KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ Việt Nam TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ chiếm trên 50% dân số và lao động xã hội, là lực lượng to lớn, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của nước ta. Họ với tư cách là người mẹ sinh thành nuôi dưỡng cho đất nước các thế hệ công dân tiếp nối thực hiện sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Ngoài ra phụ nữ Việt Nam còn tham gia tích cực vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nêu trong bài phát biểu

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1536 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ Việt Nam TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII: "Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước cũng như trong cuộc đời thường. Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tính nhân ái, đức hy sinh, trí thông minh. Tám chữ vàng "Anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta trao tặng phụ nữ nước ta chính là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó" [93, 90-91]. Trong quá trình xây dựng CNXH, nhất là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN hiện nay việc xây dựng đạo đức lành mạnh của xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều đó đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung và của người phụ nữ Việt Nam nói riêng, tạo điều kiện cho việc xây dựng chuẩn mực đạo đức mới phù hợp yêu cầu phát triển của xã hội. Đồng thời đó cũng là một nội dung quan trọng trong việc góp phần "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Trong những năm đổi mới vừa qua vai trò của phụ nữ càng được khẳng định trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song, do tác động của cơ chế thị trường, những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam bị giảm sút, bị xói mòn. Không ít chị em chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, thiếu tính nhân ái, sự thủy chung. Vì vậy, việc làm rõ vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện nay vừa cần thiết vừa cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước và của Kiên Giang nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài về truyền thống phụ nữ đã được đề cập đến dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau như: Một số bài đăng trên các tạp chí: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Khoa học về phụ nữ. Một số tài liệu viết về truyền thống phụ nữ của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam biên soạn và truyền thống phụ nữ của một số tỉnh như: Truyền thống của phụ nữ tỉnh Kiên Giang qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ... Một số sách như: "Phụ nữ miền Nam" của Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ biên soạn; "Mười năm tiến bộ của phụ nữ Việt Nam" (1985-1995) của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ biên soạn (Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1997); "Phát huy tiềm năng kinh doanh của phụ nữ Việt Nam" do GS Lê Thi chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); "Vấn đề phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp" (Luận án PTS của Đặng Thị Linh, 1996). Tuy nhiên, vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay cần có những công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống hơn nữa. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài a) Mục đích của đề tài Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ (qua thực tế Kiên Giang), đề xuất một số giải pháp có tính định hướng nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống ở người phụ nữ Kiên Giang hiện nay. b) Nhiệm vụ của đề tài Để thực hiện mục đích trên luận văn phải thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm rõ các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam và tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu của việc phát huy chúng trong tình hình hiện nay. - Phân tích thực trạng của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống ở phụ nữ Kiên Giang; phân tích những nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó rút ra những vấn đề cần giải quyết để thực hiện kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống ở phụ nữ. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống ở phụ nữ Kiên Giang. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài a) Đối tượng - Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ trong đề tài này muốn đề cập đến mặt tích cực. - Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ trong luận văn này được hiểu là giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nhưng được biểu hiện đặc thù ở phụ nữ, do đó nó trở thành truyền thống của phụ nữ. b) Phạm vi Đề tài này nghiên cứu chủ yếu là thực tế Kiên Giang, đồng thời có nghiên cứu tài liệu của những công trình nghiên cứu khác. 5. Đóng góp của đề tài - Khái quát nêu lên những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam cần được kế thừa và phát huy. - Đề xuất những và giải pháp có tính định hướng để kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong việc xây dựng người phụ nữ mới ở Kiên Giang ngày nay. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, Nhà nước về con người, đạo đức nhất là về những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ cùng việc kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ là cơ sở lý luận trực tiếp của luận văn này. - Luận văn sử dụng những phương pháp: lôgíc và lịch sử, trừu trượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp; trong đó những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về kế thừa, phát huy đạo đức là tư tưởng quán xuyến toàn bộ luận văn này. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp điều tra xã hội học, những số liệu của Đảng và Nhà nước đã được công bố. 7. ý nghĩa của luận văn - Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cấp ủy đảng, chính quyền địa phương của tỉnh Kiên Giang trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát huy đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ địa phương. - Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập về đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 4 tiết. Chương 1 những Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam và yêu cầu kế thừa, phát huy chúng trong giai đoạn hiện nay 1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc của phụ nữ Việt Nam 1.1.1. Truyền thống đạo đức dân tộc Trong truyền thống của dân tộc có những truyền thống tốt và những truyền thống không tốt. Những truyền thống tốt phù hợp với sự phát triển của lịch sử dân tộc được gọi là những giá trị truyền thống. Trong đó những giá trị đạo đức truyền thống (GTĐĐTT) đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Giá trị có thể được hiểu là: "Những thành tựu của con người góp vào sự phát triển đi lên của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người xã hội. Giá trị vì thế được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm qua thực tiễn" [25, 16]. Giá trị đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cái con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở đánh giá thái độ, hành vi đúng, sai, nên có và không nên có của con người. Giá trị là cơ sở của các chuẩn mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người. Cách thức và hành động xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị - Người ta dựa vào giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp nhất. Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến được coi như phương tiện cơ bản để tạo nên sự liên kết, hợp tác mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng. Bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng được tổ chức trên cơ sở những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định. Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau người ta thường phân loại giá trị theo cách khác nhau. ở cấp độ chung nhất, người ta phân biệt: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần được chia thành các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức (GTĐĐ), giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị. Trong đó GTĐĐ gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Có thể nói: "Giá trị đạo đức là những thái độ và hành vi được con người lựa chọn, được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương. GTĐĐ vì thế có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội" [25, 51]. Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình do lịch sử để lại. Truyền thống là điều kiện để duy trì và phát triển cuộc sống. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử của mỗi dân tộc. Từng dân tộc khác nhau có truyền thống khác nhau, cùng một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải khác nhau. Nói đến GTĐĐTT của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo tồn cho đến thời điểm hiện đại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. GTĐĐTT là bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các GTĐĐ chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi của nó. Khi bàn về giá trị truyền thống giáo sư Trần Văn Giàu định nghĩa: "Giá trị truyền thống của một dân tộc là những nguyên lý đạo đức lớn (người trích nhấn mạnh) mà con người trong nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái để nhận định nên chăng nhằm xây dựng độc lập, tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Cũng là những nguyên lý đạo đức sâu xa của mỗi người trong nước khiến họ tự nhiên phản ứng đúng với lẽ phải; đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc khi phải đụng chạm đến một sự cố nào đấy" [14, 61]. Và ông cho rằng, GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa [14, 108]. Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng: Trong những truyền thống quý báu của dân tộc, nổi bật nhất là truyền thống đạo đức (Người trích nhấn mạnh) và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [14, 74-86]. Theo Giáo sư Nguyễn Hồng Phong thì tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của GTĐĐTT bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan [62]. Kết quả nghiên cứu của chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước: con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội (KX. 07) cũng đã khẳng định: cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người [58, 32-34]. Những GTĐĐ tinh thần truyền thống dân tộc được nói đến khá nhiều trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về: "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay" ghi rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động" [57, 19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống" [92, 56]. Qua các tư liệu nêu trên có thể rút ra một số nhận xét: - Trong hệ thống giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, GTĐĐ chiếm vị trí ưu trội so với các giá trị truyền thống dân tộc ta nói chung. Dù có những kết luận khác nhau nhưng trong các GTĐĐTT, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là giá trị cốt lõi, giá định hướng các giá trị khác. - Một số phẩm chất đạo đức phổ biến của con người Việt Nam như: đức tính cần cù, thông minh sáng tạo, lòng nhân ái, tinh thần lạc quan, ý thức cộng đồng sâu sắc... đã được đề cập và coi đó là những GTĐĐTT quý báu của dân tộc ta. Dựa vào cách tiếp cận giá trị, GTĐĐ và quan điểm của Đảng ta cũng như các nhà khoa học có thể khẳng định các GTĐĐTT cơ bản của dân tộc ta bao gồm: . Chủ nghĩa yêu nước. . Lòng nhân ái. . Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng sâu sắc. . Cần cù và tiết kiệm. . Tính khiêm tốn, trung thực, giản dị, lạc quan, thủy chung. Trong những giá trị truyền thống ấy, chủ nghĩa yêu nước là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống GTĐĐ của dân tộc ta" [25, 74]. Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xưa đến nay. Truyền thống yêu nước được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc và thể hiện nổi bật trong đấu tranh giữ nước chống giặc ngoại xâm. Chính lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước" [46, 171]. Chủ nghĩa yêu nước là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại". Hình thành sớm, được thử thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, được bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại, chủ nghĩa yêu nước là một trong những giá trị cao quý bền vững nhất của dân tộc ta. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với lòng thương yêu và quý trọng con người, nhất là người lao động. Lòng thương người của ông cha ta có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt công xã, nông thôn, chế độ ruộng công, làng cùng họ từ đời cộng đồng nguyên thủy và được củng cố, phát triển qua quá trình chung lưng khai phá giang sơn, giữ gìn đất nước. Lòng thương người là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta. Nó gắn liền với tinh thần chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm cứu dân, cứu nước, chống lại mọi bất công, chà đạp lên cuộc sống con người. Nó thấm nhuần tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa người và người trong sản xuất, chiến đấu, trong sinh hoạt thường ngày và lòng yêu chuộng hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, lạc quan tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đúng như Đại hội lần thứ V Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, "thương nước - thương nhà, thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta" [89]. Truyền thống thương người của dân tộc Việt Nam được kết tinh cao đẹp trong con người, cuộc đời và đạo đức Hồ Chí Minh. Người là biểu tượng sáng chói về lòng nhân ái cho dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới noi theo. Vì thương nước, thương dân, thương mình mà Bác đi tìm đường cứu nước, trải qua bao gian truân thử thách, vào tù ra tội cũng vì yêu thương con người. Bác nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [44, 161]. Từ ngày có Đảng đến nay, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lòng yêu nước, thương người là cơ sở sâu xa và bền vững của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết là một xu thế chủ đạo hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nhờ đoàn kết cha ông ta tạo nên sức mạnh của cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa là nhân vừa là quả của nhau, kết thành một khối thống nhất bền vững, nó cũng là một trong những chuẩn mực đạo lý của người Việt Nam. ý thức cộng đồng, tinh thần dân tộc của nhân dân ta là một điểm tựa tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta. Bác Hồ đã khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" [47, 350]. Trước lúc đi xa Người còn khẳng định: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta" và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên"... cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [49, 510]. Cần cù và tiết kiệm là một GTĐĐTT có từ bao đời của nhân dân ta. Nó là một nhân tố cơ bản vừa là điều kiện đảm bảo nhu cầu sống của con người, vừa là sự thể hiện ý thức trách nhiệm của người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của mình, tất cả những thành quả vật chất và tinh thần mà cha ông ta để lại cho đến ngày nay đều gắn liền với truyền thống cần kiệm đó. Ngoài những giá trị đã nêu trên còn những đức tính phổ biến hợp thành hệ thống GTĐĐ dân tộc: khiêm tốn, giản dị, trung thực, lạc quan và chung thủy. Người Việt Nam khiêm tốn nhưng không hạ thấp mình; giản dị nên ghét thói xa hoa, cầu kỳ; trung thực nên ghét người "đâm bị thóc, thọc bị gạo", ăn nói hai lời; lạc quan nên không chùn bước trước mọi khó khăn thử thách của lịch sử; thủy chung nên ghét kẻ "lá mặt, lá trái", "xa mặt cách lòng". Khiêm tốn, giản dị, trung thực, lạc quan và thủy chung là những phẩm chất đạo đức cần phải có, là một trong những GTĐĐ của dân tộc và con người Việt Nam, một trong những định hướng giá trị thuộc về lối sống nếu ai làm trái sẽ bị xã hội lên án và phê phán. Thật vậy, Bác Hồ của chúng ta đã dẫn lời của Dơ pu Puốc vin trong "Đây công lý" của thực dân Pháp ở Đông Dương như sau: "Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, thờ kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, thương yêu giống nòi, tôn trọng lẽ phải, ghét xa hoa, không ham tiền tài, khinh vũ lực, không sợ gian khổ hy sinh... đó là đặc điểm về bản tính của người Việt Nam được hình thành từ bao thế hệ, những thế hệ luôn cố gắng thực hiện đạo đức ấy một cách thành kính. Người Việt Nam bình thường mà ta gặp ở bất kỳ ở đâu cũng đều như vậy cả" [29, 265]. 1.1.2. Những nhân tố quy định đặc điểm đạo đức của người phụ nữ Việt Nam Đạo đức phụ nữ Việt Nam không tách rời những GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam. Nhưng đạo đức truyền thống của dân tộc được biểu hiện đặc thù ở người phụ nữ; điều đó được cắt nghĩa bởi toàn bộ điều kiện sinh hoạt xã hội của họ. * Vai trò của phụ nữ trong sản xuất Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; trong đó phụ nữ đóng vai trò to lớn. Thuở sơ khai ban đầu, người ta cùng lao động chung: cùng sản xuất, hái lượm; nhưng săn bắt với kỹ thuật nguyên thủy không phù hợp với phụ nữ. Sự phân công lao động theo giới tính phát sinh và phát triển dần trong bày người nguyên thủy. Đó là một cơ sở để xuất hiện và tồn tại chế độ mẫu quyền. Kinh tế hái lượm do những người phụ nữ phụ trách, đảm nhiệm một nguồn thức ăn thường xuyên và quan trọng về số lượng cho các tập đoàn người nguyên thủy. Đồng thời họ còn có vai trò quan trọng trong việc phát sinh nghề đánh cá, nghề chăn nuôi, nghề gốm và nghề nông nguyên thủy. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh Việt Nam là một trong những nơi có nghề trồng lúa nước sớm nhất. Khác với hái lượm, nền nông nghiệp nguyên thủy là một nền kinh tế sản xuất, cung cấp nguồn thức ăn thường xuyên và ổn định cho con người. Dưới con mắt và bàn tay chăm sóc, đảm nhiệm của người phụ nữ nguyên thủy nông nghiệp dần dần phát triển. Và trong khi nâng cao toàn bộ nền kinh tế nguyên thủy, văn hóa nguyên thủy, con người nguyên thủy, nó cũng nâng cao vai trò, địa vị của người phụ nữ lên. ở thời đại đá mới, cùng với sự xuất hiện và phát triển nông nghiệp, chế độ mẫu quyền đi tới giai đoạn phát triển cực thịnh. Trong thời đại phong kiến vai trò của người phụ nữ Việt Nam càng quan trọng hơn trong nền kinh tế nông nghiệp. Trồng lúa nước là một hoạt động sản xuất bao gồm nhiều lao động liên hoàn, phức tạp, đòi hỏi nhiều nhân công, nhân lực, trong đó có những công việc đòi hỏi sự mềm mại, dẻo dai cần cù, tỉ mỉ đặc biệt. Thể chất và thiên tính của người phụ nữ có thể đáp ứng với những khâu lao động nông nghiệp trồng lúa đó. Những hoạt động sản xuất và trồng trọt, từ việc vỡ đất đến việc đặt cây, gieo, tỉa, chăm sóc và thu hoạch cũng có thể thích hợp với những bản năng về mặt lao động của phụ nữ. Thêm vào đó, đất nước luôn luôn bị giặc ngoại xâm, phần lớn đàn ông đi đánh giặc bỏ ruộng đất, cày bừa lại cho phụ nữ. Sức lao động tập trung vào các công trình quốc phòng và dân dụng, hoặc vào các công trình xa xỉ của bọn thống trị liên tục trong bốn nghìn năm cũ, đều khiến cho xã hội nông thôn mất đi một nguồn nhân công nông nghiệp lớn của nam giới. Ngoài ra, cũng phải kể đến hiện tượng, từ thế kỷ XI trở đi, xuất hiện ngày càng đông đảo những học trò, nho sĩ, quan lại nói chung có tư tưởng coi khinh việc chân lấm tay bùn. Trong hoàn cảnh rất đông những người thân thuộc trở nên xa rời sản xuất như thế, tất nhiên, người phụ nữ phải đảm đang gánh vác công việc sản xuất. Như thế là trong điều kiện của lịch sử hàng nghìn năm cũ, ngoài nhu cầu lớn về nhân công mà bản thân việc trồng lúa nước yêu cầu, còn có những nguyên nhân xã hội đòi hỏi người phụ nữ phải tích cực tham gia vào những khâu quan trọng, chủ yếu của nền sản xuất nông nghiệp. Sẵn có truyền thống cần cù, đảm đang sáng tạo trong sản xuất thời nguyên thủy - một truyền thống không đứt đoạn, do đặc điểm kéo dài thời gian quá độ từ chế độ mẫu quyền sang xã hội phụ quyền ở buổi đầu lịch sử có giai cấp - người phụ nữ Việt Nam trong thời đại các xã hội có giai cấp cũ đã kế thừa và phát huy truyền thống của mình, để liên tục đảm đang việc sản xuất nông nghiệp trong những điều kiện và hoàn cảnh mới, trên những nhu cầu và đòi hỏi mới của lịch sử. Sự tham gia tích cực của người phụ nữ vào nền kinh tế nông nghiệp cũng đồng thời biểu lộ và chứng minh những phẩm chất tinh thần của họ. Sẵn sàng gánh vác công việc chung, sẵn sàng vì mọi người mà làm việc, đây là điểm nhận thấy đầu tiên trong đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, vì họ tham gia tích cực vào lao động sản xuất trong các xã hội cũ. Chính vì tinh thần làm chủ và ý thức cộng đồng như thế, mà các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa đã biểu lộ một tinh thần dũng cảm tuyệt vời trong khi đảm nhiệm những công việc lao động sản xuất của mình. Dũng cảm trong ý thức quyết vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp, hoàn cảnh chật hẹp, mà lễ giáo xã hội có giai cấp trước đây đã quy định cho chức phận chủ yếu của họ. Dũng cảm ở chỗ năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác, đương đầu với nắng mưa, sương giá, nóng nực, bùn lầy, biến khó khăn vất vả thành niềm vui. Bên cạnh tinh thần dũng cảm đó là tinh thần cần cù nhẫn nại được hình thành từ trong những điều kiện sản xuất khó nhọc. Chính nhờ tinh thần cần cù nhẫn nại đó mà người phụ nữ có vai trò quan trọng đặc biệt trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Như vậy, qua việc thực hiện vai trò quan trọng của người phụ nữ Việt Nam trong nền sản xuất nông nghiệp theo chiều dài lịch sử, hình thành ở họ những đức tính truyền thống quý báu: Dũng cảm, đảm đang, sáng tạo và cần cù nhẫn nại. * Vai trò của phụ nữ trong việc gánh vác công việc gia đình. Ngoài vai trò quan trọng của phụ nữ trong sản xuất, phụ nữ còn có vai trò thiêng liêng không thể thiếu được đó là vai trò gánh vác công việc gia đình. Bất luận trước khi có sự phân công giữa nam giới và nữ giới về mặt kinh tế, trước khi có sự phân công lao động theo giới tính thì đã có sự phân công giữa nam giới và nữ giới về mặt sinh con đẻ cái, điều mà Mác và Ăngghen đã gọi là "sự phân công đầu tiên". "Sự phân công đầu tiên là sự phân công giữa đàn ông và đàn bà trong việc sinh con đẻ cái" [38, 94]. Chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái là chức năng mà người phụ nữ đã đảm nhiệm trong những điều kiện sinh tồn hết sức gay go, căng thẳng của người nguyên thủy. Họ vẫn phải thường xuyên lao động sản xuất, đảm nhiệm chức năng kinh tế ở những lĩnh vực quan trọng nhất, đồng thời gánh vác cả chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Người phụ nữ nguyên thủy đã làm nhiệm vụ sinh đẻ và nuôi dạy con cái, trong điều kiện của xã hội nguyên thủy, với một tinh thần tận tụy khôn cùng và lòng yêu thương vô hạn, chăm sóc trẻ nhỏ là nhiệm vụ của tập thể phụ nữ trong xã hội nguyên thủy. Cùng với việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái, phụ nữ nguyên thủy cũng cáng đáng luôn cả những công việc trong nhà. Trước hết là sửa sang nơi ăn chốn ở, chế biến, phân chia và dự trữ thức ăn. Công việc trong nhà mà người phụ nữ nguyên thủy phải chăm lo, còn gồm nhiều hình thức lao động sản xuất, gộp lại thành một ngành kinh tế riêng, gọi là kinh tế gia đình. Đó là các nghề đan lát tre mây, chế biến vỏ cây và đồ da, khâu vá may mặc, chế tạo đồ gốm và về sau này kéo sợi, dệt vải... Những nghề sản xuất trong nhà này có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nguyên thủy. Nó cung cấp những nhu cầu vật dụng quan trọng cho xã hội nguyên thủy, và làm cho đời sống con người nguyên thủy thêm phong phú, nền văn minh đầu tiên của loài người dần dần tiến bộ. Chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái cùng những công việc trong nhà của người phụ nữ nguyên thủy rõ ràng là mang tính chất xã hội. Nó là một trong những cơ sở quan trọng để nâng cao vai trò và địa vị của người phụ nữ trong xã hội mẫu quyền. Trong xã hội phong kiến, các gia đình Việt Nam xưa, thời gian từ tấm bé đến khi trưởng thành người phụ nữ phải thực hiện những nghĩa vụ và trách nhiệm của con người. ở đây có những nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cha mẹ - và họ hàng thân thuộc. Ngay từ thời gian rất sớm, đứa con gái đã được giao phó những công việc theo hướng chức nghiệp chủ yếu của cả một đời người phụ nữ "gái thì giữ việc trong nhà": lên năm, lên bảy - quét nhà, rửa bát; lên bảy lên tám - đun nước, trông em; lên chín lên mười - nấu cơm, thổi cám... Lớn lên chút nữa, các cô gái nhỏ bắt đầu được giao phó những công việc quan trọng hơn. Ngoài việc tập tành quán xuyến tất cả mọi việc trong nhà, còn phải tham gia sản xuất: hoặc làm ruộng, hoặc làm một nghề thủ công, chủ yếu là nghề dệt, hoặc là buôn bán nhỏ. Đây là thời kỳ cô gái dốc sức "làm giàu cho cha" và sửa soạn "làm dâu nhà người". Rời nhà cha mẹ để về ở nhà chồng, thời gian này người phụ nữ phải vừa tiếp tục làm nghĩa vụ và trách nhiệm của người con trong gia đình mới, vừa nhận thêm nghĩa vụ và trách nhiệm của người vợ. Vì vậy, người phụ nữ phải có rất nhiều nghị lực và khả năng mới làm tròn được nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề. Người phụ nữ phải quán xuyến toàn bộ công việc trong nhà của gia đình chồng, vừa tham gia sản xuất vừa phải kín đáo chăm sóc và phục vụ người chồng của mình. Khi đã sinh con đẻ cái ra "ở riêng", người phụ nữ có một gia đình của mình. Từ đây, cho đến lúc về già, nhắm mắt, người phụ nữ chủ yếu làm nghĩa vụ và trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Vai trò của người phụ nữ bấy giờ chính thức là vai trò của một người "nội tướng". Ngoài việc cùng với chồng lao động sản xuất để bảo đảm kinh kế cho gia đình, người phụ nữ còn phải quán xuyến hầu hết công việc trong nhà mình: cơm nước, chợ búa, tiền nong, củi lửa, dầu đèn, quần áo, gà lợn, vườn tược... Là mẹ của một đàn con, việc sinh đẻ, nuôi dạy, gây dựng cho con cái tới khi trưởng thành là việc mà người phụ nữ xưa độc lực đảm nhiệm. Nên dân gian có câu "con hư tại mẹ cháu hư tại bà". Là một người vợ, gắn bó chữ tình với chữ nghĩa, người phụ nữ xưa, ngoài nghĩa vụ đối với bản thân người chồng, còn gánh vác luôn cả phần nghĩa vụ của người chồng đối với gia đình và xã hội. "Lấy gì đóng góp cho chồng Lấy gì giỗ chạp thổ công, ông bà Lấy gì nuôi mẹ nuôi cha Lấy gì thu xếp việc nhà chàng ơi Lấy gì cho ngựa cho voi Lấy gì đóng góp như đôi láng giềng". Đây là nỗi lo toan quán xuyến trong suốt đời làm vợ của người phụ nữ xưa. Nghĩa vụ và trách nhiệm làm con, làm vợ, làm mẹ qua suốt một đời người phụ nữ trong gia đình xưa, thật nặng nề, người phụ nữ giữ một vai trò rõ ràng là trung tâm, là linh hồn chủ đạo của các gia đình. Nguyên nhân đưa đến thực tế đó là do những mầm mống tốt đẹp gây dựng được từ thuở nguyên sơ, khi những người phụ nữ đảm đang quán xuyến những "việc trong nhà" ở xã hội thị tộc, vẫn tiếp nối sang thời đại các xã hội có giai cấp. Mặt khác, ở các xã hội này, như đã thấy, sự vắng nhà của người đàn ông đi chiến đấu, đi làm công việc xã hội v.v... là hiện tượng thường xuyên. Trong hoàn cảnh đặc biệt nhưng lại phổ biến của lịch sử ấy, nếu không muốn quỵ xuống vì yếu đuối, bất lực, thì phải mạnh mẽ vươn lên. Chính vì đã chọn lấy con đường thứ hai mà các thế hệ phụ nữ xưa, sẵn cái nền móng thuận lợi từ thuở ban đầu, đã đứng ra gánh vác lấy gia đình của mình. Trong khi làm nhiệm vụ đó, họ đã kế thừa và làm nảy sinh, phát triển những đức tính truyền thống tốt đẹp. Đức tính quí báu đầu tiên, quán xuyến trong suốt các thế kỷ gánh vác gia đình của người phụ nữ xưa là tinh thần đảm đang tuyệt với của họ. Đảm đang trước hết bởi khối lượng công việc rất lớn và vô cùng phức tạp mà người phụ nữ xưa phải tự lo toan, định liệu. Đảm đang còn bởi cái khối lượng "công việc trong nhà" bề bộn phức tạp đó lại đã được người phụ nữ Việt Nam xưa gánh vác trong hoàn cảnh rất khó khăn. Trong tình hình nghèo khó chung của các xã hội có giai cấp cũ, "cái khó bó cái khôn", người phụ nữ đã phải rất tích cực "giật gấu vá vai" để đảm nhiệm chức năng "nội tướng" của mình. Có nguồn gốc từ một nền kinh tế hái lượm xa xưa, sự "tần tảo" rất nhanh chóng trở thành quen thuộc đối với người phụ nữ Việt Nam. Tần tả._.o là đức tính đi kèm với tinh thần đảm đang của các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa, chịu thương chịu khó, sớm tối lam làm, suốt đời cần kiệm để gánh vác gia đình. Để có thể đảm đang một khối lượng công việc lớn và phức tạp, người phụ nữ xưa còn rất khéo léo và thông minh, có đầu óc thực tiễn, biết tính toán căn cơ, khéo chân khéo tay. Trong suốt các thế kỷ của các xã hội có giai cấp ngày xưa, các thế hệ phụ nữ Việt Nam còn biểu lộ rất rõ đức tính trung hậu cao quý. Người phụ nữ Việt Nam là những người vốn sẵn có những tình cảm trong sáng và thắm thiết: Đó là lòng trung thành trọn vẹn, thủy chung như nhất. "Yêu anh cốt rũ xương mòn Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh Đặc biệt là tinh thần quên mình vì những người thân yêu. "Có con phải khổ vì con Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng". Trong khi nêu tấm gương sáng về lòng vị tha, tinh thần hy sinh như thế người phụ nữ Việt Nam xưa cũng biểu lộ những đức tính khiêm tốn, giản dị. Người phụ nữ có mặt ở khắp mọi nơi, mọi việc trong gia đình, nhưng về mặt quyền lợi lại dường như vắng mặt, không tồn tại trong gia đình, không bao giờ đòi hỏi cho mình điều gì. Tính khiêm nhường, lòng vị tha, đức hy sinh và lòng yêu thương rộng lớn của người phụ nữ xưa có một vị trí rất đặc biệt giữa chồng con họ. Người chồng gọi vợ là "nội tướng". Người ngoài khẳng định "lệnh ông không bằng cồng bà". Và dân tộc thì trong khi xây dựng hình tượng anh hùng đầu tiên của mình về Thánh Gióng, cũng kèm ngay hình tượng của bà mẹ Gióng; bà mẹ biết bao tháng ngày mang nặng đẻ đau, chịu đựng biết bao khổ nhọc, cho đến lúc tự tay mình mở đường cho con đi cứu nước. Chịu đựng biết bao vất vả, khó nhọc, gian truân, để thực hiện vai trò, nhiệm vụ thiêng liêng của người phụ nữ trong gia đình qua các thời đại, đã hình thành ở người phụ nữ Việt Nam xưa những đức tính truyền thống cao đẹp: Trung hậu, đảm đang, tần tảo, khiêm tốn, giản dị, giàu lòng vị tha, đức hy sinh. * Vai trò đảm nhiệm công việc xã hội: Ngoài vai trò lao động sản xuất, gánh vác công việc gia đình, phụ nữ Việt Nam xưa còn có vai trò đảm nhiệm công việc xã hội. Địa vị xã hội của người phụ nữ ở thời đại chế độ mẫu quyền thể hiện ở địa vị của họ trong các gia tộc và thị tộc mẫu hệ - tế bào cơ bản và tổ chức phổ biến của xã hội mẫu quyền. Một người đàn bà cao tuổi nhất đứng đầu một gia tộc mẫu hệ. Người nữ tộc trưởng này điều khiển mọi việc sản xuất trong gia tộc. Và thường cũng là người giữ ngọn lửa bếp chính và trông nom việc chuẩn bị thức ăn chung cho cả gia tộc, tập trung sản phẩm lao động của mọi người trong gia tộc rồi phân chia cho họ theo nguyên tắc tập thể. Người nữ tộc trưởng còn đứng ra phân xử hoặc hòa giải các vấn đề trong gia tộc, đứng đầu các lễ nghi tôn giáo, tổ chức các hội vui... Truyền thống đảm nhiệm công việc xã hội của phụ nữ ở chế độ mẫu quyền, qua nhiều thời đại vẫn được phát huy, nhất là trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Cho nên, khi đất nước bị nạn ngoại xâm đe dọa, khi đất nước đứng lên chống bọn thống trị giành lấy quyền sống, người phụ nữ xưa đã dứt khoát biểu thị thái độ của mình: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Trong thời gian đô hộ nước ta, giặc Minh cũng đã mổ bụng đàn bà có thai, giết chết cả mẹ lẫn con, cắt tai đem nộp chủ tướng (năm 1409). Tướng giặc Trương Phụ đã bắt phụ nữ Việt Nam đưa về nước (năm 1414). Đấy là những tội ác "trời không dung đất không tha, thần và người đều căm giận" như lời dạy của Nguyễn Trãi đã viết ngày xưa. Trước tai họa trực tiếp đó, nếu không muốn cho giặc tiếp tục hoành hành, người phụ nữ xưa chỉ có con đường quyết liệt đấu tranh. Truyền thống đánh giặc của phụ nữ Việt Nam được khơi dậy từ rất sớm bởi những phụ nữ kiệt xuất hai Bà Trưng, Bà Triệu và sau này vẫn được phụ nữ trong hàng ngũ quý tộc cùng những phụ nữ bình thường từ thế hệ này qua thế hệ khác tiếp tục góp phần kế thừa làm cho truyền thống đánh giặc giữ nước quý báu đó được phát triển mạnh mẽ và liên tục. Trong truyền thống đánh giặc của người phụ nữ xưa, khí phách anh hùng cũng được biểu lộ ở tinh thần dũng cảm và ý chí bất khuất rất kiên cường trong chiến đấu. Những người vẫn bị coi là "chân yếu tay mềm" trang bị bằng những vũ khí tinh thần không gì sánh nổi là lòng yêu nước, chí anh hùng, đã trở nên mạnh mẽ để lập nên những kỳ tích làm rạng rỡ non sông. Qua hàng nghìn năm lịch sử, vai trò của phụ nữ trong sản xuất, trong gia đình và xã hội đã hun đúc nên những đức tính truyền thống cao đẹp: tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trung hậu đảm đang, anh hùng bất khuất kiên cường, tần tảo cần cù thông minh sáng tạo, nhẫn nại, khiêm tốn giản dị, giàu lòng vị tha, đức hy sinh... Những truyền thống quý báu đó là sức mạnh, là điểm tựa tinh thần để phụ nữ hiện đại vươn lên đáp ứng yêu cầu của lịch sử dân tộc. 1.1.3. Những giá trị đạo đức cơ bản của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã tạo nên biết bao truyền thống tốt đẹp, trong đó những GTĐĐ là cơ bản. Trong thư gửi phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày phụ nữ quốc tế, Bác Hồ đã viết: "Phụ nữ Việt Nam sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước" [84, 39]. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (họp phiên họp mở rộng), cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: "Lịch sử dân tộc ta từ xưa với tấm gương chói lọi của Bà Trưng, Bà Triệu, trải qua các chặng đường, luôn luôn sáng ngời hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, người sản xuất, người chiến sĩ, người vợ và người mẹ, biết bao dũng cảm và dịu hiền, biết bao vị tha và tần tảo" [10]. Tại Đại hội đại biểu phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII năm 1997, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: "Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước cũng như trong cuộc sống đời thường. Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tính nhân ái, đức hy sinh, trí thông minh, tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam. Tám chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu và nhân dân trao tặng phụ nữ nước ta chính là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó" [92, 90-91]. Dựa vào cách tiếp cận xác định GTĐĐTT ở phần đầu và cách thể hiện của các nhà lãnh đạo về đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam có thể khẳng định các GTĐĐTT cơ bản của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử lâu dài của dân tộc là: - Yêu nước - Anh hùng, bất khuất - Trung hậu, đảm đang. Trong đó yêu nước là giá trị cao nhất, phổ biến nhất trong các GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Truyền thống yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến đương đại. Truyền thống yêu nước được hình thành rất sớm từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó của phụ nữ Việt Nam càng được phát huy mạnh mẽ trong quá trình cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Yêu nước thiết tha và sẵn sàng hy sinh vì nước, các thế hệ phụ nữ Việt Nam đã đem tinh thần truyền thống ấy phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. "Phụ nữ Việt Nam đã có mặt ngay từ đầu dưới ngọn cờ đấu tranh của Đảng đã sát cánh cùng nam giới chống đế quốc phong kiến, cung cấp cho phong trào nhiều chiến sĩ cách mạng ưu tú, ghi vào lịch sử đấu tranh của nhân dân ta tấm gương chói lọi của biết bao anh hùng liệt sĩ và trải qua bao chặng đường gian khổ, đã góp phần vẻ vang vào thành công của Cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" [9]. Truyền thống nói chung, truyền thống đạo đức nói riêng của phụ nữ Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết bằng tám chữ vàng: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". * "Anh hùng, bất khuất" là những giá trị đạo đức cao cả của phụ nữ Việt Nam. Vì yêu nước nên ngay buổi đầu giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã đứng lên chống giặc ngoại xâm, biểu lộ một tinh thần dũng cảm và ý chí bất khuất rất kiên cường trong chiến đấu, như Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân... Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ cả hai miền Nam, Bắc siết chặt hàng ngũ thành một khối vững chắc, kề vai sát cánh trong nỗi thông cảm sâu sắc của những người ở tiền tuyến lớn và hậu phương lớn cùng chiến trường đánh Mỹ. ở tiền tuyến lớn, phụ nữ miền Nam đã nêu cao khí phách anh hùng bất khuất của mình qua mọi hình thức đấu tranh. Đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, binh vận... lĩnh vực nào chị em cũng tỏ rõ tinh thần anh dũng, ý chí quật cường của người phụ nữ Việt Nam làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng từ xa xưa của giới mình. Với những thử thách hết sức gay go và nặng nề, tiếp thu truyền thống của phụ nữ nghìn xưa của dân tộc, phụ nữ miền Nam còn rèn đúc thêm cho mình một bản lĩnh cao đẹp trong đấu tranh. Dám hy sinh, không chùn bước ngay trước cả cái chết, trong đấu tranh họ là những người chẳng những rất kiên cường mà còn hết sức bền bỉ dẻo dai. Sự đấu tranh kiên cường đó đã tạo nên nguồn sức mạnh vô song của lực lượng nữ cũng như của cách mạng trong tất cả các hình thái đấu tranh với quân thù. Những người phụ nữ như chị Bảy Trờ Bến Tre là người tham gia đấu tranh trực diện với kẻ thù đến 300 lần. Nhiều lần chị bị kẻ thù đánh đập tàn nhẫn, có lần gần chết. Nhưng chị vẫn khăng khăng cương quyết: "Cứ khiêng tôi đi tố cáo nó. Nếu tôi chết cũng đừng chôn tôi. Bà con có thương tôi thì cứ khiêng xác tôi đi đấu tranh đến cùng, dù rã thây cũng được!". Hay chị Nguyễn Thị Hạnh ở Long An, chỉ trong mấy năm không kể những thời gian vào tù ra tội, ngoài cuộc đấu tranh chính trị và binh vận, chị đã đánh địch đến hơn 400 trận. Tạ Thị Kiều tay không lăn vào đồn giặc vật lộn với chúng, cướp súng và cướp đồn. Kan Lịch khi tấn công thì đi trước, rút lui thì đi sau, chỉ nổ súng khi còn cách giặc 5 mét. Còn biết bao tấm gương anh dũng, bất khuất đã tô đậm thêm cho chí khí anh hùng của phụ nữ miền Nam bằng tinh thần kiên quyết và triệt để cách mạng. Tinh thần ấy xuất phát từ niềm tin vững vàng ở chính nghĩa và sức mạnh của mình, lòng tin ở sự tất thắng. "Nụ cười Võ Thị Thắng", "Đấy chính là Việt Nam đang cười", "là cái nhìn của nữ thần chiến thắng" [23]. Xuất phát từ tinh thần yêu nước, phụ nữ Việt Nam đã chiến đấu anh hùng, bất khuất để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Đấy là những GTĐĐ cao đẹp mà các thế hệ phụ nữ tiếp theo phải kế thừa trong công cuộc xây dựng và bảo đảm đất nước hiện nay. * "Trung hậu, đảm đang" là những phẩm hạnh tuyệt vời trong đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ xưa đảm đang trong sản xuất nông nghiệp, nuôi sống xã hội; đảm đang gánh vác công việc gia đình cho chồng, con đi chiến đấu... Bên cạnh đó các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa còn biểu lộ rất rõ đức tính trung hậu cao quý. Yêu nước, trung kiên với nước: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"; yêu chồng, chung thủy sắt son với chồng: "Chồng em áo rách em thương. Chồng người áo gấm xông hương mặc người". Tinh thần đó của phụ nữ Việt Nam xưa được nâng cao trong phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong công cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất đất nước, phụ nữ hai miền Nam, Bắc thể hiện rất rõ truyền thống nói trên. Phụ nữ miền Bắc đã vượt qua khó khăn gian khổ đảm đang trên mặt trận sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực khác, nhằm phục hồi nền kinh tế và phát triển văn hóa, góp phần hoàn thành thắng lợi việc hàn gắn vết thương chiến tranh, tạo cơ sở để đưa miền Bắc tiến lên CNXH. Ngoài việc đảm đang trong sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, chị em phụ nữ miền Bắc còn đảm đương công việc quản lý xã hội. Nhiều phụ nữ tiên tiến đã đảm nhiệm những cương vị phụ trách các ngành các cấp từ cơ sở đến trung ương, củng cố và tăng cường hiệu quả và tích cực ưu việt của chính quyền và bộ máy quản lý kinh tế của chế độ XHCN. Lúc ấy, phụ nữ miền Nam trong hoàn cảnh khó khăn nhất, vẫn một lòng hướng về cách mạng. Kẻ thù không sao lay chuyển nổi lòng trung thành và niềm tin tưởng vững vàng vào Đảng, vào sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Những người phụ nữ miền Nam đã giữ trọn được bản sắc dân tộc, nền phong hóa, đạo đức cổ truyền của mình và còn phát triển lên một bước rất cao. Có những người vợ trẻ tiễn chồng đi tập kết, đi chiến đấu, rồi gần như cả cuộc đời quên mình, lăn lộn trong sản xuất và chiến đấu, mong ngày chiến thắng gặp lại người yêu... Đấy là những biểu hiện chói ngời của lòng trung hậu tuyệt vời của phụ nữ miền Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chị út Tịch ở Trà Vinh, vừa đánh giặc vừa nuôi con. Người mẹ đảm đang ấy vừa đánh bốt, phá càn, địch vận, trinh sát, vừa độc lực lo liệu cửa nhà. Từ việc trồng dưa, gói bánh đến mò cua bắt cá, chăm sóc con cái, dạy chúng cách tránh máy bay, đại bác của giặc, giáo dục, chúng thương yêu đùm bọc lấy nhau, và những đứa lớn còn biết cả việc trinh sát, liên lạc cho cách mạng. Quán xuyến gia đình là việc làm của phụ nữ ta, đời này qua đời khác, và đã trở thành truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Nhưng những hành động quán xuyến toàn bộ gia đình trong những hoàn cảnh khó khăn ác liệt như thế của phụ nữ Việt Nam là điều rất đặc biệt. Và còn từ chỗ quán xuyến việc nhà, đến chỗ vươn lên thay thế nam giới gánh vác việc làng, việc nước. "Đội quân tóc dài" là biểu hiện độc đáo vai trò xung kích trong đấu tranh chính trị chống quân thù của phụ nữ miền Nam. Song song với hoạt động đấu tranh chính trị, phụ nữ miền Nam còn đảm nhiệm xuất sắc vai trò quan trọng của mình trong đấu tranh vũ trang giết giặc cứu nước, cứu nhà. Đấy là những biểu hiện tuyệt vời của tinh thần đảm đang đáng quý của người phụ nữ miền Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tinh thần đảm đang của họ trong thời kỳ mới cũng vượt lên với khí thế tấn công liên tục. Khó khăn nhiều khi tưởng như quá sức người, nhưng phụ nữ vẫn là người góp sức san bằng những khó khăn đó. Và nội dung đảm đang của người phụ nữ đã không chỉ đóng khung trong việc quán xuyến việc nhà, việc làng, mà còn mở rộng ra tới những công việc bao quát hơn, phức tạp hơn, đòi hỏi người phụ nữ phải có lòng thương yêu giai cấp, chí căm thù giặc, lòng dũng cảm, tài khéo léo, trí thông minh... Người phụ nữ miền Nam đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu đó. Khi giáp mặt với kẻ thù, trước làn bom mũi đạn, họ đảm nhiệm việc tiếp lương, tải đạn; chuyển tải thương binh về nơi an toàn. Giữa vòng vây của địch, họ lại nhận nuôi chứa, chăm sóc thương binh và mở đường cho thương binh thoát vây về đơn vị an toàn... ở hậu phương lớn, phụ nữ miền Bắc "đảm đang sản xuất và công tác", "đảm đang gia đình", đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu". Chiến tranh nổ ra, lập tức sức người, sức của phải dồn một phần lớn vào cuộc chiến đấu. Những công việc hậu phương do đó phải đảm bảo thực hiện trong điều kiện hết sức căng thẳng về nhân công, nhân lực. Phụ nữ ở khắp nơi là lực lượng chủ yếu giải quyết tình trạng nhân công, nhân lực căng thẳng đó. Hàng triệu phụ nữ đã đứng ra gánh vác việc sản xuất và công tác, và đã lập nên những kỳ tích với tinh thần đảm đang thay thế nam giới đi chiến đấu. Đây cũng là cách đánh Mỹ, cách biểu hiện tinh thần đánh giặc của họ. Phụ nữ không phải chỉ có đứng ra thay thế nam giới làm tất cả các công việc mà còn tự đảm nhiệm lấy việc quản lý và lãnh đạo của mình. Từ thực tế của phong trào phụ nữ quản lý và lãnh đạo các công việc, chỉ trong vài năm chống Mỹ, cứu nước, đã hình thành một đội ngũ cán bộ phụ nữ rất đông đảo ở các ngành các cấp. Đảm đang công việc gia đình vốn là truyền thống lâu đời của phụ nữ ta. Nhưng trong hoàn cảnh mới người phụ nữ phải chủ động đưa thanh niên trong gia đình ra mặt trận, và vừa đảm nhiệm công việc hậu phương, vừa gánh vác, xây dựng tổ chức gia đình theo yêu cầu mới đó là nét đặc sắc trong việc đảm đang thứ hai: đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con anh em đi chiến đấu. Đã có biết bao người vợ, người yêu tự tay viết đơn xin cho chồng đi nhập ngũ giết giặc. Đảm đang gia đình cho chồng con đi đánh giặc, vừa gánh vác công việc hậu phương, vừa chăm sóc những thành viên nhỏ tuổi trong gia đình, những người phụ nữ đã biểu lộ một tinh thần tự tin, một nghị lực vững vàng, một nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ của mình đối với xã hội. Và từ đó mà tình thương yêu đùm bọc, tinh thần tập thể và đoàn kết, đức tính hy sinh của người phụ nữ được nảy nở mạnh mẽ và phát huy cao độ. Có những người mẹ ở khắp nơi, những người hầu như đã coi toàn bộ cuộc đời mình là cuộc sống của chồng con: "Xưa tiễn chồng đi cứu nước rời rợi tóc xanh Giờ lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc" [37]. Rất nhiều phụ nữ đã bình tĩnh trầm lặng hiến dâng cho tổ quốc những người thân yêu nhất của mình trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Bình tĩnh trầm lặng, họ đã đương đầu với tất cả những khó khăn to lớn nhất, đảm nhận trọn vẹn công việc gia đình, góp phần vào công việc cách mạng của dân tộc. ở đây những người vợ Việt Nam là những người thủy chung trọn vẹn với chồng. Những người mẹ Việt Nam hy sinh trọn vẹn cho con cái. Những người con gái, con dâu Việt Nam thảo hiền đối với bậc trên và rèn luyện đức tính của người mẹ đối với lớp tuổi dưới, cũng như chờ dịp thể hiện những đức tính của người vợ đối với người yêu, người chồng tương lai của mình... Đấy là những người phụ nữ Việt Nam trung hậu. ở hậu phương lớn phụ nữ miền Bắc không những đảm đang công việc sản xuất, đảm đang gia đình đưa chồng con đi chiến đấu mà họ còn đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Tham gia vào cuộc chiến đấu bằng vũ khí với quân thù, kế thừa truyền thống sẵn có của giới mình, phụ nữ ở hậu phương lớn có mặt trên mọi mặt trận chiến đấu. Mỗi chiến công của bộ đội, bất cứ về mặt nào cũng đều có công lao đóng góp tích cực của phụ nữ. Họ đã trở thành một đạo quân đông đảo hàng triệu người làm công tác phục vụ chiến đấu. Những người phụ nữ ấy trước hết đã làm nhiệm vụ của những chiến sĩ hậu cần nhân dân, và họ còn là những chiến sĩ phòng không, là những chiến sĩ thông tin liên lạc, là những chiến sĩ giao thông vận tải, là những người động viên cổ động chiến trường và chiến đấu. Phục vụ đắc lực cho công tác phục vụ chiến đấu, chính những người phụ nữ ấy, khi tình huống xảy ra đã trở thành những chiến binh thật sự, những người bằng khẩu súng và lá cờ chỉ huy của mình, tiêu diệt kẻ địch bằng những trận chiến đấu oanh liệt. Đấy cũng còn là những người, bằng đủ tất cả những gì có thể sử dụng làm vũ khí, đã đuổi giặc lái hàng cây số, bắt gọn những đứa "con cưng của không lực và hải lực Huê Kỳ". Đấy chính là tinh thần kiên quyết chiến đấu của những nữ chiến sĩ ở hậu phương lớn. Đã biểu hiện khí phách hiên ngang, sức tiến công dũng mãnh của người phụ nữ ở khắp nơi trên miền Bắc - những người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đã góp phần đập tan những cái gọi là "uy thế" của "không lực và hải lực Huê Kỳ". Tất cả những hành động cách mạng đó nói lên tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể và đồng đội rất cao của những người phụ nữ vốn đã mang truyền thống yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, cùng với lòng thiết tha gắn bó với CNXH. Như thế "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" - những phẩm chất quý báu của phụ nữ Việt Nam đã được phụ nữ hai miền Nam - Bắc kế thừa, phát huy tuyệt vời trong thời kỳ lịch sử mới. Đặc biệt là trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. 20 năm bằng biết bao năm trước cộng lại, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được tinh hoa của truyền thống cũ, đồng thời lại nảy nở hình thành những phẩm chất mới, làm nên cái cốt cách bền vững của mình. Trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay những GTĐĐ đó càng cần được kế thừa và phát huy nâng lên tầm cao mới phù hợp với công cuộc đổi mới góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp, văn minh. 1.2. Yêu cầu kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay 1.2.1. Tính kế thừa trong sự phát triển đạo đức * Quan điểm mácxít về kế thừa Khái niệm kế thừa xuất phát từ quan niệm vận động: vận động là sự biến đổi nói chung, không phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả của nó. Sự phát triển là sự vận động theo một khuynh hướng nhất định, theo con đường đi lên, đó là khuynh hướng tất yếu của vận động. Đặc tính của phát triển là tiến lên trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn bên trong của chỉnh thể, có kế thừa, có lặp lại cái cũ trên cơ sở cao hơn và có sự xuất hiện cái mới. Phát triển là một nội dung cơ bản của vận động mà ý nghĩa của nó nhằm tạo ra sự đổi mới không ngừng. Phát triển là quá trình bộc lộ sự biến đổi về chất, nhưng không phải là sự tiêu diệt giản đơn cái cũ, mà là làm cho cái mới nảy sinh từ bản thân cái cũ. Vì vậy, phát triển tất yếu đặt ra yêu cầu kế thừa. Kế thừa là nhân tố của phát triển, là vòng khâu của sự phát triển. Kế thừa là vòng khâu tất yếu trong phát triển liên tục qua những đứt đoạn. Trên cơ sở của cái đứt đoạn, của cái phủ định, của sự hoàn thiện với tư cách là ý nghĩa, là mục đích của phát triển mà nảy sinh yêu cầu phải kế thừa để thực hiện tính liên tục của sự phát triển. Kế thừa là quá trình đấu tranh cũ - mới nhằm phát huy cái cũ tích cực trong cái mới và ngăn chặn, lọc bỏ cái cũ lạc hậu. Bản chất của kế thừa là thực hiện sự lọc bỏ, chuyển hóa cái cũ tích cực thành nhân tố của cái mới, là mắt khâu cơ bản trong quá trình biến đổi về chất. Kế thừa là quy luật của sự phát triển, của mối liên hệ tất yếu giữa cái cũ và cái mới, của tính liên tục qua những đứt đoạn. Lý luận kế thừa của chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp ta hiểu rõ hơn thực chất của sự phát triển. Mặt khác, nó còn giúp ta hiểu một cách cặn kẽ các đối tượng đặc biệt tồn tại trong giai đoạn chuyển hóa, giai đoạn trung gian, thời kỳ quá độ trong lịch sử phát triển của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thể hiện cốt cách Việt Nam một cách tốt nhất, nhưng cũng là người tiếp thu nền văn hóa nhân loại một cách tốt nhất. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là bộ phận quan trọng trong di sản lý luận của Người để lại cho Đảng và nhân dân ta. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nguyên tắc kế thừa được Người vận dụng một cách nhuần nhuyễn và trở thành nguyên tắc có tính chất chỉ đạo trong việc tiếp thu các GTĐĐTT dân tộc và nhân loại để xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng như Người thường gọi. Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Người, chúng ta rút ra được những chỉ dẫn có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong việc kế thừa và phát huy các GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Hồ Chí Minh đánh giá cao và rất chú trọng khai thác những nhân tố tích cực trong văn hóa truyền thống dân tộc. Người cho rằng văn hóa dân tộc là cơ sở để tiếp thu văn hóa thế giới. Song Người cũng thấy rõ tác hại của những truyền thống lạc hậu: "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài [45, 287]. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ kinh nghiệm cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã xác định thái độ đúng đắn của người cộng sản đối với truyền thống của dân tộc. Người khẳng định: "đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng là mới. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay thì ta phải làm" [45, 94-95]. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm kế thừa biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách xuất sắc trong quá trình kế thừa, phát triển các GTĐĐTT của dân tộc, có phê phán, chọn lọc. * Đặc thù của kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Việc làm rõ tính đặc thù của kế thừa và phát huy trong lĩnh vực đạo đức so với các lĩnh vực khác có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng để chủ động và tích cực vận dụng nguyên lý kế thừa vào sự phát triển của đạo đức xã hội, xây dựng nền đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta. Đạo đức là một hiện tượng xã hội. Vì vậy, kế thừa trong lĩnh vực đạo đức khác với kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên. Nếu kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên thực hiện một cách vô ý thức thì trong lĩnh vực xã hội các quá trình vận động và phát triển của nó luôn chịu sự tác động của con người liên kết với nhau một cách ít nhiều có ý thức để giải quyết những nhiệm vụ nhất định do thực tiễn lịch sử đòi hỏi. Như vậy tính kế thừa trong đời sống xã hội không thể hiểu ngoài hoạt động của con người. Vì vậy, kế thừa và phát huy đạo đức chịu sự chi phối của kinh tế, giai cấp, dân tộc và các hình thái ý thức xã hội khác. Tính kế thừa trong lĩnh vực đạo đức chịu sự quy định của kinh tế. Đạo đức không phải là những gì có sẵn bên ngoài và bên trên áp đặt vào xã hội mà với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức nảy sinh trên cơ sở tồn tại xã hội của con người. Đạo đức không phải là cái gì bất biến mà luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Xu hướng chung chi phối sự biến đổi theo xu hướng tiến bộ và sáng tạo ra những giá trị đạo đức mới. Có thể nói, nội dung, tính chất của kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, là sự phản ánh điều kiện kinh tế của xã hội. Nếu không thấy vai trò của kinh tế đối với kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức sẽ dẫn đến quan điểm duy tâm cho rằng sự phát triển đạo đức chẳng qua là sự tự biến của các khái niệm, ý niệm. Mặt khác, cần phải chống quan điểm duy vật tầm thường, coi sự phát triển đạo đức chỉ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mà không thấy được tính độc lập tương đối trong sự phát triển của đạo đức. Tính kế thừa trong sự phát huy đạo đức còn chịu sự chi phối của tính giai cấp và tính dân tộc khá rõ nét. Trong xã hội có giai cấp đạo đức mang nội dung giai cấp và phục vụ cho lợi ích của giai cấp. Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức còn chịu sự tác động lẫn nhau với các hình thái ý thức xã hội khác như ý thức chính trị, pháp quyền, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học... Trong đời sống xã hội, chính trị và đạo đức thường tồn tại đan xen nhau, có quan hệ chặt chẽ và bổ sung nhau. Nhiều khi các quan hệ đạo đức lẫn vào chính trị, ngược lại có những quan điểm chính trị phản ánh những quan điểm đạo đức. Còn đạo đức và pháp luật đều là tổng hợp những quy tắc, chuẩn mực, hành vi của con người phù hợp với yêu cầu của từng xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Tôn giáo và đạo đức đều hướng con người vươn tới cái thiện, tránh cái ác. Tôn giáo phản ánh khát vọng hướng thiện của quần chúng và khơi dậy lòng từ bi, bác ái của con người. Xét ở góc độ này, tôn giáo có những đóng góp nhất định đối với sự phát triển của đạo đức. Khoa học là hệ thống tri thức đúng đắn và chân thực về hiện thực khách quan, khoa học thống nhất với đạo đức ở mục đích phục vụ sự tiến bộ xã hội, mong muốn đem lại tự do và hạnh phúc cho con người. Lý tưởng của khoa học và lý tưởng của đạo đức là thống nhất. Tri thức khoa học giúp cho con người nhận thức, đánh giá, lựa chọn đúng đắn các giá trị đạo đức. Nếu đạo đức đặt ra cho nghệ thuật một nhiệm vụ quan trọng là góp phần giáo dục hoàn thiện nhân cách con người thì nghệ thuật cũng tác động sâu sắc đến đạo đức. Nghệ thuật chân chính ngợi ca những đức tính tốt đẹp của con người và phê phán cái xấu, giúp cho con người có đạo đức ngày càng hoàn chỉnh hơn. Tuy nhiên, so với các hình thái ý thức xã hội khác như tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, pháp quyền... thì kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức cũng có những nét riêng biệt cơ bản như sau: - Sự truyền bá các quan điểm đạo đức trong đời sống xã hội không đòi hỏi phải có những tổ chức chuyên biệt để thực hiện. Sự hình thành các quy tắc, chuẩn mực đạo đức từ trong cuộc sống thể hiện qua phong tục, tập quán, thói quen được con người tiếp nhận từ nhiều kênh khác nhau thông qua môi trường sống của họ. Vì vậy, trong đạo đức tính kế thừa thể hiện rõ việc lặp lại các mẫu hành vi điển hình dần dần hình thành các thói quen mang tính tự giác của con người, thể hiện yêu cầu chung của cộng đồng về hành vi của cá nhân. - Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức chịu ảnh hưởng của quan điểm giai cấp và mang tính dân tộc song tính dân tộc thường rõ nét hơn. - Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức là một quá trình diễn ra phức tạp và lâu dài. Trong sự phát triển đạo đức, kế thừa thể hiện khá rõ nét trong khi đó sự đổi mới thường khó nhận thấy hơn, đi vào đời sống xã hội chậm hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức pháp quyền. Kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức còn gắn liền với quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Vì giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên gắn liền với tiến bộ xã hội. Đó là quy luật trao đổi chất giữa các nền văn hóa với nhau. Một nền văn hóa nếu đóng cửa sẽ dẫn đến suy thoái. Giao lưu văn hóa là động lực phát triển của các nền văn hóa, trong đó có đạo đức. Vì vậy, giao lưu văn hóa là điều không thể thiếu được của quá trình kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của từng dân tộc và góp phần bồi đắp làm phong phú các giá trị đạo đức của nhân loại. Như vậy kế thừa và phát huy trong sự phát triển đạo đức chịu sự chi phối của cơ sở kinh tế, của nhân tố chủ quan (giai cấp, cá nhân...), quá trình giao lưu của các quốc gia, dân tộc; sự tác động của đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác. 1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi những giá trị đạo đức của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay * Điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập Thị trường là sản phẩm của sự phát triển kinh tế - xã hội trong lịch sử phát triển sản xuất vật chất. Thị trường (theo đúng nghĩa của nó) thực sự phát triển cùng với sự phát triển của CNTB. Từ sản xuất tự cung, tự cấp, vật trao đổi vật, sang sản xuất hàng hóa là một bước tiến của văn minh nhân loại, bước tiến của thị trường. Do mỗi nước khác nhau có trình độ kinh tế, kết cấu xã hội - giai cấp phong tục tập qu._.về chuẩn mực trong xã hội. Vì vậy, theo nhà xã hội học Pháp nổi tiếng E.D. Kheim thì tệ nạn mại dâm giống như nạn tự sát, là dấu hiện của một xã hội loạn kỷ cương. ở nước ta hiện nay, nạn mại dâm với hàng trăm nghìn gái mại dâm chuyên nghiệp. Riêng Kiên Giang từ năm 1992 đến nay hàng năm có từ 293 đến 409 gái hoạt động mại dâm chuyên nghiệp. Tệ nạn này đã trở thành mối lo ngại sâu sắc của toàn xã hội, đặc biệt trong điều kiện nạn dịch AISD đã “gõ cửa” đến Việt Nam, đòi hỏi toàn xã hội phải nghiên cứu toàn diện và đề ra những giải pháp tích cực, có tính khả thi để khắc phục tệ nạn xã hội này. Đây cũng là vấn đề phức tạp và nan giải của nhiều quốc gia. Mại dâm đã tồn tại và phát triển, với tư cách là một hiện tượng xã hội nó đã tồn tại từ khá lâu trong lịch sử nhân loại. Qua các thời kỳ lịch sử, việc đánh giá hiện tượng mại dâm có khác nhau, tùy thuộc vào các quan điểm về tôn giáo, đạo đức, các điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của mỗi nước. Có những nước cấm, có nước lại hợp pháp hóa hoặc đặt ra các biện pháp quản lý hành chính để kiểm soát tệ nạn mại dâm. Có thể chia thành hai nhóm như sau: - Các nước cấm nghề mại dâm: Iran là nước theo đạo Hồi, người ta có thể đưa gái mại dâm ra xử tử, ném đá đến chết. Một số nước ban hành bộ luật cấm mại dâm như ở Anh (1885), Đan Mạch (1901), Hoa Kỳ, Phần Lan (1907), Hà Lan (1911), Pháp (1946). - Tháng 12-1949 Liên hiệp quốc đã ban hành công ước quốc tế bài trừ nạn mại dâm. Nhiều nước trong số các nước cấm mại dâm đã thể chế hình phạt hình sự với hành vi mại dâm như luật hình sự ở bang Caliphoocnia và New York (Hoa Kỳ) quy định phát tù từ 3 tháng đến 6 tháng, hoặc phạt 500 USD cho những người phạm tội mại dâm... - Các nước theo khuynh hướng thể chế hóa về mặt quản lý nhà nước bằng luật pháp tệ nạn mại dâm gồm Thái Lan, CHLB Đức, Đan Mạch (sau năm 1960), Anh (sau 1970), Thụy Điển, Hồng Kông, Đài Loan, Cu Ba, Pháp, Nauy, Đức, Ôxtraylia... ở đây nhà nước đề ra các biện pháp bắt buộc đăng ký, đóng thuế môn bài, bắt buộc khám chữa bệnh đối với các nhà chứa và gái mại dâm hành nghề. Tất cả các hành vi mại dâm ở các nơi khác và không qua sự kiểm soát của nhà nước đều bị xử lý về hình sự. Về thực chất nhà nước công nhận đây là một nghề hợp pháp. Theo thống kê chưa đầy đủ của tổ chức y tế thế giới (OMS) và tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế Interpol, cho đến nay có trên 30 nước trên thế giới đang giải quyết vấn đề mại dâm theo hướng này. Các nhà nghiên cứu về mại dâm thường cho rằng mại dâm gắn liền với đói nghèo, thất nghiệp, thiếu nhà cửa. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu như trước đây mại dâm được thực hiện do sự ép buộc ngoài ý muốn của phụ nữ thì ngày nay trong không ít trường hợp lại có tình hình ngược lại. Trong bài báo “Mại dâm, những khía cạnh thực tế” đăng trên từ “Perextrôica” số 12-1990, Viện sĩ Igo kom đã đưa ra một số liệu đáng lưu tâm. Trong kết quả điều tra về nghề nghiệp của học sinh trung học thành phố Moskva “nghề” mại dâm được xếp bậc rất cao, hơn cả giáo sư, viện sĩ và chỉ xếp sau nghề giám đốc, nhà buôn, phóng viên thường trực nước ngoài, nhà ngoại giao. Có thể nói, mại dâm ngày nay đi liền với du lịch, với sự giàu có và với “giải phóng tình dục”. Điều đó góp phần cắt nghĩa vì sao ở áo tội hiếp dâm tăng 14,5% sau khi nhà nước ra lệnh cấm mại dâm; còn ở Đan Mạch sau khi mại dâm được pháp luật hóa, tội phạm hiếp dâm giảm 70%. ở một số nước sau khi cấm mại dâm, hiện tượng ngoại tình đã nổi lên rất nhức nhối. Từ tháng 6/1992 đến tháng 6/1993, tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu sâu về gái mại dâm và đàn ông ở hai thành phố lớn là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, cho biết, họ chia gái mại dâm thành hai loại: loại “tình dục đơn thuần” và loại “tình dục có kèm dịch vụ”. Loại “tình dục đơn thuần: gồm những người chỉ bán thân kiếm tiền mà thôi. Những gái mại dâm kèm dịch vụ họ có thể coi mình là những “người đàn bà lãng mạn”, và họ nói rằng họ thích thú những người đàn ông chứ không phải tiền bạc của những người đó. Một số nói rằng có lý do tình cảm mà làm như vậy, vấn đề không phải là ở chỗ họ nhận tiền hay không. Khách hàng của họ có thể không coi họ là gái mại dâm, và có thể muốn nghĩ về họ như là người tình hay bạn gái mà anh ta thường tặng quà... Qua đó khẳng định xã hội còn một bộ phận có nhu cầu mại dâm. Chúng ta khẳng định rằng, mại dâm là sự biểu hiện sai lệch về chuẩn mực đạo đức trong xã hội và không thể bào chữa cho hiện tượng mại dâm bằng lợi ích kinh doanh. Song, chúng ta lại không thể tạo ngay được những tiền đề cần thiết về kinh tế, văn hóa và xã hội để loại trừ hoàn toàn tệ nạn xã hội này một cách nhanh chóng, vì thế mà trong những năm qua, mặc dù việc nghiêm cấm tệ nạn mại dâm bằng luật pháp được dư luận xã hội hết sức đồng tình nhưng tệ nạn này vẫn tồn tại, thậm chí còn gia tăng với những biến tướng tràn sang cả những hoạt động dịch vụ vốn là lành mạnh và cần thiết của đời sống xã hội. Điều đó cho thấy, chống tệ nạn mại dâm là công việc phải làm một cách kiên trì. Một mặt, phải tạo việc làm và hỗ trợ vốn cho phụ nữ, nhất là những gia đình gặp khó khăn chị em rơi vào hoàn cảnh túng quẫn giúp họ không lầm đường lạc lối. Mặt khác, phải quản lý chặt chẽ, kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành vi hoạt động mại dâm trái phép, nhất là những tụ điểm trá hình như hiện nay. Từ trước đến nay các tụ điểm trá hình: nhà hàng, khách sạn... là những tụ điểm hoạt động mại dâm đáp ứng phần đông nhu cầu của các chủ doanh nghiệp và cán bộ viên chức nhà nước. Thực tế đau lòng đã chứng minh: Kiên Giang qua ba đợt đánh vào các tụ điểm lớn như nhà hàng khách sạn ái Huệ, Thượng Hải, Bồng Lai... phần lớn có liên quan đến các chủ doanh nghiệp và cán bộ công chức nhà nước. Để có được môi trường đạo đức thực sự lành mạnh trong xã hội, người phụ nữ được giải phóng toàn diện, cần phải chống các phong tục tập quán lạc hậu và xây dựng những phong tục tập quán mới phù hợp với yêu cầu đổi mới hiện nay. Phong tục tập quán là những mặt sinh hoạt ổn định của con người, được lặp đi lặp lại từ đời này sang đời khác thành những thói quen, có khi trở thành những nghi thức quy ước, thể lệ cho sinh hoạt của một cộng đồng, một tầng lớp xã hội, một địa phương hay cả một dân tộc. Những phong tục tảo hôn, trọng nam khinh nữ, mê tín dị đoan hiện nay đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, công tác, lao động sản xuất... Phong tục tập quán lạc hậu tồn tại dai dẳng do tính bảo thủ vốn có lại được những lực lượng xã hội lạc hậu tìm cách duy trì. Vì vậy, để xóa bỏ những phong tục lạc hậu nói trên chính quyền các cấp của Kiên Giang cần thực hiện tốt những việc sau, một mặt, cần kiên quyết ngăn cấm các hiện tượng đồng bóng, bói toán thầy phù thầy cúng; mặt khác, cần chú trọng việc nâng cao trình độ nhận thức về tự nhiên, xã hội cho phụ nữ để xóa đi những hiện tượng hoang đường trong họ; giáo dục pháp luật, nhất là pháp luật về hôn nhân gia đình cho phụ nữ để họ hiểu và tự giải phóng mình tránh trình trạng tảo hôn; tạo điều kiện cho phụ nữ vươn lên ngang bằng với nam giới về mọi mặt đề xóa dần tư tưởng trọng nam khinh nữ trong xã hội. Đồng thời, qua cuộc sống, lao động, công tác phải xây dựng những phong tục tập quán tiến bộ phù hợp với yêu cầu hiện nay như: Xây dựng tác phong làm việc đúng giờ, có kỷ luật, đúng quy trình công nghệ, có hoạch định kế hoạch, có thái độ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng, sống làm việc theo pháp luật... cho phụ nữ. Chỉ có xây dựng được môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình và xã hội mới có thể phát huy tốt những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay của đất nước. 2.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống Giáo dục có vai trò to lớn trong quá trình hình thành nhân cách, đạo đức con người. Giáo dục sẽ giúp con người vươn tới tương lai. Do vậy, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ không chỉ xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh là đủ mà phải còn nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cho họ. Giáo dục truyền thống là yêu cầu khách quan tất yếu của mỗi dân tộc nhằm giúp mọi người hiểu và tự hào về truyền thống của dân tộc mình, giới mình. Đó là điểm tựa tinh thần vững chắc giúp con người vượt qua mọi khó khăn thử thách, sống xứng đáng với những truyền thống đã có. Để phụ nữ Kiên Giang hiểu biết, tự hào và kế thừa, phát huy tốt truyền thống của mình trong tình hình hiện nay, việc giáo dục truyền thống cho họ là yêu cầu cấp thiết. Để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống phải: đa dạng hóa các hình thức giáo dục truyền thống để nội dung giáo dục không bị nhàm chán, phải kết hợp giáo dục truyền thống với nâng cao trình độ học vấn, đồng thời phải phát huy vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh... Thứ nhất là: đa dạng hóa các hình thức giáo dục truyền thống của phụ nữ. Việc tổ chức các ngày lễ lớn của phụ nữ 8-3 và 20-10 hàng năm không những là dịp để chị em phụ nữ ôn lại truyền thống hào hùng của mình mà còn phát huy truyền thống trong tình hình mới. Sự kết hợp giữa nội dung "ôn lại" truyền thống với các phong trào thi đua sẽ làm cho những ngày truyền thống đó có nội dung phong phú và mang tính thiết thực hơn. Các phong trào thi đua của phụ nữ như: "Phong trào phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà", "Phong trào những người con hiếu thảo", "Phong trào xóa đói giảm nghèo", "Phong trào xây dựng nếp sống gia đình văn hóa mới"... cần phải trở thành hoạt động thường xuyên bồi dưỡng và phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng đất nước, khắc phục những truyền thống và tập quán lạc hậu không chỉ ở chị em phụ nữ mà cả trong xã hội. Muốn vậy, cần làm cho các phong trào đó có sức hấp dẫn đối với chị em phụ nữ và cả xã hội bởi nội dung thiết thực và hình thức phong phú bằng những hội thi, những cuộc tham quan du lịch và những buổi sinh hoạt giao lưu văn hóa... Chẳng hạn, có thể tổ chức diễn đàn nói về công, dung, ngôn, hạnh - với chủ đề: "công, dung, ngôn, hạnh xưa và nay". Qua đó, nâng cao nhận thức, bồi dưỡng quan niệm mới về đạo đức phụ nữ: + Chữ Công ngày xưa chỉ dừng lại ở chỗ “đảm việc nhà” của phụ nữ. Chữ công ngày nay không chỉ phụ nữ “đảm việc nhà” mà còn phải “giỏi việc nước”. Để “giỏi việc nước” người phụ nữ phải có trí tuệ, nhanh nhạy, tiếp thu khoa học kỹ thuật văn hóa, có kiến thức chuyên môn tốt, có tay nghề cao... + Chữ Dung ngày xưa là vóc dáng “liễu yếu đào tơ” “mắt phượng mày ngài”, vẻ đẹp của những cô gái “khuê môn bất xuất”. Chữ Dung ngày nay là chỉ có sự kết hợp một cách hài hòa giữa nét đẹp tâm hồn và nét đẹp thể chất thì mới tạo nên một vẻ đẹp hoàn mỹ mà xã hội chấp nhận. + Chữ Ngôn ngày xưa là sự dịu dàng, nhỏ nhẹ, kính lời “trình thưa, vâng, dạ”. Chữ Dung ngày nay, vẫn dịu dàng nhưng cương quyết, thẳng thắn chân tình, có nghệ thuật ứng xử đúng tình huống, lời ít ý nhiều thuyết phục được mọi người... + Chữ Hạnh ngày xưa đặc biệt nặng chữ “trinh” và gắn với tòng. Chữ Hạnh ngày nay không dừng ở sự thủy chung, trinh tiết mà còn là lòng nhân ái đức hy sinh, tính vị tha... Cùng với những cuộc thi sắc đẹp của nữ thanh niên, nên chăng có những cuộc thi "sắc đẹp" của phụ nữ lớn tuổi, ở lứa tuổi 40 chẳng hạn. Không chỉ có những cuộc thi "Bé khỏe, bé ngoan, người mẹ hiểu biết"... nhằm giáo dục, nâng cao kiến thức nuôi dạy con theo phương pháp khoa học cho các bà mẹ. Để họ cung cấp cho xã hội những người chủ tương lai khỏe mạnh, thông minh sáng tạo có nhân cách và đạo đức tốt, mà còn có những cuộc thi trở về truyền thống như thi nấu cơm truyền thống chẳng hạn. Xưa nay, bữa cơm là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sức khỏe và sự sum họp gắn kết của mỗi gia đình Việt Nam. Qua cuộc thi nấu cơm truyền thống sẽ giúp chị em học tập kinh nghiệm nâng cao trình độ tư duy tính toán, sắp xếp, nấu nướng khéo léo tiết kiệm. Nhằm có những bữa cơm ngon miệng hợp túi tiền, hợp khẩu vị, hợp thời tiết đảm bảo sức khỏe và sự gắn bó các thành viên trong gia đình. Dù họ đi đâu ăn đâu, cao sang hay đạm bạc họ vẫn phải nhớ và muốn được ăn bữa cơm đầm ấm của gia đình. Đó cũng là một đặc điểm văn hóa đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, mà chỉ có người phụ nữ mới đủ sức thuyết phục giữ gìn, phát huy không ai thay thế được. Để tạo ra cơ hội động lực cho chị em phát huy tốt truyền thống của mình, không chỉ giáo dục truyền thống mà cần phải kết hợp với việc nâng cao trình độ hiểu biết cho họ. Thứ hai là: kết hợp giáo dục truyền thống với nâng cao trình độ hiểu biết. Nói đến trình độ hiểu biết là nói đến tri thức, sự hiểu biết về khoa học, công nghệ về chính trị, xã hội và cuộc sống. Trình độ hiểu biết là cơ sở để nâng cao trình độ dân trí nói chung bao gồm cả học vấn, kinh nghiệm, vốn sống, sự khôn ngoan, khả năng vận dụng những nội dung đó trong thực tiễn vì chất lượng cuộc sống ngày càng tăng của con người. Nâng cao trình độ hiểu biết cho phụ nữ là nâng cao tri thức và ứng dụng những tri thức về khoa học công nghệ, về chính trị, xã hội...cho phụ nữ, để họ làm tốt trách nhiệm người công dân, người lao động, người mẹ, người vợ trong gia đình và xã hội. Như vậy, người phụ nữ phát triển toàn diện, bên cạnh giáo dục đạo đức truyền thống còn phải nâng cao trình độ hiểu biết. Để tạo cơ hội cho chị em ở mọi lứa tuổi học tập, cán bộ nữ được đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ về kiến thức quản lý xã hội, trung tâm giáo dục thường xuyên và Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh cần đa dạng hóa chương trình giáo dục, đáp ứng nhu cầu học đa dạng của các đối tượng. Bên cạnh chương trình giáo dục chính quy, nên có các chương trình giáo dục tại chức và mở những lớp bồi dưỡng theo chuyên đề nâng cao. Đồng thời với việc giáo dục, nâng cao tri thức văn hóa, cần giáo dục tri thức tổng hợp, khoa học, kỹ thuật, tri thức tổ chức quản lý, tri thức nhân văn, sự hiểu biết trong quan hệ ứng xử, hiểu biết về tứ đức của người mẹ ngày nay. Nhằm nâng cao trình độ tư duy lý luận, năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực ứng xử trong quan hệ xã hội, lòng nhân ái và giới tính cho phụ nữ. Chỉ có kết hợp quá trình giáo dục truyền thống với nâng cao trình độ hiểu biết cho phụ nữ mới tạo ra cơ hội, tạo ra động lực cho chị em phát huy vai trò to lớn của mình trong việc xây dựng gia đình và hoạt động xã hội. Thứ ba là: Phát huy vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh. Giáo dục đạo đức truyền thống, nâng cao sự hiểu biết cho phụ nữ không thể tách rời Hội liên hiệp phụ nữ. Nếu tách rời Hội liên hiệp phụ nữ các hoạt động nói trên sẽ khó thực hiện. Hội liên hiệp phụ nữ là một tổ chức quần chúng rộng rãi, là nơi tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ nữ. Đồng thời là nơi xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình các phong trào vì sự tiến bộ của phụ nữ. Vì vậy, Hội liên hiệp phụ nữ có vai trò đặc biệt trong phong trào giải phóng phụ nữ. Để phát huy tốt vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, trong việc nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống cho phụ nữ, cần phải bảo đảm hai yếu tố cơ bản sau: Yếu tố khách quan: Đảng, Nhà nước các cấp chính quyền trong tỉnh phải quan tâm đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ Hội toàn diện về mọi mặt để họ có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ tốt công tác của ngành; bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động giáo dục tuyên truyền của Hội đối với phụ nữ. Yếu tố chủ quan: Chị em cán bộ Hội các cấp trong tỉnh phải nỗ lực phấn đấu vươn lên trong công tác và học tập để có đủ trình độ năng lực, kinh nghiệm hoạt động có hiệu quả công việc của ngành mình; phát huy tính năng động, sáng tạo của Hội trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình vì sự tiến bộ của phụ nữ như: + Chương trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và năng lực cho phụ nữ. + Chương trình vận động phụ nữ nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật hỗ trợ tạo việc làm tăng thu nhập. + Chương trình chăm sóc sức khỏe phụ nữ trẻ em và thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc... Thực hiện tốt các chương trình nói trên sẽ là động lực to lớn để phụ nữ vươn lên tự giải phóng mình, đảm đang việc nhà, việc nước xuất sắc hơn. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cho phụ nữ là việc làm không thể thiếu được trong việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ. Nhằm nâng cao trình độ nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn trong gia đình và xã hội của phụ nữ phù hợp với yêu cầu hiện nay. Kết luận chương 2 Những chủ trương, chính sách, giải pháp phát huy những GTĐĐTT của phụ nữ sẽ trở nên có tính khả thi, một khi dựa chắc chắn trên cơ sở nhận thức sâu sắc về thực trạng của đạo đức truyền thống và việc phát huy những GTĐĐTT đó của phụ nữ trong tình hình hiện nay. Trên cơ sở xác định rõ thực trạng và nguyên nhân của thực trạng và từ đó làm rõ những vấn đề đặt ra đối với việc kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của phụ nữ trong tình hình hiện nay là một vấn đề cần thiết, tất yếu. Sau khi chỉ ra thực trạng về việc kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của phụ nữ và nguyên nhân của thực trạng, luận văn vạch ra những vấn đề đặt ra đối với việc giải quyết vấn đề kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của phụ nữ. Một khi những vấn đề đó được giải quyết triệt để, vai trò của phụ nữ sẽ được phát huy tất yếu các GTĐĐTT của họ sẽ được phát huy. Chính trong sự nghiệp đổi mới đất nước đòi hỏi phải giải quyết những vấn đề này nhằm phát huy mạnh mẽ truyền thống đạo đức của phụ nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Kết luận Kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của dân tộc nói chung phụ nữ nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc: "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", góp phần xây dựng nhân cách con người Việt Nam phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Từ thời đại nguyên thủy cho đến thời đại xây dựng CNXH và chống Mỹ cứu nước, các thế hệ phụ nữ Việt Nam từ đời này qua đời khác nối tiếp nhau tạo nên truyền thống vô cùng quý báu: yêu nước, ý thức dân tộc, trung hậu, đảm đang, anh hùng, bất khuất, kiên cường, tần tảo, cần cù, thông minh, sáng tạo, nhẫn nại, khiêm tốn giản dị, giàu lòng vị tha, đức hy sinh... tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam. Tám chữ vàng: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ đã ban tặng phụ nữ Việt Nam là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó. Trong tình hình hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang được hình thành và phát triển ở nước ta, việc kế thừa và phát huy đạo đức truyền thống của phụ nữ càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Truyền thống của phụ nữ Việt Nam được kế thừa và phát huy rất đặc thù ở phụ nữ Kiên Giang trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tinh thần yêu nước ở phụ nữ Kiên Giang được thể hiện: anh hùng bất khuất trong chiến đấu; anh dũng kiên cường trong các hình thức đấu tranh, đấu tranh chính trị, binh vận... trung hậu, đảm đang trong: lao động, sản xuất nuôi sống gia đình, nuôi quân đánh giặc; trong việc gánh vác công việc gia đình và xã hội.... Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, phụ nữ Kiên Giang vẫn phát huy tốt truyền thống của giới mình. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa hội nhập, vấn đề kế thừa và phát huy những GTĐĐTT của phụ nữ đang gặp phải những vấn đề đặt ra gay gắt cần được giải quyết khắc phục. Để thực hiện tốt vấn đề kế thừa và phát huy những GTĐĐ của phụ nữ ở Kiên Giang cần phải thực hiện tốt đồng bộ các giải pháp. Những giải pháp quan trọng đã nêu trong luận văn có thể quy vào hai nhóm là xây dựng môi trường đạo đức làng xóm, trong gia đình, xã hội và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục truyền thống của Hội phụ nữ. Tác giả luận văn cũng kiến nghị: Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh nên kết hợp với các cơ quan nghiệp vụ, nghiên cứu lịch sử phụ nữ tỉnh nhà một cách toàn diện có hệ thống trên tất cả các lĩnh vực qua các thời kỳ nhằm tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ tương lai kế thừa nối tiếp. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn An, Truyền thống tôn trọng phụ nữ hay tập quán "trọng nam khinh nữ"? Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 1/1998. Báo cáo hoạt động Hội và phong trào phụ nữ tỉnh Kiên Giang năm 1998, 1999 và 6 tháng đầu năm 2000. Báo cáo cuộc gặp gỡ những người con hiếu thảo năm 2000 của tỉnh Kiên Giang. Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000, Tạp chí kinh tế và dự báo, 3/1996. Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn quy trình xây dựng và thực hiện, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991. Diễn văn kỷ niệm 25 năm ngày kết thúc cuộc kháng chiến cuộc kháng chống mỹ cứu nước - giải phóng toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc (Đ/c Trương Quốc Tuấn, Phó Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch ủy ban nhân tỉnh Kiên Giang đọc ngày 30/4/2000). Nguyễn Văn Du, Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục hành vi văn hóa cho con em, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 1/2000. Phạm Văn Đồng, Vai trò của phụ nữ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nxb Phụ nữ, HN, 1961. Phạm Văn Đồng, Bài nói tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam (Họp phiên mở rộng), 1984. Trần Thị Minh Đức, Tâm lý "trọng nam kinh nữ" trong xã hội hiện nay, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4/1995. Bảo Định Giang, Sống nhân nghĩa một truyền thống cực kỳ tốt đẹp cần giữ gìn và phát huy. Tạp chí Cộng sản, số 4/1992. Trần Văn Giàu, Hệ tư tưởng yêu nước Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 16 (8-1998). Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993. Lê Minh Hà, Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ và một số đề xuất trong công tác phụ nữ hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 3-1995. Trương Mỹ Hoa, Phụ nữ Việt Nam với nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguyễn Thị Hoa, Hành vi có vấn đề của trẻ vị thành niên, những ảnh hưởng của bố mẹ, Tạp chí Tâm lý học, 6/1999. Lê Như Hoa," Gia đình với giáo dục con cái", Tạp chí Khoa học về phụ nữ 2/1993. Nguyễn Thị Hòa,Vai trò của phụ nữ trong các hộ nghèo, Tạp chí Khoa học phụ về nữ, số 1/2000. Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội 1974. Vũ Thị Huệ, Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với việc giữ gìn và nâng cao những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam. Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1997. Đỗ Huy, Sự thay đổi chuẩn mực giá trị văn hóa khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, Tạp chí Triết học, số 1 (3-1995). In-na-ka-sê-giơ-va (Liên xô), Nụ cười của nữ thần chiến thắng, 1969. Vũ Khiêu (chủ biên), Đạo đức học. Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1974. Vũ Khiêu, Lao động - nguồn vô tận của mọi giá trị, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1975. Nguyễn Thế Kiệt, Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6 (12-1996). Trần Hồng Kỳ, Vấn đề xây dựng đạo đức mới, Tạp chí Thông tin lý luận, số 4/1998. Nguyễn Thị Kỳ, Phụ nữ với vấn đề xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, Luận văn chuẩn hóa thạc sĩ khoa học, chủ nghĩa cộng sản khoa học, Hà Nội, 1995. Phạm Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, tập I (chương trình KHCN cấp nhà nước, đề tài KX07-02), Hà Nội, 1994. Phạm Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, tập II (chương trình KHCN cấp nhà nước, đề tài KX07-02), Hà Nội, 1996. V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, M, 1981. V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 37, Nxb tiến bộ, M, 1977. Nghiêm Sĩ Liêm, Vai trò người phụ nữ trong quan hệ gia đình ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 3-2000. Nguyễn Ngọc Long, Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1 (2/1987). Đặng Thị Linh, Mối quan hệ giữa trình độ học vấn của người phụ nữ với vấn đề sinh đẻ và nuôi dậy con, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, số 5/1995. Đặng Thị Linh, Vấn đề phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận án phó tiến sĩ khoa học triết học, Hà Nội, 1996. Lưu Trọng Lư, Người con gái sông Gianh. Nguyễn Văn Lý, Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, Tạp chí Triết học, số 2 (4/1999). C.Mác và Ph.Ăngghen, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Tập 5. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983. Makarenkô, "Sách của các bậc cha mẹ". Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1978. Nguyễn Thị Mãi, Vài nét về vấn đề phụ nữ trong lịch sử, Tạp chí BCTT, số 5/1996 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1. Nxb sự thật, Hà Nội, 1980. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4. Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5. Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6. Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9. Nxb CTQG, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10. Nxb CTQG, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12. Nxb CTQG, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Về xây dựng con người mới, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Về đạo đức, Nxb CTQG, Hà Nội,1993. Đỗ Mười, Đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997. Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (1985-1995). Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1997. Nâng cao vai trò, tạo thế và lực cho phụ nữ phát triển, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 3/2000. Cao Huyền Nga, Bất bình đẳng giới - nguồn gốc của sự xung đột tâm lý trong quan hệ vợ chồng, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 1/2000. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCHTW khóa VII về một số nhiệm vụ văn hóa văn nghệ những năm trước mắt. Tạp chí Công tác tư tưởng văn hóa, số 2,1993 Nghị quyết 09 của Bộ chính trị về "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay", (18/2/1995). Nghiên cứu con người giáo dục, phát triển và thế kỷ 21. Kỷ yếu hội nghị kinh tế quốc tế từ 27-29/7/1994 Hà nội, Hà Nội, 1995. Nghiên cứu phụ nữ lý thuyết và phương pháp (Tuyển tập các công trình chọn lọc) Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1996. Phạm Thanh Nhiễm, Mấy suy nghĩ về mối quan hệ giữa văn hóa và nhân cách của người phụ nữ hiện nay, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4-1998. Những vấn đề về phòng chống tệ nạn mại dâm và ma túy, Bộ Lao động Thương binh xã hội, Cục phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội, 1994. Nguyễn Hồng Phong, Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb KHXH, Hà Nội, 1963. Phong trào nữ công nhân lao động và hoạt động nữ công công đoàn Việt Nam (1930-1993), Nxb Lao động, Hà Nội, 1995. Vũ Thị Phụng, Phụ nữ Việt Nam qua một số hương ước và phong tục làng xã cổ truyền, Khoa học về phụ nữ, số 1/1995. Phụ nữ miền Nam, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ, 2/1993. Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại. Nxb KHXH, Hà Nội, 1975 Phụ nữ Nam Bộ thành đồng. Xí nghiệp in Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1989. Lê Văn Quân, Lễ giáo nho gia phong kiến kìm hãm bước tiến lên của phụ nữ Việt Nam hiện nay, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 1/1997. Lê Thị Quý, Phụ nữ, giới và ma túy ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 1/2000. Bùi Thị Kim Quý, Quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ trong quá trình CNH, HĐH đất nước, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2/1996. Sổ tay công tác phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống SIDS ở xã, phường, thị trấn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội, 1998. Sổ tay công tác nữ công, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam Ban nữ công, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000. Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong xã hội ta hiện nay là việc nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ, Nguyễn Chí Mỳ. Nguyễn Thế Kiệt. Tạp chí Cộng sản, số 15 tháng 8-1998. Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999. Tài liệu nghiên cứu nghị quyết lần thứ năm BCHTW Đảng khóa VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998. Trần văn Thạch, Gia đình Việt Nam hiện nay và xu hướng vận động trong những năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Khoa học chính trị, số 3/1998. Đỗ Thị Thạch, Về đội ngũ nữ trí thức nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 5/1995. Hà Nhật Thăng, Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức - nhân văn, Nxb Giáo dục, 1998. Võ Thị Thắng, Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 5/1996. Lê Thi, Làm thế nào để người phụ nữ trở thành chủ thể của quá trình đổi mới đất nước hiện nay, Khoa học về phụ nữ, số 4/1996. Ngô Văn Thịnh, Kế thừa và đổi mới trong xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta, Luận án thạc sĩ khoa học Triết học, Hà Nội, 1993. Hoàng Bá Thịnh, Phát huy tiềm năng của phụ nữ trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 8/1999. Nguyễn Tài Thư, Suy nghĩ về một hệ giá trị tinh thần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1/1995. Nguyễn Thu Thủy, Cơ hội và thách thức đối với phụ nữ trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 3/1999. Đới Thị Minh Tình, Nền văn hóa mới với sự nghiệp xây dựng người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Luận văn chuẩn hóa trình độ thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1995. Mai Trang, Một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ, Tạp chí Tài chính, tháng 3/2000. Truyền thống phụ nữ Kiên Giang (1954-1975), Xí nghiệp in Hồ Văn Tẩu, Kiên Giang, 1997. Dương Tùng, Từ những bà mẹ anh hùng càng ngời sáng thêm gương mặt mẹ Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 12/1994. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996 Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khóa VIII. Nxb CTQG, Hà Nội, 1998. Văn kiện đại hội đại biểu phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII. Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1997. Văn kiện đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Kiên Giang lần thứ VI, Xí nghiệp in Hồ Văn Tẩu, Rạch Giá - Kiên Giang, 1997. Nguyễn Ngọc Vân, Giá trị truyền thống và giá trị hiện đại, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 11/1995. Về phụ nữ Việt Nam những năm 30, Tạp chí Xưa và nay, số 66/1999. Việt Nam - tầm nhìn đến năm 2000. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Nxb CTQG, Hà Nội, 1996. Trần Quốc Vượng, Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb Văn hóa - dân tộc, Hà Nội, 2000. Tạ Thị Xuân, Phụ nữ trí thức Việt Nam truyền thống và hiện đại, tạp chí Thông tin lý luận, số 3/1998. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2670.DOC
Tài liệu liên quan