ngắn hạn sau đó phải báo với cơ quan chủ quản. - Phó giám đốc: Là người trực tiếp giúp việc cho giám đốc, chỉ đạo điều hành những việc Giám đốc giao và được uỷ quyền thay mặt Giám đốc khi đi vắng, chịu trách._.hành phẩm sẽ được lắp ráp để tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh. Trong quý PX lắp ráp nhận từ kho bán thành phẩm 2 bán thành phẩm của PX cơ khí ( đầu máy), 2 bán thành phẩm của PX gia công nóng ( Bình- bể-dàn lạnh), và 2 tủ điện của PX cơ điện. Cuối quý PX này lắp ráp hoàn thành 2 máy 2AD-150 và 1 máy đang lắp dở. (Vì đầu kỳ tại phân xưởng này cũng còn 1 máy đang lắp dở). Căn cứ vào chi phí tập hợp, kế toán tính được giá thành của máy 2AD150 như sau:(Biểu số 21) Nhìn vào bảng tính giá thành ta thấy được giá thành của một máy nén lạnh 2AD150 là : 31.058.794 đồng. Chương III Một số ý kiến góp phần hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên. 3.1. Nhận xét chung về hạch toán Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên. Hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm là một công việc cần thiết và quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó giúp cho bộ máy quản lý và các thành viên trong doanh nghiệp nắm được tình hình thực hiện kế hoạch chi phí giá thành, cung cấp những tài liệu xác thực để chỉ đạo sản xuất kinh doanh, phân tích đánh giá tình hình sản xuất. Thông qua đó , khai thác và huy động mọi khả năng tiềm tàng nhằm mở rộng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Với ý nghĩa như vậy, hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn là vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm nghiên cứu trong quá trình nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Những năm gần đây, cùng với xu hướng thay đổi chung của nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã có những biến đổi theo hướng tích cực. ở Công ty Thiết bị lạnh Long Biên, điều này thể hiện bằng quá trình tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lý, tổ chức lại các phòng ban, lực lượng lao động ở tất cả các bộ phận và sự nỗ lực của toàn bộ công nhân viên toàn công ty để khắc phục những khó khăn, vươn lên tự khẳng định mình. Trong quá trình ấy, hệ thống tài chính kế toán không ngừng được đổi mới, hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức và phương pháp hạch toán. Qua tìm hiểu thực tế công tác kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm ở công ty Thiết bị lạnh Long Biên, em thấy rằng, nhìn chung, việc quản lý CPSX và tính giá thành ở công ty tương đối chặt chẽ, và được thực hiện khá nề nếp theo định kỳ hàng tháng đã cung cấp thông tin kịp thời, nhanh chóng cho lãnh đạo công ty để từ đó lãnh đạo công ty nắm rõ tình hình biến động các khoản chi phí trong giá thành sản phẩm, có biện pháp quản lý thích hợp để giảm chi phí, tiết kiệm NVL, giảm giá thành và thu được lợi nhuận lớn cho công ty.Tuy nhiên bên cạnh đó cũng bộc lộ những khiếm khuyết đòi hỏi phải có giải pháp thiết thực hơn. Điều này được thể hiện cụ thể như sau: 3.1.1. Ưu điểm. - Về phân loại chi phí: Các chi phí trong kỳ được kế toán phân loại một cách chính xác và hợp lý cho các đối tượng chi phí, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tính giá thành sản phẩm cuối kỳ. - Về chứng từ kế toán: Công ty đã sử dụng hệ thống chứng từ và sổ sách kế toán khá đầy đủ theo quy định của Bộ Tài Chính. Công tác hạch toán các chứng từ ban đầu được theo dõi một cách chặt chẽ, đảm bảo tính chính xác của các số liệu. Việc luân chuyển chứng từ sổ sách giữa phòng kế toán với thống kê phân xưởng và thủ kho được tổ chức một cách nhịp nhàng quy củ tạo điều kiện thuận lợi cho kế toán thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, đặc biệt là cho việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. - Về đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành: Công ty đã xác định được đối tượng kế toán CPSX và đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất và đáp ứng được yêu cầu quản lý CPSX tại công ty. Cụ thể là đối tượng kế toán CPSX là từng hợp đồng đối với các chi phí được sản xuất theo đơn đặt hàng và theo từng phân xưởng đối với các sản phẩm được sản xuất hàng loạt. Đối tượng tính giá thành là đơn vị sản phẩm hoàn thành. - Về kỳ tính giá thành: Do đặc điểm sản phẩm của Công ty là chu kỳ sản xuất dài, giá trị lớn nên kỳ tính giá thành theo hàng quý là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì mỗi sản phẩm được cấu tạo nên từ rất nhiều chi tiết khác nhau và qua nhiều công đoạn sản xuất, chu kỳ sản xuất một sản phẩm dài nên tính giá thành theo quý sẽ đảm bảo cung cấp được số liệu đầy đủ về chi phí phát sinh và tính được giá thành chính xác, từ đó giúp cho các nhà quản lý ra các quyết định đúng đắn. - Về bộ máy kế toán: Bộ máy kế toán của công ty đã và đang hoạt động có hiệu quả, bảo đảm chức năng cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết cho ban giám đốc và các bộ phận liên quan. Thành công này trước hết là do sự cố gắng vượt bậc của đội ngũ cán bộ phòng kế toán công ty với tinh thần trách nhiệm và trình độ nghiệp vụ cao. Chỉ với 5 người nhưng đã đảm nhận được một khối lượng lớn công việc từ ghi chép sổ sách, lập báo cáo, kiểm kê hàng hoá đến việc giao dịch với cấp trên, khách hàng. Nhìn chung lại, tổ chức hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm ở công ty đã phần lớn đáp ứng được yêu cầu quản lý ở công ty xét trên cả hai khía cạnh: Tuân thủ các chuẩn mực kế toán chung và phù hợp với tình hình thực tế của công ty. Tuy nhiên, công tác kế toán của công ty còn đang trong quá trình hoàn thiện nên không tránh khỏi những tồn tại cần được khắc phục. 3.1.2. Một số vấn đề còn tồn tại. - Về hạch toán CPNVLTT: Theo quy định thì CPNVLTT bao gồm NVL chính, vật liệu phụ, nguyên vật liệu trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và cấu tạo nên thực thể sản phẩm, giá trị của chúng chuyển một lần vào giá trị sản phẩm. Nhưng thực tế ở công ty khoản CPNVLTT lại bao gồm cả CCDC như đồng hồ đo nhiệt, hạch toán như vậy là không hợp lý. Được thể hiện qua định khoản:(Quý I/2001) Nợ TK 621 1.280.763 Có TK 153 1.280.763 - Về hạch toán CPSX chung: + Bên cạnh tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất và tiền lương công nhân gián tiếp được tính vào giá thành sản phẩm thì tiền lương của bộ phận quản lý doanh nghiệp lại được phân bổ theo tỷ lệ 50% vào chi phí sản xuất chung. Tức là giá thành của sản phẩm cũng phải chịu thêm một phần chi phí lương của bộ phận quản lý doanh nghiệp vào sản xuất tuỳ theo mức độ tham gia vào quá trình sản xuất. Cách phân bổ như vậy sẽ làm cho chi phí sản xuất chung tăng lên và tất yếu dẫn tới giá thành sản phẩm cũng tăng. Ví dụ: Trong bảng phân bổ tiền lương của công ty tháng 1/2001: . Tổng chi phí tiền lương gián tiếp của công nhân phân xưởng là 6.507.643 đồng. . Tổng tiền lương của bộ phận quản lý được phân bổ 50% là: 12.845.967,5 đồng. Như vậy ta thấy tiền lương phân bổ lớn gấp 2 lần so với tiền lương của nhân viên gián tiếp phân xưởng dẫn đến chi phí sản xuất chung tăng lên rất nhiều ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. + Hạch toán CCDC dùng cho sản xuất: CCDC bao gồm nhiều loại khác nhau và có giá trị cũng khác nhau. ở công ty, giá trị CCDC được phân bổ một lần vào quá trình sản xuất và có nghĩa xuất dùng tháng nào thì hạch toán ngay vào CPSX tháng đó. Do đó có trường hợp giá trị CCDC lớn mà được phân bổ ngay một lần vào quá trình sản xuất trong kỳ sẽ làm ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm do chi phí trong kỳ tăng lên đột ngột. + Đối với CPSXC phần dịch vụ mua ngoài ( điện, nước ) công ty chưa lắp đồng hồ đo nước và công tơ điện riêng cho từng phân xưởng mà chỉ tập hợp các chi phí này theo toàn bộ các phân xưởng rồi cuối kỳ mới phân bổ cho từng phân xưởng theo chi phí trực tiếp(chi phí NVLTT, chi phí NCTT) của phân xưởng đó. Mà thực chất chi phí về điện nước không tỷ lệ với chi phí trực tiếp của các phân xưởng. Do vậy tiêu thức phân bổ này là chưa hợp lý sẽ dẫn đến giá thành của bán thành phẩm tại từng phân xưởng không được chính xác. - Về khoản chi phí trích trước: Hiện nay ở công ty có sử dụng tài khoản này nhưng chỉ để trích trước các chi phí bảo hành sản phẩm chứ chưa thực hiện trích trước đối với các khoản khác. Hiện tại máy móc thiết bị của công ty phần lớn đã cũ, có thể sẽ bị hỏng hóc. Nếu không thực hiện trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ thì khi máy móc hỏng sẽ làm ảnh hưởng đến chi phí sản xuất trong kỳ. - Việc lập nhật ký chứng từ số 7 phần III: Trong công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, Công ty chưa lập Nhật ký chứng từ số 7 phần III "Luân chuyển nội bộ không tính vào chi phí sản xuất kinh doanh", như vậy sẽ không theo dõi được các khoản luân chuyển nội bộ, trong tổng chi phí phát sinh trong kỳ có những khoản chi phí trùng lặp, chưa xác định được chính xác chi phí thực tế phát sinh trong kỳ là bao nhiêu. - Việc lập bảng giá thành kế hoạch : Sau khi tính được giá thành sản phẩm cần phải phân tích các chỉ tiêu giá thành sản phẩm để tìm ra nguyên nhân làm tăng giảm giá thành từ đó tìm ra biện pháp tốt nhất để hạ giá thành. Đây là mục tiêu của mỗi doanh nghiệp sản xuất, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Thực tế công ty chưa xây dựng giá thành kế hoạch cho sản phẩm vì vậy việc phân tích thông tin về chi phí và giá thành phần nào bị hạn chế. Nghiên cứu để xây dựng giá thành kế hoạch phù hợp là một vấn đề Công ty cần phải quan tâm và thực hiện sớm. Như vậy, để phát huy, tăng cường những ưu điểm, những thế mạnh đã tạo và đạt được đồng thời khắc phục hạn chế tiến tới loại bỏ những điều không đáng có trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết bị lạnh Long Biên thì vấn đề là phải có phương hướng, biện pháp đổi mới, hoàn thiện công tác này sao cho ngày càng đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty trong cơ chế thị trường hiện nay. 3.2. Một số ý kiến góp phần hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị lạnh Long Biên. *ý kiến 1: Hoàn thiện phương pháp hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Như trên đã trình bày, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là những chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ,... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm và đó là những chi phí trực tiếp cấu thành nên thực thể của sản phẩm. Tuy nhiên, ở Công ty qua bảng phân bổ số 2- Bảng phân bổ Vật liệu- Công cụ dụng cụ quý I/2001 ta có thể thấy được chi phí NVLTT ngoài chi phí về NVL chính, VL phụ thì còn bao gồm cả chi phí về CCDC. Được thể hiện qua định khoản: Nợ TK 621 1.280.763. Có TK 153 1.280.763. Mà thực chất, trong quá trình sử dụng thì CCDC mang đặc điểm như là TSCĐ hữu hình có nghĩa là CCDC sẽ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, giá trị hao mòn dần trong quá trình sử dụng và vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư hỏng. Vì vậy ta có thể hiểu chi phí về CCDC chỉ là những chi phí hỗ trợ cho quá trình sản xuất chứ không phải là chi phí trực tiếp tham gia cấu thành nên sản phẩm. Chính vì vậy mà việc hạch toán chi phí CCDC vào chi phí NVL trực tiếp ở Cong ty như trên là khong chính xác. Tuy nhiên về tổng chi phí để tính giá thành là không sai nhưng không theo đúng thông lệ quốc tế cũng như không đúng với chế độ kế toán của Việt Nam quy định. Vì hạch toán như vậy sẽ dẫn đến chi phí về NVL trực tiếp tăng lên ảnh hưởng tới việc phân tích đánh giá khoản mục chi phí NVL trực tiếp không được chính xác dẫn đến cung cấp thông tin sai lệch về tình hình sử dụng NVL. Và sở dĩ ở Công ty còn tồn tại điều này là do việc sắp xếp, phân loại vật tư chưa chính xác, đã xếp loại vật tư thuộc nhóm CCDC vào nhóm chi phí NVL trực tiếp. Cho nên vấn đề đặt ra ở đây cho Doanh nghiệp nói chung và cho kế toán vật liệu nói riêng là phải tìm hiểu sắp xếp một cách chính xác các danh mục vật tư dựa vào công dụng cũng như quá trình tham gia của các loại vật tư vào sản xuất. Điều này này được thể hiện cụ thể bằng việc nghiên cứu cân nhắc để đưa nhóm CCDC này vào một tài khoản chi phí hợp lý. Và theo em thì chi phí CCDC nên hạch toán vào chi phí sản xuất chung TK627( chi tiết cho tiểu khoản 6273). Và định khoản trên khi đó sẽ được thay bằng định khoản: Nợ TK627(6273) 1.280.763 Có TK153 1.280.763 *ý kiến 2: Hoàn thiện phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chung. - Về chi phí tiền lương nhân viên phân xưởng: Chi phí nhân viên phân xưởng phản ánh những chi phí về lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên phân xưởng (quản đốc, phó quản đốc, nhân viên hạch toán phân xưởng, thủ kho...) và các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH, BHYT, CP công đoàn trích theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh. Như vậy chi phí tiền lương nhân viên phân xưởng chỉ bao gồm những chi phí cho nhân viên quản lý phân xưởng. Nhưng ở Công ty thì ngoài tiền lương của cán bộ quản lý phân xưởng thì chi phí về nhân viên phân xưởng còn phải chịu phân bổ 50% chi phí quản lý toàn doanh nghiệp. Phân bổ như vậy là không đúng theo chế độ kế toán hiện hành vì chi phí quản lý doanh nghiệp là chi phí ngoài sản xuất cho nên không được tính vào chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, làm như vậy sẽ dẫn đến chi phí sản xuất chung tăng lên. Cho nên để khắc phục được vấn đề này công ty nên đánh giá và sắp xếp lại nhân viên làm việc gián tiếp tại các phòng ban và phân xưởng theo đúng chức năng mà thực tế họ đang làm. Và 50% chi phí quản lý doanh nghiệp phải được hạch toán vào TK 642-Chi phí quản lý doanh nghiệp. Cụ thể bằng định khoản: Nợ TK 642 12.845.967,5 Có TK 334,338 12.845.967,5 Điều này tạo điều kiện tăng cường quản trị nhân lực trong công ty, hạch toán chính xác hơn chi phí sản xuất chung trong giá thành. - Đối với công cụ dụng cụ xuất dùng cho sản xuất: Hiện nay, Công ty hạch toán công cụ, dụng cụ theo phương pháp phân bổ một lần, tức là toàn bộ giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng trong kỳ đều được hạch toán ngay vào chi phí sản xuất kinh doanh kỳ đó. Do vậy đối với công cụ dụng cụ xuất dùng có giá trị lớn sẽ làm cho giá thành tăng đột ngột, cho nên để khắc phục được tình trạng này cần phải căn cứ vào giá trị của công cụ dụng cụ mà xác định số lần phân bổ cho hợp lý. . Nếu công cụ dụng cụ có giá trị nhỏ thì phân bổ một lần vào chi phí tuỳ theo mục đích sử dụng bằng định khoản: Nợ TK 627,641,642 Có TK 153 . Nếu công cụ dụng cụ có giá trị lớn, để tránh sự biến động nhiều về giá thành thì có thể phân bổ nhiều lần vào chi phí sản xuất kinh doanh bằng cách hạch toán toàn bộ giá trị công cụ dụng cụ có giá trị lớn xuất dùng trong kỳ vào TK 142-“ Chi phí trả trước” bằng định khoản: Nợ TK 142 Có TK153 Sau đó dựa vào kế hoạch phân bổ, tiến hành phân bổ giá trị công cụ dụng cụ vào chi phí bằng định khoản: Nợ TK 627, 641, 642 (mức phân bổ mỗi lần) Có TK 142 Hạch toán như vậy sẽ đảm bảo cho giá thành ổn định. - Chi phí dịch vụ mua ngoài: ở công ty, chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm chi phí tiền điện, tiền nước. Nhưng những chi phí này được tập hợp cho toàn bộ các phân xưởng rồi cuối kỳ mới phân bổ chi tiết cho từng phân xưởng. Sở dĩ Công ty phải làm như vậy là do công ty chưa thực hiện lắp đồng hồ đo nước, công tơ điện cho từng phân xưởng nên không thể xác định được mức chi phí tiêu hao thực tế cho từng phân xưởng là bao nhiêu, ảnh hưởng tới việc tính giá thành một cách chính xác của các bán thành phẩm tại từng phân xưởng. Vì vậy, để thuận tiện cho việc hạch toán chính xác chi phí sản xuất cũng như tính chính xác giá thành vấn đề đặt ra cho Công ty là phải đầu tư lắp đặt cho mỗi phân xưởng sản xuất một công tơ điện và đồng hồ đo nước riêng biệt. Điều này, một mặt tạo thuận lợi cho việc tập hợp chi phí, mặt khác giúp cho các nhà quản lý biết được các phân xưởng đó hoạt động có hiệu quả hay không, thực hiện tiết kiệm hay lãng phí để từ đó đưa ra các quyết định quản lý chính xác và tối ưu. * ý kiến 3: Hạch toán khoản chi phí trích trước. Chi phí trích trước là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kỳ hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của đơn vị mà do tính chất hoặc yêu cầu quản lý nên được tính trước vào chi phí kinh doanh cho các đối tượng chịu chi phí nhằm đảm bảo cho giá thành khỏi đột biến tăng khi những khoản chi phí này phát sinh. Các khoản chi phí trích trước thường bao gồm các khoản trích trước tiền lương công nhân sản xuất, trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch, trích trước chi phí ngừng sản xuất theo kế hoạch, trích trước chi phí bảo hành sản phẩm... Hiện tại, ở công ty có sử dụng tài khoản này nhưng chỉ để trích trước các chi phí của các công trình lắp đặt và chi phí bảo hành sản phẩm chứ chưa thực hiện trích trước chi phí đối với các khoản khác. Qua tìm hiểu thực tế, công ty có rất nhiều TSCĐ mà số tài sản cũ kỹ đã qua nhiều năm sử dụng chiếm một tỷ trọng khá lớn nên khả năng hỏng hóc xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Cho nên, để tránh sự cố về máy móc xảy ra trong quá trình sản xuất thì công ty cần lập kế hoạch sửa chữa TSCĐ và thực hiện trích trước khoản chi phí này vào chi phí sản xuất để đến khi sửa chữa sẽ không làm ảnh hưởng đến chi phí sản xuất trong kỳ. Hàng tháng, khi thực hiện trích trước chi phí sửa chữa tài sản cố định trong kế hoạch thì kế toán ghi : Nợ TK 627,641,642 Có TK 335 * ý kiến 4: Về trích khấu hao TSCĐ. Trong quá trình đầu tư và sử dụng, dưới tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện làm việc cũng như tiến bộ kỹ thuật, TSCĐ bị hao mòn. Để thu hồi giá trị hao mòn của TSCĐ, người ta tiến hành trích khấu hao bằng cách chuyển phần giá trị hao mòn này vào giá trị sản phẩm làm ra. Việc tính khấu hao được tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau. Khi lựa chọn phương pháp khấu hao hợp lý để vận dụng vào doanh nghiệp là phải xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh, từ yêu cầu quản lý hạch toán nhằm để thu hồi được vốn nhanh có điều kiện để tái sản xuất TSCĐ và trang trải chi phí. Trên thực tế hiện nay, phương pháp khấu hao đều theo thời gian đang được áp dụng phổ biến ở các doanh nghiệp và được tính theo công thức: Mức khấu hao cơ bản phải trích trong tháng = Nguyên giá TSCĐ x % khấu hao cơ bản 12 Nhìn chung, tỷ lệ % khấu hao cơ bản của các doanh nghiệp là tương đối thấp( có loại 8%, 10%, 15% ) và ở công ty là 8%. Như vậy là đa số từ 10- 15 năm mới thu hồi đủ vốn. Cụ thể ở công ty, nhìn vào bảng phân bổ khấu hao TSCĐ ( Biểu số 8 ) có : Nguyên giá TSCĐ là : 1.206.381.000 đồng Mức khấu hao cơ bản trích hàng quý là : 24.127.620 đồng Như vậy mức khấu hao cơ bản trích hàng năm là: 24.127.620 x 4 = 96.510.480 đồng Nên số năm để thu hồi đủ vốn là: 1.206.381.000 : 96.510.480 = 12,5 năm Phương pháp này tuy có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tăng sản phẩm làm ra để hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Song việc thu hồi vốn chậm nên phần nào hạn chế cho doanh nghiệp trong việc có điều kiện đầu tư trang bị TSCĐ mới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp sử dụng khấu hao theo phương pháp này thì mọi tài sản mới cũng như cũ đều khấu hao theo một tỷ lệ nhất định nên nhiều khi không theo kịp cũng như không đúng với mức hao mòn thực tế. Do vậy doanh nghiệp cần đề nghị với cấp trên điều chỉnh tỷ lệ khấu hao hợp lý và nên nâng tỷ lệ khấu hao lên. Theo kinh nghiệm của các nước tiên tiến đặc biệt là của Mỹ thường sử dụng phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần. Tức là sản phẩm mới thì ban đầu khấu hao theo nguyên giá và với tỷ lệ khấu hao cao, những năm sau thì khấu hao theo giá trị còn lại và với tỷ lệ khấu hao thấp dần. Làm như vậy không những thu hồi được vốn nhanh mà còn có lợi về thuế thu nhập. Vì vậy công ty có thể tìm hiểu và tham khảo để áp dụng cho công ty mình. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp được phép tăng mức khấu hao cơ bản( không quá 20% mức tính theo quy định và báo cho cơ quan tài chính biết để theo dõi ) trong các trường hợp sau với điều kiện không bị lỗ: Những tài sản có tiến bộ kỹ thuật nhanh, TSCĐ làm việc với chế độ cao hơn mức bình thường, TSCĐ đầu tư bằng vốn vay hay các hình thức hợp pháp khác mà thời gian trả nợ nhanh hơn thời gian khấu hao theo quy định. *ý kiến 5: Xây dựng giá thành kế hoạch. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu hết sức quan trọng, nếu hạch toán giá thành chính xác, sẽ là cơ sở tốt cho nhà quản lý ra quyết định kinh doanh đúng đắn. Phân tích nghiên cứu tìm ra cách hạ giá thành mà chất lượng không đổi như vậy sẽ tạo điều kiện cho sản phẩm đó có sức cạnh tranh trên thị trường và từ đó thu được lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Để phân tích thông tin về chi phí và giá thành một cách chính xác thì cần thiết phải xây dựng giá thành kế hoạch cho sản phẩm. Đây sẽ là căn cứ, là điểm mốc để so sánh xem thực tế có thực hiện được kế hoạch đặt ra hay không và từ đó có biện pháp đạt được kế hoạch giá thành, tìm ra được nguyên nhân tăng giảm giá thành, trên cơ sở đó người quản lý sẽ đưa ra được cách xử lý tốt nhất. Nhưng thực tế, công ty chưa xây dựng kế hoạch giá thành cho sản phẩm nên việc phân tích thông tin về chi phí và giá thành phần nào bị hạn chế. Vì vậy, định kỳ công ty nên nghiên cứu xây dựng giá thành kế hoạch. Để thực hiện được điều này có thể lập bảng phân tích giá thành sản phẩm như sau: Bảng phân tích giá thành sản phẩm Sản phẩm: STT Khoản mục chi phí Giá thành kế hoạch đơn vị sản phẩm Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm Chênh lệch Số tuyệt đối Số tương đối 1 2 3 Chi phí NVLTT - CP NVL chính - CP VL phụ Chi phí NCTT Chi phí SX chung Cộng Trong đó : - Đối với khoản mục chi phí NVLTT : Công ty nên căn cứ vào định mức tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm do phòng kinh doanh lập. - Đối với khoản mục chi phí NCTT : Công ty nên căn cứ vào định mức giờ công sản xuất một sản phẩm và mức lương cho một giờ công sản xuất do phòng kinh doanh xây dựng. - Đối với khoản mục chi phí SXC : Công ty có thể lấy chi phí sản xuất chung tháng trước trên cơ sở khối lượng sản phẩm dự định sản xuất tháng này. *ý kiến 6: Lập NKCT số 7 phần III. Hiện nay, công ty chưa lập NKCT số 7 phần III- Số liệu chi tiết phần "Luân chuyển nội bộ không tính vào chi phí sản xuất kinh doanh". Do vậy, để đáp ứng yêu cầu quản lý tốt hơn và cũng đồng thời theo dõi được các khoản luân chuyển nội bộ thì công ty nên lập NKCT số 7 phần III( Biểu số 23). Trên cơ sở đó có số liệu để ghi vào NKCT số 7 phần II cột "Luân chuyển nội bộ không tính vào chi phí sản xuất kinh doanh".(Biểu số 22). Cách lập và ghi chép NKCT số 7 phần III như sau: + Căn cứ vào số phát sinh bên có TK 621 đối ứng nợ TK 154 ở mục A phần I trên NKCT số 7 để ghi vào cột 4 ở dòng TK 154 ở phần III NKCT số 7. + Căn cứ vào số phát sinh bên có TK 622 đối ứng Nợ TK 154 ở mục A phần I trên NKCT số 7 để ghi vào cột 5 ở dòng TK 154 ở phần III NKCT số 7. + Căn cứ vào số phát sinh bên Có TK 627 đối ứng Nợ TK 154 ở mục A phần I trên NKCT số 7 để ghi vào cột 6 ở dòng TK 154 ở phần III NKCT số 7. *ý kiến 7: áp dụng tin học vào công tác kế toán. Như trên đã trình bày vì khối lượng công việc ở công ty là rất lớn, hơn thế nữa số lượng nhân viên kế toán lại hạn chế chỉ có 5 người, trong đó có người phải đảm nhiệm rất nhiều công việc như kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành. Hàng tháng, quý phải tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành các loại sản phẩm, định kỳ phải viết báo cáo phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh gửi cho Ban lãnh đạo và Sở Công Nghiệp, bên cạnh nhiệm vụ này kế toán còn kiêm luôn cả phần TSCĐ, thuế và tiêu thụ. Thêm vào đó, hình thức tổ chức sổ là hình thức NKCT đòi hỏi hệ thống sổ sách chứng từ phải được tổ chức rất công phu, việc ghi chép cần rất nhiều thời gian. Thực tế này đôi khi trở nên quá sức đối với đội ngũ nhân viên phòng kế toán, ảnh hưởng đến khả năng cung cấp thông tin của bộ phận này. Hiện tại, phòng kế toán đã được trang bị máy vi tính nhưng chưa được cài đặt phần mềm kế toán chuyên dụng (Kế toán máy), nên máy vi tính chưa phát huy được hết vai trò của nó. Trong khi đó, hiện nay việc sử dụng kế toán máy trong công tác kế toán ở các doanh nghiệp là rất phổ biến, mọi việc theo dõi ghi chép đều được bảo quản trong máy, do đó hạn chế được khối lượng công việc, tiết kiệm được thời gian và công sức cho nhân viên. Do vậy, công ty nên nghiên cứu, đầu tư để sử dụng kế toán máy vào công tác hạch toán kế toán của mình. Bên cạnh đó, công ty cũng cần trang bị thêm máy vi tính cho phòng kế toán, cố gắng để mỗi kế toán viên được sử dụng riêng một máy chứ không dùng chung như hiện nay. Đồng thời công ty cần đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ sử dụng máy vi tính cho các nhân viên kế toán. Tuy nhiên, khi công ty có sử dụng phần mềm kế toán thì công ty nên áp dụng hình thức sổ kế toán chứng từ ghi sổ vì hình thức này thích hợp với mọi loại quy mô đơn vị sản xuất kinh doanh, mặt khác kết cấu của hình thức này đơn giản nên rất phù hợp với điều kiện lao động kế toán bằng máy. Còn hình thức sổ kế toán NKCT phức tạp về kết cấu, quy mô sổ lớn về lượng và loại nên khó vận dụng phương tiện máy tính vào sử lý số liệu kế toán, chỉ thích hợp với những doanh nghiệp chủ yếu thực hiện kế toán bằng lao động thủ công như công ty hiện nay. Đây là phương hướng tương lai mà công ty cần phấn đấu để phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và yêu cầu đổi mới quản lý công tác kế toán nói riêng . Kết luận Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thực hiện cơ chế hạch toán kế toán theo cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước đòi hỏi các doanh nghiệp một mặt phải tự trang trải được các chi phí mặt khác phải thu được lợi nhuận đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được trên cơ sở quản lý chặt chẽ và sử dụng hợp lý các loại tài sản, vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp, quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất. Chính vì lẽ đó cần phải đặc biệt quan tâm đến việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Trong thời gian thực tập tại Công ty Thiết bị lạnh Long Biên em nhận thấy công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty đã phần nào đáp ứng được yêu cầu quản lý trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ quan điểm đổi mới và những vấn đề tồn tại trong quá trình tổ chức hạch toán nghiệp vụ ở Công ty cùng với kiến thức đã học em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến đề xuất mong muốn góp phần hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty. Mặc dù rất cố gắng nhưng do thời gian thực tập và nghiên cứu có hạn cho nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS.Phan Trọng Phức cùng sự giúp đỡ của toàn thể các bác, các cô, các anh chị phòng tài vụ của Công ty Thiết bị lạnh Long Biên đã tạo mọi thuận lợi giúp em hoàn thành khoá luận này. Hà Nội, tháng 07 năm 2001 Sinh viên Nguyễn Thị Thu Hương Tài liệu tham khảo - Kế toán tài chính doanh nghiệp công nghiệp - Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm - Lý thuyết hạch toán kế toán - Hệ thống kế toán doanh nghiệp - Phân tích hoạt động kinh doanh - Một số luận văn mẫu - Bài giảng của Thầy Đức trường Tài chính kế toán Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I. Một số vấn đề lý luận về kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp SXKD. 3 1.1. Tổng quan về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm 3 1.1.1. Khái niệm và phân biệt sự khác nhau giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 3 1.1.2. Sự cần thiết và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 5 1.1.3. Phân loại CPSX 7 1.1.4. Phân loại giá thành sản phẩm. 9 1.1.5. Đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành 10 1.1.6. Sự khác nhau giữa đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành 11 1.1.7. Trình tự hạch toán CPSX 12 1.2. Kế toán CPSX trong doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên 12 1.2.1. Hạch toán CPNVLTT. 12 1.2.2.Hạch toán CPNCTT. 14 1.2.3. Hạch toán chi phí trả trước. 15 1.2.4. Hạch toán chi phí phải trả. 16 1.2.5. Hạch toán tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh phụ. 17 1.2.6. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất. 19 1.2.7.Hạch toán chi phí sản xuất chung. 21 1.2.8. Tổng hợp CPSX, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. 23 1.3. Kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ. 26 1.4. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm. 27 1.4.1. Phương pháp tính giá thành giản đơn. 27 1.4.2.Phương pháp tính giá thành phân bước. 28 1.4.3. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. 30 1.4.4. Phương pháp tính giá thành loại trừ CPSX của sản phẩm phụ. 31 1.4.5. Phương pháp tính giá thành theo hệ số. 31 1.4.6. Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ. 32 1.4.7. Phương pháp tính giá thành theo định mức. 33 Chương II. Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết bị lạnh Long Biên. 34 2.1. Giới thiệu tổng quan về Công ty Thiết bị lạnh Long Biên. 34 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. 34 2.1.2. Đặc điểm của quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 35 2.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty. 37 2.1.4. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của công ty. 39 2.2. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết bị lạnh Long Biên. 42 2.2.1. Hạch toán CPSX tại công ty. 42 2.2.1.1.Đặc điểm CPSX tại công ty. 42 2.2.1.2. Phân loại CPSX. 43 2.2.1.3. Đối tượng tập hợp CPSX. 43 2.2.1.4 Trình tự hạch toán CPSX. 44 2.2.1.4.1. Hạch toán CPNVLTT. 44 2.2.1.4.2.Hạch toán CPNCTT. 47 2.2.1.4.3. Kế toán CPSXC. 49 2.2.1.5. Tổng hợp CPSX kinh doanh toàn công ty. 56 2.2.2. Thực tế công tác tính giá thành sản phẩm ở Công ty TBLLB. 59 2.2.2.1. Đối tượng tính giá thành. 59 2.2.2.2. Phương pháp tính giá thành. 59 2.2.2.3. Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ. 60 2.2.2.4.Trình tự tính giá thành sản phẩm ( cụ thể cách tính giá thành máy nén lạnh 2AD150). 61 Chương III. Một số ý kiến góp phần hoàn thiện kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TBLLB. 67 3.1. Nhận xét chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TBLLB. 67 3.1.1.Ưu điểm. 68 3.1.2. Một số vấn đề còn tồn tại. 69 3.2. Một số ý kiến góp phần hoàn thiện kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TBLLB. 71 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0309.doc
Tài liệu liên quan