MỞ ĐẦU
Với mục tiêu thoát khỏi nước kém phát triển trước năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nước ta đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư khổng lồ. Trước nhu cầu đó thì ngoài việc thu hút vốn đầu tư trong nước còn phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài có nhiều nguồn: nguồn đầu tư trực tiếp (FDI), nguồn vốn đầu tư hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán … Trong các nguồn vốn đầu tư
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giai đoạn 2006 – 2010 của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ngoài, nguồn ODA tuy có lãi suất thấp, thời gian vay dài nhưng đó thực chất là nguồn vốn đi vay nên nếu sử dụng không có hiệu quả thì nợ nần sẽ để lại cho thế hệ sau này. Nguồn đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán là nguồn tài chính ngắn hạn, đưa vào nhanh nhưng cũng rút đi rất nhanh điều này có thể làm bất ổn định trong thị trường vốn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn đầu tư dài hạn, nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, đóng góp vào nền kinh tế về vốn, về thu hút lao động làm việc, đóng góp vào ngân sách, chuyển giao công nghệ… Từ đó ta thấy dòng vốn FDI có một ý nghĩa quan trọng, nó không những giúp ta giải quyết được vấn đề thiếu vốn đầu tư mà còn có tác dụng nhiều mặt như: giải quyết việc làm, lao động; mở rộng các mặt hàng trên thị trường và đây là một kênh có hiệu quả để thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Trước những ý nghĩa quan trọng của dòng vốn FDI như vậy em đã quyết định nghiên cứu đề tài: Kế hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giai đoạn 2006 – 2010 của Việt Nam.
NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lý lụân và thực tiễn về kế hoạch vốn FDI.
I. Tổng qua vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.Các khái niệm.
Vốn đầu tư là các chi phí bỏ ra để làm gia tăng quy mô của vốn sản xuất.
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ giá trị các tư liệu sản xuất được hình thành từ các hoạt động đầu tư, nhằm bảo đảm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản sản xuất của quốc gia.
Kế hoạch vốn đầu tư là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển, nó xác định quy mô cơ cấu, tổng nhu cầu vốn đầu tư xã hội cần có và cân đối với các nguồn bảo đảm nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế trong thời kỳ kế hoạch.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hoặc công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quả lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Các hình thức của vốn FDI phân theo tính chất dòng vốn:
Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành.
Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp.
2. Các bộ phận vốn đầu tư nước ngoài.
Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dưới ba hình thức chủ yếu:
Doanh nghiệp hợp tác kinh doanh là hình thức doanh nghiệp mà hai hoặc nhiều bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành một pháp nhân.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài ) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh.
II. Các lợi ích của vốn FDI.
1. FDI bổ sung nguồn vốn trong nước.
Cũng như các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam đang đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên quan đến có liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư. Để giải quyết vấn đề thiếu vốn đầu tư trên bằng cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
Nhiều công trình nghiên cứu của thế giới đã chỉ ra rằng, FDI nói chung và nhất là FDI từ các công ty xuyên quốc gia có tác động: Kích thích các công ty khác tham gia đầu tư vào nước chủ nhà; Là một tác nhân để thu hút vốn viện trợ phát triển (ODA) từ các nước và các tổ chức quốc tế; Gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và do đó tăng tỷ lệ huy động vốn trong nước.
So với đầu tư gián tiếp và vay thương mại thì FDI là dòng vốn ổn định hơn lại được các nhà đầu tư cam kết lâu dài, mà vịêc trả các khoản tiền vay quốc tế cũng thuận lợi hơn đối với nước chủ nhà.
Hoạt động FDI cũng có quan hệ với thị trường vốn trong nứơc. FDI cung cấp phương tiện để kích thích thị trường vốn hoạt động, đồng thời hoạt động của các doanh nghiệp FDI thúc đẩy thương mại quốc tế, tạo ra các nguồn ngoại tệ thặng dư cho thị trường vốn trong nước; hơn nữa, nếu có chính sách đúng đắn, cho các doanh nghiệp FDI tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ tạo diều kiện cho thị trường này mở rộng nhanh chóng.
2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất và công nghệ.
FDI có thể tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng, nếu Việt Nam hình thành được chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp tạo được môi trưòng đầu tư và kinh doanh đủ sức thu hút vốn FDI, nhất là từ các công ty xuyên quốc gia.
Theo nghiên cứu của một số chuyên gia kinh tế vào năm 1995, đã đánh giá tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế trên cơ sở dữ liệu của các dòng chảy FDI từ các nước công nghiệp phát triển sang 69 nước đang phát triển trong vòng hai thập niên, đã đưa ra ba kết luận:
FDI là một phương tiện để chuyển giao công nghệ.
FDI có tác dụng làm tăng tổng mức đầu tư trong một nền kinh tế hơn là tăng từng phần.
FDI có thể tạo ra năng suất cao hơn đầu tư trong nước nếu nước chủ nhà có nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu.
FDI không chỉ góp phần cải tạo mốt số năng lực sản xuất hiện có thông qua việc thiết lập các liên doanh giữ nhà đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, chủ yếu là thuộc quốc doanh; những doanh nghiệp này vốn có công nghệ lạc hậu, sản xúât không hiệu quả; từ khi đưa vào liên doanh hầu như đã đổi mới cơ bản hoặc toàn bộ công nghệ, tạo ra năng suất cao hơn và sản phẩm có chất lượng hơn.
3. FDI với việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
Trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hàng năm bình quân khoảng 25%, thuộc vào loại cao nhất trong khu vực. Chỉ tính riêng lĩnh vực xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, nếu năm 1991 chỉ có 158 triệu USD, năm 1995 là 2.864 triệu USD và năm 2000 là 5.850 triệu USD, bằng 37 lần năm 1991. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nứơc ngoài đã góp phần quan trọng gia tăng nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu.
Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới và mở cửa, phần lớn các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực chế tạo có khuynh hướng sản xuất cho thị trường trong nước. Thời kỳ 1988-1990, chỉ có khoảng 20% dự án được phê chuẩn có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu trên 50%; Thời kỳ 1991-1997, tỷ lệ này tăng dần và sau năm 1997 đã đạt đến trên 70% dự án FDI có sản phẩm xuất khẩu từ 50% trở lên.
4. FDI với việc làm và nguồn nhân lực.
Việt Nam đã có trên 45 vạn người lao động có việc làm trực tiếp trong các doanh nghiệp FDI với mức thu nhập trung bình cao hơn 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng nghành nghề. Đó là chưa kể hàng triệu việc làm được tạo ra trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, dịch vụ cung ứng hàng hoá, phân phối sản phẩm, tiếp thị … Vấn đề có liên quan đến việc làm là tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong quá trình công nghiệp hoá. Con số trên 45 vạn người chưa phải là nhiều so với nhu cầu cần có việc làm mỗi năm từ 1.2 -1.3 triệu người ở Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn là só lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của phương thức sản xúất tiên tiến, có kỷ luật lao động cao, một số chuyên gia trong nước đã có thể thay thế dần và có hiệu quả trong quản trị doanh nghiệp, trong tiếp thị, làm chủ các quy trình công nghệ …
5. FDI với hiệu quả kinh tế - xã hội tổng quát
FDI còn có tác động đến những chỉ tiêu tổng quát về kinh tế - xã hội, như tăng năng suất lao động xã hội, cán cân thanh toán quốc tế, các định chế tiền tệ, tín dụng, đóng góp vào nguồn thu của ngân sách, góp phần làm thay đổi phương thức làm việc, cải thiện môi trường sống của xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta thì FDI có tác động đến cán cân thanh toán quốc tế lớn hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển. FDI đóng vai trò kích thích việc cải cách và hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín dụng, ngoại hối ở nước ta.
FDI đóng góp ngày càng quan trọng vào nguồn thu ngân sách từ các khoản thuế trực tiếp do doanh nghiệp nộp, cho đến các khoản gián tiếp do FDI tạo ra cho các hoạt động dịch vụ, thương mại, thuế thu nhập của người lao động.
Tác động quan trọng nhất của FDI trong gần 20 năm qua là góp phần làm thay đổi bộ mặt đát nước, làm cho ngừơi Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực quốc tế trong các lĩnh vực hoạt động. trong những năm qua, thu nhập của dân cư tăng lên khá nhiều, tỷ lệ đói nghèo giảm đi rõ rệt.
III. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam.
1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc.
a. Kết quả đạt được
Trong thời kỳ 1992-1995 là thời kỳ Trung Quốc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tốc độ cao.Từ khi Trung Quốc cải cách mở cửa, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dưới ba hình thức doanh nghiệp: doanh nghiệp hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Quy mô dự án đầu tư chủ yếu là vừa và nhỏ, nhưng từ những năm 1993, các dự án lớn ngày càng tăng.Các dự án đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc mang tính sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong đó tập trung ở lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu.Từ năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Các dự án công nghiệp có hiệu quả chiếm hơn 90% tổng số và trên 70% tổng vốn nước ngoài đầu tư vào. Từ những năm 90, tuy tình hình đầu tư nước ngoài có sự thay đổi nhưng cơ cấu đầu tư cho công nghiệp vẫn được đảm bảo. Đến cuối năm 1998, tỷ trọng các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp là57.1% các ngành nông nghiệp, nghề rừng, chăn nuôi gia súc, nghề cá, bảo vệ nguồn nước là 5%, dịch vụ là36%.
b. Những chính sách đã áp dụng nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc
* Mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từng bước, nhiều tầng, ra mọi hướng.
Trung Quốc đã tiến hành mở cửa từng khu vực, bắt đầu từ việc thành lập 5 lập đặc khi kinh tế, sau đó là việc mở cửa thành phố ven biển, 13 thành phố ven biên giới nhằm mở rộng thương mại và đầu tư vùng biên.
* Môi trường luật pháp.
Cho đến nay Trung Quốc đã ban hành trên 500 văn bản gồm các bộ luật và pháp quy liên quan đến thương mại và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật pháp được xây dựng trên nguyên tắc: Bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng tập quán quốc tế.
* Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các chủ trương, biện pháp được hướng vào cải tạo cơ sở hạ tầng, thực hiện các ưu đãi ( như ưư đãi thuế đối với khu vực đầu tư, ưu đãi thuế theo kỳ hạn kinh doanh và ưu đãi thuế trong tái đầu tư), đa dạng hoá các hình thức đầu tư và chủ đầu tư.
2. Vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc vào việc hoàn thiện chính sánh thu hút FDI của Việt Nam.
* Mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài từng bước, theo từng lĩnh vực.
Trung Quốc đã thực hiện mở cửa dần từng bước theo liệu pháp “dò đá qua sông”, dễ trước khó sau, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi ro nên tránh được những va chạm lớnvà sự phân hoá hai cực nhanh.
Từ bài học kinh nghiệm này và muốn cho hoạt động FDI của Việt Nam trong những năm đầu gia nhập WTO đạt hiệu quả, thì ta cũng nên mở dần từng bước, theo từng lĩnh vực và điều cần chu ý tránh nhận đầu tư ồ ạt sẽ gây nóng, vượt qua sự kiểm soát của cơ quan chính quyền. Điều này sẽ ảnh hưởng không lớn môi trường đầu tư cũng như môi trường dân cư xung quanh.
* Phương thức thu hút công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
Phương châm “dùng thị trường đổi lấy công nghệ” của Trung Quốc là một con dao hai lưỡi, bởi lẽ với phương châm này, trình độ kỹ thuật của Trung Quốc chỉ trong thời gian ngắn đã có những bước tiến đáng kể so với các nước đang phát triển khác. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được, Trung Quốc cũng đã gặp phải những khó khăn hết sức to lớn.
Từ bài học kinh nghiệm trên cho thấy cần phải có những chính sách, bước đi phù hợp để phát huy tốt mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam với phương châm là đa dạng hoá các đối tác và ngày càng mở rộng các hợp đồng FDI với công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới, điều này sẽ cho phép tranh thủ được các công nghệ “gốc”của các nước phát triển một cách có hiệu quả nhất.
* Quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phát triển công nghệ quốc gia cơ sở vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các Công ty xuyên quốc gia; làm tốt công tác kiểm tra, kiểm toán trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phấn đấu tăng tỷ lệ góp của đối tác thuộc quốc gia tiếp nhận đầu tư để hạn chế các thua thiệt trong đầu tư nước ngoài. Hướng FDI vào các nhu cầu đầu tư thực sự cần thiết cho đất nước và tăng cường khả năng sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp FDI.
* Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cần thiết phải có chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng cần phải nghiên cứu để có chính sách ưu đãi hợp lý nhằm tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tránh gây thua thiệt cho các doanh nghiệp nhà nước.
Về cải cách thủ tục hành chính, Trung Quốc thực hiện chế độ phân cấp ra quyết định đầu tư cho các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư về thời gian, chi phí trong việc làm thủ tục xin đầu tư. Mặt trái của sự phân cấp này là phát sinh mâu thuẫn giữa lợi ích địa phương và lợi ích quốc gia, tạo nên nạn quan liêu trì trệ, hối lộ tham nhũng trong hàng ngũ cán bộ làm công tác đầu tư. Vì vậy, cần nâng cao vai trò hiệu lực và hiệu quả của nhà nứơc trong việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát mọi hoạt động liên quan đến đầu tư nước ngoài.
Chính phủ Việt Nam cần phải thường xuyên cải thiện môi trừong đầu tư như: Luật đầu tư nước ngoài và các bộ luật khác có liên quan; xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế, ổn định môi trường chính trị - xã hội, các vấn đề thuộc chính sách thuế, tài chính, ngân hàng, thị trường và tiêu thụ sản phẩm…
Chương II thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005
I . Kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2001-2005
1. Đặc điểm tình hình chung của giai đoạn 2001-2005
1.1. Thuận lợi
* Về trong nước:
- Tình hình kinh tế chính trị xã hội nước ta tiếp tục ổn định và nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh đã tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế Việt Nam. Giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. GDP tăng bình quân 7.4% /năm, riêng năm 2005 đạt mức tăng trưởng 8.4%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16.5%, giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng 8.7%, tổng khả năng xuất khẩu tăng 20% , tạo thêm được 1.6 triệu việc lam mới. Năm 2005, khu vực kinh tế này đóng góp khoảng 15.5%GDP, 37%giá trị sản xuất công nghiệp và 55%khả năng xuất khẩu của cả nước.
- thể chế kinh tế thị trường đang hình thành và vận hành có hiệu quả, nhiều cơ chế, chính sách đi vào cuộc sống. Tiến trình hoàn thiện môi trường pháp lý đang được đẩy nhanh để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thóáng, hấp dẫn.
- Nhiều văn bản pháp luật quan trọng được ban hành trong thời gian gần đây như Luật đầu tư, luật doanh nghiệp áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, luật đấu thầu; đồng thời Quốc hội sê xem xét thông qua một số đạo luật mới.
- Việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã tăng lên đắng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiến hành các hoạt động kinh doanh.
- Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, nhất là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Đặc biệt đầu năm 2005, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/2005/CT- TTg ngày 8/4/2005 về một số giải pháp nhằm tạo chuyển biến mới trong việc thu hút FDI tại Việt Nam.
- Trong năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo cán Bộ ngành, địa phương tăng cường cải thiện môi trường đầu tư trên cả phương diện quản lý, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao cơ sở hạ tầng, chống tham nhũng và đào tạo cán bộ.
* Về quốc tế
- Nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương phát triển năng động, Việt Nam có nhiều cơ hội thu hút các nguồn lực quốc tế cho đầu tư phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 49 nước, Hiệp định tránh đánh thuế trung với 40 nước. Đặc biệt về cơ bản đã kết thúc việc đàm phán gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội lớn về mở rộng thị trường xuất khẩu và khả năng thu hút FDI của Việt Nam.
- Vốn FDI đã chuyển mạnh sang các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, và các nền kinh tế mới nổi để giảm chi phí đầu tư và tiếp cận đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang tăng giá đột biến trên thị trường thế giới để khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh tại các nền kinh tế đó.
1.2. Khó khăn
* Về trong nước
- Là giai đoạn đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010. Mục tiêu phát triển đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn này khó thực hiện hơn giai đoạn trước vì những yếu tố phát triển nền kinh tế theo chiều sâu.
- Là giai đoạn Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Mức độ cạnh tranh ở thị trường trong nước ngày càng gay gắt, gây bất lợi cho các doanh nghiệp FDI.
- Thiên tai dịch bệnh ảnh hưởng không nhò đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI.
- Một số Nghị định của Chính phủ ban hành và có hiệu lực ban hành trong thời gian gần đây đã bắt đầu gây ra một số khó khăn cho hoạt động FDI .
* Về quốc tế
- Sức ép cạnh tranh quốc tế gia tăng cùng với tiến trình hội nhập là thách thức to lớn đối với nền kinh tế còn yếu về tiềm lực kinh tế và sức cạnh tranh như Việt Nam.
- Biến động bất thường của thị trường thế giới về giá cả một số nguyên liệu nhập khẩu đã ảnh hưởng khá lớn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI.
Những đặc điểm trên cũng ảnh hưởng đồng thời lên hoạt động thu hút và triển khai các dự án FDI ở Việt Nam.
2. Kết quả thu hút vốn FDI tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005.
2.1. Các chỉ tiêu thu hút
Nghị định số 09/2001/NĐ – CP ngày 28/8/2001 về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI giai đoạn 2001-2005 đã xác định mục tiêu thu hút mới cho giai đoạn này là 12 tỷ USD (trung bình mỗi năm thu hút 2.4 tỷ USD). Trong đó, Bộ kế hoạch đầu tư xác định vốn FDI thu hút mới trong năm 2005 là 4.5 tỷ USD.
2.2. Kết quả thực hiện thu hút vốn FDI
* Về quy mô và tốc độ thu hút
- Đây là thời kỳ phục hồi chậm chạp của hoạt động FDI tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã thu hút được 20.8 tỷ USD vốn FDI, trong đó năm 2001 đã thu hút được 30 tỷ đồng chiếm 17.6% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2002 đã thu hút được 34.5 tỷ chiếm 17.3% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2003 đã thu hút được 37.8 tỷ đồng chiếm 16.3% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2004 đã thu hút được 44.2 tỷ đồng chiếm 16.1% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2005 đã thu hút được 53 tỷ đồng chiếm 16.3% tổng vốn đầu tư xã hội.
Bảng1. kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001-2005
Giá hiện hành
chỉ tiêu
đơn vị
2001
2002
2003
2004
2005
tổng vdtxh
nghin đồng
170.5
199.1
231.6
275
326
vốn FDI
nghin đồng
30
34.5
37.8
44.2
53
%tỏng vdt xh
%
17.6
17.3
16.3
16.1
16.3
nguồn: kế hoạch phát triển kt –xh 5 năm 2006-2010
Vốn đăng ký (vdk) năm 2001 bằng 123% so với năm 2000. Hai năm tiếp theo vốn tiếp tục giảm: năm 2002 vdk chỉ bằng 88% so với năm 2001, năm 2003 chỉ bằng 96.6% so với năm 2002. Chỉ sang năm 2004 FDI mới thực sự bắt đầu phục hồi đạt hơn 4.2 tỷ USD nhưng vẫn chưa đạt được con số của năm 1998, và đến cuối năm 2005, FDI tăng gần 40% đạt 5.9 tỷ USD nhưng vẫn chỉ xấp xỉ con số của năm 1997 (đây là năm FDI chịu tác động rõ rệt của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực). Giai đoạn 2001-2005, cả nước đã thu hút được khoảng gần19.3 tỷ USD vốn FDI mới, giảm 24% so với 25.37 tỷ USD giai đoạn 1996-2000. Trong đó, vốn cấp mới chỉ bằng có 60% giai đoạn 1996-2000, tăng vốn gấp 1.7 lần và vốn giải thể chỉ bằng 75%so với giai đoạn trước. Vốn còn hiệu lực tính cho đến cuối năm 2005 là khoảng 50 tỷ USD. Nếu tính chung cho cả vốn cấp mới và tăng vốn thì thời kỳ 2001-2005 chỉ hơn thời kỳ 1996-2000 gần 3%. Sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI năm 2005 tằng 21%, cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước là 16.5%. Thành quả này có được chủ yếu là do thị trường xuất khẩu của một số sản phẩm công nghiệp được mở rộng, giá dầu thô tăng cao và có thêm nhiều doanh nghiệp FDI mới đi vào hoạt động. Trong giai đoạn này khu vực có vốn FDI xuất siêu khoảng 5.8 tỷ USD(riêng năm 2005 Xuất siêu khoảng 2.8 tỷ USD). Tỷ trọng đóng của FDI vào GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 14.36% , trong khi giai đoạn 1996-2000 bình quân chỉ đạt 10.2%. Nộp ngân sách giai đoạn 2001-2005 gấp 2.38 lần giai đoạn 1996-2000.
Riêng năm 2005, trên địa bàn cả nước có 922 dự án FDI mới được cấp giấy phếp đầu tư với số vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 24% số dự án và 61.2% vốn đầu tư so với năm 2004. Đó là sự tăng trưởng đột biến trong việc thu hút FDI của Việt Nam kể từ sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra.
* Cơ cấu đâu tư.
- Theo lĩnh vực:
Phần lớn các dự án FDI mới tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm tới gần 67% số dự án và 60.8% vốn đăng ký. Tiếp đến lĩnh vực dịch vụ, chiếm tới hơn 19.7% số dự án và hơn 31.7% vốn đăng ký cấp mới. Trong thời kỳ 1991-1995, lĩnh vực dịch vụ tỏ ra hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài nên đã chiếm tới hơn 43% tổng số vốn dăng ký, với nhiều dự án quy mô lớn xậy dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, nhà ở. Giai đoạn sau giảm xuống còn 22.4% do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực.Tiếp đến là nông lâm ngư nghiêp hơn 13% số dự án và gần 7.5% vốn đăng ký cấp mới, với số dự án còn hiệu lực là789 và3.775 tỷ USD. Trong đó đẩu tư vào ngành nông lâm nghiệp chiếm hơn 85.5% số dự án với 91.7% vdk, đầu tư vào ngành thuỷ sản chỉ chiếm có 14.5% số dự án với hơn 8%vdk.
Bảng2. Vốn FDI theo ngành(giai đoạn 1988-2005, chỉ tính d.a còn hiệu lực)
chuyên ngành
Số d.a
tỷ trọng
tổng vốn đầu tư(1000USD)
tỷ trọng %
vốn pháp định(1000USD)
công nghiệp
4053
67.21
31040965
60.84
13355201
nông lâm ngư nghiệp
789
13.08
3774878
7.4
1427350
dịch vụ
1188
19.7
16202102
31.76
7698540
(Nguồn Cục ĐTNN, Bộ kế hoạch và đầu tư)
- Theo đối tác.
Tính đến hết 31/12/2005, đã có tới hơn 75 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam. Trong đó có 12 nước có số vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, và trong số 12 nước đó có tới 7 nước thuộc Châu Á(đông nam đông á), đứng đầu là 4 nước Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông có số vốn đầu tư trên 3.7 tỷ trở lên.
- Theo địa phương.
Các nhà đầu tư Nứơc ngoài đã có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước, ở 65 tỉnh thành phố nhưng phân bố không đều. FDI tập trung ở thành phố HCM và các tỉnh lân cân chiếm hơn một nửa vdk của cả nước(với 28.66 tỷ USD chiếm 56% vdk)
Tếp đến là Hà Nội và các tỉnh lân cận chỉ chiếm chưa đầy ½ số lượng vốn ở khu vực phía nam, với 13.42 tỷ USD chiếm 26.3% vdk.
Sự phân bố không đều là do nhân tố địa lý - tự nhiên quết định. Những nơi có bảng biển, sân bay, hệ thống đường giao thông thuận tiện, diện nước tốt và các dịch vụ phát trỉên tôt là những nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến lập nghiệp.
- Theo hình thức đầu tư.
Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra thì ngay càng các dự án doanh nghiệp liên doanh xin chuyển sang hình thưc 100% vôn nước ngoài.
Tính cho đến hết năm 2004, các dự án đầu tư trực tiếp vào nước ta mới chỉ được phép đầu tư trong 4 hình thức được quy định trong luật đầu tư nước ngoài. Đến năm 2005, các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào 2 hình thức mới là công ty cổ phần FDI và công ty quản lý vốn (thí điểm). Tính chung đến hết ngày 31/12 năm 2005, cơ cấu FDI vào Việt Nam theo hình thức được phân bổ như sau:
Bảng: Đầu tư trực tiếp nứớc ngoài theo hình thức đầu tư 1988-2005
stt
hình thức
đầu tư
Dự án
vốn đầu tư
tổng số DA
tỷ trọng (%)
tổng vốn
tỷ trọng (%)
1
100%VNN
4504
74.7
26041
51
2
DNLD
1327
22
19180
37.6
3
HĐHTKD
184
3.05
4710
8.17
4
BOT
6
0.1
1370
2.7
5
Cty cổ phần
8
0.13
199
0.4
6
Cty qlý vốn
1
0.02
55.5
0.11
tổng
6030
100
51017
100
(nguồn :cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và đầu tư)
Qua bảng ta thấy: tính đến hết năm 2005, hình thức 100%VNN chiếm tới gần 75% số dự án và 51%VDK. Hình thức ĐNL chiếm 22%số dự án và 37.6% VĐK. Hai hình thức này chiếm đến gần 97%số dự án và 88,6%VĐK. Chỉ có khoảng 3%số dự án và 11.4%VĐK là thuộc về 3 hình thức đầu tư còn lại. Như vậy có thể thấy rằng các nhà ĐTNN ưa thích đầu tư vào hình thức100%VNN. Hình thức DNLD cũng không mấy được ưa chuộng vì tính phức tạp của hình thức này trong quản lý và điều hành. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, quy mô của ác dự án là 100%VNN thường là nhỏ, đầu tư vào những ngành ít rủi ro. Trong khi đó, các dự án liên doanh thường có quy mô lớn hơn và đầu tư trong nhiều lĩnh vực mà nếu đầu tư 100%VNN không chắc chắn vì nhà ĐTNN ít am hiểu lĩnh vực này hoặc ít am hiểu thị trường Việt Nam. Hình thức BOT được Chính phủ ưu đãi nhiều hơn so với các hình thức FDI khác như không thu tiền thuê đất, thời hạn thực hiện dự án thường là dài nhưng có rất ít các nhà ĐTNN lựa chọn, chủ yếu là do các doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến cung ứng đầu vào hoặc đầu ra mang tính chất cục bộ rất lớn. Đây là thực tế cần được nghiên cứu và có các giải pháp tháo gỡ kịp thời để khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư bằng hình thức BOT; hoàn thiện và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của quốc gia nhằm hấp dẫn các nhà ĐTNN mới và phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.3. Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI.
Trong giai đoạn này cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và sự suy giảm kinh tế thế giới đã tác động xấu dến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư và thương mại. Nhận thức được điều này, Việt Nam đã có những biện pháp nhằm thu hút dòng FDI đang có xu hướng giảm: mở cửa thị trường vốn; điều chỉnh chính sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều kiện, có thời hạn, thực hiện lộ trình cắt giảm thuế; giảm thiểu hàng rào phi thuế quan … Khuyến khích thu hút FDI thông qua các chính sách thúê, giá cả dịch vụ; chủ động đàm phán Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ, gia nhập APEC và thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA, ASEAN, … trên các mặt: đối xử tối hệ quốc, đối xử quốc gia; xuất nhập khẩu, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, …
Việc ban hành Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp (năm 2005) là một bước tiến quan trọng khuyến khích đầu tư, tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp, xác lập lại quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp. Tiến hành đàm phán song phương và chuẩn bị các điều kiện gia nhập WTO.
Kết quả hoạt động đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005: vốn đăng ký năm 2001 là 2.592tỷ USD bằng 128% của năm 2000. Hai năm tiếp theo vốn đăng ký lại gỉam sút, năm 2002 là 1.621tỷ USD, chỉ bằng 62.5%năm 2001; năm 2003 là 1.914 tỷ USD, xấp xỉ năm 2000; vốn đăng ký năm2004 là 2.1tỷ USDtăng 10.5% so với năm trước, năm2005 Việt Nam đã thu hút được 3.6 tỷ USD vốn đầu tư mới.
2.4. Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Con đưòng phát triển kinh tế đầy ấn tượng của Đông Nam Á trong hơn 20 năm qua đã tỏ ra xứng đáng với hoạt động sôi động của FDI, vì thế không lấy gì làm ngạc nhiên rằng Việt Nam đã thu được những kết quả đáng kể như là một phần của xu thế phát triển kinh tế. Các kết quả thu hút FDI này không đơn thuần là gia tăng nguồn vốn mà có thể (ít nhất là về tiềm năng ) mở rộng một loạt những đóng góp phi tài chính khác như: công nghệ mới, các kỹ năng và thiết kế, các kỹ thuật quản lý tổ chức, sự tiếp cận những thông tin về thị trường nước ngoài .v.v…Thậm chí điều này có thể được làm rõ rằng - theo khảo sát của Changhong tại Trung Quốc - hoạt động FDI có thể đóng vai trò như một “thành phần tư nhân thay thế tạm thời “ đối với một nền kinh tế quá độ, khi mà việc cải cách khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn chậm chạp và thành phần tư nhân trong nước vẫn chưa đủ mạnh để có được những ảnh hưởng quan trọng đối với nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, việc thu hút FDI của Việt Nam giống như việc”nhập khẩu “một thành phần tư nhân có sẵn, và do đó có thể có những tác đồng khả quan tức thời đối với nền kinh tế trong thời ky chuyển đổi. Tại Đại hội IX, Đảng cũng khẳng định có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, điều này phản ánh đúng thực tế đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Kể từ năm 2003 đến 2005 thiện cảm của nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam đã tăng lên, mặc dù khó có thể đánh giá nhưng một số chỉ số phát triển kể từ đầu năm 2003 đến nay có thể phản ánh mối thiện cảm đang gia tăng này. Một sự cảm nhận chung của các nhà đầu tư là công cuộc cải cách kinh tế và tự do hoá kinh doanh đã dần được mở rộng, điều này thể hiện qua những thay đổi về luật đầu tư nước ngoài, ban hành luật doanh nghiệp, sự công nhận vai trò ngày càng gia tăng của thành phần tư nhân; việc ký kết và thông qua hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ; việc mở cửa thị trường chứng khoán; việc quay trở lại cho vay của IMF. Tất cả các hoạt động này được nhìn nhận như là các tín hiệu tích cực thề hiện qua các chỉ số kinh tế hàng đầu mà đà phát triển cải cách đã lấy lại được. Con số 4.1 tỷ US._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0219.doc