Kế hoạch phát triển thị trường của Công ty cổ phần Thành Đức đến 2012

Tài liệu Kế hoạch phát triển thị trường của Công ty cổ phần Thành Đức đến 2012: ... Ebook Kế hoạch phát triển thị trường của Công ty cổ phần Thành Đức đến 2012

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch phát triển thị trường của Công ty cổ phần Thành Đức đến 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa kÕ ho¹ch vµ ph¸t triÓn ---------oOo--------- CHUY£N §Ò TèT NGHIÖP §Ò tµi: KÕ ho¹ch ph¸t triÓn thÞ tr­êng cña c«ng ty cæ phÇn thµnh ®øc ®Õn 2012 Sinh viªn thùc hiÖn : ph¹m thÞ mËn Líp : kÕ ho¹ch a Gi¸o viªn h­íng dÉn : ts. NguyÔn tiÕn dòng Hµ Néi, 04 - 2008 LỜI NÓI ĐẦU. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi. Chúng ta chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi tất yếu này đã tác động mãnh mẽ đến sự phát triển của các thành phần kinh tế và đổi mới tư duy kinh tế của các doanh nghiệp. Trong cơ chế mới, quy luật của thị trường được chấp nhận, mọi thành phần, tổ chức kinh tế được bình đẳng phát triển và cạnh tranh. Cạnh tranh ngày càng ở mức độ cao thì mỗi doanh nghiệp càng cần phải có những công cụ biện pháp quản lý, những chiến lược, tầm nhìn rộng để nắm bắt cơ hội phát triển, chiếm lĩnh thị trường. Đối với một doanh nghiệp thì phát triển và mở rộng thị trường là rất quan trọng. Nhưng để làm được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự cố gắng, lỗ lực và có kế hoạch cụ thể. Sau một thời gian thực tập tại công ty cổ phần Thành Đức, dựa vào bản báo cáo tổng hợp em đã chọn đề tài:”Kế hoạch phát triển thị trường của công ty cổ phần Thành Đức”. Trong khuôn khổ chuyên đề này em xin đi sâu vào kế hoạch phát triển thị trường nội thất của công ty. Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề cua rem bao gồm ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận chung về thị trường và kế hoạch phát triển thị trường. Chương II : Thực trạng về thị trường của công ty cổ phần Thành Đức. Chương III: Kế hoạch phát triển thị trường của công ty giai đoạn 2008-2012 và một số giải pháp. Chuyên đề này được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Nguyễn Tiến Dũng và tập thể CBCNV phòng kế hoạch của công ty. Em xin chân thành cảm ơn và kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG. 1.Khái quát về thị trường và phát triển thị trường. 1.1.Khái niệm và phân loại. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn với sự phân công lao động xã hội. Có nhiều quan niệm về thị trường tuỳ theo góc độ tiếp cận.Theo cách hiểu trong kinh tế chính trị thì thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế. Theo Samuenson:” Thị trường là tổng hoà các mối quan hệ mua bán trong xã hội được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định”. Hiện nay, quan niệm thị trường được hiểu là quá trình mà người mua và người bán tác động qua lại để xác định giá cả và lượng hàng hoá mua bán. Các hoạt động này có tiền tệ làm môi giới. Như vậy, trong mỗi lĩnh vực, giai đoạn cụ thể có các quan niệm về thị tường khác nhau. Nhưng thị trường luôn là nơi trao đổi hàng hoá, dịch vụ, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu. Đối với một doanh nghiệp, một cách chung nhất, thị trường là tập hợp các cá nhân, tổ chức mà về lý thuyết, có thể mua sản phẩm( thị trường tiềm năng). Quy mô thực tế của thị trường này không chỉ phụ thuộc vào dân số mà còn phụ thuộc vào sức mua và mong muốn mua( thị trường thực tế). Thị trường được cấu thành bởi ba yếu tố: Cung, cầu, giá cả. Việc phân loại thị trường cũng căn cứ vào nhiều yếu tố. Dựa vào vị trí của sản phẩm trong tái sản xuất, thị trường được chia thành thị trường đầu ra và thị trường đầu vào. Căn cứ vào tính chất kinh doanh có thị trường bán buôn và thị trường bán lẻ. Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh thị trường được chia ra thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính. Dựa vào phạm vị lưu thông có thị trường dân tộc, thị trường khu vực, thị trường thế giới. 1.2.Vai trò, chức năng của thị trường. 1.2.1.Vai trò. Đối với một doanh nghiệp thì mục tiêu luôn là tối đa hoá lợi nhuận. Sản phẩm của một doanh nghiệp phải được trao đổi trên thị trường. Lợi nhuận, doanh thu của doanh nghiệp cũng được thu về từ thị trường. Vì vậy, thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Mặc dù bản thân nó không tránh khỏi những khiếm khuyết như thông tin không đầy đủ, cung cấp hàng hoá công cộng… Nhưng nói chung doanh nghiệp và thị trường luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Doanh nghiệp luopon chịu sự tác động, phụ thuộc rất nhiều vào thị trường. Một doanh nghiệp không thể tồn tại nếu không gắn với thị trường và không được thị trường thừa nhận. Thị trường gắn với khách hàng, gắn với người tiêu dùng. Một doanh nghiệp không thể bán sản phẩm của mình nếu không biết ai là khách hàng , họ mua gì, tại sao họ mua sản phẩm này mà không phải là sản phẩm khác? Ai sẽ tham gia vào quá trình trao đổi? Khi nào mua? Mua ở đâu? Và mua như thế nào? Thị trường chính là căn cứ để doanh nghiệp xác định mình sẽ sản xuất cái gì? Sản xuất bao nhiêu và sản xuất cho đối tượng nào? Đây là những thông tin rất quan trọng quyết định tương lai của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có được những thông tin này thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường, nghiên cứu về khách hàng và nhu cầu của họ cũng như sự biến đổi của cầu thị trường. Từ đó đưa ra các chiến lược quan trọng. Trên thị trường, không thể không nhắc đế cạnh tranh. Đây là quy luật tất yếu của nèn kinh tế. Doanh nghiệp không chỉ chịu sức ép từ đối thủ cạnh tranh trực tiếp của mình mà còn chịu áp lực cạnh tranh từ nhiều phía như từ khách hàng, từ nhà cung cấp, từ sản phẩm thay thế, đối thủ tiềm ẩn. Tất cảt đề xuất hiện và tác động đến doanh nghiệp qua thị trường. Do đó, thị trường cũng là nơi doanh nghiệp khẳng định vị thế, uy tín, khả năng vượt trội của mình so với đối thủ. Một doanh nghiệp kinh doanh trên một lĩnh vực thì không thể đáp ứng được tất cả nhu cầu của mọi khách hàng, trong khi đó xung quanh doanh nghiệp còn rất nhiều đối thủ cạnh tranh và bản thân doanh nghiệp cũng chỉ có một hoặc một vài thế mạnh. Vì thế, để kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp cần xác định thị trường mục tiêu cho mình . Và thị trường tổng thể chính là căn cứ để doanh nghiệp nghiên cứu, phân chia các đoạn thị trường và nhu cầu của nó, kết hợp với điểm mạnh của mình từ đó xác định đoạn thị trường mà mình hoạt động tốt, có thể tạo ra ưu thế vượt trội so với đối thủ cạnh tranh. 1.2.2.Chức năng. Thị trường nói chung có các chức năng thừa nhận, điều tiết, thông tin. Thị trường thừa nhận công cụ xã hội của hàng hoá( giá trị sử dụng) và lao động đã chi phí để sản xuất ra nó, thông qua việc hàng hoá đó có bán được không? Và bán với giá như thế nào? Khi một sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường tức là sản phẩm đã được chấp nhận. Và hàng hoá, dịch vụ đó phải được thực hiện giá trị trao đổi. Chức năng điều tiết của thị trường thông qua việc kích thích hay hạn chế sản xuất kinh doanh. Câu hỏi sản xuất với sản lượng bao nhiêu là do thị trường quyết định. Doanh nghiệp không thể tự mình áp đặt sản xuất với lượng sản phẩm bao nhiêu mà phải dựa vào cầu thị trường, cầu của ngành và cầu của doanh nghiệp. Thị trường điều tiết sự ra nhập hay rút lui khỏi ngành của doanh nghiệp. Khi cung thị trường về một sản phẩm vượt quá cầu thì điều tất yếu là một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phải rút lui khỏi thị trường hoặc sản xuất với sản lượng ít hơn. Quá trình đào thải sẽ diễn ra khi một doanh nghiệp không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ngược lại, khi cung thiếu hụt, hoặc một ngành mà mang lại lợi nhuận cao, sức hút lớn thì sẽ kích thích sự tham gia của các doanh nghiệp ngoài ngành và những nhà đầu tư mới. Việc ra nhập hay rút lui khỏi ngành còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường và lĩnh vực đó. Ví dụ rào cản ra nhập hay rút lui khỏi ngành, mức độ hấp dẫn của ngành, sự liên kết của các nhà cung ứng sẵn có, hay mức độ, nhu cầu của thị trường. Thị trường còn kích thích các nhà đầu tư giỏi. Điều tất yếu là khi một nhà đầu tư giỏi sẽ hoạt động tốt và đứng vững trên thị trường. Ngược lại, những đầu tư kém hiệu quả sẽ bị sụp đổ. Các mặt hàng mới, lĩnh vực có lợi, có tiềm năng cũng sẽ được kích thích phát triển. Bởi vì các mặt hàng mới thì luôn thu hút được sự quan tâm, kích thích người mua muốn mua. Và khi cầu tăng thì cung sẽ phải tăng để đáp ứng nhu cầu. Và đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư thì mục đích cuối cùng vẫn là lợi nhuận. Vì vậy, họ sẽ tìm mọi cách để xâm nhập vào những lĩnh vực có lợi, hấp dẫn. Bên cạnh đó, thị trường còn là nơi kiểm tra đánh giá các kế hoạch, quyết định của doanh nghiệp thông qua tốc độ phát triển, mức độ tham gia vào thị trường của doanh nghiệp. Qua thị trường, doanh nghiệp sẽ thấy được ưu, nhược điểm cũng như điểm mạnh, điểm yếu của mình. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có các biện pháp phát huy, tận dụng thế mạnh và khắc phục, tránh những điểm yếu. Doanh nghiệp không chỉ xác định được vị trí của mình mà còn có thể xác định được vị trí của đối thủ cạnh tranh trên thị trường và đưa ra những chiến lược, chính sách đối với đối thủ. Thị trường còn là nơi cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng, thị trường cung cấp thông tin về chủng loại, giá cả, mẫu mã, nhãn hiệu… Đối với nhà sản xuất thông tin từ thị trường cực kỳ quan trọng. Những thông tin về nhu cầu, tình hình tiêu thụ sản phẩm, xu hướng tiêu dùng… sẽ là những căn cứ để doanh nghiệp đưa ra các quyết định về sản phẩm, só lượng phân phối… 1.3.Phát triển thị trường và sự cần thiết phải phát triển thị trường. 1.3.1.Quan niệm và nội dung của phát triển thị trường. Mở rộng thị trường là mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Đưa hàng hoá hiện có của mình vào các thị trường mới để tăng lượng tiêu thụ. Để đạt được mục đích này thì ngoài thị trường truyền thống mà doanh nghiệp đang chiếm lĩnh, doanh nghiệp cần mở rộng thêm, xâm nhập vào những đoạn thị trường khác hoặc cải tiến sản phẩm, thay đổi chính sách giá cả… để thu hút thêm khách hàng trên thị trường mục tiêu. Công tác phát triển, mở rộng thị trường là tổng hợp các cách thức, biện pháp của doanh nghiệp để đưa khối lượng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường đạt mức tối đa. Phát triển thị trường có thể thực hiện bằng mở rộng theo sản phẩm, mở rộng theo địa lý hay mở rộng theo khách hàng. Mở rộng theo sản phẩm tức là đưa thêm nhiều dạng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu, thị hiếu của khách hàng từ đó tối đa việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Doanh nghiệp sẽ xác định lĩnh vực hoạt động, nhóm hàng hoặc một sản phẩm mà doanh nghiệp có lợi thế nhất để tập trung nguồn lực vào sản xuất kinh doanh. Có hai hướng là có thể mở rộng sản phẩm mới hoàn toàn theo công năng, giá trị sử dụng. Theo đuổi mục đích này doanh nghiệp phải đầu tư chi phí lớn về máy móc, thiết bị, nghiên cứu thị trường, giới thiệu sản phẩm ra thị trường…Hoặc hướng thứ hai mà doanh nghiệp có thể theo đuổi là cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, thay thế sản phẩm hiện có. Doanh nghiệp sẽ có các thay đổi về chất lượng, kiểu dáng, kích thước, bao bì, nhãn hiệu,… tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình. Mở rộng theo địa lý tức là mở rộng địa bàn hoạt động của doanh nghiệp bằng hệ thống các đại lý, cửa hàng, quầy hàng, điểm bán…. Mở rộng địa lý có thể thực hiện tại khu vực đang hoạt động của doanh nghiệp, hoặc xâm nhập vào nhưng khu vực mới, thị trường. Mở rộng theo khách hàng từ những khách hàng truyền thống , khách hàng mới, khách hàng tiềm năng mà doanh nghiệp xác định. Doanh nghiệp tiến hành phân chia khách hàng theo nhóm tuổi, giới tính, thu nhập, thị hiếu… Nghiên cứu nhu cầu, mong muốn của từng nhóm đối tượng và dựa vào khả năng của mình để có chiến lược cụ thể cho từng nhóm đối tượng. Mở rộng thêm đối tượng phục vụ dựa vào hành vi tiêu thụ, phạm vi địa lý và căn cứ vào mối quan hệ khách hàng, doanh nghiệp. 1.3.2. Các phương thức phát triển thị trường. Các doanh nghiệp có thể phát triển thị trường theo hai phương thức chính. Đó là phát triển theo chiều rộng hoặc theo chiều sâu hoặc doanh nghiệp có thể phát triển đồng thời trên hai phương diện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. - Theo chiều rộng: Là việc doanh nghiệp thực hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Trong phát triển theo chiều rộng, doanh nghiệp có thể mở rộng về không gian và phạm vi địa lý, mở rộng địa bàn hoạt động của mình. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể mở rộng quy mô hoạt động của mình bằng việc cung cấp thêm các loại sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm. Phương thức này được áp dụng khi: + Doanh nghiệp không thể cạnh tranh trên các thị trường truyền thống nữa. + Doanh nghiệp có khả năng và tiềm lực để mở rộng thêm một số thị trường của mình. + Thị trường truyền thống của doanh nghiệp trở nên bão hòa với các sản phẩm của doanh nghiệp. + Mở rộng đối với những sản phảm có nhu cầu tiêu dùng thông dụng, tương đối giống nhau trên các thị trường khác nhau, đặc biệt là sản phẩm được tiêu chuẩn hóa. Theo chiều sâu: Đây là hình thức mở rộng và phát triển thị trường về chất. Phát triển theo chiều sâu bao gồm những việc như nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa ra thị trường những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Doanh nghiệp có thể thực hiện bằng cách phân đoạn, cắt lớp thị trường để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng trên từng đoạn thị trường một cách tốt nhất. Một số chỉ tiêu có thể được dùng trong đánh giá sự phát triển thị trường theo chiều sâu như: tốc độ phát triển quy mô thị trường, thị phần thực tế của doanh nghiệp trên thị trường,.. Phương thức này được áo dụng khi: + Doanh nghiệp vẫn có khả năng tiếp tục nâng cao chất lượng và số lượng đến thị trường. + Doanh nghiệp có bí quyết công nghệ sản xuất sản phẩm đặc biệt, độc đáo. + Nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp tại các thị trường hiện tại của doanh nghiệp tương đối lớn và ổn định. + Vòng đời sản phẩm còn đang trong giai đoạn phát triển trên thị trường đó. + Doanh nghiệp có quy mô hạn chế. 1.3.3.Sự cần thiết phải phát triển thị trường. 1.3.2.1. Xu thế chung của nền kinh tế. Nếu như trước kia nền kinh tế Việt Nam còn có sự phân biệt giữa thành phần kinh tế nhà nước và tư nhân, thậm chí chúng ta chủ trương chỉ phát triển thành phần kinh tế nhà nước. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thị trường và các quy luật của thị trường không tồn tại. Các doanh nghiệp thực hiện sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước do đó không có động lực để phát triển. Khi các quan hệ kinh tế thị trường không được thừa nhận thì sẽ dẫn đến nền kinh tế đi ngược quy luật và đổi mới là tất yếu. Hiện nay, tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng và có cơ hội phát triển. Sự can thiệp của nhà nước giảm dần và chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp bằng các chính sách vĩ mô. Sự bình đẳng này cũng dẫn đến các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Do đó, để có thể đứng vững thì không còn cách nào khác mỗi doanh nghiệp phải tự lựu chọn cho mình một hướng đi và có những chiến lược chiếm lĩnh thị phần nhất định. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ các giới hạn về địa lý không còn là vấn đề đáng quan tâm, thị trường của doanh nghiệp không bị bó hẹp trong nước cũng như khu vực. Các doanh nghiệp có cơ hội vươn ra nước ngoài thì cũng có nguy cơ bị xâm nhập bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Cạnh tranh gay gắt hơn và doanh nghiệp không thể không nghiên cứu thị trường và thực hiện phát triển thị trường của mình không bằng cách này thì bằng cách khác. Đặc biệt trong vài thập niên trở lại đây, toàn cầu hoá và hội nhập chưa bao giờ mạnh mẽ như vậy. Thị trường là thị trường toàn cầu. Bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải có tầm nhìn ra nước ngoài. Trong khi đó, thị trường trong nước vẫn phải được quan tâm và do nhu cầu luôn biến đổi, đời sống nâng lên, các nhu cầu của con người không còn là những nhu cầu thiết yếu. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc nghiên cứu sản phẩm của doanh nghiệp để có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nếu doanh nghiệp không chú ý đêu điều này thì các nhu cầu mới sẽ sẵn sàng được đáp ứng bởi các doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp nước ngoài với trình độ, kinh nghiệm hơn hẳn chúng ta. 1.3.2.2. Phát triển thị trường là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ngày nay, không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh lại không tìm mọi cách gắn kinh doanh của mình với thị trường vì chỉ như vậy doanh nghiệp mới hy vọng tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường. Mục tiêu cuối cùng của mỗi doanh nghiệp hoạt động là lợi nhuận. Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, mọi doanh nghiệp đều phải nhìn về phía trước với những mục tiêu cần đạt tới. Trong đó mục tiêu về thị phần, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và cũng là mục tiêu cuối cùng của mỗi doanh nghiệp. Mọi cố gắng của doanh nghiệp cũng nhằm đạt được một vị trí mong muốn xét trên vị thế cạnh tranh và sự thay đổi hoàn cảnh. Doanh nghiệp giống như một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Nó cần có sự trao đổi chất với thị trường bên ngoài. Sự trao đổi càng liên tục, mạnh mẽ với quy mô càng lớn thì cơ thể đó càng khoẻ mạnh. Do vậy doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng và phát triển thị trường của mình. 1.3.2.3. Các quy luật của nền kinh tế. Quy luật cạnh tranh. Trong nền kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành lấy một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. (Ví dụ: chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn...). Giống như các quy luật sinh tồn và đào thải tự nhiên, quy luật của cạnh tranh là thải loại những thành viên yếu kém trên thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển toàn xã hội. Quy luật cung cầu. Quy luật về vòng đời sản phẩm. Một sản phẩm bắt đầu được tung ra thị trường, đến giai đoạn tăng trưởng, phát triển rồi bão hòa và biến mất khỏi thị trường. Do vậy để một doanh nghiệp có thể tồn tại được thì khi vòng đời của sản phẩm còn chưa chấm dứt doanh nghiệp cần phải không ngừng mở rộng quy mô và liên tục cải tiến sản phẩm của mình trên nhiều phương diện nhằm thu được lợi nhuận tối đa và có những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi nó đến giai đoạm bão hòa. 1.4. Các yếu tố tác động đến phát triển thị trường. 1.4.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô. Môi trường kinh tế: Thực trạng kinh tế và xu hướng trong tương lai có sự ảnh hưởng đến thành công của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, lạm phát.Môi trường kinh tế cũng bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến sức mua và cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng như thu nhập, sự phân hoá thu nhập. Môi trường công nghệ, kỹ thuật: Môi trường công nghệ bao gồm các nhân tố gây ảnh hưởng đến công nghệ mới, sáng tạo sản phẩm mới và cơ hội thị trường mới. Việc phân tích và phán đoán sự biến đổi công nghệ là rất quan trọng. Sự thay đổi công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến vòng đời của sản phẩm. Thế giới đã từng chứng kiến sự biến đổi công nghệ làm trao đảo, thậm chí mất đi nhiều lĩnh vực kinh doanh đồng thời lại làm xuất hiện nhiều lĩnh vực mới, hoặc hoàn thiện hơn. Môi trường văn hoá- xã hôi: Khi đưa sản phẩm ra thị trường doanh nghiệp cần phải nắm được đặc tính về văn hoá, xã hội ở thị trường đó. Sản phẩm, nhãn hiệu đó có phù hợp với văn hoá và có gây cách hiểu sai với thông điệp của nhà sản xuất không? Hiểu biết văn hoá của nơi mình kinh doanh và dự định kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp đưa ra các quyết định đúng đắn và tạo được thiện cảm của khách hàng. Môi trường tự nhiên: “ Thiên thời, địa lợi, nhân hoà “ hội tụ ba yếu tố này sẽ làm mọi việc suôn sẻ. Nghiên cứu các quy luật tự nhiên là một trong các yếu tố giúp doanh nghiệp tránh các rủi ro và có nhiều khi là nhân tố quyết định thắng lợi của doanh nghiệp. Môi trường chính trị, pháp luật: Bao gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các công cụ, chính sách của nhà nước, tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành của chính phủ và các tổ chức chính trị xã hội. Môi trường toàn cầu: Khu vực hoá, toàn cầu hoá đang là một xu thế tất yếu mà mọi ngành, mọi doanh nghiệp phải tính đến. Để tồn tại doanh nghiệp phải tìm cách thích ứng, hoà nhập, sáng suốt nhận biết thời cơ, thách thức. Môi trường nhân khẩu học: Các vấn đề về dân số, quy mô, mật độ, tuổi tác, giới tính, sắc tộc,…có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, tốc độ phát triển thị trường . Đây là điều mà một doanh nghiệp muốn phát triển thị trường cầ hết sức quan tâm. 1.4.2. Môi trường ngành. M. Porter đã đưa ra mô hình năm áp lực cạnh tranh: Nhà cung ứng Khách hàng Đối thủ tiềm ẩn Sản phẩm thay thế Doanh nghiệp và đối thủ hiện tại Trong một ngành sẽ bao gồm nhiều doanh nghiệp có thể đưa ra các sản phẩm và dịch vụ giống nhau hoặc tương tự để có thể thay thế được cho nhau. Nhiệm vụ của các nhà kinh doanh là phải phân tích và phán đoán các thế lực cạnh tranh trong môi trường ngành để xác định các cơ hội và đe doạ đối với doanh nghiệp của họ. Và điều tất nhiên, mỗi lực lượng trong số 5 lực lượng trên càng mạnh thì càng hạn chế khả năng cho các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường của mình. Về đối thủ hiện tại: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất thường bao gồm các nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của ngành và các rào cản lối ra. - Cơ cấu cạnh tranh của ngành dựa vào khả năng phân phối sản phẩm của doanh nghiệp trong ngành sản xuất. Cơ cấu cạnh tranh khác nhau có các ứng dụng khác nhau cho cạnh tranh. Thông thường ngành riêng lẻ bao gồm một số lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có một doanh nghiệp nào trong số đó có vị trí thống trị ngành. Trong khi đó một ngành tập trung có sự chi phối bởi một số ít các doanh nghiệp lớn thậm chí chỉ một doanh nghiệp duy nhất gọi là độc quyền. Bản chất và mức độ cạnh tranh đối với các ngành tập trung rất khó phân tích và dự đoán. - Tình trạng cầu của một ngành là một yếu tố quyết định về tính mãnh liệt trong cạnh tranh nội bộ ngành. Thông thường, cầu tăng tạo cho doanh nghiệp một cơ hội lớn để mở rộng hoạt động. Ngược lại, cầu giảm dẫn đến cạnh tranh khốc liệt để các doanh nghiệp giữ được phần thị trường đã chiếm lĩnh. Đe doạ mất thị trường là điều khó tránh khỏi đối với các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh. - Rào cản lối ra là mối đe doạ cạnh tranh nghiêm trọng khi cầu của ngành giảm mạnh. Rào cản lối ra thể hiện ở kinh tế, chiến lược và quan hệ tình cảm giữ doanh nghiệp trụ lại. Cũng có thể có các rào cản về pháp lý như hợp động với người lao động, các quy định của nhà nước,.. Nếu hàng rào lối ra cao, các doanh nghiệp có thể bị khoá chặt trong một ngành sản xuất không ưa thích. Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp. Liên quan đến việc phát triển thị trường thì các yếu tố thuộc về doanh nghiệp như sản phẩm( chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng,…), giá cả của sản phẩm, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, tiềm lực, các chiến lược, chương trình hành động Marketing đóng vai trò quyết định cho sự thành công của việc có mở rộng được thị trường hay không. - Về sản phẩm: Chất lượng, giá cả, mẫu mã của sản phẩm là yếu tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp khi muốn phát triển thị trường. Đây là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Chất lượng sản phẩm: Đây là chỉ tiêu cốt lõi, mang tính chất quyết định trong cạnh tranh cũng như trong việc doanh nghiệp mở rộng thị trường. Có thể hiểu đơn giản rằng “Chất lượng là sự quay trở lại của khách hàng”. Khi doanh nghiệp quyết định phát triển thị trường, xâm nhập vào thị trường mới thì điều tất yếu chất lượng của sản phẩm phải ngang bằng hoặc vượt trội hơn so với các đối thủ trên thị trường đó với một mức giá cả phù hợp . Sự tương quan giữa chất lượng, tính năng của sản phẩm với giá cả cũng là một điều quan trọng mà doanh nghiệp cần quan tâm để đạt được thành công. Bên cạnh đó, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp chinh phục được thị hiếu, sở thích của khách hàng. Khách hàng sẽ luôn tìm được những điều mới từ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối thủ trên thị trường mà doanh nghiệp xâm nhập. - Về uy tín hay thương hiệu của doanh nghiệp ngày nay cũng là một trong những yếu tố then chốt. Sản phảm của một doanh nghiệp có uy tín lớn và đã gây dựng được thương hiệu trên thị trường sẽ dễ được khách hàng chấp nhận hơn. Thương hiệu của doanh nghiệp như một sự bảo đảm của doanh nghiệp với khách hàng và tạo ra ưu thế nhất định so với đối thủ cạnh tranh. Nhất là đối với doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường thì thương hiệu của doanh nghiệp sẽ khiến cho sản phẩm dễ tạo được lòng tin với khách hàng và có thể được khách hàng chấp nhận với mức giá cao hơn sản phẩm cùng loại. - Về tiềm lực của doanh nghiệp như quy mô tài chính, load động, công nghệ, hệ thống phân phối, con người,.. trong doanh nghiệp cũng ản hưởng tới việc phát triển thị trường của doanh nghiệp. Nếu nghiệp có đội ngũ quản trị giỏi, đội ngũ công nhân lành nghề thì doanh nghiệp sẽ thích ứng nhanh và nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Đối thủ tiềm ẩn: Đây là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe doạ cho các doanh nghiệp hiện tại và mức độ của cạnh tranh sẽ trở nên khốc liệt hơn.Cơ hội để doanh nghiệp phát triển thị trường sẽ bị thu hẹp bởi các đối thủ tiềm ẩn này. Nhà cung ứng Nhà cung ứng có thể được coi là một áp lực đe doạ khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và giá thành của sản phẩm. Sản phẩm thay thế Là sản phẩm khác có thể thoả mãn cùng nhu cầu của người tiêu dùng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có các ưu thế hơn sản phẩm bị thay thế ở các đặc trưng riêng biệt. Ngày nay, sản phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thông qua việc sáng tạo ra các giá trị mới, giá trị tăng thêm, giá trị cảm nhận hơn là giá trị hữu dụng vốn có của nó và người mua, khách hàng cũng bỏ tiền ra để mua các giá trị đó. Khách hàng: Họ là người tiêu thụ sản phảm của doanh nghiệp. Do vậy, họ quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp khi doanh nghiệp muốn xâm nhập vào thị trường mới. Việc tìm hiểu tâm lý mua hàng, thị hiếu, sở thích và nhu cầu thực tế của khách hàng là một vấn đề quan trọng khi doanh nghiệp quyết định phát triển thị trường. Không những thế doanh nghiệp cần tìm hiểu và dự báo xu thế tiêu dùng của khách hàng và tìm cách thỏa mãn nhu cầu của từng đối tượng khách hàng. 2.Công tác kế hoạch và kế hoạch phát triển thị trường trong doanh nghiệp. 2.1.Kế hoạch hoá doanh nghiệp là gì? Vai trò của kế hoạch. Kế hoạch hoá doanh nghiệp được xác định là một phương thức quản lý doanh nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của các nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị mình nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Như vậy, kế hoạch hoá trong doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục tiêu phát triển và tổ chức quá trình thực hiện mục tiêu đã đề ra. Công tác kế hoạch hoá bao gồm các hoạt động: Lập kế hoạch: Đây là quá trình xác định mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch và đề xuất các giải pháp. Tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá kế hoạch là những hoạt động tiếp theo nhằm đưa kế hoạch vào thực tế hoạt động. Vai trò của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường: Trước kia, trong nền kinh tế kế haọch hoá tập trung hệ thống chỉ tiêu kế hoạch là cơ sở điều tiết mọi hoạt động tổ chức và quản lý của doanh nghiệp. Khi đó, kế hoạch sẽ tạo ra các tỷ lệ tiết kiệm và tích luỹ cao, thực hiện được các cân đối cần thiết trong tổng thể kinh tế quốc dân, nề kinh tế đạt được những mức cung ứng cần thiế để nền kinh tế phát triển. Nhờ cơ chế kế hoạch hoá nhà nước có thể hướng các nguồn lực cần thiết để thực hiện các mục tiêu và các lĩnh vực ưu tiên trong từng thời kỳ. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải thường xuyên đối mặt với các quy luật thị trường, những dấu hiệu của thị trường là cơ sở để doanh nghiệp đưa ra các quyết định của mình. Tuy vậy, kế hoạch hoá vẫn thực sự cần thiết. Nó giúp tập trung sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục tiêu. Thị trường rất linh hoạt và thường xuyên biến động, kế hoạch và quản lý bằng kế hoạch giúp các doanh nghiệp dự kiến được những cơ hội, thách thức có thể xẩy ra để quyết định nên làm cái gì, làm như thế nào, khi nào làm và ai làm trong một thời kỳ nhất định. Nếu như không có kế hoạch và tổ chức quá trình hoạt động thông qua các mục tiêu định lập trước thì rủi ro trong hoạt động sẽ tăng lên. Công tác kế hoạch giúp ứng phó với các bất định và thay đổi của thị trường. Do đó, ngoài việc soạn lập kế hoạch thì phải tiến hành các nội dung khác của công tác kế hoạch hoá như triển khai thực hiện, kiểm tra, điều chỉnh. Công tác kế hoạch hoá tạo khả năng tác nghiệp kinh tế trong doanh nghiệp. Công tác kế hoạch hoá giúp doanh nghiệp cực tiểu chi phí, chú trọng vào các hoạt động hiệu quả. Kế hoạch thay thế sự hoạt động manh mún, không được phối hợp bằng sự nỗ lực có định hướng chung, thay thế luồng hoạt động bất thường bằng các luồng hoạt động đều đặn, thay thế các phán xét vội vàng bằng những quyết định có cân nhắc. Công tác kế hoạch hoá tạo cơ sở cho việc nhìn nhận logic các nội dung hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình tiến tới mục tiêu sản xuất sản phẩm và dịch vụ cuối cùng. Từ đó, các nhà quản lý thực hiện các phân công, điều độ, tổ chức các hành động cụ thể, chi tiết theo đúng trình tự, đảm bảo sản xuất không bị rối loạn và tiết kiệm. 2.2. Phân loại. Có nhiều cách phân loại hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp. Phân loại theo thời gian, hoặc theo góc độ nội dung, tính chất hay cấp độ của kế hoạch. Đứng trên góc độ tính chất, cấp độ kế hoach chia làm hai bộ phận: kế hoạch chiến lược và kế hoạch chiến thuật. Kế hoạch chiến lược xuất hiện khi các hoạt động của các doanh nghiệp trở nên phức tạp hơn, cạnh tranh gay gắt hơn, đa dạng hơn trong khi các tiến bộ về khoa học kỹ thuật, công nghệ tăng tốc nhanh hơn khiến các doanh nghiệp khó khăn trong lựa chọn các mục tiêu phát triển. Kế hoạch chiến lược áp dụng trong các doanh nghiệp là các định hướng lớn cho phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện, củng cố vị thế cạnh tranh của mình và những phương pháp cơ bản để đạt mục tiêu đó. Kế hoạch chiến lược có thể áp dụng trong thời gian dài hoặc ngắn hạn. Nó là kế hoạch bao gồm toàn bộ mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp, liên quan trực tiếp đến tương lai của doanh nghiệp.._. Lập kế hoạch chiến lược đòi hỏi chủ yếu sự tham gia của các nhà lãnh đạo trong doanh nghiệp. Kế hoạch chiến thuật là công cụ cho phép chuyển các đinh hướng chiến lược thành các chương trình áp dụng cho các bộ phận của doanh nghiệp trong khuôn khổ các hoạt động của doanh nghiệp. Kế hoạch tác nghiệp thể hiện ở các bộ phận kế hoạch riêng biệt như: kế hoạch sản xuất, kế hoạch marketing, kế hoạch tài chính, kế hoạch nhân sự. Kế hoạch tác nghiệp liên quan đến tất cả các lĩnh vực và tất cả các bộ phận của doanh nghiệp. Nó huy động tất cả các cán bộ phụ trách bộ phận. 2.3.Kế hoạch phát triển thị trường. 2.3.1. Quan niệm. Kế hoạch phát triển thị trường là một bộ phận của kế hoạch tác nghiệp.Kế hoạch phát triển thị trường là quá trình phân tích tình hình thị trường, nhu cầu, mong muốn và những biến đổi trong thị hiếu, biến đổi của thị trường. Từ đó, doanh nghiệp sẽ căn cứ vào khả năng, lợi thế của mình và đối thủ cạnh tranh để xác định các chỉ tiêu, mục tiêu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cho từng vùng, từng sản phẩm, khách hàng và đưa ra các giải pháp thực hiện để thực hiện mục tiêu đã đề ra. Trong phát triển thị trường, doanh nghiệp có thể xâm nhập sâu vào thị trường mục tiêu với những giải pháp marketing mạnh mẽ hơn trên thị trường đã có để tăng mức tiêu thụ, thu hút thêm khách hàng bằng các cải tiến về sản phẩm, thay đổi chính sách giá cả hay các tiện ích cho khách hàng…thu hút thêm khách hàng tiềm ẩn. Doanh nghiệp cũng có thể xâm nhập vào các đoạn thị trường mới để tăng lượng tiêu thụ. Căn cứ để doanh nghiệp xác định các mục tiêu phát triển và lập kế hoạch phát triển thị trường là những nghiên cứu về thị trường, thị trường mới, mức tiêu thụ của đối thủ cạnh tranh. Các kết quả tiêu thu của doanh nghiệp thời kỳ trước và khả năng về tài chính, sản xuất, nhân sự của doanh nghiệp. 2.3.2. Vai trò và mục tiêu. 2.3.2.1. Vai trò. Kế hoạch phát triển thị trường có sự liên kết với các kế hoạch khác trong doanh nghiệp. Kế hoạch giúp doanh nghiệp nắm bắt, duy trì và mở rộng thị trường một cách tốt hơn. Khi doanh nghiệp chuẩn bị tung ra sản phẩm mới hay có ý định cải tiến sản phẩm, xâm nhập vào thị trường mới sẽ có những căn cứ, hướng đi và thực hiện theo những trình tự logic tránh mò mẫm. Kế hoạch thị trường giúp doanh nghiệp hạn chế những rủi ro khi tiến hành ra nhập đoạn thị trường mới. Đặc biệt thị trường ngày càng biến động phức tạp, cạnh tranh khốc liệt theo nó là những rủi ro cao, kế hoạch thị trường giúp doanh nghiệp dự báo và lường trước những biến động, rủi ro có thể gặp phải và đuưa ra những giải pháp hạn chế rủi ro. Quá trình lập kế hoạch về thị trường giúp doanh nghiệp dự báo những biến động về nhu cầu thị trường và có những biện pháp xử lý. Hơn nữa, thông qua việc nghiên cứu, thu thập thông tin doanh nghiệp sẽ biết khách hàng cần gì về sản phẩm và những nhu cầu nào doanh nghiệp có thể đáp ứng và đáp ứng một cách tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Để tránh phát triển tràn lan, không hiệu quả gây lãng phí nguồn lực của doanh nghiệp, kế hoạch giúp tìm ra những lỗ hổng thị trường, những phân đoạn mà các doanh nghiệp khác còn yếu. Nó cho biết thị trường trọng tâm mà doanh nghiệp hướng đến, từ đó đưa ra các chính sách về sản phẩm chủ yếu, đối tượng phục vụ chủ yếu… Kế hoạch này còn là cơ sở xây dựng các chỉ tiêu đánh giá, kiểm tra. 2.3.2.2. Mục tiêu. Mục tiêu cuối cùng của bất kỳ kế hoạch nào trong doanh nghiệp cũng hướng đến đối tượng khách hàng. Khách hàng là đối tượng phục vụ của doanh nghiệp và cũng là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo lên thị trường, quy mô khách hàng tạo lên quy mô thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu. Bản thân nhu cầu thì không giống nhau và lại thường xuyên biến đổi. Do vậy, mục tiêu của kế hoạch thị trường là làm sao thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tối đa. Khi doanh nghiệp xác định và quyết định mở rộng thị trường thì mục tiêu chính của kế hoạch thị trường là tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường chung khi doanh nghiệp lựa chọn đi sâu vào thị trường hiện có và thoã mãn hơn nữa nhu cầu của khách hàng mục tiêu. Khi doanh nghiệp dự tính tung sản phẩm mới vào thị trường hoặc mở rộng phạm vi phục vụ tới những khách hàng tiềm năng, xâm nhập vào khu vực địa lý khác thì mục tiêu của kế hoạch phát triển thị trường là sản phẩm được chấp nhận, thu hút được khách hàng và chiếm được thị phần nhất định trên đoạn thị trường mới đó. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều muốn sản phẩm của mình được thị trường chấp nhận và bán được hết hàng. Mục tiêu của phát triển thị trường cũng không nằm ngoài mong muốn này. Đối với một doanh nghiệp thì hình ảnh của doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng và hình ảnh sản phẩm, nhãn hiệu sản phẩm là rất quan trọng. Đối với cùng một loại sản phẩm, khàch hàng sẽ quyết định lựa chon nhãn hiệu mà khách hàng tin tưởng và có ấn tượng tốt, và có cảm tình với tên tuổi doanh nghiệp. Do đó, để đạt được mục tiêu cuối cùng thì việc tạo hình ảnh tốt, tăng vị thế, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường và trong tâm trí khách hàng là cực kỳ quan trọng. 2.4.Nội dung của kế hoạch phát triển thị trường. Một bản kế hoạch phát triển thị trường tốt sẽ là cơ sở thực hiện và chương trình hành động của công ty để đạt được mục tiêu. Thông thường một bản kế hoạch về phát triển thị trường sẽ bao gồm những kết luận từ nghiên cứu thị trường; những tóm lược về thực hiện của côgn ty như doanh số, sản lượng tiêu thụ, lợi nhuận; hiện tình thị trường của công ty như sản phẩm, cạnh tranh, phân phối, giá cả…; phân tích các cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Và rất quan trọng trong bản kế hoạch là các mục tiêu về khối lượng tiêu thụ, thị phần, lợi nhuận trên những đoạn thị trường mà doanh nghiệp hướng theo đuổi. Sau khi có các mục tiêu sẽ là các giải pháp, chương trình hành động dự kiến làm gì, khi nào làm, ai làm chi phí bao nhiêu? Trong bản kế hoạch cũng có thể dự kiến lỗ lãi, những giả thiết về những tình huống có thể xảy ra và các biện pháp theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện kế hoạch. 2.4.1. Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường bao gồm các hoạt động nghiên cứu cung, cầu thị trường, nghiên cứu sự biến động và xu thế biến động của thị trường. Nghiên cứu môi trường vĩ mô và vi mô ảnh hưởng đến sự hoạt động của doanh nghiệp. Nghiên cứu cầu và xu hướng biến đổi của cầu sản phẩm: Nghiên cứu tổng cầu và cầu của doanh nghiệp, cầu của đối thủ cạnh tranh cụ thể cho từng sản phẩm trên một đơn vị thời gian và không gian cụ thể. Công tác này cần xác định được cầu hiện tại của doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh cũng như dự báo được cầu trong tương lai. Dự báo cầu tương lai có thể sử dụng quy trình ba giai đoạn: dự báo vĩ mô( lạm phát, thất nghiệp, lãi suất, chi tiêu, thu nhập…), dự báo mức tiêu thụ ngành, dự báo mức tiêu thụ của công ty. Để có kết quả nghiên cứu, dự báo tốt công ty có thể thăm dò ý định người mua, tổng hợp ý kiến của lực lượng bán hàng, lấy ý kiến chuyên gia,… và sử dung các phương pháp định lượng như phương pháp trung bình động, trung bùnh trọng số, phương pháp phân tích cấu trúc dòng cầu,… Nghiên cứu dựa trên thu nhập, mật độ dân cư,thói quen, tiến bộ khoa học công nghệ..Và dự báo được phản ứng của khách hàng trước những quyết định mới của doanh nghiệp như đưa sản phẩm mới, chính sách giá mới,… Nghiên cứu cung: Nghiên cứu về tổng cung thị trường hiên tại, cung của đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu về các chính sách của đối thủ như chất lượng sản phẩm, thị phần, sản lượng, giá cả, quảng cáo, phân phối, mạng lưới tiêu thụ. Doanh nghiệp cũng cần dự báo và đặt ra các giả thiết về phản ứng của đối thủ cạnh tranh và các nhà cung cấp trước các thay đổi và chính sách mới của doanh nghiệp. Từ những thông tin thu thập và xử lý sẽ cho doanh nghiệp các thông tin về qui mô thị trường, sản phẩm thay thế, khách hàng tiềm năng, thái độ khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Từ đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định mở rộng hay thu hẹp mạng lưới phân phối, mở rộng thì sẽ mở rộng theo hướng nào? Đưa sản phẩm mới nào thì tốt? Thị trường mà doanh nghiệp hướng tới là gì? 2.4.2. Xây dựng các căn cứ xác định mục tiêu. Để xác định được mục tiêu của kế hoạch doanh nghiệp cần có các kết quả nghiên cứu thị trường, nghiên cứu môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Để có thể tranh những mục tiêu xa vời hoặc mục tiêu quá thấp làm lãng phí nguồn lực thì lập kế hoạch cần có kết quả, tình hình nguồn lực của công ty như khả năng sản xuất, khả năng tài chính, nhân sự, nguồn vốn. Một yếu tố rất quan trọng làm căn cứ cho xác định mục tiêu của doanh nghiệp là tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tình hình tiêu thụ thể hiện ở tổng mức cung ứng ra thị trường, thị phần của doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng thị phần, tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận của từng mặt hàng. 2.4.3. Xác định các chỉ tiêu đánh giá và xây dựng mục tiêu. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kế hoạch và đánh giá thành công, đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch phải được xây dựng một cách thông nhất và đồng bộ. Các chỉ tiêu để đánh giá là doanh thu, lợi nhuận, tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận; thị phần, tốc độ tăng trưởng của thị phần; cơ cấu và tốc độ tăng của từng loại sản phẩm. 2.4.4. Đưa ra các giải pháp thực hiện. Để thực hiện được mục tiêu đã đề ra và thực hiện một cách có hiệu quả trước hết doanh nghiệp cần xác định thị trường tiêu thụ cho từng loại sản phẩm đối với doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực và sản phẩm đa dạng. Với đoạn thị trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập thì sản phẩm của doanh nghiệp phải có những đặc tính lợi ích gì với khách hàng. Khác biệt như thế nào so với sản phẩm cũ của những doanh nghiệp, hãng khác. Hoặc cải tiến sản phẩm của doanh nghiệp có những điểm khác biệt nổi bật gì so với sản phẩm cũ? Do thị trường có những phân khúc khác nhau, nhu cầu và sự thoả mãn của mỗi đoạn thị trường khác nhau, từng nhóm khách hàng với những mục đích sử dụng là khác nhau. Hơn nữa, những khác biệt mang tính địa lý như thói quen, phong tục tập quán, quan niệm, văn hoá địa phương cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự tiêu dùng sản phẩm. Do đó, không thể áp dụng cùng một chính sách đối với tất cả các đoạn thị trường mà cần có kế hoạch cụ thể cho mỗi sự khác biệt. Doanh nghiệp có những hạn chế nhất định về nguồn lực, khả năng. Vì vậy, các giải pháp thực hiện cũng phải thống nhất với việc lựa chọn thị trường mục tiêu. Nếu tập trung phát triển một đoạn thị trường thì doanh nghiệp cần xác định những chính sách về chất lượng và giá cả sản phẩm cạnh tranh cùng những kế hoạch hành động marketing mãnh mẽ hơn nhằm thu hút khách hàng. Khi quyết định phát triển theo hướng mở rộng sản phẩm thì điều doanh nghiệp cần quan tâm là nhu cầu mới của thị trường là gì? Hoặc doanh nghiệp có thể áp dụng theo hình thức chuyên môn hoá sản phẩm, tập trung vào việc sản xuất một loại sản phẩm có đặc thù đáp ứng nhiều đoạn thị trường. Điều cốt yếu mà khách hàng mong đợi ở doanh nghiệp là hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp mang lại cho họ. Do vậy, để thực hiện thành công mục tiêu thì doanh nghiệp không thể không có những giải pháp về sản phẩm. Sản phẩm đó có những đặc tính gì? Cách thức bao gói, nhãn hiệu, hình ảnh mà doanh nghiệp muốn định vị trong tâm trí khách hàng, chất lượng của sản phẩm. Đối với trường hợp sản phẩm của doanh nghiệp đã có những ghi nhận trong hiểu biết của khách hàng thì cần duy trì và củng cố những cặp nhu cầu- sản phẩm cho phù hợp với những động cơ của người mua, đồng thời tổ chức các hạot động marketing để hỗ trợ và phát triển hiểu biết của khách hàng theo hướng tích cực. Đối với sản phẩm mới xâm nhập thì có thể xâm nhập bằng cách cung ứng sản phẩm tương tự về kiểu dáng, gợi nên sự ưa chuộng như đối thủ cạnh tranh, hoặc thiết kế những hàng hoá hợi sự thôi thúc khác bằng những lợi ích mạnh mẽ cho khách hàng. Các giải pháp về giá cả sản phẩm và hạ giá thành sản xuất: Công ty có thể áp dụng một trong các chính sách giá cả như: Nhận nhiều hơn và trả bằng. Thông điệp mà công ty muốn mang đến cho khách hàng của mình là họ sẽ được cam kết chỉ phải trả mức giá bằng với loại hàng hoá của các hãng khách nhưng lại luôn được hưởng chất lượng tốt hơn. Đắt tiền hơn để có chất lượng và các giá trị khách cao hơn. Chính sách này có thể phát triển mạnh mẽ miễn là cao nhiều người mua không ngại ngùng vì tiêu dùng gây chú ý hoặc là có những người cảm thấy nên ủng hộ thành quả nỗ lực của nhà sản xuất. Tuy nhiên, nhược điểm của chính sách này là dễ bị tấn công bởi những đối thủ khách. Nhận bằng và trả ít hơn. Nhận được các giá trị, chât lượng bằng nhưng với giá thấp hơn. Đây là chính sách rất hấp dẫn song để làm được thì doanh nghiệp cần có các biện pháp hạ chi phí sản xuất, chi phí ngoài. Nhận ít hơn và trả ít hơn. Doanh nghiệp cung cấp các giá trị mà khách hàng quan tâm, những tính năng mà thực sự cần thiết cho khách hàng, tính năng ít hơn và giá cả cũng rẻ hơn. Nhận nhiều hơn và trả ít hơn. Đối với khách hàng thì đây là mong muốn và công ty cũng rất dễ thu hút được khách hàng. Nhưng đòi hỏi công ty phải có được những lợi thế nhất định trong sản xuất kinh doanh về chi phí, về bí quyết riêng, … Ví dụ về một số hãng đang thực hiện chính sách này như ToyS’R’US- cửa hàng cung cấp đồ chơi chủng loại đa dạng bậc nhất với giá rẻ nhất. Các hành động Marketing bán hàng, phân phối,, hành động marketing phụ trợ như quảng cáo, khuyến mại, lực lượng bán hàng… Doanh nghiệp nên tự tổ chức bán hàng hay dựa vào lực lượng khác. Các lực lướng đó là các đại lý, bán buôn, bán lẻ,…Số lượng là bao nhiêu? Khi nào thì tung sản phẩm ra thị trường? Với sản lượng bao nhiêu?... Các cách thức để khách hàng biết đến sản phẩm, mua sản phẩm. Tuyên truyền ra sao? Phương thức tuyên truyền đạt hiệu quả. Khuyến mại kèm theo và các biện pháp về dịch vụ sau bán, chế độ đãi ngộ đối với khách hàng…Doanh nghiệp tiến hành hình thức phân phối nào? Kênh ngắn, trung bình, hay dài. Bán hàng trực tiếp ra sao? Chương II. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THÀNH ĐỨC. 1.Tổng quan về công ty. 1.1.Lịch sử hình thành và phát triển. 1.1.1.Lịch sử hình thành. Công ty Cổ phần Thành Đức chính thức được thành lập ngày 03/12/2004 trên cơ sở sáp nhập của hai Công ty: Công ty Xuất nhập khẩu Thiên Sơn và Công ty TNHH Phát triển thương mại và dịch vụ Nam Anh.    Với sự sáp nhập của hai Công ty đã có uy tín trên thị trường và có bề dày hoạt động trong các lĩnh vực thiết kế và xây dựng nội thất, Công ty Cổ phần Thành Đức đã kế thừa được những kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, có nền tảng vững chắc để sẵn sàng đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng về mặt tiến độ cũng như chất lượng, kỹ - mỹ thuật công trình .Ngoài trụ sở chính của Công ty ở 14 Lê Văn Linh , Công ty Thành Đức còn có một xưởng sản xuất đồ nội thất tại Cổ Bi huyện Gia Lâm – Hà Nội được trang bị thiết bị máy móc hiện đại, đầy đủ, với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, công nhân viên lành nghề.  Thành Đức luôn cung cấp cho khách hàng những dịch vụ trọn gói trong việc tư vấn thiết kế, sản xuất và thi công lắp đặt nội thất theo phương châm: “Làm đẹp cho cuộc sống của bạn” Tên giao dịch quốc tế: THÀNH ĐỨC Corporation. Tên viết tắt: THÀNH ĐỨC CORP. Trụ sở chính: Số 14 Lê Văn Linh- Hoàn Kiếm- Hà Nội. - Vốn điều lệ: Do các cổ đông tự nguyện tham gia bằng nguồn vốn hợp pháp của mình. - Tại thời điểm thành lập tổng vốn điều lệ: 5.000.000.000 VNĐ.(Năm tỷ đồng). Nguồn vốn hoạt động của công ty bao gồm: + Vốn điều lệ ban đầu + Các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản + Các quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ, quỹ khấu hao TSCĐ, quỹ đầu tư, phát triển… + Lợi nhuận để lại. + Vốn tài trợ… 1.1.2.Lĩnh vực hoạt động. Công ty hoạt động trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến nội thất nhà ở, văn phòng, công sở, các khu công nghiệp, đô thị. Ngoài sản xuất các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu chính là gỗ, công ty còn có các sản phẩm phục vụ các công trình xây dựng như ngói màu, nguyên vật liệu xây dựng. - Sản xuất chủ yếu của công ty là nội thất. Xây dựng và lắp đặt các công trình có liên quan đến nội thất như văn phòng, nhà ở, khu công nghiệp… - Sản phẩm sản xuất chủ yếu là đồ nội thất như: gạch màu, các sản phẩm từ gỗ, nội thất văn phòng, nội thất nhà ở… Bên cạnh đó công ty còn có các dịch vụ liên quan đến xây dựng như tư vấn đầu tư, tư vấn xây lắp, mua sắm… Tư vấn, đầu tư: Lập và thực hiện các dự án xây dựng, kinh doanh nhà ở, khu đô thị và khu công nghiệp. Kinh doanh các dịch vụ về nhà ở, khu đô thị, khu công nghiệp và văn phòng. Khảo sát, giám sát công trình xây dựng. Thiết kế quy hoạch chung, tổng thể, chi tiết với khu đô thị, nông thôn và khu công nghiệp. Sản xuất và buôn bán vật liệu xây dựng và thiết bị nội thất. Kinh doanh bất động sản. Kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí. - Công ty có thể chuyển đổi hoặc mở rộng hình thức kinh doanh. - Công ty đa dạng hóa các loại hình hoạt động nhưng có liên quan với nhau. 1.1.3. Chính sách chất lượng. Công ty hoạt động với mục tiêu vì lợi nhuận. Làm ăn hiệu quả và đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua thuế doanh nghiệp góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nội thất nói riêng. Với slogant: Make Your life beautyful. ( Làm đẹp cho cuộc sống của bạn) Công ty đảm bảo cung cấp sản phấm, dịch vụ chất lượng cao cho mọi khách hàng. Với mẫu mã đa dạng phù hợp thị hiếu của khách hàng. Vừa mang nét đặc trưng của sản phẩm Việt vừa hiện đại tiện nghi bắt kịp với cuộc sống sôi động. Với các sản phẩm làm từ gỗ, quy trình sản xuất phải tuân thủ tuyệt đối, đảm bảo đúng kỹ thuật, đúng thời gian do đặc trưng của sản phẩm để đảm bảo độ bền, mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm không bị ảnh hưởng bởi thời gian. PhiÕu giao viÖc tõ C«ng ty Yªu cÇu söa ch÷a b¶o hµnh Hµnh chÝnh – KÕ ho¹ch Kü thuËt + Bãc t¸ch vËt t­ + BiÖn ph¸p Kü thuËt -Thi c«ng + Yªu cÇu nh©n lùc + Ph­¬ng ¸n – Thi c«ng + §Ò xuÊt tæ thî S¶n xuÊt ChuÈn bÞ: + C«ng cô + VËt t­ + Nh©n lùc + Ph­¬ng ¸n tæ chøc thi c«ng KÕ to¸n + Theo dâi + Dù trï vËt t­ KÕ ho¹ch S¶n xuÊt + Chän tæ thî + ¸p ®¬n gi¸ + PhiÕu giao viÖc + KÕ ho¹ch thi c«ng + Dù trï c«ng vô vËt t­ KÕ ho¹ch KÕ to¸n + Theo dâi + XuÊt vËt t­ KiÓm so¸t kÕ ho¹ch KiÓm so¸t vËt t­, nh©n c«ng KiÓm so¸t thùc hiÖn Kü thuËt, vËt t­ KiÓm so¸t chÊt l­îng thùc hiÖn s¶n xuÊt + §¶m b¶o chÊt l­îng + §¶m b¶o tiÕn ®é + TiÕt kiÖm vËt t­ NghiÖm thu s¶n phÈm + S¶n xuÊt: chÊt l­îng, sè l­îng, tiÕn ®é + Kü thuËt: chÊt l­îng + KÕ ho¹ch: sè l­îng + KÕ to¸n: phiÕu xuÊt Sơ đồ 1:Chu tr×nh triÓn khai c«ng viÖc Giao viÖc s¶n xuÊt Yªu cÇu ®Ò xuÊt vËt tư 2.Cơ cấu tổ chức. 1.2. Cơ cấu tổ chức Công ty hoạt động theo hình thức công ty cổ phần Cơ quan quyết định cao nhất là đại hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông bầu Hội đồng quản trị để quản lý công ty. Điều hành mọi hoạt động của Công ty là Tổng giám đốc điều hành do Hội đồng quản trị bổ nhiệm và miễn nhiệm. Ban giám sát do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Sơ đồ 2:Sơ đồ tổ chức. Tổng giám đốc P.Kế hoạch P. Tổng giám đốc P.Tổng giám đốc P.Lao động, tiền lương P.Kế toán P.Thiết kế,kỹ thuật P.Kinh doanh P.Hành chính Xưởng sản xuất (Nguồn: phòng hành chính) 1.3.Tổ chức các phòng ban tại công ty. Hoạt động của các phòng ban và bộ phận trong công ty có mối liên hệ mật thiết với nhau. *. Phòng kế hoạch- kinh doanh. Bộ phận kế hoạch tham gia với tư cách là tư vấn, cố vấn việc soạn lập chiến lược của doanh nghiệp, thảo luận cùng ban lãnh đạo để quyết định chiến lược doanh nghiệp. Cung cấp thông tin, đánh giá môi trường bên trong và ngoài doanh nghiệp từ đó tham gia vào soạn thảo dự báo các chỉ tiêu kế hoạch. Theo dõi, giám sát việc thực hiện kế hoạch và có những điều chỉnh cần thiết. * Phòng thiết kế, kỹ thuật. Với đặc thù của sản phẩm, dịch vụ của công ty thì phòng thiết kế, kỹ thuật có vai trò rất quan trọng. Hoạt động của phòng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Và liên quan đến các phòng ban khác trong công ty. Đảm bảo phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả, đúng tiến độ với kế hoạch. Đội ngũ nhân viên của phòng được trang bị chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ đảm bảo mặt chất của sản phẩm, bộ mặt của sản phẩm. Chức năng chủ yếu của phòng là đảm nhận việc thiết kế sản phẩm. Đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật theo đúng tiêu chuẩn. Đưa ra bản vẽ cụ thể , các yêu cầu lắp đặt, sản xuất. Giám sát việc thực hiện và điều chỉnh về mặt kỹ thuật,tiến độ, chật lượng các sản phẩm. * Phòng hành chính. Đảm bảo công tác hành chính của toàn công ty. Cập nhập các thông tư, quy định, luật pháp của nhà nước liên quan đến lĩnh vực hoạt động của công ty và thông báo đến ban lãnh đạo công ty. Lưu trữ các giấy tờ, hồ sơ của công ty… * Phòng lao động, tiền lương. Đây là một bộ phận rất quan trọng của mọi công ty. Phòng có chức năng quản lý nhân sự của công ty, giải quyết các vấn đề về tiền lương ,chế độ đối với người lao động… Ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đội ngũ nhân viên. Phòng có chức năng cung cấp thông tin về nguồn nhân lực, mối quan hệ giữa các nhân viên trong công ty. Phòng có liên hệ chặt chẽ với các phòng khác như phòng kế hoạch, kinh doanh, bộ phận thi công,…Nhằm mục đích phân tích nhu cầu nhân sự của công ty, tuyển dụng nhân sự, đánh giá đào tạo và phát triển kỹ năng và kiến thức của nhân viên. Từ đó bố trí, sắp xếp,sử dụng nguồn lực một cách hợp lý và xác định được số tiền công để trả cho người lao động. *. Phòng Kế toán. Phòng kế toán là phòng nghiệp vụ tham mưu cho tổng giám đốc kiểm tra thực hiện, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc và pháp luật về thực hiện công tác tài chính- thống kê- kế toán của công ty, thực hiện các chính chính sách, chế độ về tài chính. Cùng với phòng kế hoạch, kinh doanh xây dựng giá thành vật tư, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Tham mưu về giá. Hạch toán giá thành thực tế của các đơn hàng, lập kế hoạch quản lý thu chi tài chính, xây dựng mức vốn lưu động, quản lý sử dụng vốn,… Hạch toán toàn bộ những số liệu phát sinh bằng tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tổng hợp, phân tích hiệu quả sản xuất trong công ty. 2.Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm gần đây. 2.1.Kết quả hoạt động. Bảng 1. Một số kết quả SXKD. (Đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng doanh thu thuần 10248 11240(+9.7%) 12837(+14.2%) Giá vốn(+KH) 8508 9241.1 10458 Lợi nhuận trước thuế 1740 1998.9(+14.9%)) 2379(+19%) Thuế 504.6 579.7 689.9 Lợi nhuận ròng 1235.4 1419.2 1689.1 ( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty CP Thành Đức) Dựa vào bảng trên ta thấy doanh thu của công ty qua ba năm liên tục có sự tăng trưởng và tăng trưởng với tốc độ cao. Đặc biệt trong năm 2007 . Tuy mới thành lập song doanh thu của doanh công ty liên tục tăng với tốc độ cao: Năm 2006 doanh thu tăng 9.7 % . Đặc biệt năm 2007 với tốc độ tăng kỷ lục 14.2 %. Theo kế hoạch của công ty doanh thu dự kiến năm 200 là 9316 tỷ đồng. Thực hiện đạt 10284 Vượt kế hoạch 10%. Năm 2006 kế hoạch 10000 tỷ đồng, như vậy vượt kế hoạch 12.4 %. Năm 2007 vượt kế hoạch 14%. Theo bảng trên ta thấy lợi nhuận tăng qua các năm và luôn tốc độ tăng cao hơn so với doanh thu. Điều này chứng tỏ hiệu quả kinh doanh cũng tăng lên qua các năm. Theo báo cáo kết quả hoạt động sản xuất hoạt động kinh doanh của công ty doanh thu của công ty chủ yếu là từ sản hoạt động sản xuất theo đơn đặt hàng, doanh thu từ lắp đặt các công trình chiếm đến khoảng 70% doanh thu của toàn công ty. Tiếp theo là các mặt hàng từ gỗ như bàn ghế, tủ bàn văn phòng… sản xuất sẵn.. Lợi nhuận của công ty : - Lợi nhuận thuần ( Lợi nhuận trước thuế) = Tổng doanh thu - Tổng chi phí. - Lợi nhuận ròng ( Lợi nhuận sau thuế) = Lợi nhuận thuần - Thuế. Trích lập các quỹ trước khi phân chia cổ tức cho các cổ đông. Các quỹ: Quỹ dự trữ bắt buộc: ít nhất bằng 5% lợi nhuận ròng để bổ sung vốn điều lệ và dự trữ tài chính cho năm sau ( đến mức banừg 10% vốn điều lệ). Quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi 10%. Các quỹ khác do hội đồng quản trị trình đại hội đồng cổ đông quyết định. - Số cổ tức được chia cho các cổ đông theo phần góp vốn . 2.2. Đánh giá một số chỉ tiêu. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuận ròng / Doanh thu (I). Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản (II). Lợi nhuận ròng / Vốn chủ sở hữu (III). Bảng 2: Một số chỉ tiêu thể hiện doanh lợi. ( Đơn vị: % ) 2005 2006 2007 I 12.06 12.63 13.16 II 17 17.45 18.63 III 19 18.6 20.59 (Nguồn: Báo cáo tài chính của công ty CP Thành Đức). Bảng 2 cho ta thấy: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm trong ba năm gần đây của công ty rất cao và liên tục tăng qua các năm. Nguyên nhân một phần do đặc tính của lĩnh vực kinh doanh nội thất vừa mang tính kỹ thuật cao vừa mang tính thẩm mỹ do vậy việc doanh lợi tiêu thụ sản phẩm cao là điều tất yếu. Đặc biệt do công ty liên tục cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm do đó trong năm 2007 chỉ số này đã đến con số 13.16%. một con số khá cao so với các ngành nghề khác. Lợi nhuận ròng / tổng tài sản, lợi nhuận ròng /vố chủ sở hữu cũng đạt ở mức rất cao. Điều này phản ánh hiệu quả của hoạt động đầu tư của công ty.Tuy nhiên chênh lệch giữa hai chỉ số này không nhiều chứng tỏ hoạt động của công ty chủ yếu dựa nhiều vào nguồn vốn chủ sở hữu. 2.3. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. * Thành tựu Là một công ty mới thành lập song đã có bề dày kinh nghiệm do được sáp nhập từ hai công ty thành viên. Đội ngũ quản lý có trình độ và kinh nghiệm. Dần khẳng định được vị thế, uy tín của mình với các đối tác. Chất lượng của sản phẩm luôn được đảm bảo do được sản xuất dưới quy trình hiện đại, giám sát chặt chẽ từ đó tạo được uy tín với khách hàng. Doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng trưởng với tốc độ cao. * Hạn chế. Là một công ty mới thành lập do đó thị trường của công ty còn nhiều hạn chế và chưa thực sự ổn định. Thương hiệu Thành Đức còn khá mới mẻ. Trong các siêu thị nội thất Thành Đức xuất hiện khá khiêm tốn do công ty chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng. Sản xuất để dự trữ chiếm một tỷ trọng nhỏ và chưa thực sự được đầu tư đúng mức. Công ty chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng do đó tính chủ động trong sản xuất còn thấp. Cơ sở hạ tầng mặc dù đã được tập trung nâng cấp nhưng còn thiếu đồng bộ do đó năng suất còn chưa cao. Các hoạt động dịch vụ của công ty còn manh mún, chưa đạt trình độ chuyên môn hóa cao. Doanh thu từ các hoạt động này còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Quy mô, ngành nghề kinh doanh chủ yếu vẫn tập trung vào các đơn đặt hàng từ các công trình với các đối tác lớn là các ngân hàng. Đặc biệt đối tác chủ yếu của công ty còn hạn chế trong nước. Doanh nghiệp hoạt động mạnh ở các tỉnh phía bắc, hạn chế ở miền Trung và thị trường miền Nam vẫn chưa được khai thác. Điều này có thuận lợi là công ty tập trung được nguồn lực, căn bản đáp ứng được nhu cầu và hiểu rõ thị trường hoạt động của mình. Song như vậy, thực sự công ty vẫn chưa khai thác được hết tiềm năng, nguồn lực. Hơn nữa, như vậy hiểu biết về thị trường còn hạn chế, những nghiên cứu và dự báo sẽ bị hạn chế về địa lý ảnh hưởng không tốt đến các quyết định của doanh nghiệp khi mở rộng thị trường tiêu thụ của mình. 3.Thực trạng về tình hình phát triển thị trường của công ty. 3.1. Phát triển theo chiều rộng. 3.1.1.Về mặt hàng. Là một doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực nhưng mặt hàng chủ lực của công ty vẫn thuộc lĩnh vực nội thất. Trong những năm gần đây, công ty liên tục tung ra các mặt hàng mới với nhiều kiểu dáng, mẫu mã khác nhau nhằm thõa mãn các thị hiếu khác nhau của khách hàng, mang đến nhiều sự lựa chọn cho khách hàng. Sản phẩm của Thành Đức có thể chia ra các loại: Sản phẩm nội thất ngân hàng, nội thất văn phòng, nội thất gia đình, gạch lát nền, ngói màu. Trong đó, sản phẩm nội thất ngân hàng và nội thất văn phòng chiếm tỷ trọng cao và tạo doanh thu cao cho công ty. Một số sản phẩm tiêu biểu phục vụ ngân hàng như: Quầy dịch vụ khách hàng, Quầy lễ tân, Quầy giao dịch,… của Ngân hàng. Đối với nội thất văn phòng, công ty cung cấp các sản phẩm như: bàn làm việc, ghế giám đốc, quầy giao dịch,… với chất lượng tốt, đa dạng mẫu mã. Trong thời gian gần đây, công ty đã tung ra loạt sản phẩm ngói màu, test và đã được thị trường chấp nhận. Để có thể phát triển loạt sản phẩm này công ty đã có những chuẩn bị kỹ về kế hoạch hành động marketing bán hàng, quảng cáo mạnh mẽ trên các palo, tư vấn, hướng dẫn sử dụng, bảo quản. 3.1. 2. Về mặt địa lý. Ban đầu, khi mới thành lập, quy mô sản xuất kinh doanh của công ty còn nhỏ, địa bàn hoạt động chủ yếu vẫn là các tỉnh phía bắc đặc biệt các tỉnh thuộc khu vực phụ cận Hà Nội. Trong hai năm trở lại đây, công ty đã dần mở rộng quy mô, mở rộng thị trường và địa bàn tiêu thụ. Tuy nhiên, thị trường chủ yếu của công ty vẫn thuộc các tỉnh phía bắc và một số tỉnh miền trung. Theo số liệu thống kê thì có đến 70% doanh thu của công ty là từ khu vực phía bắc, với lợi nhuận đên 75%. Còn lại 30% là thu từ thị trường miền Trung. Miền Nam vẫn đang là thị trường khá mới mẻ đối với công ty và đang trở thành thị trường tiềm năng. Trong khi một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nội thất đã dần xâm nhập và phát triển khá thành công trên một số thị trường khu vực ( Mỹ, EU,..) thì Thành Đức vẫn chưa có sản phẩm xuất khẩu. Các lĩnh vực khác như thi công công trình, tư vấn đầu tư… vẫn chỉ giới hạn trong nước. Đặc biệt là lĩnh vực khách sạn chủ yếu phát triển ở Hà Nội. 3.2. Phát triển theo chiều sâu. Quy mô thị trường của doanh nghiệp thể hiện ở nhiều tiêu chí như thị phần nói chung của doanh nghiệp. tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân( thể hiện ở tốc độ tăng doanh thu bình quân), số lượng thị trường mới của doanh nghiệp,.. Đối với công ty tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân trong 3 năm là 10,5 %. Là một doanh nghiệp trẻ, ban đầu Thành Đức xác định nhóm khách hàng mục tiêu của mình là nội thất phục vụ các ngân hàng, văn phòng, công sở của các công ty. Sản phẩm nội thất như biển hiệu, trang trí nội thất tạo bộ mặt cho các văn phòng tạo ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho khách hàng. Một số công trình và sản phẩm nội thất của Thành Đức đã phục vụ các ngân hàng và công ty như: ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng Hải, Công t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28506.doc
Tài liệu liên quan