Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam

Danh mục các chữ viết tắt STT Chữ viết tắt Nội dung 1 BHXH Bảo hiểm xã hội 2 BHYT Bảo hiểm y tế 3 CCDC Công cụ dụng cụ 4 CP NVL TT Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 5 CPNCTT Chi phí nhân công trực tiếp 6 CPSCX Chi phí sản xuất chung 7 DD Dở dang 8 KPCĐ Kinh phí công đoàn 9 PX Phân xưởng 10 SP Sản phẩm 11 STT Số thứ tự 12 TK Tài khoản 13 TSCĐ Tài sản cố định Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1183 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải biết quan tâm đến công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất phải biết hạch toán kinh tế sao cho có thể tự trang trải các khoản chi phí và có lợi nhuận mong muốn. Vì vậy, bất cứ một đơn vị kinh tế nào dù lớn hay nhỏ đều phải tìm ra cho mình một hướng đi đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế hiện nay, phải tính toán, suy nghĩ tìm ra những biện pháp tối ưu nhất trong công tác tổ chức sản xuất - kinh doanh, phải lấy thu nhập về tiêu thụ sản phẩm bù đắp mọi chi phí cho sản xuất. Chỉ có như vậy các doanh nghiệp mới có đầy đủ điều kiện để tiếp tục quá trình tái sản xuát giản đơn và thực hiện được nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh. Một vấn đề đặt ra cho tất cả các nhà kinh doanh là làm thế nào để chi phí bỏ ra cho sản xuất sản phẩm là thấp nhất mà lợi nhuận thu về lại cao nhất. Đây là một vấn đề rất phức tạp trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành. Muốn vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp cần có những thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời về chi phí để xác định được giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó, xác định giá bán hợp lý, cơ cấu sản phẩm tối ưu nhằm tận dụng tối đa khả năng sản xuất để đạt được lợi nhuận cao nhất. Đối với Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu: “Nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành sản phẩm”. Cùng với những kiến thức em đã tổng hợp và tích luỹ được về chuyên ngành kế toán trong thời gian học tập ở trường, kết hợp với quá trình tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam, em đã nhận thấy công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm giữ một vai trò hết sức quan trọng trong các doanh nghiệp sản xuất. Đây cũng là một vấn đang được các doanh nghiệp quan tâm, do đó em lựa chọn đề tài: “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam” cho bài luận văn tốt nghiệp của mình, với các nội dung chính sau: Chương 1: Lý luận chung về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Chương 2: Thực tế công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam Chương 3: Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô giáo cũng như các cô, các bác trong phòng kế toán của Công ty nhưng với trình độ lý luận và thời gian tiếp cận thực tế còn hạn chế nên bài luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo trong bộ môn để bài viết của em được hoàn thiện hơn. chương 1 Lý luận chung về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1.Những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường tác động đến kế toán trong doanh nghiệp công nghiệp Trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo của Đảng, đất nước ta đã và đang tiến hành công cuộc cải cách nền kinh tế theo định hướng XHCN và đã thu được một số thành tựu quan trọng bước đầu. Đời sống xã hội từng bước được cải thiện, nhu cầu của con người và xã hội ngày càng cao và đa dạng. Để đáp ứng được nhu cầu đó của xã hội, sản xuất kinh doanh phải không ngừng mở rộng với sự phát triển của các thành phần kinh tế , các phương thức hoạt động khác nhau. Như chúng ta đã biết, nền kinh tế nước ta đã và đang phát triển theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí , hành động của người sản xuất và người tiêu dùng, người bán hàng và người mua hàng thông qua thị trường và giá cả. Trong cơ chế thị trường, các đơn vị sản xuất kinh doanh được tự do tác động lẫn nhau trên thị trường. Đơn vị này có thể mua sản phẩm, dịch vụ từ đơn vị khác. Trong một thị trường các giao dịch có thể tiến hành trao đổi thông qua hiện vật hoặc bằng tiền. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản: Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ? Sản xuất cho ai ? Đây chính là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường. Có hàng loạt các quy luật kinh tế tác động trong nền kinh tế thị trường nhưng phổ biến nhất vẫn là quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Những quy luật kinh tế thị trường tồn tại một cách khách quan và chỉ phát huy tác dụng khi có sự tác động của con người. Ưu điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là có tính năng động, khả năng thích nghi nhanh chóng, nó tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất văn hoá và sự phát triển toàn diện, mặt khác nó kích thích áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có những hạn chế mà bản thân nó không tự giải quyết được, đó là: khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường........ Nhận thức đúng đắn kinh tế thị trường và sự vận động khách quan của các quy luật kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế thị trường sẽ giúp cho các doanh nghiệp tổ chức tốt công tác hạch toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí, giá thành nói riêng. * Vai trò của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong doanh nghiệp sản xuất hiện nay. Hạch toán kinh tế thúc đẩy tiết kiệm thời gian lao động và động viên các nguồn dự trữ nội bộ của doanh nghiệp đồng thời đảm bảo tích luỹ, tạo điều kiện không ngừng mở rộng sản xuất trên cơ sở áp dụng kỹ thuật tiên tiến nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng và nâng cao phúc lợi cho người lao động. Hạch toán kinh tế đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiêm khắc chấp hành các kế hoạch sản xuất sản phẩm về mặt hiện vật cũng như về mặt giá trị. Đối với các doanh nghiệp sản xuất việc hạch toán sẽ cung cấp số liệu một cách chính xác, kịp thời và đầy đủ phục vụ cho việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp có biện pháp cải tiến tổ chức quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuất để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là vấn đề trọng tâm của công tác hạch toán trong doanh nghiệp sản xuất. Tập hợp chi phí sản xuất giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật liệu, nhân công.. v.. v.. là bao nhiêu so với kế hoạch. Từ đó doanh nghiệp có thể xác định mức tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất để đưa ra những biện pháp quản lý thích hợp. 2. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất ở doanh nghiệp sản xuất. 2.1. Chi phí sản xuất, phân loại chi phí sản xuất và sự cần thiết phải tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất. 2.1.1. Chi phí sản xuất và sự cần thiết phải tập hợp chi phí sản xuất. Trong các doanh nghiệp sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh có thể được khái quát theo sơ đồ sau: Các yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất Quá trình biến đổi bên trong các yếu tố đầu vào Các sản phẩm, lao vụ cuối cùng + Các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất là các yếu tố mà doanh nghiệp phải chuẩn bị và dữ trữ từ trước như: nguyên vật liệu, tài sản...... Nếu không có các yếu tố này thì không thể tiến hành sản xuất được. Đây là những yếu tố đầu tiên quyết định đến quá trình sản xuất. + Quá trình biến đổi bên trong các yếu tố đầu vào: Là quá trình biến đổi một cách có ý thức và có mục đích các yếu tố sản xuất thành sản phẩm hay lao vụ. Quá trình này được thực hiện thông qua các công cụ lao động. + Các sản phẩm, lao vụ cuối cùng được tạo ra là kết quả của sự kết hợp của hai quá trình đầu. Như vậy, để tiến hành hoạt động sản xuất, doanh nghiệp phải có ba yếu tố cơ bản, đó là: Tư liệu lao động như: nhà xưởng, thiết bị và tài sản cố định khác..... Đối tượng lao động như: nguyên vât liệu, nhiên liệu...... Lao động con người. Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Đó là các chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, chi phí tiền lương, tiền công, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ.. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí đều được biểu hiện bằng tiền, trong đó: - Chi phí tiền lương là biều hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống. - Chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu được biều hiện bằng tiền của lao động vật hoá. Mặt khác, hoạt động trong doanh nghiệp bao gồm nhiều khâu, nhiều lĩnh vực khác nhau như: + Hoạt động sản xuất, chế tạo sản phẩm .. v.. v + Hoạt động thu mua, dữ trữ hàng hoá........ + Hoạt động bán hàng: luân chuyển tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá ........ + Và các hoạt động khác. Dù là hoạt động nào thì doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định. Nhưng chỉ những chi phí bỏ ra trong khâu sản xuất mới được gọi là chi phí sản xuất. Như vậy, “Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình sản xuất, trong một thời kỳ nhất định”. Trong doanh nghiệp sản xuất, độ lớn của chi phí sản xuất là một đại lượng xác định và phụ thuộc vào hai nhân tố: - Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao vào sản xuất trong một thời kỳ nhất định. - Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền công của một đơn vị lao động đã hao phí. Từ đó cho phép khẳng định rằng: Trong điều kiện giá cả thị trường thường xuyên biến động thì việc xác định đúng chi phí sản xuất là tiền đề để hạch toán kinh doanh và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện bảo toàn vốn theo yêu cầu quản lý tài chính. Mặt khác để phục tốt cho công tác quản lý chi phí sản xuất kế toán cần tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất nhằm tổng hợp, hệ thống hoá các chi phí sản xuất phát sinh trong doanh nghiệp ở từng thời kỳ theo đúng đối tượng tập hợp chi phí, theo từng khoản mục chi phí và từng yếu tố chi phí sản xuất qui định cho từng ngành. 2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất Trong doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất gồm nhiều khoản chi có nội dung, công dụng và mục đích sử dụng không giống nhau. Để thuận tiện cho việc quản lý và hạch toán chi phí đáp ứng được yêu cầu của kế toán, thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm việc phân loại chi phí sản xuất là một yêu cầu tất yếu, phải tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng mà chúng ta có thể phân loại chi phí sản xuất theo những tiêu thức khác nhau. Việc xác định tiêu thức phân loại phù hợp, khoa học và hợp lý có ý nghĩa quan trọng đối với việc hạch toán, kiểm tra, phân tích chi phí sản xuất của toàn doanh nghiệp cũng như các bộ phận cấu thành bên trong doanh nghiệp. Có nhiều cách phân loại chi phí, thông thường các doanh nghiệp thường phân loại chi phí sản xuất theo các cách sau: * Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế. Dựa vào tính chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất sắp xếp các chi phí có chung tính chất vào một yếu tố, không phân biệt trong lĩnh vực nào, ở đâu. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm các loại nghuyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế........ phục vụ cho sản xuất trong kỳ. Chi phí nhân công: Bao gồm toàn bộ tiền lương, phụ cấp và các khoản trích theo lương theo quy định của công nhân trực tiếp sản xuất. Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định đã sử dụng. Chi phí dịch vụ mua ngoài: là toàn bộ số tiền đã chi để phục vụ hoạt động sản xuất. Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ số chi phí khác dùng cho sản xuất kinh doanh ngoài bốn yếu tố trên. Cách phân loại này cho phép hiểu rõ cơ cấu, tỉ trọng từng yếu tố chi phí, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố ở bảng thuyết minh báo cáo tài chính, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, tiền vốn, huy động sử dụng lao động....... * Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng: Theo cách phân loại này: căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí chia ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chi phí có cùng mục đích và công dụng không phân biệt chi phí đó có nội dung như thế nào. Như vậy toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kì bao gồm các loại sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là những chi phí về các loại vật liệu chính, vật liệu phụ..... sử dụng trực tiếp vào sản xuất, chế tạo sản phẩm. Không tính vào khoản mục này những chi phí về nguyên vật liệu dùng vào mục đích phục vụ nhu cầu sản xuất chung hay cho những hoạt động ngoài sản xuất. Chi phí nhân công trực tiếp: là các khoản chi phí về tiền lương, phụ cấp và các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ.....) của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm theo quy định. Chi phí sản xuất chung: là chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất chung tại bộ phận sản xuất, bao gồm các khoản sau: + Chi phí nhân viên phân xưởng: gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp theo lương.. của nhân viên quản lý, nhân viên thống kê ..... tại phân xưởng. + Chi phí vật liệu: gồm vật liệu các loại sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng sản xuất. + Chi phí dụng cụ sản xuất: chi phí về các loại công cụ, dụng cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng. + Chi phí khấu hao tài sản cố định: bao gồm số khấu hao tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình và tài sản cố định thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng sản xuất. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Chi phí khác bằng tiền. Cách phân loại này có tác dụng phục vụ cho việc quản lý chi phí theo định mức, là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành theo khoản mục, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức chi phí cho kỳ sau. Ngoài hai cách phân loại trên, chi phí sản xuất còn có thể được phân loại theo các cách sau: * Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ sản xuất trong kỳ. Chi phí khả biến (biến phí). Chi phí cố định (định phí). * Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất. Chi phí trực tiếp. Chi phí gián tiếp. Mỗi một doanh nghiệp có đặc điểm và nhiệm vụ sản xuất khác nhau. Do vậy, tuỳ theo yêu cầu quản lý và để phục vụ cho việc tính giá thành một cách đơn giản, dễ hiểu mà mỗi doanh nghiệp tự lựa chọn cho mình cách phân loại chi phí sản xuất theo tiêu thức nào cho phù hợp với doanh nghiệp. 2.2.Giá thành, phân loại giá thành và sự cần thiết phải tính giá thành 2.2.1.Giá thành và sự cần thiết phải tính giá thành Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề mà các doanh nghiệp luôn đặt ra làm mục tiêu hàng đầu, đó là lợi nhuận. Để tăng cường lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đây là con đường cơ bản giúp các doanh nghiệp tăng lợi nhuận một cách chắc chắn và có hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp sản xuất cũng vậy, mục tiêu của nhà sản xuất là làm sao hạ thấp được giá thành sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm. Hạ được giá thành sản phẩm sản xuất là cơ sở hạ giá bán sản phẩm và tăng sản lượng tiêu thụ để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội, đẩy nhanh vòng quay vốn và đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, từ đó nâng cao tích luỹ cho doanh nghiệp để có thể tái sản xuất và nâng cao đời sống cho người lao động. Như vậy, giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là biểu hiện bằng tiền của các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm (công việc, lao vụ) nhất định đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giá thành còn là căn cứ để xác định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất. Vì vậy, sản phẩm sản xuất ra cần phải tính giá thành. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp thì đòi hỏi sự cần thiết là các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành để từ đó tăng nguồn lợi cho doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong và ngoài nước. 2.2.2. Phân loại giá thành. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hạch toán, giá thành của doanh nghiệp sản xuất được chia thành các loại tương ứng. * Căn cứ vào cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành, giá thành sản phẩm được chia thành ba loại: Giá thành kế hoạch: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch là cơ sở để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. Giá thành định mức: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm. Giá thành định mức là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất. Giá thành thực tế: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kì cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các yếu tố lao động trong doanh nghiệp. * Căn cứ vào phạm vi các chi phí cấu thành. Giá thành sản xuất (Giá thành công xưởng): là các chi phí nguyên liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm, công việc hay lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản xuất là căn cứ để xác định giá vốn hàng bán và mức lãi gộp trong kỳ ở các doanh nghiệp. Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ: là toàn bộ hao phí của các yếu tố sản xuất nhằm chế tạo và tiêu thụ sản phẩm, bao gồm: Giá thành sản xuất thực tế, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm tiêu thụ là căn cứ để tính toán, xác định mức lợi nhuận trước thuế. 2.3.Sự khác nhau giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Trong quản trị doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm. Chi phí sản xuất là cơ sở hình thành nên giá thành sản phẩm, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, giống nhau về chất vì đều là những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra trong quá trình sản xuất. Tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là tiền đề hạch toán kinh doanh, xác định kết quả của doanh nghiệp. Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự khác nhau trên các phương diện: Về mặt thời gian: Nói đến chi phí sản xuất là xét các hao phí trong một thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm gắn liền với thời hạn hoàn thành sản phẩm. Về mặt lượng: Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến những sản phẩm hoàn thành mà còn liên quan đến cả những sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang. Z = Dđk + C - Dck 3.Nội dung cơ bản của phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất 3.1.Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên đối với kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Vậy, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm. Phạm vi và giới hạn để tập hợp chi phí sản xuất có thể là: + Nơi phát sinh chi phí: Phân xưởng, đội trại sản xuất, bộ phận chức năng.. + Nơi gánh chịu chi phí: Sản phẩm, công việc hoặc lao vụ do doanh nghiệp đang sản xuất,.. Để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở từng doanh nghiệp cần căn cứ vào: + Đặc điểm cơ cấu tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm và đặc điểm của sản phẩm. + Căn cứ vào yêu cầu kiểm tra, kiểm soát chi phí và yêu cầu tính giá thành, khả năng, trình độ quản lý và hạch toán của doanh nghiệp. Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp có ý nghĩa lớn trong việc tổ chức kế toán tập hợp chi phí, từ việc tổ chức ban đầu đến tổ chức tổng hợp ghi chép trên sổ sách kế toán. 3.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất. Có hai phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất là: Phương pháp tập hợp trực tiếp và phương pháp phân bổ gián tiếp. Phương pháp tập hợp trực tiếp: được áp dụng đối với các chi phí phát sinh chỉ liên quan trực tiếp đến đối tượng kế toán tập hợp chi phí và công tác hạch toán. Như vậy khi phát sinh chi phí liên quan đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí thì toàn bộ số chi phí sản xuất đó tập hợp hết cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Phương pháp phân bổ gián tiếp: được áp dụng khi một loại chi phí sản xuất thực tế phát sinh có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí, không thể tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng được. Trường hợp này phải phân bổ chi phí sản xuất theo tiêu chuẩn phân bổ hợp lý. Các bước thực hiện: Bước 1: Chọn tiêu thức phân bổ và tính hệ số phân bổ. Tiêu thức phân bổ phải hợp lý, khoa học. Có nghĩa là phải là đại lượng có sẵn cụ thể, dễ tính và không quá nhỏ. Công thức xác định hệ số phân bổ: C T H = Trong đó: H: Hệ số phân bổ gián tiếp. C: Tổng chi phí cần phân bổ. T: Tổng đại lượng của tiêu chuẩn dùng để phân bổ. Bước 2: Tính mức chi phí phân bổ cho các đối tượng theo công thức sau: Ci = H * Ti Trong đó: Ci: Chi phí phân bổ cho đối tượng thứ i Ti: Đại lượng của tiêu chuẩn dùng để phân bổ của đối tượng i. Như vậy tuỳ từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn phương pháp kế toán tập hợp chi phí cho phù hợp. Bởi thực tế không phải tất cả chi phí trực tiếp là tập hợp theo phương pháp trực tiếp. Mà có những chi phí trực tiếp vẫn phải phân bổ theo phương pháp gián tiếp và chi phí gián tiếp lại được tập hợp theo phương pháp trực tiếp. 3.3. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ được tập hợp trên các tài khoản chi phí. Mỗi một doanh nghiệp có thể sử dụng một trong hai phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất: Kê khai thường xuyên (xem sơ đồ 1.1) và kiểm kê định kỳ (xem sơ đồ 1.2). Những doanh nghiệp sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên là những doanh nghiệp có qui mô lớn, tiến hành nhiều loại hoạt động sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp có qui mô nhỏ, chỉ tiến hành một loại hoạt động sản xuất - kinh doanh thì thường sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ. Để tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng các tài khoản sau: TK 155, 632 TK 152 TK 621 TK 154 TK 334, 338 TK 622 TK 627 (4b) (1) (4a) (2) (4c) (3) (6) (5) TK 214, 111, 112 Sơ đồ 1.1.Trình tự hạch toán chi phí theo phương pháp kê khai thường xuyên Trong đó: (1): Xuất vật liệu dùng cho sản xuất. (2): Tính lương phải trả, BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân sản xuất. (3): Chi phí sản xuất chung phát sinh. (4): Kết chuyển chi phí NVL trự tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. (5): Đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ. (6): Giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành. TK 631 TK 632 TK 611 TK 621 TK 627 TK 154 TK 622 TK 334, 338 TK 111, 112 (3) (1) (5a) (4) (5c) (2) (6) (5b) (7) Sơ đồ 1.2.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ Trong đó: (1): Xuất vật liệu cho sản xuất. (2): Tính lương phải trả, BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân sản xuất. (3): Chi phí sản xuất chung phát sinh. (4): Kết chuyển chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đầu kỳ. (5): Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. (6): Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ, kết chuyển. (7): Giá thành sản phẩm hoàn thành. 3.3.1.TK 621 – Chi phí NVL trực tiếp Chi phí NVL trực tiếp bao gồm các chi phí về NVL chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, nửa thành phẩm mua ngoài sử dụng trực tiếp cho việc sản xuất, chế tạo sản phẩm, hoặc thực hiện các lao vụ, dịch vụ..... Phần lớn chi phí NVL trực tiếp là những chi phí trực tiếp nên được tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng liên quan. Trường hợp cần phải phân bổ chi phí NVL trực tiếp, tiêu thức phân bổ thường là: Chi phí NVL trực tiếp định mức, chi phí kế hoạch, khối lượng sản phẩm sản xuất..... Chi phí NVL trực tiếp trong kỳ được tính vào giá thành sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố sau: Trị giá phế liệu thu hồi (Nếu có) Chi phí NVL trực tiếp trong kỳ + - - Trị giá NVL còn lại cuối kỳ chưa sử dụng Trị giá NVL còn lại đầu kỳ Trị giá NVL xuất đưa vào sử dụng = Kết cấu của TK 621: Bên Nợ: Phản ánh trị giá NVL xuất dùng trực tiếp cho sản xuất, chế tạo sản phẩm. Bên Có: Phản ánh trị giá NVL xuất dùng không hết cuối kỳ. Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp thực tế phát sinh trong kỳ sang TK 154. TK 621 không có số dư cuối kỳ, và có thể được mở chi tiết các TK cấp hai tuỳ theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. 3.3.2.TK 622 – Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ gồm có: tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp và các khoản tiền trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ....). Chi phí tiền lương căn cứ vào hình thức trả lương của doanh nghiệp cho người lao động. Khoản chi phí này thường được tính trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí có liên quan. Trường hợp phải phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho từng đối tượng thì tiêu thức phân bổ có thể là: Chi phí tiền lương định mức, giờ công định mức, khối lượng sản phẩm sản xuất.... Kết cấu TK 622: Bên Nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp. Bên Có: Kết chuyển và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho các đối tượng liên quan. TK 622 không có số dư cuối kỳ và có thể được mở thêm các TK cấp hai. 3.3.3. TK 627 - Chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung là những chi phí liên quan đến quản lý phục vụ sản xuất và những khoản chi phí sản xuất ngoài hai khoản mục chi phí trực tiếp, phát sinh ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất. Bao gồm các khoản sau: + Chi phí nhân viên phân xưởng. + Chi phí vật liệu dùng cho quản lý phân xưởng. + Chi phí về công cụ - dụng cụ. + Chi phí khấu hao TSCĐ. + Chi phí về dịch vụ mua ngoài. + Chi phí khác bằng tiền. Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng địa điểm phát sinh chi phí. Chi phí sản xuất chung phát sinh ở phân xưởng nào thì được tập hợp cho phân xưởng đó, sau đó tiến hành phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí theo tiêu thức phù hợp. Tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất chung có thể là: Chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, tổng chi phí.... Kết cấu TK 627: Bên Nợ: Tập hợp chi phí sản xuất chung theo các phân xưởng, tổ đội sản xuất phát sinh. Bên Có: Ghi giảm chi phí sản xuất chung, số phân bổ và kết chuyển sang TK 154. TK 627 không có số dư cuối kỳ. 3.3.4. TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Để tập hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp và phục vụ công tác tính giá thành, kế toán sử dụng TK 154. Kết cấu TK 154: Bên Nợ: Kết chuyển chi phí từ các TK 621; TK 622; TK 627 sang. Kết chuyển chi phí sản xuất dở dang của kỳ trước. Bên Có: Phản ánh khoản làm giảm giá thành sản phẩm. Giá thành của sản phẩm, lao vụ hoàn thành trong kỳ. Số dư Nợ: Chi phí sản xuất dở dang của sản phẩm, lao vụ cuối kỳ. 4. Đánh giá sản phẩm dở dang. Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc đang trong quá trình sản xuất, gia công, chế biến trên các giai đoạn của qui trình công nghệ, hoặc đã hoàn thành một vài qui trình chế biến nhưng vẫn còn phải gia công, chế biến tiếp mới trở thành thành phẩm. Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán, xác định phần chi phí sản xuất mà sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu. Tuỳ vào đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp mà sản phẩm dở dang cuối kỳ có thể được đánh giá theo một trong các phương pháp sau: 4.1. Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí NVL trực tiếp hoặc chi phí NVL chính trực tiếp. Theo phương pháp này, sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ bao gồm chi phí NVL trực tiếp (hoặc chi phí NVL chính trực tiếp), còn lại các chi phí gia công chế biến (chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) tính cho cả giá thành sản phẩm chịu. Dđk + Cvl Stp + Sd x Sd Dck = ( I ) Công thức tính toán: Trong đó: Dck, Dđk : Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ và đầu kỳ. Cvl: Chi phí vât liệu chính trực tiếp (hoăc chi phí NVL trực tiếp ). Stp: Số lượng thành phẩm. Sd: Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ. Phương pháp này tính toán đơn giản, nhanh chóng nhưng thông tin về chi phí sản xuất dở dang có độ chính xác không cao vì không tính đến các chi phí chế biến. Vì thế phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có chi phí NVL chiếm tỉ lệ lớn. 4.2. Đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương. Theo phương pháp này, trước hết cần căn cứ vào khối lượng sản phẩm dở dang và mức độ chế biến của chúng để tính đổi khối lượng sản phẩm dở dang ra khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương. Sau đó tính toán, xác định từng khoản mục chi phí cho sản phẩm dở dang theo nguyên tắc: Đối với chi phí sản xuất bỏ vào một lần ngay từ đầu dây chuyền công nghệ thì tính cho sản phẩm dở dang theo công thức ( I ). Dck = Ddk + C Stp + S’d x S’d Đối với các chi phí bỏ dần trong quá trình sản xuất, chế biến thì tính cho sản phẩm dở dang theo công thức sau: Tro._.ng đó: C: Được tính theo từng khoản mục chi phí tương ứng phát sinh trong kỳ. S’d: Là khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương theo tỉ lệ chế biến hoàn thành (%HT). S’d = Sd x %HT. So với phương pháp trên, phương pháp này đảm bảo tính hợp lý và độ tin cậy cao của chi phí sản xuất. Tuy nhiên, khối lượng tính toán nhiều, việc đánh giá mức độ hoàn thành mang nặng tính chủ quan. Ngoài hai phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang như trên, các doanh nghiệp còn có thể đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ theo chi phí sản xuất định mức. Phương pháp này chỉ thích hợp cho những doanh nghiệp đã xây dựng được định mức chi phí sản xuất hợp lý cho các sản phẩm. 5. Phương pháp tính giá thành. 5.1. Đối tượng tính giá thành Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải được tính giá thành và giá thành đơn vị. Việc xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên của công tác tính giá thành sản phẩm, bộ phận. Kế toán căn cứ vào cơ cấu tổ chức sản xuất, đặc điểm qui trình công nghệ, đặc điểm về tính chất sản phẩm, yêu cầu và trình độ hạch toán kinh tế, quản lý của doanh nghiệp để xác định. - Về tổ chức sản xuất: Nếu tổ chức sản xuất đơn chiếc theo từng đơn đặt hàng thì từng loại sản phẩm, từng đơn đặt hàng là đối tượng tính giá thành. Nếu tổ chức sản xuất hàng loạt sản phẩm thì hàng loạt sản phẩm là đối tượng tính giá thành. - Về qui trình công nghệ: Nếu qui trình công nghệ kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành có thể là nửa thành phẩm ở giai đoạn và thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng. Nếu qui trình công nghệ phức tạp kiểu song song thì đối tượng tính giá thành là từng chi tiết, bộ phận sản phẩm hoàn thành và thành phẩm cuối cùng đã hoàn thành. Việc xác định đối tượng tính giá thành ở từng doanh nghiệp cụ thể tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Do đó xác định đúng đối tượng tính giá thành và phù hợp với điều kiện đặc điểm của doanh nghiệp sẽ giúp cho kế toán mở sổ kế toán, các bảng tính giá thành sản phẩm theo đối tượng quản lý, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. 5.2. Mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Để tính được giá thành của sản phẩm hoàn thành thì cần phải phân biệt rõ giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành. Việc xác định hợp lý đối tượng kế toán tập hợp chi phí là tiền đề, điều kiện để tính giá thành theo các đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp và cho phép ta thực hiện kiểm tra nhiệm vụ hạ giá thành, phát hiện khả năng của doanh nghiệp trong sản xuất, để tìm ra biện pháp giảm chi phí hạ giá thành một cách có hiệu quả. Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành khác nhau ở chỗ: + Đối tượng tập hợp chi phí là căn cứ để mở các tài khoản, các sổ chi tiết, tổ chức ghi chép ban đầu, tập hợp số liệu chi phí sản xuất chi tiết theo đối tượng. + Còn xác định đối tượng tính giá thành là căn cứ để kế toán lập bảng tính giá thành và tổ chức công tác tính giá thành theo từng đối tượng. Tuy nhiên, giữa chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Số liệu về chi phí sản xuất đã tập hợp cho từng đối tượng là căn cứ để tính giá thành và giá thành đơn vị. Một đối tượng tính giá thành có thể phù hợp với một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất hoặc cũng có thể liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí. Ngược lại, một đối tượng tập hợp chi phí cũng có thể liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thành. 5.3. Các phương pháp tính giá thành. Phương pháp tính giá thành là phương pháp, kỹ thuật sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được của kế toán và các tài liệu quan để tính tổng giá thành sản xuất và giá thành đơn vị của sản phẩm, dịch vụ hoàn thành theo đối tượng tính giá thành sản phẩm đã xác định. Có nhiều phương pháp tính giá thành. Tuỳ thuộc vào đăc điểm của doanh nghiệp, qui trình công nghệ sản xuất và đối tượng tính giá thành đã xác định mà các doanh nghiệp lựa chọn cho mình phương pháp tính giá thành phù hợp trong các phương pháp tính giá thành sau: 5.3.1. Phương pháp tính giá thành thực tế (giản đơn). áp dụng thích hợp với từng trường hợp đối tượng tính giá thành phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo. Nếu cuối kỳ tính giá thành có ít sản phẩm làm dở và ổn định thì giá thành sản phẩm ( Z ) chính là giá thành toàn bộ chi phí phát sinh ( C ). Nếu cuối kỳ có nhiều sản phẩm làm dở thì phải xác định sản phẩm làm dở theo công thức dưới đây: z = Z Q Z = Ddk + C - Dck 5.3.2. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. áp dụng cho các doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc hay sản xuất hàng loạt theo đơn đặt hàng. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng, đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Khi bắt đầu sản xuất, kế toán giá thành mở cho mỗi đơn đặt hàng một thẻ tính giá thành, hàng tháng, hàng quí căn cứ vào chi phí sản xuất tập hợp được theo đơn đặt hàng trong sổ kế toán chi tiết ghi sang thẻ tính giá thành liên quan. Khi nhận được phiếu xác nhận sản phẩm hoàn thành kế toán chỉ cần cộng chi phí sản xuất đã tập hợp được ở thẻ tính giá thành sẽ tính được giá thành của từng đơn đặt hàng. Ngoài hai phương pháp tính giá thành trên, các doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều phương pháp khác như: Phương pháp tính giá thành định mức , áp dụng cho các doanh nghiệp đã xây dựng được các định mức chi phí sản xuất hợp lý; phương pháp tính giá thành có loại trừ chi phí sản xuất phụ; phương pháp tính giá thành phân bước; phương pháp tính giá thành theo tỉ lệ hoặc phương pháp tính giá thành liên hợp. 6. Hệ thống sổ kế toán Các sổ sách sử dụng và quy trình ghi sổ phần hành kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo các hình thức kế toán như sau: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra Chứng từ gốc và các bảng phân bổ Nhật ký chung Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 Bảng cân đối số phát sinh Báo cáo tài chính Hạch toán chi tiết CPSX và tính giá thành Bảng tổng hợp chi tiết Sơ đồ 1.3.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức Nhật ký chung Chứng từ gốc và các bảng phân bổ Nhật ký sổ cái Báo cáo tài chính Hạch toán chi tiết CPSX và tính giá thành Bảng tổng hợp chi tiết Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra Sơ đồ 1.4.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức Nhật ký sổ cái Chứng từ gốc và các bảng phân bổ Nhật ký chứng từ số 1,2,5,7 Bảng kê số 4 Thẻ tính giá thành Sổ chi tiết các TK 621,622, 627 Bảng tổng hợp chi tiết các TK 621, 622, 627 Bảng tổng hợp chi tiết TK 154 Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 Báo cáo tài chính Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra Sơ đồ 1.5.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức Nhật ký chứng từ Chứng từ gốc và các bảng phân bổ Chứng từ ghi sổ Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 Bảng cân đối số phát sinh Báo cáo tài chính Sổ đăng ký CTGS Hạch toán chi tiết CPSX và tính gía thành Bảng tổng hợp chi tiết Sơ đồ 1.6.trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức Chứng từ ghi sổ Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra 7.Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở một số nước trên thế giới 7.1.Kế toán chi phí và tính giá thành tại Pháp Theo quan điểm của Pháp, giá thành là khái niệm được sử dụng để xác định những hao phí vật chất được dùng cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp phải bù đắp bằng doanh thu bán hàng. Theo đó, nội dung của giá thành bao gồm tất cả các khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh, không phân biệt chi phí đó thuộc loại nào. Trên cơ sở phân chia chi phí thành ba loại giá phí: giá phí tiếp liệu, gía phí sản xuất và giá phí tiêu thụ, kế toán tính giá thành sản phẩm theo trình tự: Tính giá phí tiếp liệu: Là giá phí của các loại nguyên, nhiên vật liệu mua vào, bao gồm cả giá mua và các khoản phát sinh trong quá trình mua như chi phí vận chuyển, bảo quản, bảo hiểm,... Tính giá phí sản xuất : Giá phí sản xuất gồm gía phí nguyên, nhiên vật liệu đưa vào sản xuất và các chi phí sản xuất (nhân công, động lực, khấu hao,..) Tính giá phí tiêu thụ (phân phối): Là các khoản chi phí bỏ ra để tiêu thụ sản phẩm bao gồm chi phí vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo, bảo quản sản phẩm,... Tính giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm = Giá phí sản xuất + Giá phí tiêu thụ Do trong giá thành sản phẩm gồm cả giá phí tiêu thụ (bao gồm cả chi phí bán hàng và quản lý) nên các giá phí tiêu thụ này chỉ được bù đắp khi sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường, trong trường hợp sản phẩm chưa được tiêu thụ, các giá phí tiêu thụ sẽ nằm lại trong giá trị hàng tồn kho. Còn giá thành ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ gồm chi phí sản xuất. Do đó, tất cả các khoản chi phí ngoài sản xuất được bù đắp ngay trong kỳ, không phân biệt sản phẩm đã hay chưa được tiêu thụ. Trong phương pháp hạch toán giá thành của Pháp còn đề cập đến giá phí sản lượng biên tế – là giá phí của những sản phẩm sản xuất thêm ngoài số sản phẩm mà đơn vị đã dự kiến sản xuất từ trước. Xét một cách tổng quát và cơ bản thì giá phí sản lượng biên tế thấp hơn giá thành thông thường bởi trong nó không tính phần định phí do định phí đã được trang trải trong số sản phẩm đã được sản xuất từ trước. Cách tính này đã được Việt Nam học hỏi, áp dụng trong việc tính toán giá thành, xác định giá bán và đưa ra các quyết định sản xuất các lô hàng đặc biệt. 7.2.Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại Mỹ Theo quan điểm của Mỹ và một số nước phát triển khác như Canada, Anh,... toàn bộ chi phí được phân thành chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất, chi những chi phí gắn liền với sản phẩm được sản xuất ra mới được coi là chi phí sản xuất (hay chi phí sản phẩm). Các chi phí sản xuất này bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung trong phạm vi phân xưởng. Các chi phí ngoài sản xuất gồm chi phí tiếp thị, chi phí quản lý chung. Đây là những chi phí làm giảm lợi tức trong kỳ chức không cấu thành nên giá trị sản phẩm. Kế Toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là nội dung cơ bản của kế toán quản trị. Tại Mỹ có 3 hệ thống kế toán chi phí đang ứng dụng là kế toán chi phí thực tế, kế toán chi phí thông dụng và kế toán chi phí định mức. Trong đó, hệ thống kế toán chi phí thực tế rất ít được áp dụng. Theo hệ thống kế toán chi phí thực tế, tất cả các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất được tính và hạch toán theo các chi phí phát sinh thực tế. Theo hệ thống kế toán chi phí thông dụng, chi phí nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp được hạch toán theo chi phí phát sinh thực tế còn chi phí sản xuất chung được ước tính phân bổ để tính giá thành sản phẩm kịp thời, cuối kỳ sẽ điều chỉnh lại khi tập hợp được đầy đủ các chi phí sản xuất chung thực tế. Còn theo hệ thống kế toán chi phí định mức, các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất phải được hạch toán ngay từ đầu theo chi phí định mức, tách riêng chênh lệch chi phí sản xuất thực tế so với định mức, đến cuối kỳ điều chỉnh lại theo chi phí sản xuất thực tế. Như vậy, kế toán chi phí thực tế của Mỹ tương tự kế chi phí sản xuất theo giá thành thực tế mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đang áp dụng hiện nay. Trong khi đó, tại Việt Nam chỉ một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng kế toán chi phí thông dụng và một số doanh nghiệp có hệ thống định mức tốt, có quy trình sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm ổn định tính giá thành định mức. Khái niệm giá thành trong kế toán Mỹ cũng được sử dụng như là một chỉ tiêu đo lường các khoản hao phí vật chất mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên khái niệm giá thành được tiếp cận thông qua khái niệm giá phí “Giá phí của doanh nghiệp khi đi vào sản xuất kinh doanh là toàn bộ các chi phí để tạo ra sản lượng sản phẩm đem ra tiêu thụ trên thị trường”. Giá thành sản phẩm hoàn thành sau quá trình sản xuất trong kế toán Mỹ cũng bao gồm 3 yếu tố: + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp + Chi phí nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung. Giá thành sản phẩm được phân thành hai loại: + Giá thành sản xuất là các giá phí liên hệ đến quá trình sản xuất sản phẩm + Giá thành chung cho kỳ là các giá phí liên hệ đến các hoạt động bán hàng và hoạt động chung của kỳ kế toán. Tóm lại, trình tự kế toán phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm về cơ bản giữa các nước không có sự khác biệt đáng kể. Về nội dung, do quan niệm khác nhau về bản chất và chức năng của chỉ tiêu giá thành mà dẫn đến sự khác nhau trong tính toán, xác định phạm vi của giá thành. chương 2 Thực tế công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam 1.Đặc điểm chung của Công ty có ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam Tên gọi: Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam. Tên giao dịch tiếng Anh: Dong Anh Mechanical Company. Địa chỉ: Lĩnh Nam - Hoàng Mai - Hà Nội. Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam là một doanh nghiệp nhà nước tiền thân là Nhà máy cơ khí Hồng Nam được thành lập vào ngày 04 tháng 11 năm 1971 theo quyết định số 2445/CL/CP ngày04/11/1971 của Bộ Cơ khí luyện kim nay là Bộ Công nghiệp. Công ty là một doanh nghiệp quốc doanh hạch toán độc lập, cơ sở vật chất ban đầu còn nghèo nàn, lực lượng sản xuất còn nhỏ, từ khi thành lập công ty đã không ngừng lớn mạnh. Sản xuất chủ yếu của công ty trong thời kỳ đầu là sửa chữa đại tu máy thi công và bán thi công theo kế hoạch của bộ giao. Đến cuối những năm 1980 đầu năm 1990 cùng với sự nghiệp chuyển đổi của nền kinh tế đất nước chuyển sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tình hình Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam nói riêng và các đơn vị trong ngành cơ khí nói chung gặp nhiều khó khăn, các sản phẩm cơ khí phải đương đầu cạnh tranh với hàng nhập ngoại, nhiều doanh nghiệp khí có nguy cơ phá sản. Trước tình hình đó, Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam phải tự tìm ra lối thoát cho mình, lãnh đạo Công ty đã họp bàn đi đến quyết định: Phải nhanh chóng tìm ra mặt hàng mới và đa dạng hoá sản phẩm, tìm ra mặt hàng mũi nhọn để tập trung chỉ đạo sản xuất, kết hợp với đổi mới công nghệ, đầu tư thiết bị mới, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Ngày 20/2/1993 đơn vị được thành lập lại theo quyết định số 06A/BXD – TCLD. Lãnh đạo Công ty đã mạnh dạn và quyết định tập trung vào sản xuất phụ tùng, bi đạn nghiền phục vụ cho các công ty xi măng mà hiện tại lượng vật tư phụ tùng này đang phải nhập của nước ngoài.Trong một thời gian ngắn Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam đã nghiên cứu đầu tư thiết bị mới, công nghệ mới và đầu tư chiến lược con người đúng hướng đã đưa Công ty sản xuất thành công bi, đạn nghiền xi măng, các loại tấm lót của máy nghiền, các loại búa đập, các phụ tùng bằng thép chịu nhiệt, thép hợp kim chịu va đập ... với chất lượng tương đương với chất lượng của ngoại nhập mà giá thành lại thấp hơn đã được các Công ty xi măng chấp nhận. Từ năm 2002, công ty đã đầu tư dây chuyền tiên tiến của CHLB Đức chế tạo giàn lưới không gian khẩu độ lớn dùng cho các công trình thể thao, công trình công cộng đã dành được những thành quả rất khả quan. Vừa qua, vào tháng 3 năm 2005 Công ty đã hoàn thành và đi vào sử dụng Nhà máy nhôm định hình. Theo đánh giá của các chuyên gia thì đây là giây truyền hiện đại và tiên tiến nhất hiện nay có thể cung cấp sản phẩm hoàn chỉnh, đồng bộ cho công trình xây dựng và cả sản phẩm cho công nghiệp. Đây là một hướng đi đúng đắn của Công ty, nhờ vậy mà Công ty ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và tăng thu nhập. Điều đó được thể hiện thông qua các chỉ tiêu ở bảng sau: ĐVT: 1.000đ Chỉ tiêu Đơn vị tính: 1.000 đ Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 1. Tổng doanh thu 86.135.513 130.259.107 139.444.325 2. Tổng chi phí 83.859.206 126.329.410 135.991.874 3. Tổng lợi nhuận trước thuế 2.276.307 3.929.697 3.452.451 4. Tổng số nộp ngân sách 1.189.218 2.428.422 2.560.930 5. Thu nhập bình quân đầu người 1.296 1.835 1.827 Biểu số 2.1.Một số chỉ tiêu phát triển của Công ty Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy: Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam chỉ trong một thời gian ngắn đã có sự chuyển vượt bậc cả lượng và chất. Tổng doanh thu của Công ty hàng năm đều tăng, đặc biệt thu nhập bình quân đầu người có sự thay đổi rất lớn từ năm 2003 sau khi Công ty đã đầu tư dây chuyền tiên tiến của CHLB Đức chế tạo giàn lưới không gian khẩu độ lớn. Sự phát triển của công ty đã mang lại nguồn tích luỹ lớn cho ngân sách nhà nước, thu nhập của người lao động tăng lên làm cho đời sống của người lao động cũng được cải thiện. Điều này sẽ làm động lực thúc đẩy mỗi người trong Công ty phấn đấu nâng cao tay nghề, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Về sản lượng đúc thép qua các năm đã sản xuất và tiêu thụ được: Năm 2002 sản xuất và tiêu thụ: 4322 tấn Năm 2003 sản xuất và tiêu thụ: 4643 tấn Năm 2004 sản xuất và tiêu thụ: 5004 tấn Thực hiện đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm đi đôi với nhiệm vụ chính ở trên Công ty vẫn duy trì và nâng cao chất lượng đại tu và sửa chữa xe máy, mỗi năm có từ 13 đến 15 xe đã được xuất xưởng với chất lượng và hình thức được khách hàng chấp nhận, phụ tùng cho các loại xe máy thi công như: Pistong, Xi lanh, .. các phụ tùng thay thế như: răng gầu các loại, lưỡi ủi, lưỡi cắt,.. đều được khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao về chất lượng. Công ty cũng đã liên kết với hãng KOMATSU của Nhật mở trung tâm dịch vụ tại công ty và đại lí dầu nhờn của hãng dầu Mobil. Hai trung tâm này trong những năm qua đã khai thác thị trường, cung ứng dịch vụ cho khách hàng, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho Công ty. Sản phẩm của Công ty được bạn hàng đánh giá cao và được nhà nước nhà nước cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn hàng nhập ngoại. Toàn bộ sản phẩm cảu công ty được quản lý chất lượng theo ISO 9002: 1994 từ năm 1998. Ngày 11/10/2003 Công ty đã chuyển tiếp sang hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001: 2000. Sản phẩm của Công ty đã khẳng định được vị trí và chỗ đứng của Công ty trên thị trường, củng cố được niềm tin của công nhân lao động đối với sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, xu hướng phát triển đi lên của Công ty. 1.2.Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam có bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh qui mô và hoàn chỉnh. Có Đảng uỷ, Ban giám đốc, công đoàn và có đầy đủ các phòng ban chức năng rất năng động trong việc tìm hiểu thị trường và tiêu thụ sản phẩm, thị trường cung cấp nguyên vật liệu, đặc biệt là rất sáng tạo trong sản xuất cũng như làm quản lý, các phân xưởng sản xuất luôn hoàn thành kế hoạch sản xuất của Công ty. Công ty áp dụng chế độ một thủ trưởng với bộ máy tham mưu là các phó trưởng phòng ban và quản đốc phân xưởng. Trình độ quản lý của Công ty đạt mức cao, các cán bộ quản lý đều đã được đào tạo qua các trường đại học và tại chức ở các trường đại học. Còn người lao động rất có năng lực trình độ trong công việc.Tổ chức bộ máy quản lý sản xuất của Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam (Sơ đồ 2.1) bao gồm: - Bộ máy quản lý: Giám đốc Công ty, các phó giám đốc, cùng với các phòng ban. - Bộ phận sản xuất gồm có phân xưởng: Phân xưởng cơ khí, phân xưởng nhiệt luyện, phân xưởng đúc I, phân xưởng đúc II, phân xưởng kết cấu, phân xưởng công nghệ cao, phân xưởng cơ điện và đại tu. - Ngoài ra công ty còn có 3 cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm: + Cửa hàng tại khối 2A thị trấn Đông Anh. + Cửa hàng tại 137 đường Giải Phóng - Hà Nội. + Cửa hàng tại 22B đường Điện Biên Phủ, Quận Bình Thạnh - TP Hồ Chí Minh. Phó giám đốc Phòng Vật tư Cửa hàng Xăng dầu Giám đốc Phó Giám đốc (PT dự án máy đào) Phó giám đốc (PT liên doanh) Ban dự án Nhôm Phó giám đốc Phó giám đốc (Đại diện KD) Phòng Kinh tế Kế hoạch Phòng Tài chính Kế tóan Phòng Tổ chức Hành chính Ph.Xưởng Sửa chữa Cơ điện Phòng Thí nghiệm Kiểm tra chất lượng (KCS) Phòng Thiết bị Phòng Bảo vệ Thư ký HTCL Phòng Kỹ thuật Phòng Luyện kim Dịch vụ Komatsu Ph.Xưởng Đúc I Ph.Xưởng Đúc II Ph. Xưởng Nhiệt luyện Ph.Xưởng Cơ khí Ph.Xưởng Kết cấu Ph.Xưởng Công nghệ cao Sơ đồ 2.1: Tổ chức và quản lý của Công ty Cổ phần cơ khí Hồng Nam Hđqt Mỗi phòng ban trong Công ty có chức năng riêng nhưng chúng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chủ tịch Hội đồng quản trị: là người thay mặt Hội đồng Quản trị lập chương trình kế hoạch hoạt động, chuẩn bị chương trình nội dung, các tài liệu phục vụ cuộc họp, triệu tập và chủ toạ cuộc họp hội đồng quản trị, theo dõi quá trình hoạt động, tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị. Giám đốc: Là người quản lý toàn diện mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh của Công ty. Là người phân công trách nhiệm và quyền hạn cho các cán bộ lãnh đạo, tổ chức sản xuất theo yêu cầu của hệ thống quản lí chất lượng. Bên cạnh giám đốc còn có 5 phó giám đốc. Phó giám đốc thường trực: Thay giám đốc để giải quyết những công việc được uỷ quyền khi giám đốc đi vắng, phụ trách một số phòng ban và phân xưởng như: Phòng bảo vệ, Phân xưởng cơ điện và đại tu.... Phó giám đốc kĩ thuật: Phụ trách về các hoạt động kĩ thuật, về qui trình công nghệ sản xuất, nâng cao tay nghề cho công nhân và phụ trách một số phòng ban, phân xưởng như: Phòng kĩ thuật, Phân xưởng Đúc.... Phó giám đốc vật tư: Chịu trách nhiệm quản lý vật tư, TSCĐ, soạn thảo đơn hàng, hợp đồng mua NVL vật tư phụ tùng và lựa chọn nhà cung ứng. Phó giám đốc phụ trách dự án máy đào. Phó giám đốc phụ trách Liên doanh với hãng Sumi Tômô (Nhật bản) Ngoài ra, các phòng ban chuyên môn và các phân xưởng có chức năng tham mưu cho giám đốc thực hiện nhiệm vụ sản xuất, quản lý theo đúng sự phân công của giám đốc. Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện mọi hoạt động hành chính và quản trị công ty. Tổ chức quản lý cán bộ Công ty, tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ và nâng cao tay nghề cho công nhân, tiến hành khai thác, tuyển dụng lao động.. Phòng kế toán: Thực hiện việc giám đốc đồng tiền, hạch toán kinh tế, thu thập các số liệu, chứng từ liên quan để phản ánh vào các sổ sách kế toán, cung cấp thông tin kịp thời cho việc ra quyết định của giám đốc. Tập hợp các chi phí sản xuất để tính giá thành sản phẩm. Kiểm tra, phân tích hoạt động kinh tế để tìm ra các biện pháp tiết kiệm chi phí và giảm giá thành. Tiến hành ghi chép, tính toán và phản ánh trung thực, kịp thời đầy đủ toàn bộ tài sản của các cá nhân, các bộ phận chịu trách nhiệm quản lý vật chất trong toàn Công ty. Lập đầy đủ và gửi đúng hạn các báo cáo kế toán, thống kê và quyết toán của Công ty theo chế độ qui định. Phòng kinh tế kế hoạch: Có chức năng tìm hiểu nhu cầu thị trường, khách hàng để đề xuất các đặc tính phù hợp của sản phẩm , liên hệ với khách hàng và thực hiện bảo hành sau khi bán hàng. Thực hiện điều độ quá trình sản xuất, lập định mức tiền lương cho công đoạn, tổng thể của từng loại sản phẩm. Phòng thí nghiệm KCS: Chuyên chịu trách nhiệm kiểm tra và thử nghiệm trong quá trình sản xuất, kiểm tra sản phẩm cuối cùng trước khi giao hàng cho khách hàng. Phòng KOMATSU: Có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện bảo hành sản phẩm KOMATSU và đại lý bán hàng dầu Mobil. Phòng vật tư: Chịu trách nhiệm quản lý và cung ứng vật liệu, TSCĐ cho các bộ phận sản xuất, soạn thảo đơn hàng và tìm nhà cung ứng vật liệu. Phòng luyện kim: Lập qui trình công nghệ đúc, và nhiệt luyện cho từng loại sản phẩm. Kiểm tra và theo dõi quá trình thực hiện công nghệ đúc và nhiệt luyện. Phòng kĩ thuật: Chịu trách nhiệm về hoạt động kĩ thuật, xác định thông số kĩ thuật, lập định mức tiêu hao vật tư, lao động cho sản phẩm. Phòng bảo vệ: Có nhiệm vụ coi giữ tình hình an ninh của Công ty Về tổ chức sản xuất trực tiếp ở phân xưởng: Mỗi phân xưởng có nhiệm vụ sản xuất riêng theo phân công của các phòng ban trực thuộc ở các phân xưởng được tổ chức sản xuất: Đứng đầu là quản đốc phân xưởng (phụ trách chung), phó quản đốc phân xưởng phụ trách kĩ thuật và một người theo dõi kinh tế tài chính của phân xưởng. Trong Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam các phòng ban và phân xưởng có mối quan hệ khăng khít, liên kết dưới sự chỉ đạo của giám đốc và các phó giám đốc. Do vậy việc nắm bắt thông tin kinh tế ở bên ngoài rất cập nhật giúp giám đốc đưa ra được những quyết định kịp thời trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường. 1.3.Đặc điểm sản xuất và qui trình công nghệ sản phẩm chủ yếu của Công ty Trong ngành cơ khí Việt Nam hiện nay, tất cả các nhà máy chế tạo ra mặt hàng cơ khí đều đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất phục vụ máy xây dựng, máy công nghiệp, xe cơ giới giao thông vận tải thuỷ bộ... Để tồn tại phát triển và đứng vững trên thị trường Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam đã phải đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất. Công ty được phép kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau: sản xuất, dịch vụ. Các mặt hàng sản xuất của Công ty bao gồm: Đúc bi, đạn các loại; tấm lót, phụ tùng máy nghiền, hàm nghiền đá, búa đập đá.v.v. đều phục vụ cho ngành xi măng và nhiệt điện; sản xuất các mặt hàng cơ cấu, hàng kết cấu phi tiêu chuẩn, sửa chữa và đại tu ô tô, máy kéo, các thiết bị máy móc thuộc ngành xây dựng, ngành giao thông vân tải. Nhưng hiện nay, Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam chủ yếu tập trung vào sản xuất các mặt hàng truyền thống. Đó là: đúc bi, đạn; đúc thép (PT) phục vụ cho ngành xi măng và nhiệt điện; gia công cơ khí; đại tu xe máy. Các sản phẩm của Công ty sản xuất theo một qui trình công nghệ khép kín từ khâu mua vật liệu đưa vào sản xuất đến khi sản phẩm hoàn thành. Đối với các sản phẩm đúc thì Công ty tiến hành sản xuất hàng loạt, còn những sản phẩm là đại tu Công ty tiến hành sản xuất đơn chiếc. Tất cả các mặt hàng của Công ty bán ra rất ít, chủ yếu được sản xuất theo đơn đặt hàng. Vì vậy chỉ khi nào hợp đồng sản xuất được kí kết giữa khách hàng với Công ty thì sản phẩm đó mới được bắt đầu đưa vào sản xuất. Sản phẩm khi đưa vào sản xuất có chu kì kéo dài từ 1 đến 3 tháng, việc sản xuất trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau. Các sản phẩm sau khi sản xuất ở từng phân xưởng đều được bộ phận kĩ thuật của Công ty kiểm tra chất lượng về định mức kĩ thuật cho phép mới được chuyển giao cho các phân xưởng khác tiếp tục quá trình sản xuất do vậy ít xảy ra các trường hợp sản phẩm hỏng hay sai kĩ thuật. 1.4.Đặc điểm tổ chức kế toán của Công ty 1.4.1.Tổ chức bộ máy kế toán Bộ máy kế toán là một trong những bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý của Công ty. Bộ máy kế toán có nhiệm vụ hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra và thu thập đầy đủ, kịp thời các chứng từ kế toán, tổ chức mọi công việc về kế toán, ghi chép tính toán, phản ánh tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Bộ máy kế toán của Công ty tinh giảm, gọn nhẹ và hiệu quả với đội ngũ kế toán viên làm việc lâu năm, giàu kinh nghiệm và luôn trau dồi kiến thức về kế toán, nâng cao trình độ, đảm bảo cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết định của giám đốc (Xem sơ đồ 2.2). Hiện nay phòng kế toán của Công ty có 6 người: Một kế toán trưởng, một thủ quĩ, và bốn kế toán viên. Trong quá trình hạch toán của Công ty, mỗi nhân viên kế toán chịu trách nhiệm một số phần hành kế toán cụ thể tạo thành các mắt xích quan trọng trong bộ máy hạch toán. Mỗi thành viên có nhiệm cụ riêng. Kế toán trưởng Thủ quỹ Kế toán TSCĐ và các cửa hàng đại lý Kế toán tiền lương - Thanh toán với người bán - NVL. Kế toán tổng hợp giá thành - Tiêu thụ sản phẩm. Kế toán thanh toán vốn bằng tiền - Ngân hàng. Sơ đồ 2.2.Tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam Kế toán trưởng: Là người trực tiếp thông báo, cung cấp các thông tin về tài chính - kế toán cho giám đốc Công ty. Kế toán trưởng có nhiệm vụ thay mặt giám đốc tổ chức công tác kế toán, kí duyệt các chứng từ, báo cáo kế toán và các tài liệu có liên quan khác, lập kế hoạch tài chính năm. Thủ quĩ: Là người chịu trách nhiệm quản lí tiền mặt và thực hiện các nghiệp vụ thu - chi tiền mặt và theo dõi thu nhập của cán bộ công nhân viên. Kế toán tổng hợp - Tiêu thụ sản phẩm: Là người tổng hợp số liệu kế toán đưa ra các thông tin cuối cùng trên cơ sở số liệu sổ sách kế toán do các phần hành kế toán khác cung cấp. Kế toán tổng hợp ở Công ty đảm nhận việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, theo dõi tình hình tiêu thụ của Công ty. Đến kì báo cáo, kế toán tổng hợp tiến hành lập báo cáo quyết toán trình cấp trên duyệt. Kế toán TSCĐ và các cửa hàng đại lí: Là người có nhiệm vụ theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ trong Công ty. Hàng tháng cắn cứ vào nguyên giá của từng loại TSCĐ, căn cứ vào mức khấu hao TSCĐ đã được duyệt để xác định mức khấu hao. Đồng thời căn cứ vào tài sản tăng và tài sản giảm trong tháng để lập bảng phân bổ khấu hao TSCĐ cho từng đối tượng sử dụng. Kế toán còn có nhiệm vụ theo dõi hoạt động bán hàng của các cửa hàng đại lí. Kế toán tiền lương - Thanh toán với người bán - NVL: Là người theo dõi tình hình thanh toán các khoản mua hàng hoá, TSCĐ, NVL. Theo dõi tình hình Nhập - Xuất - Tồn NVL. Đồng thời đến cuối tháng lập bảng phân bổ NVL cho các đối tượng sử dụng và thực hiện việc chi trả lương cho cán bộ công nhân viên, lập bảng phân bổ tiền lương và thực hiện trích nộp các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ. Kế toán thanh toán vốn bằng tiền - Ngân hàng: Là người thực hiện các phần việc liên quan đến các ngiệp vụ ngân hàng. Hàng tháng theo dõi các khoản tiền gửi, tiền vay, viết uỷ nhiệm thu - uỷ nhiệm chi, theo dõi số dư trên TK ở ngân hàng. Đồng thời là người viết phiếu thu - phiếu chi. Như vậy, với chức năng và nhiệm vụ riêng, mỗi kế toán viên có thể đảm trách nhiều phần hành kế toán dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng để tận dụng hết khả năng làm việc của kế toán viên. 1.4.2.Vận dụng chế độ kế toán hiện hành Chế độ chứng từ Công ty Cổ phần Cơ khí Hồng Nam sử dụng hệ thống chứng từ được ban hành theo quyết định số 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 01/01/1995 của Bộ tài chính. Các chứng từ sổ sách được lập._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0771.doc
Tài liệu liên quan