Kế hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010 và một số giải pháp thực hiện

Phần mở đầu Trong quá trình hội nhập và phát triển thì vồn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên sự thành bại của cả một quốc gia . Mục tiêu đặt ra đối với Việt Nam đó là thực hiện thành công quá trình CNH-HĐH đất nước , phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp . Nhìn lại chặng đường đã qua thì chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào : với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7% , đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao , tình hì

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010 và một số giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được đảm bảo . Đạt được những thành công đó bên cạnh sự khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đó có viện trợ phát triển chính thức ( ODA ) của các quốc gia và quốc tế đóng vai trò chủ đạo . Nguồn vốn ODA đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng đối với nước ta .Nguồn vốn đã đáp ứng được phần nào nhu cầu cấp bách về vốn trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước . ODA đã giúp chúng ta tiếp thu và tiếp cận được với những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại , phát triển nguồn nhân lực , điều chỉnh cơ cấu kinh tế và hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tương đối hiện đại . ODA không chỉ đơn thuần là 1 khoản cho vay mà đi kèm với nó là những điều khoản ràng buộc về kinh tế , chính trị .Bởi vậy quản lý và sử dụng ODA sao cho có hiệu quả phù hợp với mục tiêu và định hướng phát triển đất nước đó là một yêu cầu tất yếu.Do đó có một số câu hỏi đặt ra đó là chúng ta có thể huy động được nhiều hơn và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn ODA?Các biện pháp nào để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ODA? Do đó em chọn đề tài “Kế hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010 và một số giải pháp thực hiện” . Chương 1 : Lí luận chung về nguồn vốn ODA và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam I>Vốn đầu tư: Định nghĩa : Vốn đầu tư là các khoản chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư thường thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích bổ sung tài sản cố định, tài sản lưu động của toàn bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư bao gồm ba khoản chi đầu tư chủ yếu: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn đầu tư khác. II>Khái niệm ODA: Vốn ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại , viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của Chính phủ , của các tổ chức phi chính phủ , các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc của các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển . III> Đặc điểm của ODA : Thứ nhất , ODA mang tính chất ưu đãi bởi vì bao giờ cũng có phần cho không là chủ yếu . Còn phần còn lại cho vay với lãi suất thấp hơn các khoản tín dụng rất nhiều . Một khoản cho vay được gọi là ODA khi nó có thời gian cho vay lên đến 20-50 năm và phải có 25% là viện trợ không hoàn lại .Sự ưu đãi thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là : - Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp . Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỉ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn - Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA . Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách ưu tiên riêng của mình , tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kĩ thuật và tư vấn . Đồng thời đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể . Vì vậy nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước , các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết Thứ hai , ODA luôn mang tính chất rằng buộc :ODA có thể ràng buộc nước nhận về địa điểm chỉ tiêu .Ngoài ra cũng có một số nước cũng có nhưng ràng buộc khác như là : Bỉ và Đức yêu cầu 50% viện trợ phải mua hàng hoá nước mình, Nhật Bản thì quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật .Ngoài ra nước nhận viện trợ còn phải thay đổi chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế cho phù hợp với bên tài trợ . Có một số nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị : xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại nước và khu vực tiếp nhận ODA . Ngoài ra các nước viện trợ cũng dành được lợi ích cho mình thông qua việc thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ .Bản thân việc hỗ trợ , giúp đỡ các nước đang phát triển cũng giúp cho các nước viện trợ mở mang thêm thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài trợ . Những nước trợ cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ . Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng đến những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài . Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào chuyện nội bộ của nhau , bình đẳng cùng có lợi . Thứ ba , ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ Nguồn vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất , nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu nội tệ. Cho nên một số nước do không sử dụng có hiệu quả vốn ODA sẽ lâm vào vòng nợ nần và không có khả năng trả nợ . Do đó trong khi hoạch định chính sách sử dụng vốn ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu . Vốn ODA đã tồn tại trên thế giới hơn 50 năm và được đánh giá là đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của nhiều nước chậm và đang phát triển …Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn ODA của các nước nghèo trên thế giới không phải lúc nào và ở đâu cũng thành công. Mỗi nước nhận viện trợ có những đặc thù riêng. Việc sử dụng viện trợ có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào chính sách kinh tế, xã hội, thể chế chính trị, đội ngũ cán bộ… của nước nhận viện trợ. Có những trường hợp cùng một lượng viện trợ ở hai nước khác nhau đem lại kết quả hoàn toàn trái ngược nhau. Mỗi quốc gia nhận ODA đều có cách tiếp cận riêng của mình, theo đó công tác quản lý và điều phối của Nhà nước ở các quốc gia này cũng có những nét riêng. Hàng năm, WB, những nhà tài trợ song phương và bản thân các nước nhận tài trợ đều có những đánh giá độc lập để rút ra kinh nghiệm thành công cũng như thất bại. Với Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, ODA còn rất mới mẻ nên việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đi trước là vấn đề cần thiết. IV> Những kinh nghiệm thành công trong quản lý vốn ODA a. Xác định lĩnh vực ưu tiên hợp lý Thông thường căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội dài hạn và ngắn hạn mà mỗi nước xác định lĩnh vực đầu tư vốn ODA cụ thể. Kenya là một nước đang phát triển điển hình ở Đông Phi, là nước có tầm quan trọng về cả kinh tế và chính trị của khu vực; đồng thời cũng là một thị trường tiềm năng, là nơi cung cấp một khối lượng cà phê và chè lớn trên thế giới... Tại Kenya, từ năm 1987 đến 1996, vốn ODA được thu hút và trải rộng trên nhiều lĩnh vực nhưng cũng tập trung vào một số lĩnh vực cơ bản: 30% dành cho cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải và năng lượng; 15% cho nông nghiệp và lâm nghiệp; các nhà tài trợ quan tâm đặc biệt đến giáo dục đào tạo, y tế của Kenya và dành 10% cho các lĩnh vực này. Các dự án về giáo dục và đào tạo ở Kenya đã được các nhà tài trợ đánh giá là có hiệu quả cao. Giáo dục tiểu học miễn phí đã làm cho lượng học sinh đến trường tăng lên đáng kể, từ 891103 em năm 1963 đã tăng lên 1,4 triệu em vào năm 1970, năm 1990 là 5,5 triệu em theo học tại 16 500 trường tiểu học... Do xác định nông nghiệp là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu nên thời kỳ 1951-1953, trong tổng số 267 triệu USD nhận viện trợ, Đài Loan đã chi 50% cho lĩnh vực nông nghiệp, tiếp theo là các lĩnh vực khác như kỹ thuật, công nghiệp, hạ tầng, thuỷ lợi giao thông... Các nước khác như Thái Lan, Singapore... chủ yếu dành vốn ODA cho hạ tầng kinh tế: giao thông, viễn thông, năng lượng...là những dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm... không hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài nhưng lại giúp nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. b. Quy định mức vay và trả nợ hàng năm Phần vốn ODA hoàn lại thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng ODA, thông thường khi tổng mức ODA càng cao thì tỷ trọng vốn hoàn lại cũng ngày càng cao. Do vậy, nếu không quy định mức vay và trả nợ hàng năm thì sẽ dẫn đến sử dụng không hiệu quả đồng vốn, vay tràn lan và để lại gánh nặng nợ nần cho thế hệ sau. Tại Thái Lan, một dự án, đặc biệt là dự án vay nợ, trước khi đề xuất với phía cấp viện trợ thường phải xem xét và tiến hành nhiều bước để xác định: - Tính cấp thiết của dự án. - Nên vay nợ nước ngoài hay huy động trong nước. Nếu vay, mức vốn cần vay là bao nhiêu cần được ghi rõ. - Hiệu quả sử dụng và khả năng hoàn vốn vay. Sau khi các vấn đề trên được phân tích kỹ, Chính phủ sẽ tiến hành đàm phán với các đối tác để xác định, lựa chọn nguồn vay với mức lãi suất nhất định và các điều kiện khác. Khi chưa có sự phê duyệt của Chính phủ, các chủ dự án không được tiếp xúc với các đối tác nước ngoài để đảm bảo tính hiệu quả của việc sử dụng vốn, tránh những cuộc vận động ngầm không khách quan có thể xảy ra. Một trong những biện pháp giúp Thái Lan không bị sa lầy vào vòng nợ nần là xác định “trần” vay, trả hằng năm. Một khoản vay không được tính là nguồn thu ngân sách nhưng các khoản trả nợ được Nhà nước cân đối trong ngân sách quốc gia hằng năm. Chính phủ Thái Lan quy định mức vay nợ không được vượt quá 10% kế hoạch thu ngân sách, mức trả nợ bằng 9% kim ngạch xuất khẩu hoặc 20% chi ngân sách hằng năm. Sự khống chế này nhằm cân đối khả năng vay, trả nợ, mức xuất khẩu của đất nước, tránh vay mượn tràn lan. Nhiều dự án phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, có nguồn vay nhưng vượt quá giới hạn cho phép đều bị gác lại. Là một nước có mức vay nợ nước ngoài cao (1980-1986 mức vay nợ mỗi năm bình quân khoảng 1,75 tỷ USD) nhưng Thái Lan luôn trả nợ đúng hạn (trung bình mỗi năm khoảng 1 tỉ USD). c.Thực hiện tốt công tác vận động ODA Malaysia, Indonesia xuất bản “Quyển sách xanh” trong đó ghi các dự án ưu tiên đề nghị vốn đầu tư từ ODA và các nguồn vốn khác cho tài khoá năm sau. “Quyển sách xanh” được gửi đến các tổ chức quốc tế, các nước cấp viện trợ. Đồng thời các cơ quan của chính phủ có liên quan phải chuẩn bị tốt các tài liệu và sự bình luận cần thiết để có thể kịp thời cung cấp cho các tổ chức viện trợ về từng dự án cụ thể. Malaisia chọn lọc rất kỹ các dự án vay vốn ODA và chỉ tiếp nhận những dự án có quy mô lớn. Trung Quốc có mức đầu tư đến 200 tỷ USD mỗi năm, trong đó vốn ODA từ các nhà tài trợ song phương và đa phương chỉ vào khoảng 5 tỷ USD, chiếm một tỷ trọng nhỏ so với các nước đang phát triển khác. Song, Trung Quốc đã luôn quan tâm đến việc tối đa hoá lợi ích, kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ từ nguồn vốn ODA. Chuẩn bị dự án cũng được Trung Quốc rất chú trọng và thực hiện tương đối tốt với các hướng dẫn nghiên cứu khả thi toàn diện tuân theo một trình tự hết sức lôgíc nên không bỏ sót một khâu kỹ thuật nào. Những thủ tục chi tiết được ban hành về đệ trình, kiểm tra và phê duyệt các dự án xây dựng đòi hỏi tuyệt đối tuân thủ. Những hạn mức về chi phí dự án phải được xác định để trình chính quyền địa phương, bộ ngành và cuối cùng là Uỷ ban Kế hoạch Phát triển Nhà nước phê duyệt. Cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong việc sàng lọc các dự án thông qua việc đánh giá kỹ các giá trị kinh tế, tài chính và xã hội của dự án. Quy trình lập kế hoạch về cơ bản là từ cơ sở lên. Trung Quốc đã ban hành các hướng dẫn chi tiết về các hoạt động ở từng khâu trong chu kỳ dự án tiến tới phê duyệt cuối cùng với thẩm quyền được giao ở các cấp chính quyền địa phương và bộ ngành. Để đạt được kết quả cao nhất, Chính phủ Trung Quốc quy định các chủ dự án phải lựa chọn các viện thiết kế có năng lực cao nhất thông qua đấu thầu cạnh tranh. Không thể không tính đến vai trò của các nhà tài trợ nếu muốn dự án được chuẩn bị tốt. Trong việc xây dựng (Nghiên cứu khả thi) F/S và đánh giá hiệu quả của các dự án ODA, Malaisia tận dụng tối đa sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, và có sự tham gia phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ trong các hoạt động này. Do vậy, một khi phía nhà tài trợ đã xây dựng xong F/S là Chính phủ Malaisia phê duyệt ngay và nhờ đó họ đã rút ngắn được công đoạn này. Tương tự như vậy Chính phủ Malaisia đã áp dụng kịp thời kết quả đánh giá sau dự án của các nhà tài trợ để cải tiến chất lượng thiết kế các dự án mới; Malaisia không gặp nhiều vướng mắc do sự khác biệt về thủ tục trong nước và thủ tục của các nhà tài trợ vì các dự án ODA của nhà tài trợ nào tuân thủ hướng dẫn và quy định của nhà tài trợ đó. d.Phối hợp quản lý và mở rộng phân cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước Malaisia có sự phân định rõ về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý ODA. Giữa các cơ quan này có sự phối hợp chặt chẽ và có chung một nhận thức là tạo thuận lợi tối đa cho các ban quản lý dự án, làm sao thực hiện các dự án ODA đúng tiến độ, áp dụng các thủ tục trình duyệt nhanh gọn nhằm giảm bớt phí cam kết. Những hợp phần nào trong dự án khó thực hiện, Chính phủ Malaisia chủ động đề nghị với nhà tài trợ huỷ bỏ hợp phần này. Hiện nay các đề nghị thanh toán được tiến hành trên mạng vi tính, phục vụ tốt cho công tác theo dõi giám sát của các cơ quan liên quan; những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án thông qua đơn vị điều phối thực hiện tại các Bang, Ban công tác phát triển Bang và Hội đồng Phát triển Quận huyện. Tại một số quốc gia giàu kinh nghiệm về thực hiện các dự án ODA như Philipin, Thái Lan, Inđônesia...phần lớn quá trình ra quyết định trong giai đoạn thực hiện dự án đều được các Bộ ngành thực hiện. Tại Philipin, Thứ trưởng phê duyệt thiết kế sơ bộ và thiết kế chi tiết của dự án. Việc cấp phép hợp đồng ở Thái Lan chỉ duy nhất do các Bộ ngành thực hiện. Còn tại Inđônêsia, việc ra quyết định được phân cấp hơn, việc phê duyệt hồ sơ thầu, xét thầu cũng như các hợp đồng có trị giá dưới 50 tỷ Rupia (tương đương 10 triệu USD) do cấp giám đốc dự án thực hiện. Có thể xem đây là một hệ thống phê duyệt phân cấp có hiệu quả, trong đó trao mức độ quyền hạn tương đối rộng cho các Bộ ngành. Các Bộ ngành đóng vai trò là cơ quan quyết định ở từng giai đoạn thực hiện dự án như xét thầu và các hợp đồng. F/S tại Thái Lan được các cơ quan chủ quản chuẩn bị và được xem xét bởi Ban Phát triển Kinh tế và Xã hội Quốc gia cũng như các cơ quan khác như Bộ Tài Chính, Ban Ngân sách, Văn phòng Kế hoạch và Chính sách môi trường. Sau đó, Chính phủ sẽ phê duyệt F/S. Đối với các dự án vay vốn ODA, Uỷ ban quản lý nợ nước ngoài sẽ phê duyệt khoản vay, và sau đó Ban Ngân sách sẽ phân bổ cho các dự án thuộc phạm vi ngân sách. Quản lý đấu thầu ở Thái Lan cũng chủ yếu do cơ quan chủ quản thực hiện. Cấp xét duyệt ký hợp đồng tuỳ theo quy mô từng hợp đồng: ít hơn 50 triệu Baht do Thủ trưởng cơ quan phê duyệt; từ 50 đến 100 triệu Baht do Thư ký thường trực phê duyệt; hơn 100 triệu Baht do Bộ trưởng phê duyệt . Ngoài ra, nhất quán trong công tác bố trí cán bộ cũng là khâu quan trọng. Với Trung Quốc, không có sự thay đổi về nhân sự chịu trách nhiệm thực hiện dự án, hầu hết các nhà quản lý dự án và cán bộ chủ chốt vẫn tiếp tục vận hành và bảo trì những dự án mới kết thúc. Trung Quốc làm được điều này bằng cách thành lập các phòng chuẩn bị dự án hay các cơ quan thường trực chịu trách nhiệm theo dõi và quản lý trong suốt quá trình thực hiện dự án. Sự liên tục của đội ngũ cán bộ luôn được đảm bảo trong quá trình thực hiện dự án, không có vấn đề vướng mắc nào liên quan đến nguồn nhân lực thực hiện dự án. e.Chú trọng công tác kiểm toán và đánh giá sau dự án Ở Trung Quốc, công tác này được thực hiện rất tốt, chặt chẽ ở từng khâu. Cơ quan kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiệm kiểm toán các dự án theo Quy chế kiểm toán của Chính phủ. Công tác kiểm toán được thực hiện ở ba giai đoạn: trước khi dự án khởi công, trong quá trình thực hiện dự án và sau khi dự án hoàn thành. Trung Quốc chú trọng đặc biệt đến công tác đánh giá sau dự án và vai trò của công tác này trong việc ra quyết định và quản lý dự án.Trung Quốc nhận thấy rằng do hầu hết các nguồn đầu tư cho dự án được huy động từ nguồn tiết kiệm trong nước nên tính hiệu quả và hiệu dụng của đầu tư tác động rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Trung Quốc đã hướng việc đánh giá một số dự án đã hoàn thành vào việc ban hành các quy định áp dụng cho những dự án trên cơ sở các bài học kinh nghiệm đã đúc kết được. Còn tại Ba Lan quan niệm để sử dụng vốn ODA đạt hiệu quả, trước hết phải tập trung đầu tư vào nguồn nhân lực và năng lực thể chế. Cơ sở luật pháp rõ ràng và chính xác trong toàn bộ quá trình là điều kiện để kiểm soát và thực hiện thành công các dự án ODA. Ba Lan đề cao hoạt động phối hợp với đối tác viện trợ. Ở Ba Lan, các nguồn hỗ trợ được coi là “quỹ tài chính công”, việc mua sắm tài sản công phải tuân theo Luật mua sắm công và theo những quy tắc kế toán chặt chẽ. Qúa trình giải ngân khá phức tạp nhằm kiểm soát đồng tiền được sử dụng đúng mục đích. Trong đó, nhà tài trợ có thể yêu cầu nước nhận viện trợ thiết lập hoặc sửa đổi hệ thống thể chế và hệ thống luật pháp. Cơ quan chịu trách nhiệm gồm có các Bộ, một số cơ quan Chính phủ, trong đó Bộ Phát triển đóng vai trò chủ đạo. Ba Lan đặc biệt chú trọng công tác kiểm soát và kiểm toán. Công tác kiểm toán tập trung vào kiểm toán các hệ thống quản lý. Trong đó chịu trách nhiệm gồm có kiểm toán nội bộ trong mỗi cơ quan, các công ty kiểm toán nước ngoài được thuê, và các dịch vụ kiểm toán của Uỷ ban châu Âu. Khi công tác kiểm toán phát hiện có những sai sót, sẽ thông báo các điểm không hợp lệ cho tất cả các cơ quan. Công tác kiểm soát tập trung vào kiểm tra tình hình hợp pháp và tính hợp thức của các giao dịch, kiểm tra hàng năm và chứng nhận các khoản chi tiêu, kiểm tra cuối kỳ, kiểm tra bất thường. Chính phủ Ba Lan cho rằng, kiểm tra và kiểm toán thường xuyên không phải đê cản trở mà là để thúc đẩy quá trình dự án. V>Những kinh nghiệm chưa thành công trong quản lý vốn ODA a. Định hướng trong thu hút và sử dụng vốn ODA thiếu căn cứ khoa học. Định hướng tốt là yêu cầu đầu tiên để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Việc này sẽ làm cho ODA được sử dụng đúng mục đích và tránh được gánh nặng nợ nần cho nước nhận tài trợ. Những quốc gia sử dụng ODA rất thành công như Malaysia, Thái Lan.... là những nước có định hướng tốt cho nguồn vốn này. Ở những nước đó có sự nhất trí trong Chính phủ về mục tiêu của quốc gia, chính sách và danh mục ưu tiên chi tiêu được xác định rõ ràng. Các nước này thường cân nhắc kỹ lưỡng chiến lược tập trung vào các vấn đề: tầm cỡ, mức độ viện trợ, yêu cầu loại nguồn viện trợ nước ngoài nào, những chỉ số và điều kiện được cho là có thể chấp nhận được, mục tiêu của nước cấp viện trợ, các thủ tục và các bộ phận đảm nhiệm quá trình viện trợ. Tuy nhiên, có một số nước lại không quan tâm đến vấn đề này. Khi nguồn viện trợ ODA ngày càng tăng thì việc sử dụng lãng phí, đầu tư tràn lan cũng có xu hướng tăng, nhất là giai đoạn đầu của vốn vay, khi nghĩa vụ trả nợ gốc còn ẩn dấu sau thời gian ân hạn. Họ đã không cân nhắc đến nhu cầu thực tế, đến khả năng hấp thụ ODA, khả năng trả nợ của đất nước mà đã xây dựng những dự án thiếu căn cứ khoa học và luận chứng kỹ thuật chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng phiêu lưu trong sử dụng vốn. Một số nước ở Châu Mỹ La-tinh, việc thu hút vốn ODA đã không tạo được điều kiện tăng trưởng kinh tế do đại bộ phận số vốn sử dụng vào mục đích phi sản xuất, nhập hàng tiêu dùng nên đã biến nguồn vốn này trở thành mảnh đất màu mỡ cho các tệ nạn tham nhũng, lạm dụng công quỹ của các quan chức. Điển hình là Brazil, bằng vốn vay nước ngoài, nước này đồng thời tiến hành một chương trình kinh tế cực kỳ to lớn bao gồm một loạt dự án: Xây dựng tuyến đường sắt từ Miras Gerais tới Sao Paolo kéo dài hơn 3 năm; xây dựng nhiều nhà máy thuỷ điện mà chỉ riêng một nhà máy đã ngốn số vốn gấp 10 lần số vốn đầu tư vào chương trình thuỷ lợi ở toàn vùng Đông bắc với số vốn khổng lồ 620 triệu USD. Ngoài ra, Brazin còn đầu tư vốn ODA vào 9 nhà máy hạt nhân. Kết quả là Brazil đã trở thành con nợ lớn nhất: 108 tỷ USD năm 1986 và là một trong hai nước đầu tiên tuyên bố vỡ nợ vào tháng 8 năm 1992. Ở Châu Phi, nguồn viện trợ đã tập trung quá lớn vào xây dựng công xưởng, biệt thự lớn, đầu tư chủ yếu vào phát triển đô thị, không quan tâm đến phát triển nông nghiệp, đầu tư không cân đối, chú trọng nhiều đến khu vực làm ăn thua lỗ, cần sự bao cấp của nhà nước đã dẫn đến sử dụng vốn kém hiệu quả gây tổn thất lớn cho nền kinh tế quốc dân. Kết quả là mặc dù nguồn vốn ODA đổ vào những nước SSA (Sub Sahara Africa) những năm 80 lên tới 35- 40% tổng ODA thế giới với mức ưu đãi rất cao, tỷ lệ cho không tới 60-80% nhưng tốc độ tăng trưởng trong những năm này liên tục giảm. b. Thiếu sự tập trung hoá và điều phối quản lý ODA Trung Quốc không có cơ quan đầu mối của Chính phủ trong việc vận động, thu hút, điều phối, theo dõi và đánh giá các dự án ODA. Hiện nay ở Trung Quốc chỉ có 4 cơ quan chính tham gia quản lý ODA. - Uỷ ban kế hoạch phát triển Nhà nước: Chịu trách nhiệm về lựa chọn, sàng lọc và thẩm định các dự án đầu tư; - Ngân hàng nhân dân Trung Quốc: chịu trách nhiệm về xây dựng dự án và kêu gọi các nhà tài trợ cấp vốn cho những dự án lựa chọn sau khi Uỷ ban Kế hoạch nhà nước phê duyệt; - Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế: Chịu trách nhiệm quản lý nguồn viện trợ không hoàn lại; - Bộ tài chính: Chịu trách nhiệm về nguồn vốn vay ưu đãi. Việc quản lý vốn ODA còn phân tán và thiếu một đầu mối thống nhất dẫn tới hiện tượng không có sự phối hợp quản lý giữa các nguồn vốn khác nhau. Chẳng hạn, vốn UNDP và các nguồn vốn song phương, Trung Quốc giao cho Bộ Kinh Mậu quốc tế, vốn WB giao cho Bộ Tài chính, vốn ADB giao cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Uỷ ban Kế hoạch phát triển nhà nước chịu trách nhiệm cân đối chung và hướng dẫn thực hiện. Không có mối dây liên hệ rõ ràng giữa các dự án hỗ trợ kỹ thuật được tài trợ bằng nguồn viện trợ không hoàn lại và các dự án được tài trợ bằng các nguồn vốn vay ưu đãi do các nguồn vốn này do hai cơ quan khác nhau quản lý. Nguồn viện trợ không hoàn lại không được sử dụng để hỗ trợ các khoản vay và điều này có thể xem như một khiếm khuyết. c. ODA là mảnh đất màu mỡ của tệ nạn tham nhũng và các biến tướng của nhiều dạng thao túng, biển thủ ngân quỹ viện trợ Chính bản chất của ODA – “hỗ trợ phát triển” đã bị người sử dụng (nước tiếp nhận) “lợi dụng” để mưu cầu các mục đích riêng. Ở một số nước Mỹ-La tinh, mà điển hình là Pêru – một trong những nước đứng đầu về nhận viện trợ trong khu vực, chiếm vị trí thứ nhất trong mức độ hợp tác với nhiều nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Hà lan...thế nhưng cho đến nay, đất nước này vẫn nằm trong diện các nước kém phát triển nhất. Kết cục trên là một tất yếu, bởi đất nước này đã từng có những cựu tổng thống như ông Alan Garcia cùng nội các của ông ta liên tục bị giới truyền thông tố cáo vì tội tham nhũng và có liên quan đến những vị bê bối tài chính viện trợ. Đồng thời, ở đất nước này ngân quỹ viện trợ còn được sử dụng làm quà biếu, tặng trong những công du của Tổng thống... Chương 2 : Kế hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn 2006-2010 Kết quả thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn 2001-2005 Thời kỳ 2001-2005, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA gần 14,6 tỷ USD, trong đó 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Tuy nhiên, ODA giải ngân trong thời kỳ này đạt hơn 7,8 tỷ USD. Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương cung cấp ODA cho hầu hết các lĩnh vực ưu tiên phát triển của Việt Nam.Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, ODA đã bổ sung khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bảng 1: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 2001-2005 Đơn vị : triệu USD Tổng 2001 2002 2003 2004 2005 Cam kết 14.597 2.356 2.461 2.839 3.441 3.5 Kí kết 11.08 2.43 1.826 1.761 2.563 2.5 Giải ngân 7.84 1.500 1.528 1.442 1.65 1.72 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vốn ODA được phân bổ chủ yếu theo sự ưu tiên mà chính phủ đặt ra cho các ngành kinh tế .Sự phân bổ vốn giải ngân ODA ở một số các lĩnh vực như : Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, năng lượng và công nghiệp, là những lĩnh vực có dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, chiếm tỷ lệ lớn nhất (42%), tiếp theo là nông nghiệp, phát triển tài nguyên và nông thôn (21%), ODA phân bổ cho giáo dục, đào tạo, y tế, môi trường và công nghệ chiếm tỉ lệ thấp hơn (12%). Các lĩnh vực còn lại chiếm khoảng 18% tổng số vốn ODA giải ngân. Bảng 2 : Cơ cấu ODA giải ngân theo ngành giai đoạn 2001-2005 Ngành, lĩnh vực Giá trị ODA theo hiệp định 2001-2005 Tỷ USD Tỷ trọng đầu tư Môi trường khoa học công nghệ 0.392 5% Y tế giáo dục và đào tạo 0.5488 7% Cung cấp nước phát triển đô thị 0.5488 7% Năng lượng và công nghiệp 1.3328 17% Nông nghiệp , thuỷ lợi lâm nghiệp, giảm đói nghèo và phát triển nông thôn 1.6464 21% Giao thông vận tải bưu chính viễn thông 1.96 25% Khác 1.4112 18% Tổng 7.84 100% Nguồn : Bộ Kế hoạch và đầu tư Nội dung của kế hoạch sử dụng vốn ODA giai đoạn 2006-2010 Giai đoạn 2006-2010, Chính phủ sẽ dành 33% trong số 23,75 tỷ USD vốn ODA để phát triển giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị.Đầu tư trọng điểm vào phát triển cơ sở hạ tầng, là một trong những nội dung quan trọng nhất trong bản đề án "Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006 - 2010" vừa được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt số 290/2006/QĐ - TTg ngày 29/12/2006. Bảng 3: Huy động vốn ODA giai đoạn 2006-2010 Ngành, lĩnh vực Gía trị ODA theo hiệp định 2001-2005 Dự báo giá trị ODA theo hiệp định 2006-2010 Dự báo giá trị ODA cam kết Tỷ USD Tỷ trọng đầu tư Tỷ USD Tỷ trọng đầu tư Tỷ USD Nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản kết hợp với phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo 1,6 14,6% 2,2-2,5 18%0 2,9-3,3 Năng lượng và công nghiệp 2,1 18,7% 1,9-2,2 16% 2,6-2,9 Giao thông, bưu chính-viễn thông, cấp thoát nước và đô thị 2,9 26,3% 3,6-4,1 30% 4,8-5,5 Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác 4,5 40,4% 4,3-4,9% 36% 5,8-6,6 Tổng 11,1 100% 12,0-13,6 100% 16,0-18,2 Nguồn: Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-xã hội Quốc gia Theo bản đề án, lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ. Đặc biệt, đây cũng là lĩnh vực mà các nhà tài trợ vốn ODA như ADB, JBIC, WB... rất quan tâm từ trước tới nay cũng như trong nhiều năm tới. Cụ thể, nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này trong 5 năm tới sẽ tiếp tục tăng mạnh để đầu tư cho các lĩnh vực phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, các đường trục chính của các vùng kinh tế; ưu tiên phát triển các tuyến đường ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, ĐBCSL; phát triển mạnh hệ thống đường cao tốc, nhất là tại các vùng kinh tế trọng điểm.Ngoài ra, nguồn vốn này sẽ phát triển các tuyến hành lang giao thông trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng.Trong đó gồm có tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia và hai hành lang và một vành đai kinh tế Việt - Trung, xây dựng một số cầu đường bộ lớn ở cả 3 miền, trong đó có các cầu Cao Lãnh, Vàm Cống thuộc Dự án đường Hồ Chí Minh (giai đoạn II). Đồng thời, giao thông nông thôn cũng nằm trong phạm vi của nguồn vốn, gồm nâng cấp các tuyến đường huyện, bảo đảm đường thông suốt cả năm từ thôn bản đến trung tâm xã, đầu tư hỗ trợ bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ cũng như công tác duy tu bảo dưỡng đường bộ.Bên cạnh việc định hướng đầu tư cho các dự án giao thông cầu đường bộ, đối với lĩnh vực đường sắt, Chính phủ sẽ thu hút vốn ODA xây dựng một số tuyến đường sắt, kể cả tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh; tăng cường năng lực quản lý và điều hành ngành đường sắt. Lĩnh vực hàng không, các sân bay quốc tế sẽ được xây dựng ở một số tỉnh, thành phố phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống các sân bay của cả nước, trước mắt xây dựng mới một sân bay quốc tế hiện đại cho Thủ đô Hà Nội (Cảng Hàng không Quốc tế 2), Long Thành - Biên Hoà, Đà Nẵng (nhà ga), Cam Ranh - Khánh Hoà (nhà ga) và Phú Quốc - Kiên Giang. Trong giai đoạn này, Chính phủ cũng sẽ tập trung vốn ODA để xây dựng một số cảng nước sâu, trong đó có các cảng Vân Phong - Khánh Hoà, cảng Lạch Huyện - Hải Phòng, và các cảng trung chuyển. Ngoài ra sẽ hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thống các tuyến đường thuỷ nội địa quan trọng ở Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL. Thể chế, tăng cường năng lực con người trong lĩnh vực giao thông, nhất là an toàn giao thông, cũng sẽ là một hướng đầu tư. Chính phủ cũng định hướng cụ thể trong việc sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với nguồn vốn ODA hoàn lại, đặc biệt là các khoản vay có ưu đãi cao (lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài và có ân hạn) thì ưu tiên sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Các khoản vay ODA có điều kiện ưu đãi kém hơn (lãi suất cao, thời gian trả nợ và ân hạn ngắn) sẽ được sử dụng cho các chương trình, dự án có tính khả thi cao về mặt kinh tế và có khả năng trả nợ. Theo đánh giá của Bộ Giao thông Vận tải, thời gian tới vốn ODA dành cho phát triển hạ tầng giao thông về cơ bản vẫn sẽ đến từ các nhà tài trợ lớn, truyền thống JBIC, WB, ADB, AFD (Cơ quan Phát triển Pháp) và KFW (Ngân hàng Tái thiết Đức). Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA 6 tháng đầu năm 2008 Năm 2006, giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 1,78 tỷ USD. Việt Nam có thể sẽ ký kết khoảng 3,066 tỷ USD vốn ODA; trong đó vốn vay đạt 2,543 tỷ USD và vốn viện trợ không hoàn lại 522,4 triệu USD. Năm 2006 cũng là năm có nhiều sự kiện đối với việc quản lý và sử dụng vốn ODA. Vụ việc tiêu cực xảy ra tại PMU 18 đã gây ra nhiều dư luận và thông tin không thuận lợi cho thu hút và sử dụng vốn ODA. Vụ việc cũng một lần nữa thể hiện rõ những bất cập trong cơ chế quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Năm 2007, giải ngân đạt gần 2 tỷ USD.Tổng giá trị các khoản viện trợ đã ký kết đạt 3,6 tỉ USD, trong đó vốn vay là 3,31 tỉ USD, viện trợ không hoàn lại 289,78 triệu USD, tăng 12,3% so với năm 2006. Tuy nhiê._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6055.doc