lời nói đầu
Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển nền kinh tế cả nước đang chuyển mình theo guồng máy của cơ chế thị trường cho nên trong hệ thống chỉ tiêu kinh tế - tài chính của các doanh nghiệp sản xuất vấn đề chi phí sản xuất và tính giá thành là hai chỉ tiêu hết sức quan trọng và có mối quan hệ khăng khít nó là vấn đề sống còn của một đơn vị. Tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa to lớn đối với tăng tích luỹ và góp phần đáng kể cải thiện đời sống n
106 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế toán chi phí (chi phí sản xuất) và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại xí nghiệp xây lắp 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười lao động. Phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm là một trong những nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của công tác quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp.
Mặt khác trong tình hình hiện nay yêu cầu của chế độ hoạch toán kinh doanh và sự vận hành cơ chế thanh toán ở nước ta thì nhiệm vụ tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm doanh nghiệp sản xuất lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để quản lý tốt chi phí sản xuất và thành phẩm cần tổ chức tốt công tác tập hợp chi phí sản xuất và hạ giá thành thực tế của các loại sản phẩm sản xuất ra một cách chính xác, kịp thời, đúng đối tượng, đúng chế độ quy định và đúng phương pháp. Tổ chức tốt công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa thiết thực đối với việc tăng cường và cải thiện công tác quản lý chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm nói riêng và công tác quản lý doanh nghiệp nói chung.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các khoản mục chi phí, giá thành các biện pháp hạ giá thành sản phẩm là một đòi hỏi bức thiết đáp ứng yêu cầu của thị trường. Nhằm tổ chức các khoản mục chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm cho hợp lý và tìm ra biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Vậy trên cơ sở tài liệu thu thập được tại Xí nghiệp Xây lắp II trực thuộc Công ty Xây lắp và Sản xuất công nghiệp. Em xin chọn đề tài:
“Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại xí nghiệp xây lắp II”
Mục đích của đề tài là vận dụng lý thuyết về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp vào nghiên cứu thực tế công việc này tại xí nghiệp xây lắp II. Trên cơ sở đó, phân tích những tồn tại nhằm góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện công tác kế toán tại xí nghiệp.
Để đạt được mục đích trên bố cục của đề tài ngoài lời mở đầu và kết luận gồm ba phần sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Phần II: Thực trạng của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Xí nghiệp Xây lắp II.
Phần III: Một số ý kiến đóng góp nhằm góp phần hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Xây lắp II.
Phần I
những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp
I-/ vai trò của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Trong tình hình nước ta hiện nay, khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, Nhà nước không còn bao cấp hoàn toàn vốn đầu tư cho các ngành xây lắp, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hết sức cấp thiết cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp xây lắp.
Thông qua nghiên cứu giá thành sản phẩm, doanh nghiệp có thể đánh giá được những khoản chi phí còn lãng phí chưa có hiệu quả thuộc về nguyên nhân chủ quan. Từ đó doanh nghiệp có biện pháp quản lý và tổ chức sản xuất kiểm tra rà soát lại các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, tiền vốn nâng cao năng suất lao động, phát huy những khả năng tiềm tàng về mọi mặt đồng thời việc tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm giúp cho việc phản ánh đúng tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp xây dựng đúng kết quả tài chính, tránh được hiện tượng lãi giả, lỗ thật. Chính vì vậy tính chính xác giá thành có vị trí quan trọng và thiết thực phải hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong sản xuất XDCB kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm là khâu cuối cùng và là khâu quan trọng nhất trong công tác kế toán. Tập hợp đúng và đầy đủ công tác kế toán chi phí sản xuất sẽ tính được giá thành chính xác tạo điều kiện cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà doanh nghiệp ra quyết định đúng đắn góp phần mang lại thắng lợi cho doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Vấn đề tiết kiệm ngày càng được đề cao hơn trong đó tiết kiệm chi phí sản xuất đóng vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, nó là mục tiêu phấn đấu cũng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp. Yêu cầu của công tác quản lý nói chung và công tác quản lý chi phí nói riêng trong điều kiện đổi mới sản xuất kinh doanh hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách chính xác và khoa học.
Việc tìm kiếm ra những phương pháp cũng như các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành công trình với đặc điểm của mỗi loại doanh nghiệp là rất quan trọng.
1-/ Hoàn thiện tổ chức hạch toán ban đầu:
Phải xác định các loại chứng từ sử dụng cho từng bộ phận trong doanh nghiệp quy định việc sử dụng các mẫu chứng từ kế toán ban đầu và cách thức ghi chép căn cứ vào hệ thống chứng từ ban đầu do Bộ Tài chính quy định. Ngoài ra doanh nghiệp có thể xác định thêm các loại chứng từ hạch toán ban đầu căn cứ vào yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Quy định người chịu trách nhiệm, ghi chép đầy đủ các nội dung thông tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào các chứng từ ban đầu, đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ kế toán.
Quy định kênh luân chuyển và trình tự luân chuyển chứng từ ban đầu từ các bộ phận đến phòng kế toán hoặc các bộ phận kế toán một cách hợp lý, tránh ghi chép trùng lặp, luân chuyển vòng quanh.
2-/ Vận dụng hệ thống tài khoản.
Bộ Tài chính đã ban hành “Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp” theo Quyết định số 1141/TC-CĐKT ngày 01/11/1995 áp dụng thống nhất cho các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp để lựa chọn, xác định cho mình danh mục các tài khoản kế toán trong đó có thể bỏ đi những khoản không phù hợp với nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể mở thêm các tài khoản chi tiết cấp II, III, IV,...
Đồng thời việc lựa chọn phân công tài khoản cho các bộ phận kế toán trưởng, đồng thời phải quy định sổ sách, biểu mẫu ghi chép chi tiết và báo cáo kế toán trong nội bộ doanh nghiệp về tập trung tại phòng kế toán.
3-/ Lựa chọn hình thức kế toán để tổ chức hệ thống sổ sách ghi chép kế toán.
Tổ chức công tác kế toán trong một doanh nghiệp gắn với việc nghiên cứu vận dụng hình thức kế toán và tổ chức hệ thống sổ sách kế toán thích hợp. Ví dụ như: tại công ty Xây lắp I đã lựa chọn hình thức công tác tổ chức kế toán chứng từ ghi sổ.
Đặc điểm của hình thức này là mọi nghiệp vụ kinh tế phải căn cứ vào chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc cùng loại, cùng kỳ để lập chứng từ ghi sổ ghi vào “Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ” trước khi vào sổ cái.
Sổ kế toán theo hình thức kế toán chứng từ ghi sổ gồm có: sổ đăng ký chứng từ ghi sổ, sổ cái, sổ nhật ký quỹ, các sổ chi tiết.
Hình thức kế toán chứng từ ghi sổ rõ ràng, dễ hiểu, dễ phát hiện sai sót, điều chỉnh, thích hợp với mọi loại hình doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều tài khoản, khối lượng nghiệp vụ nhiều, có nhiều nhân viên kế toán, dễ kết hợp sử lý trong công tác điện toán. Việc lựa chọn hình thức công tác tổ chức sổ kế toán chứng từ ghi sổ tuy có nhiều ưu điểm song không tránh khỏi những nhược điểm như: không nhận được sự chỉ đạo thường xuyên của kế toán trưởng, việc đi lại giữa các cơ sở gặp nhiều khó khăn, việc kiểm tra giám sát chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý tài sản tại các công trình, các tổ đội thi công không được nhất quán, kịp thời.
4-/ Lựa chọn hình thức tổ chức bộ máy kế toán.
Lựa chọn mô hình tổ chức kế toán ở doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất kinh doanh, quy mô sản xuất kinh doanh lớn hay nhỏ, rộng hay hẹp, khối lượng và tính chất của công tác kế toán phức tạp hay không, căn cứ vào phân cấp quản lý kinh tế tài chính trong đơn vị kinh tế cơ sở, căn cứ vào tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật trong hạch toán, đội ngũ cán bộ, tình hình giao thông, thông tin liên lạc,... lựa chọn mô hình tổ chức kế toán hợp lý, thích hợp sẽ tạo điều kiện giải quyết hợp lý hoá công tác kế toán, đảm bảo chất lượng hạch toán rút ngắn thời gian hạch toán, đảm bảo hạch toán phục vụ sát với hoạt động kinh doanh, sử dụng có hiệu quả lao động hạch toán, nâng cao năng suất lao động hạch toán.
Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các hình thức tổ chức kế toán sau:
- Hình thức tổ chức kế toán tập trung.
- Hình thức tổ chức kế toán phân tán.
- Hình thức tổ chức kế toán vừa tập trung, vừa phân tán.
Ví dụ như: ở công ty Xây lắp I đã lựa chọn hình thức tổ chức kế toán tập trung.
Tổ chức công tác kế toán theo hình thức tập trung, mọi công việc chủ yếu của hạch toán kế toán đều được thực hiện ở phòng kế toán doanh nghiệp. Do đó giúp lãnh đạo doanh nghiệp nắm được kịp thời toàn bộ thông tin về hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, từ đó thực hiện sự kiểm tra và chỉ đạo sát sao, kịp thời các hoạt động của doanh nghiệp.
Sự chỉ đạo công tác kế toán thống nhất, chặt chẽ, tổng hợp số liệu và thông tin kinh tế kịp thời, tạo điều kiện trong phân công lao động, nâng cao trình độ và chuyên môn hoá lao động hạch toán. Việc trang bị ứng dụng phương tiện kỹ thuật để cơ giới hoá công tác kế toán được thuận lợi.
Tuy nhiên hình thức tổ chức kế toán tập trung có nhược điểm: khối lượng công việc kế toán tập trung ở phòng kế toán doanh nghiệp lớn, tạo ra khoảng cách về không gian và thời gian giữa nơi xảy ra thông tin, thu nhận sử lý thông tin và tập hợp số liệu thông tin, hạn chế sự chỉ đạo kiểm tra của kế toán.
II-/ Khái niệm, ý nghĩa của kế toán chi phí và giá thành sản phẩm xây lắp trong đơn vị xây lắp.
Sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản của xã hội loài người là điều kiện tiên quyết tất yếu là sự cần thiết của sự tồn tại và phát triển của mọi chế độ xã hội. Trong nền kinh tế nói chung, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy, trong quá trình tồn tại và phát triển kinh doanh có lãi buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp và sử dụng các công cụ kinh tế để giảm tới mức tối thiểu chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm. Muốn thực hiện được điều đó các nhà quản trị doanh nghiệp nói chung và những nhà quản trị doanh nghiệp xây lắp nói riêng trong sản xuất xây lắp sản phẩm có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, đơn chiếc và có thời gian sản xuất lâu dài,... lại càng cần thiết phải nắm chắc được khái niệm và ý nghĩa của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất của một đơn vị xây lắp là toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp. Trong đó, chi phí lao động sống gồm: tiền lương, trích tiền BHXH, BHYT, KPCĐ, còn chi phí lao động vật hoá gồm: các chi phí nguyên nhiên vật liệu, khấu hao TSCĐ,... Các chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp phải được tính toán chính xác trong từng thời kỳ nhất định phù hợp với việc thực hiện kế hoạch và kỳ báo cáo.
Chi phí này gồm chi phí sản xuất và chi phí sản xuất ngoài xây lắp mà được tính theo từng tháng, quý, năm.
Để đánh giá chất lượng kinh doanh của các tổ chức kinh tế, chi phí chi ra phải xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất, đó là kết quả sản xuất thu được, quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu “giá thành sản phẩm”.
Còn giá thành sản phẩm lại là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác sản phẩm lao vụ đã hoàn thành. Vì vậy quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất giá thành sản phẩm xây lắp phản ánh mặt kết quả xây lắp. Tất cả các khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm lao vụ dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp. Nói cách khác giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp xây lắp bỏ ra bất kể kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc sản phẩm xây lắp đã hoàn thành trong kỳ mà được biểu hiện bằng tiền.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định trong công tác quản lý doanh nghiệp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng luôn được các nhà doanh nghiệp quan tâm, vì chúng gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nếu tổ chức tốt được công tác kế toán tập hợp chi phí và giá thành sản phẩm sẽ đem lại nhiều ý nghĩa quan trọng cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp xây lắp biết được chi phí và giá thành thực tế của mỗi loại sản phẩm xây lắp cũng như kết quả sản xuất kinh doanh. Từ đó phân tích đánh giá được tình hình thực hiện định mức, dự toán, chi phí sử dụng như lao động, vật tư thiết bị,... đề ra phương pháp hữu hiệu, kịp thời tìm cách tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm, đề ra được các quyết định phù hợp cho sự phát triển kinh doanh và yêu cầu của quản trị doanh nghiệp. Do vậy việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác hạch toán kế toán và công tác quản lý của doanh nghiệp.
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo thị trường có sự điều tiết của Nhà nước mọi sự bao cấp cung tiêu không còn nữa, khi mà phương thức đấu thầu thi công công trình đã được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực xây dựng thì việc tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất xây lắp và tính giá thành sản phẩm ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong sản xuất kinh doanh và trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp xây lắp hiện nay.
III-/ Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại đơn vị xây lắp.
1-/ Đặc điểm kế toán trong đơn vị xây lắp.
Đặc điểm sản xuất xây lắp có ảnh hưởng đến tổ chức kế toán trong quá trình đầu tư XDCB nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, các tổ chức xây lắp nhận thầu giữ vai trò quan trọng. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại các tổ chức xây lắp như: Tổng công ty, công ty, xí nghiệp, đội xây dựng,... thuộc các thành phần kinh tế. Tuy các đơn vị này khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng các đơn vị đều là những tổ chức nhận thầu xây lắp. Sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng biệt khác với ngành sản xuất khác và ảnh hưởng đến tổ chức kế toán.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc,... có những đặc thù riêng biệt khác hẳn với các sản phẩm của các ngành sản xuất, khác vì nó có quy mô lớn, kết cấu phức tạp đa dạng nhưng lại mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài,... đặc điểm này đỏi hỏi việc tổ chức quản lý và hoạch toán nhất thiết sản phẩm xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công) quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có trước khi xây dựng thông qua hợp đồng giao nhận thầu,...
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động,...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng hạch toán tài sản vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng. Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp rất lâu dài đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sao cho chất lượng công trình đảm bảo đúng dự toán thiết kế, bảo hành công trình (giữ lại 5% giá trị công trình khi hết thời hạn bảo hành mới trả lại cho đơn vị xây lắp,...).
Đặc điểm của sản xuất xây lắp ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán trong đơn vị xây lắp thể hiện chủ yếu ở nội dung, phương pháp, trình tự hạch toán chi phí sản xuất, phân loại chi phí cơ cấu giá thành xây lắp, cụ thể là:
- Đối tượng hạch toán có thể là các hạng mục công trình, các giai đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công trình,... từ đó xác định phương pháp hạch toán chi phí thích hợp.
- Đối tượng tính giá thành là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các giai đoạn công việc đã hoàn thành, các khối lượng xây lắp có tính dự toán riêng đã hoàn thành từ đó, xác định phương pháp tính giá thành thích hợp: Phương pháp tính trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp hệ số hoặc phương pháp tỷ lệ,...
Xuất phát từ những đặc điểm của phương pháp lập dự toán trong XDCB dự toán được lập theo từng hạng mục công trình và được phân tích theo từng khoản mục chi phí: để có thể so sánh kiểm tra chi phí sản xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán đã được lập ban đầu chi phí sản xuất xây lắp được phân loại theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
2-/ Sự cần thiết tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay lợi nhuận đang là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Để sản xuất được sản phẩm, một doanh nghiệp cần phải có những yếu tố đầu tư vào như đầu tư máy móc, đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhân công,... và các yếu tố kết hợp đó chuyển đổi với nhau trong quá trình sản xuất để tạo nên thực thể của sản phẩm. Sự tiêu hao các yếu tố đầu vào hình thành nên các khoản mục chi phí sản xuất xây lắp.
Bên cạnh những chi phí trực tiếp vào sản xuất, doanh nghiệp còn có những chi phí để quản lý sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm các chi phí này được tính vào chi phí sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm trước hết doanh nghiệp phải tập hợp được chi phí và từ những chi phí đã tập hợp được đó đem so sánh với doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Lợi nhuận chỉ có được khi chi phí toàn bộ nhỏ hơn doanh thu tiêu thụ sản phẩm, trong thị trường cạnh tranh hiện nay, giá bán sản phẩm luôn có xu hướng giảm xuống thì lợi nhuận sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chi phí. Do đó, giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển của một doanh nghiệp. Vì vậy, giảm chi phí hạ giá thành phải được ưu tiên hàng đầu tại mỗi doanh nghiệp. Song để thực hiện được điều đó thì doanh nghiệp phải tổ chức tập hợp được các chi phí và có những biện pháp quản lý để hạ giá thành.
3-/ Bản chất của chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Sản xuất sản phẩm là quá trình biến đổi có ý thức các yếu tố đầu vào, để tiến hành sản xuất doanh nghiệp phải thường xuyên bỏ ra các khoản chi phí các loại yếu tố đầu vào như: khoản chi phí về đối tượng lao động, khoản chi phí về tư liệu lao động, chi phí về nhân công lao động,... Để biết được doanh nghiệp đã bỏ ra bao nhiêu chi phí trong từng kỳ hoạt động để phục vụ kịp thời cho công tác quản lý. Vì vậy doanh nghiệp phải tổ chức, phân tích, cập nhật thống kê tập hợp chi phí của bản thân doanh nghiệp và có tính đến những tác động của các bên có liên quan đến những chi phí sản xuất xây lắp của doanh nghiệp mình và mọi chi phí đó đều được biểu hiện dưới hình thái giá trị cho nên có thể nói: chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá đã chi ra để tiến hành các hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ nhất định, biểu hiện bằng tiền.
Để làm rõ bản chất của chi phí sản xuất, cần phải phân biệt được các loại chi phí, song đó là sự tiêu hao, giảm đi của vốn bằng tiền dù chi tiêu bằng tiền mặt hay không dùng tiền mặt. Có loại chi phí không phải là chi phí sản xuất, trường hợp này xảy ra khi chi tiêu và chi phí sản xuất không diễn ra trong kỳ hạch toán và ngược lại.
Như vậy, chi phí sản xuất thực sự là sự chuyển dịch của các yếu tố sản xuất vào đối tượng tính giá thành và các chi phí này là các chi phí phát sinh trong kỳ được tập hợp chi phí, tính toán và phân bổ cho từng đối tượng tính giá thành.
Để xác định được đối tượng tính giá thành sản phẩm thì trước hết phải hiểu được thế nào là tính giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất cho một khối lượng sản phẩm nhất định đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu tổng hợp, nó có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh. Thông qua chỉ tiêu giá thành, có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình sản xuất, chứng minh được thực tế các yếu tố vật chất đã hiệu quả hay chưa. Đồng thời đánh giá được toàn bộ các biện pháp, các phương tiện kỹ thuật mà doanh nghiệp đã đầu tư vào quá trình sản xuất.
Vì mang một ý nghĩa quan trọng như vậy giá thành sản phẩm đưa lại những thông tin và tác dụng sau:
- Giá thành sản phẩm là giới hạn bù đắp chi phí.
- Giá thành là căn cứ lập giá bán sản phẩm.
Việc hiểu rõ khái niệm chi phí sản xuất cũng như giá thành sản phẩm là một vấn đề hết sức cần thiết để giúp cho doanh nghiệp tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành sản phẩm và để từ đó tìm ra biện pháp hạ giá thành, phát huy tác dụng của chỉ tiêu giá thành trong quá trình sản xuất và quản lý doanh nghiệp.
Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều có thể xác định được trên cả hai mặt:
- Mặt định tính: thể hiện các yếu tố vật chất phát sinh và tiêu hao trong quá trình sản xuất tạo nên sản phẩm.
- Mặt định lượng: thể hiện mức tiêu hao cụ thể của từng yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất (mức tiêu hao này được xác định bởi hai yếu tố khối lượng và giá cả của yếu tố đó).
Từ khả năng xác định được trên cả hai mặt định tính và định lượng mà doanh nghiệp có thể phân loại được chi phí sản xuất cũng như giá thành sản phẩm tuỳ vào yêu cầu tính toán phân tích hay quản lý. Bên cạnh đó để sản xuất một loại sản phẩm, doanh nghiệp cần rất nhiều các loại chi phí khác nhau, mà mỗi loại chi phí lại có tính chất kinh tế, công dụng và yêu cầu quản lý khác nhau. Để quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất và tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm mục đích hạ giá thành cũng như giúp cho công tác tiến hành thuận lợi thì cần thiết phải có sự phân loại chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
4-/ Phạm vi tính giá thành sản phẩm xây lắp.
- Giá thành hoàn chỉnh: phản ánh toàn bộ chi phí liên quan đến một công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Hay chính là chi phí chi ra để tiến hành thi công một công trình, hạng mục công trình kể từ khi khởi công cho đến khi kết thúc hoàn thành bàn giao cho Bên A.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá một cách tổng quát hiệu quả kinh tế của tính toán, vốn đầu tư cho một công trình, hạng mục công trình nhưng lại không đáp ứng được kịp thời các số liệu cần thiết cho việc quản lý sản xuất và giá thành trong suốt quá trình thi công công trình. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu quản lý và đảm bảo chỉ đạo sản xuất kịp thời, đòi hỏi phải xác định được giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước.
- Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước: là giá thành của các khối lượng xây lắp mà khối lượng đó phải thoả mãn các điều kiện sau:
+ Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng kỹ thuật.
+ Phải được xác định cụ thể và được chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
+ Phải đạt điểm dừng kỹ thuật hợp lý.
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước phản ánh kịp thời chi phí cho đối tượng xây lắp trong quá trình thi công, từ đó giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được kịp thời, chính xác các chi phí đã chi ra cho từng đối tượng để có biện pháp quản lý thích hợp. Tuy nhiên chỉ tiêu này lại phản ánh không toàn diện, chính xác toàn bộ công trình, hạng mục công trình.
Ngoài ra, trong XDCB còn sử dụng hai chỉ tiêu giá thành sau:
- Giá thành đấu thầu xây lắp: là một loại giá thành xây lắp do một chủ đầu tư đưa ra để các doanh nghiệp xây lắp căn cứ vào đó tính toán giá thành của mình (còn gọi là giá thành dự thầu công tác xây lắp). Nếu thấy giá thành của mình thấp hơn giá thành của chủ đầu tư đưa ra thì sẽ tham gia đấu thầu thi công xây lắp công trình.
Về nguyên tắc, giá đấu thầu xây lắp chỉ được bằng hoặc nhỏ hơn giá dự toán. Như vậy, chủ đầu tư mới tiết kiệm được vốn, hạ thấp các chi phí lao động xã hội góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội.
- Giá hợp đồng công tác xây lắp: là một loại giá thành dự toán công tác xây lắp ghi trong hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp sau khi đã thoả thuận giao nhận thầu. Đây cũng là giá thành của doanh nghiệp thắng thầu và được chủ đầu tư thoả thuận ký hợp đồng giao thầu. Về nguyên tắc, giá thành hợp đồng công tác xây lắp chỉ nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác xây lắp.
Việc áp dụng hai loại giá thành là yếu tố quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng. Nó sử dụng quan hệ tiền - hàng, tạo ra sự mềm dẻo nhất định trong mối quan hệ giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp, trong việc định giá sản phẩm xây lắp cũng như chủ động trong kinh doanh, thích hợp với cơ chế thị trường, cạnh tranh lành mạnh.
5-/ Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí biểu hiện mặt hao phí, còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình. Vì vậy, chúng giống nhau về chất. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình thi công. Tuy nhiên, do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kỳ không đều nhau nên giá thành và chi phí sản xuất lại khác nhau về lượng. Điều đó thể hiện qua sơ đồ sau:
CPSXDDĐK
A
CPSXPSTK
Tổng GTSP
CPSXDDCK
C
B
D
Qua sơ đồ ta thấy: AD = AC + CB - DB
Hay:
= + -
Như vậy, nếu chi phí sản xuất là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một thời kỳ nhất định thì giá thành sản phẩm lại là tổng hợp những chi phí bỏ ra gắn liền với việc sản xuất và hoàn thành một khối lượng công việc xây lắp nhất định được nghiệm thu, bàn giao và thanh toán. Giá thành sản phẩm không bao hàm những chi phí cho khối lượng dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên quan đến hoạt động sản xuất, những chi phí đã chi ra nhưng chờ phân bổ cho kỳ sau. Nhưng nó lại bao gồm những chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ trước chuyển sang, những chi phí trích trước vào giá thành nhưng thực tế chưa phát sinh và những chi phí của kỳ trước chuyển sang phân bổ cho kỳ này.
Giá thành sản phẩm xây lắp và chi phí sản xuất thống nhất về lượng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là một công trình, hạng mục công trình được hoàn thành trong kỳ tính giá thành hoặc giá trị khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau.
IV-/ Đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Xác định đúng đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm là một trong những vấn đề then chốt, để đảm bảo tính giá thành sản phẩm chính xác, phát huy tác dụng của kế toán trong công tác quản lý kế toán, tài chính của doanh nghiệp.
1-/ Đối tượng tập hợp chi phí.
Đối tượng tập hợp sản xuất là phạm vi giới hạn mà các chi phí sản xuất cần được tổ chức tập hợp theo phạm vi giới hạn đó. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên của công tác tập hợp chi phí sản xuất. Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là:
- Nơi phát sinh như: phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất.
- Nơi gánh chịu chi phí như: sản phẩm, chi tiết sản phẩm, đơn đặt hàng, công trình, hạng mục công trình,...
Đối tượng tập hợp chi phí là không thống nhất, mà tuỳ thuộc vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã được xác định mà áp dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp tập hợp sản xuất theo toàn bộ công nghệ sản xuất sản phẩm (toàn doanh nghiệp).
- Phương pháp tập hợp sản xuất theo từng giai đoạn công nghệ riêng biệt (từng phân xưởng sản xuất).
- Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo từng nhóm sản phẩm cụm chi tiết sản phẩm.
- Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo từng thứ sản phẩm, từng bộ phận chi tiết.
Việc tập hợp chi phí sản xuất đúng và phù hợp với đặc điểm hoạt động, yêu cầu quản lý của doanh nghiệp có ý nghĩa rất to lớn trong việc tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất từ việc hạch toán ban đầu đến tổ chức tổng hợp số liệu và ghi chép trên từng tài khoản, sổ chi tiết và phục vụ tốt cho công tác tính giá thành sản phẩm kịp thời chính xác.
2-/ Đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành sản phẩm.
a. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong công tác tính giá thành sản phẩm. Trong ngành XDCB, do đặc điểm sản xuất mang tính đơn chiếc, mỗi sản phẩm đều phải có dự toán và thiết kế riêng nên đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp thường là những công trình, hạng mục công trình hay các khối lượng công việc có thiết kế và dự toán riêng đã hoàn thành.
Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã xác định được phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất sản phẩm, đặc điểm sản xuất sản phẩm và tổ chức công tác kế toán mà doanh nghiệp xác định kỳ tính giá thành để đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp.
b. Kỳ giá thành sản phẩm.
Là thời kỳ kế toán giá thành cần phải tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Việc xây dựng kỳ tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm tính chất sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất sản phẩm để quy định cho thích hợp. Có thể tính giá thành là một tháng, một quý hoặc kết thúc một chu kỳ sản xuất.
3-/ Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh.
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là một phương pháp hay là một hệ thống phương pháp để tập hợp chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng tập hợp chi phí. Nội dung chủ yếu của mỗi phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ vào đối tượng tập hợp chi phí, mở các tài khoản sổ kế toán (sổ chi tiết, bảng kê, thẻ chi tiết,...) để phản các chi phí sản xuất phát sinh vào các đối tượng tập hợp chi phí. Thích ứng với các đối tượng tập hợp chi phí đó là xác định phương pháp tập hợp chi phí cho phù hợp.
a. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong doanh nghiệp là những chi phí cơ bản bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chi phí nguyên liệu phụ, nửa thành phẩm ._.mua ngoài, phát sinh trong kỳ sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được căn cứ vào các chứng từ xuất kho để tính trị giá thực tế vật liệu xuất dùng và căn cứ vào đối tượng tập hợp chi phí sản xuất để xác định để tập hợp.
Việc tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào các đối tượng có thể tiến hành theo hai phương pháp:
- Phương pháp trực tiếp: được áp dụng trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chỉ liên quan đến một đối tượng tập hợp chi phí (từng phân xưởng, tổ đội hay phân xưởng sản xuất).
- Phương pháp bố trí gián tiếp: áp dụng trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí khác nhau. Để phân bổ cho các đối tượng liên quan cần phải xác định, lựa chọn tiêu thức phân bổ hợp lý.
Đối tượng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thì tiêu chuẩn phân bổ có thể là định mức nguyên vật liệu trực tiếp hoặc có thể là khối lượng sản phẩm,...
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh trong kỳ do từng đối tượng hạch toán, kế toán được tiến hành hạch toán như sau:
TK 111,112,331
TK 621
TK 152
NVL xuất thẳng
TK 133
NVL dùng không hết
nhập lại kho
TK 154
Kết chuyển chi phí
NVL trực tiếp
TK 152
VAT được
khấu trừ
Mua NVL
nhập kho
Xuất kho NVL
để thi công
Sơ đồ kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
b. Phương pháp kế toán chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm các khoản như: tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp, BHXH, BHYT,... của công nhân sản xuất sản phẩm trực tiếp.
Về nguyên tắc thì chi phí nhân công lao động cũng được tập hợp giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Trong trường hợp phân bổ gián tiếp thì có thể chọn tiêu chuẩn phân bổ là giờ công định mức hoặc giờ công thực tế.
Toàn bộ tiền lương và các khoản khác phải trả cho người lao động trực tiếp sản xuất tập hợp vào bên Nợ TK 622 và kế toán ghi:
Tiền lương và phụ cấp phải trả
cho công nhân sản xuất trực tiếp
TK 334
TK 622
TK 154
Kết chuyển chi phí
lao động trực tiếp
TK 338
Các khoản đóng góp theo
tỷ lệ với tiền lương CNSXTT
TK 111
Tiền lương thuê ngoài
TK 335
Chi phí tiền lương trích trước
Sơ đồ kế toán tập hợp và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp
c. Phương pháp kế toán chi phí sử dụng máy thi công:
Chi phí sử dụng máy thi công gồm những chi phí về vật tư, lao động, nhiên liệu động lực,... cho các máy thi công nhằm thực hiện khối lượng xây lắp bằng máy. Chi phí sử dụng máy bao gồm cả chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
Chi phí thường xuyên là những chi phí hàng ngày cần thiết cho việc sử dụng máy thi công như tiền khấu hao, tiền thuê về máy, nhiên liệu động lực,...
Chi phí tạm thời là những chi phí có liên quan đến việc tháo lắp, chạy thử, vận chuyển,... máy thi công và những công trình tạm thời phục vụ sử dụng máy thi công.
- Nếu máy thi công thuê ngoài: toàn bộ chi phí thuê máy thi công tập hợp vào TK 623, chi tiết máy thi công.
+ Khi thuê máy thi công thì chi phí sử dụng máy thi công ghi:
Nợ TK 623 (6238) (Chi tiết MTC)
Nợ TK 133 (VAT được khấu trừ)
Có TK 111,112,331 (Tổng giá thuê ngoài)
+ Cuối kỳ kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công.
Nợ TK 154 (Chi tiết MTC)
Có TK 623 (Chi tiết MTC)
- Nếu tường đội có máy thi công riêng nhưng không tổ chức hệ thống kế toán riêng: các chi phí có liên quan đến máy thi công được tập hợp riêng, cuối kỳ kết chuyển hoặc phân bổ theo từng đối tượng (công trình, hạng mục công trình).
Tập hợp chi phí NVL
TK 111,112,152
TK 623
TK 154
Kết chuyển chi phí
máy thi công
TK 334,338
Tập hợp chi phí nhân công
TK 214,111,152
Tập hợp chi phí sản xuất chung
TK 331,111,112
Thuế VAT được khấu trừ
TK 133
Tổng giá thuê ngoài
Giá chưa thuế
- Nếu doanh nghiệp có tổ chức đội máy thi công riêng và có phân cấp hạch toán cho đội máy có tổ chức hoạt động kế toán riêng:
Toàn bộ chi phí liên quan trực tiếp đến đội máy thi công được tập hợp riêng trên các TK 621, 622, 627. Cuối kỳ kết chuyển vào TK 154 (chi tiết đội máy thi công) để tính giá thành ca máy. Từ đó xác định giá trị mà đội thi công phục vụ cho từng đối tượng (công trình, hạng mục công trình).
Nếu doanh nghiệp thực hiện thưo phương thức cung cấp lao vụ máy lẫn nhau giữa các bộ phận, ghi:
Nợ TK 623 (Chi phí sử dụng MTC)
Có TK 154 (Chi phí SXKDDD)
Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức bán lao vụ giữa các bộ phận trong nội bộ, ghi:
Nợ TK 623 : Chi phí sử dụng MTC
Nợ TK 133 : Thuế VAT được khấu trừ
Có TK 333 : Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
Có TK 512,511 :
d. Phương pháp kế toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là các chi phí liên quan đến phục vụ, quản lý sản xuất trong phạm vi các phân xưởng, tổ đội sản xuất, chi phí bao gồm các khoản sau:
- Chi phí nhân viên phân xưởng.
- Chi phí vật liệu.
- Chi phí dụng cụ quản lý.
- Chi phí kế hoạch TSCĐ.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí khác bằng tiền.
Việc tập hợp và kết chuyển phân bổ chi phí sản xuất chung được thực hiện trên TK 627 “Chi phí sản xuất chung” kế toán ghi:
Chi phí nhân viên
TK 334,338
TK 627
TK 111,112,152
Các khoản giảm CPSXC
TK 133
TK 152,153
Chi phí vật liệu dụng cụ
TK 1421,333
Chi phí sản xuất chung khác
TK 331,111,112
Chi phí sản xuất chung
khác theo dự toán
Thuế VAT
được khấu trừ
TK 154
Phân bổ (hoặc K/C)
chi phí sản xuất chung
sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung
4-/ Kế toán chi phí trả trước và chi phí phải trả.
a. Kế toán chi phí trả trước.
Kế toán chi phí trả trước (còn gọi là chi phí trích trước) là chi phí trực tiếp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh của kỳ này mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán sau đó. Đây là những khoản sản phẩm phát sinh một lần quá lớn hoặc do bản thân chi phí phát sinh có tác dụng tới kết quả hoạt động của nhiều kỳ hạch toán nên nó sẽ được phân bổ dần vào các kỳ sau:
Chi phí trả trước trong doanh nghiệp sản xuất bao gồm các loại sau:
- Công cụ dụng cụ xuất dùng một lần với giá trị lớn hoặc thuộc loại phân bổ dần.
- Giá trị bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thuê.
- Chi phí thuê nhà xưởng, nhà kho, văn phòng, phục vụ nhiều kỳ kinh doanh.
- Chi phí phải trả về thuê dịch vụ.
- Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ phát sinh một lần.
Tập hợp phân bổ chi phí trả trước được thực hiện trên TK 142 (chi phí trả trước).
* Phương pháp hạch toán trả trước:
Chi phí trả trước
thực tế phát sinh
TK 111,112,331
TK 142
TK 111,112,152
K/C chi phí bán hàng, chi phí
quản lý vào TK xác định kết quả
TK 641,642
K/C chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp
TK 641,642
TK 911
Phân bổ dần vào chi phí
trả trước vào các kỳ hạch toán
Sơ đồ kế toán chi phí trả trước
b. Kế toán chi phí phải trả:
Chi phí phải trả là những chi phí đã ghi nhận là những chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ nhưng thực tế chúng chưa phát sinh, chúng được tính trước vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ theo kế hoạch làm cho chi phí sản xuất và giá thành ít bị biến động giữa các kỳ chi phí phải trả bao gồm các khoản sau:
- Tiền lương của công nhân sản xuất trong thời gian nghỉ phép.
- Chi phí sửa chữa TSCĐ theo kế hoạch.
- Chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hoá dự tính theo kế hoạch.
- Chi phí về lao vụ dịch vụ thuê ngoài sẽ phát sinh.
- Lãi tiền vay chưa đến hạn trả.
Số chi phí phải tính trước vào chi phí sản xuất kinh doanh và số thực tế phát sinh của chi phí phải trả được phản ánh trên TK 335 “Chi phí phải trả”.
* Phương pháp hạch toán như sau:
Sơ đồ kế toán chi phí phải trả
Tiền lương phép, lương ngừng
việc thực tế phải trả
TK 334
TK 335
TK 622
Tính trước chi phí phải trả
khác vào chi phí kinh doanh
TK 641,642
Các chi phí phải trả khác
thực tế phát sinh
TK 241,331,111
TK 627,641,642
Trích trước lương phép,
lương ngừng việc của công nhân
5-/ Kế toán đánh giá sản phẩm làm dở dang cuối kỳ.
Trong các doanh nghiệp, giá trị sản phẩm được tính cho sản phẩm hoàn thành, muốn tính được giá thành cho số sản phẩm hoàn thành trong kỳ, phải tiến hành đánh giá sản phẩm dở dang. Bởi vì chi phí sản xuất trong kỳ không những chỉ nằm trong khối lượng mà còn nằm trong khối lượng sản phẩm làm dở cuối kỳ.
Sản phẩm làm dở trong những doanh nghiệp sản xuất là những sản phẩm còn đang trong quá trình chế biến, chưa trải qua các giai đoạn của quy trình công nghệ sản xuất. Đánh giá sản phẩm làm dở là việc tính toán, xác định chi phí sản xuất mà sản phẩm làm dở cuối kỳ phải chịu.
Muốn đánh giá sản phẩm làm dở trước hết phải tiến hành kiểm kê sản phẩm làm dở để xác định số lượng làm dở thực tế. Sau đó tiến hành xác định mức độ hoàn thành của các sản phẩm làm dở đó. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tình hình cụ thể về tổ chức sản xuất hàng hoá, tỷ trọng, mức độ và thời gian chi phí vào quá trình sản xuất và yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp mà có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm như sau:
a. Đánh giá sản xuất chi phí làm dở theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc nửa thành phẩm.
Theo phương pháp này thì chi phí sản phẩm làm dở chỉ được tính nguyên chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của chi phí nửa thành phẩm (còn các chi phí khác tính hết cho sản phẩm hoàn thành).
Ta có công thức:
DCK = x Qd
Trong đó:
DCK : sản phẩm làm dở cuối kỳ.
Dđk : sản phẩm làm dở đầu kỳ.
C : chi phí sản xuất trong kỳ.
Qd : số lượng sản phẩm làm dở cuối kỳ.
Qht : số lượng hoàn thành trong kỳ.
Đối với doanh nghiệp có quy trình công nghệ kiểu phức tạp liên tục thì sản phẩm làm dở của giai đoạn sau đó được đánh giá theo nửa thành phẩm ở giai đoạn chuyển sang.
Phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở này có ưu điểm là tính toán đơn giản, nhanh chóng. Nhưng nhược điểm là không chính xác và bỏ qua các chi phí khác, cho nên chỉ áp dụng phương pháp này đối với doanh nghiệp có chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn.
b. Phương pháp đánh giá chi phí sản xuất sản phẩm làm dở theo sản lượng hoàn thành tương đương.
Theo phương pháp này căn cứ vào số lượng sản phẩm làm dở kiểm kê cuối tháng và mức độ hoàn thành của sản phẩm làm dở để tính ra được số lượng thành phẩm và nửa thành phẩm hoàn thành tương đương. Trên cơ sở số lượng hoàn thành tương đương tính ra chi phí sản xuất sản phẩm làm dở cuối kỳ.
Đối với chi phí nguyên vật liệu bỏ một lần ngay từ đầu của quy trình công nghệ được tính theo công thức sau:
DCK =
Các chi phí chế biến khác kể cả chi phí nguyên vật liệu bỏ dần vào sản xuất:
DCK = x Qd x H
Với H là mức độ % hoàn thành của sản phẩm hoàn thành làm dở.
Ưu điểm của phương pháp này là tương đối chính xác. Vì tất cả các chi phí đều được xác định theo mức độ hoàn thành, song lại có nhược điểm là rất phức tạp, tốn nhiều thời gian và đôi khi xác định mức độ hoàn thành của sản phẩm làm dở ở từng công đoạn sản phẩm.
c. Đánh giá chi phí sản xuất làm dở theo chi phí định mức.
Theo phương pháp này trên cơ sở định mức chi phí cho sản phẩm làm dở cuối kỳ ở từng giai đoạn sản xuất sau đó tổng hợp lại để chi phí sản phẩm làm dở cuối kỳ.
6-/ Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất xây lắp.
Thiệt hại trong sản xuất xây lắp bao gồm thiệt hại phá đi làm lại và thiệt hại ngừng sản xuất. Đối với thiệt hại phá đi làm lại kế toán cần mở sổ theo dõi riêng. Toàn bộ thiệt hại sau khi tập hợp vào bên Nợ TK 1381 hay TK 627, TK 1421,... (Chi tiết thiệt hại phá đi làm lại) được ghi như sau:
- Nếu thiệt hại do đơn vị xây lắp gây ra kế toán định khoản:
Nợ TK 111,152 - Giá trị phế liệu thu hồi.
Nợ TK 138 (1381) - Giá trị cá nhân phải bồi thường do gây thiệt hại.
Nợ TK 821 - Giá trị tính vào chi phí bất thường.
Nợ TK 415 - Thiệt hại trừ vào quỹ dự phòng tài chính.
Có TK 1381 (hoặc 1421,627...) - Xử lý giá trị thiệt hại.
- Nếu do chủ đầu tư yêu cầu và chịu bồi thường kế toán ghi:
Nợ TK 111,152 - Giá trị phế liệu thu hồi.
Nợ TK 131 - Giá trị chủ đầu tư đồng ý bồi thường.
Có TK 1381 (hoặc 1421,627,...) - Xử lý giá trị thiệt hại.
- Nếu thiệt hại do phát sinh trong thời gian bảo hành sản phẩm thì chi phí thiệt hại sẽ được tập hợp riêng trên các TK 621, 622, 627, 154 (Chi tiết theo từng công trình bảo hành). Toàn bộ chi phí bảo hành phát sinh trong kỳ sẽ được trừ vào kết quả của kỳ mà nó phát sinh ra kế toán ghi như sau:
Nợ TK 632
Có TK 154 - Chi phí bảo hành công trình thực tế phát sinh.
Sơ đồ hạch toán tổng quát chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây dựng cơ bản
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp
TK 152
TK 154
TK 152
TK 641,642
TK 334,338
TK 621
K/C chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp
Nhập kho phế liệu
thu hồi TS thiếu hụt
TK 622
Thù lao phải trả
K/C chi phí nhân
công trực tiếp
TK 214
TK 627
KHTSCĐ, chi phí
nhân công, vật liệu
K/C chi phí
sản xuất chung
TK 142,335
Chi phí trả trước và
các khoản phải trả
TK 331,111,112
Chi phí dịch vụ
mua ngoài
Giá thành công tác xây
lắp hoàn thành bàn giao
TK 632
TK 133
Thuế VAT
được khấu trừ
Công trình hoàn thành
nhưng chưa bàn giao
TK 155
Sơ đồ hạch toán tổng quát chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây dựng cơ bản
(Theo phương pháp kiểm kê định kỳ)
K/C hàng hoá đi
đường đầu kỳ
TK 151
TK 611
TK 154
TK 152,153
TK 611
TK 334,338
TK 632
Thuế VAT
được khấu trừ
K/C giá trị vật liệu
công cụ tồn đầu kỳ
TK 133
TK 152,153
K/C nghiệp vụ làm
tăng vật liệuCCDC trong kỳ
TK 154
TK 621
K/C giá trị vật liệu
CCDC sử dụng trong kỳ
K/C chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp
K/C giá trị công
trình dở dang đầu kỳ
K/C chi phí xây lắp
dở dang cuối kỳ
Giá thành công trình
xây lắp hoàn thành
TK 155,157
TK 622
K/C chi phí nhân
công trực tiếp
TK 627
K/C chi phí sản
xuất chung
Chi phí nhân
công trực tiếp
TK 214
Chi phí KH
TSCĐ
TK 214
Chi phí dịch
vụ mua ngoài
TK 111,112,335
V-/ Phương pháp phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1-/ Phân loại chi phí sản xuất.
Tuỳ theo góc độ xem xét chi phí sản xuất trên những khía cạnh khác nhau mà chi phí sản xuất được phân loại theo những tiêu chuẩn khác nhau, có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất nhưng hiện nay trong kế toán thường sử dụng hai cách phân loại sau:
a. Phân loại chi phí sản xuất theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
Theo mức phân loại này căn cứ vào tính chất nội dung kinh tế của các chi phí giống nhau xếp vào một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh vực hoạt động nào, ở đâu. Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: là toàn bộ chi phí về các loại đối tượng lao động là nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
- Chi phí nhân công: là toàn bộ tiền công và các khoản khác phải trả cho người lao động.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: là toàn bộ khấu hao trong kỳ đối với tất cả các loại tài sản cố định trong doanh nghiệp.
- Chi phí phục vụ mua ngoài: là số tiền trả về các dịch vụ mua ngoài phục vụ cho sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh ngoài bốn yếu tố chi phí trên.
Cách phân loại chi phí này có tác dụng cho biết kết cấu trong từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh, để lập bản báo cáo thuyết minh tài chính (phần chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố) phục vụ cho thông tin và quản trị doanh nghiệp. Để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất kinh doanh cho kỳ sau tại mỗi doanh nghiệp.
b. Phân loại chi phí theo khoản mục.
Mỗi doanh nghiệp sản xuất trong điều kiện nền kinh tế thị trường hoạt động sản xuất kinh doanh gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, căn cứ vào mục đích công cụ của chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà phân chia toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành:
- Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm cũng như các chi phí liên quan đến hoạt động quản lý và phục vụ sản xuất trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận hay tổ sản xuất. Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm được phân chia thành:
+ Chi phí trực tiếp: là những chi phí có liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí gián tiếp: (chi phí sản xuất chung) là những chi phí phục vụ quản lý sản xuất kinh doanh trong quá trình sản xuất.
- Chi phí bán hàng: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc tiêu thụ, bán sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, chi phí này phát sinh ngoài quá trình sản xuất nên còn gọi là chi phí ngoài sản xuất.
- Chi phí hoạt động khác: là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động khác ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh dở dang cơ bản của doanh nghiệp đó là chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất thường.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ chi phí phục vụ và quản lý chung của các hoạt động sản xuất kinh doanh trên toàn doanh nghiệp.
Cách phân loại chi phí như vậy có tác dụng số chi phí đã chỉ ra cho từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc tính giá thành và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh từng lĩnh vực.
Theo cách phân loại này, các chi phí sản xuất sẽ là các chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm và được quy định thành 3 khoản mục sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
+ Chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí sản xuất chung.
Ngoài các cách phân loại nói trên, để phục vụ cho công tác quản lý, công tác kế toán, phân tích thì chi phí sản xuất còn có thể được phân loại theo các hình thức khác như căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng sản phẩm, lao vụ hoàn thành để chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Hoặc căn cứ vào phương pháp hạch toán, tập hợp chi phí để chia thành chi phí hạch toán trực tiếp hay chi phí phân bổ gián tiếp.
2-/ Phân loại giá thành công tác xây lắp.
Trong sản xuất xây lắp cần phân biệt các loại giá thành công tác xây lắp: giá thành dự toán, giá thành kế hoạch và giá thành thực tế.
a. Giá thành dự toán:
Là tổng hợp các chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình giá thành này được xác định trên cơ sở định mức quy định của Nhà nước và khung giá quy định áp dụng theo từng vùng lãnh thổ, giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần lợi nhuận định mức.
= -
Giá trị dự toán là chi phí theo các công tác xây dựng, lắp ráp các kết cấu kiến trúc, lắp đặt máy móc thiết bị sản xuất,... Giá thành dự toán xây lắp gồm chi phí trực tiếp, phụ phí thi công và lãi định mức. Nội dung chi phí trực tiếp, chi phí trực tiếp khác đã nêu trong thành phần “Phân loại chi phí sản xuất”, còn phụ phí thi công gồm chi phí phục vụ thi công, phục vụ nhân công và tổ chức quản lý sản xuất.
Lãi định mức là chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích luỹ cho xã hội do ngành xây dựng sáng tạo.
b. Giá thành kế hoạch.
Là giá thành được xác định xuất phát từ những điều kiện cụ thể ở một doanh nghiệp xây lắp nhất định trên cơ sở biện pháp thi công, các định mức và đơn giá áp dụng trong xây dựng.
= - - +
Giá thành kế hoạch nhỏ hơn giá thành dự toán một lượng bằng mức hạ giá thành dự toán và lớn hơn giá thành dự toán nhờ thực hiện các biện pháp tổ chức kinh tế kỹ thuật. Bằng cách tính toán có căn cứ kinh tế kỹ thuật có thể tổng hợp hiệu quả kế toán do các biện pháp kinh tế mang lại.
c. Giá thành thực tế.
Phản ánh toàn bộ các chi phí thực tế đã bỏ ra để bàn giao khối lượng xây lắp máy mà doanh nghiệp đã nhận thầu do kế hoạch giá thành. Tính giá thành này bao gồm các chi phí theo định mức, vượt định mức và không định mức như các khoản thiệt hại trong sản xuất, các khoản bội chi lãng phí về vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất và quản lý của doanh nghiệp đã được phép tính vào giá thành. Do yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán kinh tế giá thành thực tế phải nhỏ hơn giá thành kế hoạch để có mức tiết kiệm hạ giá thành kế hoạch công trình hoặc hạng mục công trình, dùng giá thành thực tế đối chiếu với giá thành kế hoạch, giá thành dự toán để xác định kết quả sản xuất.
Thi công xây lắp công trình là quá trình sản xuất có chu kỳ tương đối dài, khối lượng sản phẩm xây lắp tương đối lớn nên giá thành thực tế xây lắp công trình được nghiên cứu theo hai chỉ tiêu: Giá thành công tác xây lắp và giá thành công trình hoàn thành.
- Giá thành công trình hoàn thành là giá thành của một công trình, một hạng mục công trình hoặc một công trình đơn vị sau khi đã kết thúc thi công và đưa vào sử dụng. Vì giá thành công trình hoàn thành chỉ tính được sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ thi công cho nên chỉ tiêu này phản ánh không kịp thời các chi phí phát sinh trong từng thời kỳ.
- Giá thành công tác xây lắp là giá thành theo từng thời gian hay là giá thành khối lượng công tác hoàn thành trong từng thời kỳ (tháng, quý, năm). Chỉ tiêu này cho phép thấy được sự thay đổi của các chi phí phát sinh thực tế theo thời gian.
V-/ Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được của kế toán để tính ra tổng giá thành, giá thành sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành theo các khoản mục chi phí đã quy định và đúng với thời kỳ tính giá thành.
Mỗi đối tượng tính giá thành có đặc trưng riêng và có mối quan hệ chặt chẽ với các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Do đó phải sử dụng các phương pháp tính giá thành thực tế sản phẩm hoàn thành.
Có nhiều quan điểm khác nhau về phương pháp tính giá thành sản phẩm song các doanh nghiệp thường sử dụng một trong các phương pháp:
- Phương pháp tính giá thành giản đơn.
- Phương pháp tính giá thành phân bước.
- Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng.
- Phương pháp tính giá thành loại trừ sản xuất kinh doanh phụ.
- Phương pháp tính giá thành theo hệ số.
- Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ.
- Phương pháp tính giá thành theo định mức.
1-/ Phương pháp tính giá thành giản đơn: (phương pháp trực tiếp).
áp dụng trong trường hợp đối tượng tính giá thành phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo.
Giá thành sản phẩm được tính theo công thức sau:
Z = C + DĐK - DCK
Z : tổng giá thành sản phẩm xây lắp.
C : tổng chi phí sản xuất đã tập hợp theo đối tượng.
DĐK, DCK : giá sản phẩm dở dang đầu kỳ, cuối kỳ (nếu sản phẩm dở dang cuối kỳ không có hoặc quá ít và ổn định thì không cần tính đến giá trị sản phẩm dở dang).
Trong trường hợp chi phí sản xuất tập hợp theo công trường hoặc cả công trình nhưng riêng giá thành thực tế phải tính riêng cho từng hạng mục công trình, kế toán có thể căn cứ vào chi phí sản xuất của cả nhóm và hệ số kinh tế kỹ thuật đã quy định cho từng hạng mục công trình để tính giá thành thực tế cho hạng mục công trình đó.
Giá thành thực tế của hạng mục công trình:
Zi = di x H
Trong đó:
H : là tỷ lệ phân bổ giá thành thực tế được tính
H = x 100
ồC : là tổng chi phí thực tế của cả công trình.
ồdi : là tổng dự toán của tất cả các hạng mục công trình i.
2-/ Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng.
áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp ký bên giao thầu hợp đồng thi công gồm nhiều công việc khác nhau mà không cần hạch toán riêng từng công việc. Toàn bộ chi phí thực tế tập hợp cho từng đơn đặt hàng từ lúc khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành đơn đặt hàng đó.
Tuy nhiên có thể tính giá thành thực tế (Ztt) từng hạng mục công trình hay khối lượng công việc để phục vụ cho công tác quản lý theo công thức sau:
Ztt = di x H
Trong đó:
H : là tỷ lệ phân bổ được tính: H =
C : là tổng chi phí tập hợp cho toàn đơn vị.
di : là giá dự toán hạng mục công trình i.
3-/ Phương pháp tính giá thành theo định mức.
Mục đích của phương pháp này là kịp thời vạch ra các chi phí sản xuất thoát ly ngoài định mức nhằm tăng cường phân tích và kiểm tra các số liệu kế toán và đơn giản hoá thủ tục tính toán.
Giá thành thực tế của sản phẩm được tính theo công thức:
= ± ±
4-/ Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ.
Phương pháp này tính giá thành theo tỷ lệ thích hợp hơn với những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình công nghệ sản xuất có thể sản xuất ra một nhóm sản phẩm cùng loại như có chủng loại phẩm cấp và quy cách khác nhau.
ở trường hợp này đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng nhóm sản phẩm, còn đối tượng tính giá thành là từng quy cách sản phẩm. Như vậy, một đối tượng tập hợp chi phí có thể bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành.
Trước hết phải xây dựng một tiêu chuẩn hợp lý để tính tỷ lệ phân bổ giá thành cho cả nhóm sản phẩm căn cứ vào chi phí sản xuất đã tập hợp thực tế và tiêu chuẩn phân bổ giá thành đã lựa chọn mà tính tỷ lệ %. Tiếp tục tính giá thành của nhóm sản phẩm cùng loại sau căn cứ vào tỷ lệ tính giá thành của nhóm để tính ra từng quy cách kích cỡ sản phẩm khác nhau. Ta có công thức sau:
t% = x 100%
Trong đó:
t% : là tỷ lệ tính giá thành theo nhóm sản phẩm.
T : là tổng tiêu chuẩn phân bổ: T1 + T2 + T3 + ....
Giá thành của mỗi quy cách sản phẩm hay nhóm được tính theo công thức sau:
Z1 = T x x 100%
Hay: Z1 = T1 x t%
z1 =
Trong đó:
Z, z : là tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm qui cách.
T1 , T2 , T3 : là tiêu chuẩn phân bổ của những sản phẩm có quy cách khác.
Q1 : là sản lượng sản phẩm hoàn thành.
Phần II
Thực trạng của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại xí nghiệp xây lắp II
I-/ Tổng quan về Xí nghiệp Xây lắp II
Xí nghiệp Xây lắp II là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Công ty xây lắp và sản xuất công nghiệp - Bộ Công nghiệp. Trụ sở văn phòng làm việc của xí nghiệp đóng tại:
- Khối 7A - thị trấn Đông Anh - Hà Nội.
- Điện thoại: 8.832353 Fax : 8.835061
Xí nghiệp Xây lắp II là một đơn vị hoạt động kinh tế độc lập có con dấu riêng, có tài khoản riêng ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Anh và được quan hệ với cấp ngân sách, xí nghiệp hoạt động với phương thức tự hạch toán, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, đảm bảo nghĩa vụ thông qua các chỉ tiêu cấp trên giao, bảo đảm đời sống cán bộ công nhân viên, sự tồn tại và phát triển của xí nghiệp.
Nội dung ngành nghề sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp Xây lắp II là nhận thầu xây dựng các công trình công nghiệp, công trình dân dụng vừa đến công trình có quy mô lớn, lắp đặt toàn bộ các công trình, sửa chữa tu bổ lại các công trình, xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng khu công nghiệp và dân cư, xây dựng các tuyến đường liên huyện và cầu cống nhỏ,...
1-/ Sự ra đời, chức năng, nhiệm vụ của Xí nghiệp Xây lắp II.
Tiền thân của Xí nghiệp Xây lắp II là công trường xây dựng C.E được thành lập theo Quyết định tháng 6/1970 của Bộ Cơ khí và luyện kim (nay là Bộ Công nghiệp). Cùng với sự phát triển của Nhà nước, công trường C.E đã lớn mạnh không ngừng cả về cơ cấu tổ chức, quy mô và phạm vi hoạt động. Công trường C.E đã tham gia xây dựng hầu khắp nhà máy, công trường có tầm cỡ ở cả hai miền Nam - Bắc.
Ngày 20/3/1993 công trường C.E đã chính thức đổi tên thành Xí nghiệp Xây lắp II theo Quyết định số 250/QĐTCNSĐT của Bộ Công nghiệp nặng.
Trong thời gian đầu thành lập, trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được tiến hành song song với nhiệm vụ thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy, xí nghiệp gặp không ít những khó khăn trong tổ chức quản lý và hoạt động kinh doanh như chưa có mô hình tổ chức quản lý từ trước. Cơ sở vật chất kỹ thuật của xí nghiệp còn rất nghèo nàn, không đồng bộ cho hoạt động sản xuất xây dựng ở quy mô lớn. Cụ thể là máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh hầu hết cũ và lạc hậu, thiếu những thiết bị máy móc chủ yếu phục vụ cho công tác xây lắp. Đội ngũ lao động chưa đủ trình độ cần thiết cho việc thực hiện mọi công tác. Vốn kinh doanh thiếu so với yêu cầu của thi công xây lắp các công trình có quy mô lớn, đặc biệt là thiếu vốn lưu động,...
Mặc dù gặp không ít những khó khăn như vậy, nhưng được sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo Bộ, ban lãnh đạo công ty, Bộ Tài chính,... cùng với sự cố gắng của Ban giám đốc và tập thể công nhân viên toàn xí nghiệp. Xí nghiệp đã tích cực trong công tác kiện toàn tổ chức bộ máy sản xuất, nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên, tìm kiếm các hợp đồng nhận thầu thi công và thiết kế các công trình xây dựng, tổ chức sắp xếp lại lao động chỗ ăn, ở làm việc cho cán bộ công nhân viên. Với sự nỗ lực của chính mình xí nghiệp đã trúng thầu nhiều công trình lớn có giá trị hàng tỷ đồng như công trình: Nhà máy cán thép VINAMILL, nhà máy cán ống VINAPIPE, nhà máy sản xuất ô tô TOYOTA, các trường học,... Dù trong thời kỳ nào, hoàn cảnh nào thì mục tiêu tiến độ và chất lượng công việc cũng được đặt lên hàng đầu.
Chính nhờ vậy mà uy tín của xí nghiệp đã được cả trong và ngoài nước thừa nhận, kể cả những khách hàng khó tính luôn đòi hỏi về thẩm mỹ, chất lượng cao như Hàn Quốc, Nhật Bản,...
Để thấy được sự phấn đấu không mệt mỏi vì mục tiêu kinh tế, kỹ thuật của xí nghiệp trong 3 năm gần đây, ta hãy xem kết quả thống kê sau:
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm
1997
1998
1999
1. Giá trị sản lượng
tỷ đồng
25,6
29,8
32,7
2. Xây lắp
tỷ đồng
23,9
27,9
30,5
3. Sản xuất công nghiệp
tỷ đồng
1,7
1,9
2,2
4. Vốn cố định
triệu đồng
500
580
630
5. Vốn lưu động
triệu đồng
182
220
300
6. Lãi
triệu đồng
37
46
54
7. Thu nhập bình quân CN
nghìn đồng
450
570
700
Bước sang năm 2000 hoà cùng với nhịp độ sôi động của công cuộc đổi mới công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Xí nghiệp Xây lắp II đã đưa ra phương hướng hoạt động cho mình để xây dựng và cải tạo mô hình tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh cho phù hợp với tình hình kinh doanh mới trong ngành xây dựng. Chúng ta tin tưởng rằng Xí nghiệp Xây lắp II sẽ từng bước đẩy lùi khó khăn để đứng vững trước thử thách của cơ chế thị trường.
2-/ Công nghệ sản xuất của Xí nghiệp Xây lắp II.
Xí nghiệp Xây lắp II hoạt động với chức năng cơ bản là xây dựng cơ bản. Do đó, quy trình hoạt động của xí nghiệp chủ yếu gắn liền với từng công trình, từng hạng mục công trình. Quy trình sản xuất của xí nghiệp diễn ra ở các địa điểm khác nhau và được vận chuyển tới nơi đặt sản phẩm. Với tính chất nghề nghiệp của ngành XDCB, thời gian tiến hành sản xuất thường kéo dài, tính chất sản xuất đơn chiếc, kết cấu phức tạp, quy mô và giá trị sản._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33991.doc