Kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 – 2005

Lời mở đầu Với hơn 2000 loài cá biển, 101 loài tôm biển, 650 loài rong biển, 12 loài rắn biển, 4 loài rùa biển và ngoài ra còn nhiều loài đặc sản quí hiếm như : Yến sò, Sò huyết, Trai ngọc, Điệp, San hô đỏ... Thanh Hoá nằm trong vùng ven biển duyên hải miền Trung với bờ biển dài 102 km, với 6 cửa lạch chính rất thuận tiện cho hoạt động của các phương tiện đánh bắt hải sản đồng thời có nhiều ao, hồ, đầm vụng tự nhiên thuận lợi nuôi trồng thuỷ sản. Trong những năm vừa qua ngành thuỷ sản Việt nam

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 – 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nói chung và Thanh hoá nói riêng đẫ đạt được những thành tựu nhất định, đó là sản lượng và năng suất khai thác, nuôi trồng thuỷ sản ngày càng tăng, chế biến hải sản đạt một số tiêu chuẩn quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản Thanh hoá. Tuy nhiên, thuỷ sản Thanh hoá chưa phát triển ngang tầm với tiềm năng của nó. Đó là trong khai thác hải sản đạt hiệu quả chưa cao, nuôi trồng thuỷ sản thì phát triển một cách tự phát, thiếu sự quy hoạch đồng bộ, công nghiệp chế biến thuỷ sản còn lạc hậu so với thế giới. Để phát huy được những thành tựu và khắc phục dần những hạn chế trong thời gian qua thì việc xây dựng kế hoạch phát triển cho ngành thuỷ sảnlà cần thiết. Bởi lẽ nó cụ thể hoá chiến lược và góp phần thực hiện thành công ba chương trình lớn của ngành thuỷ sản: chương trình khai thác hải sản xa bờ, chương trình nuôi trồng thuỷ sản và chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ. Đồng thời kế hoạch sẽ đảm bảo phân bố sử dụng nguồn lực một cách hợp lý, tiến tới phát triển ngành thuỷ sản bền vững theo hướng bảo vệ môi trường sinh thái. Như vậy kế hoạch phát triển ngành vừa bảo đảm tính hiện thực, vừa bảo đảm tính định hướng lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và phù hợp với chuyên ngành, em xin mạnh dạn chọn đề tài ''Kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2005 '' Trong đề tài này sẽ đề cập đến một số vấn đề có tính hệ thống về tiềm năng, phương hướng và các giải pháp nhằm phát triển ngành đến năm 2005. Nội dung đề tài gồm 3 chương : Chương một : Sự cần thiết xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển ngành thuỷ sản. Chương hai : Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá. Chương ba : Xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá đến năm 2005. Tuy vậy vì trình độ người viết còn có nhiều hạn chế. Thời gian ngắn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy, cô giáo và các bạn góp ý kiến đóng góp, bổ sung. Qua đây em muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới GS- TS Vũ Thị Ngọc Phùng và các cô chú trong Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá đã tận tình hướng dẫn em trong việc hoàn thành đề tài này. Chương một Sự cần thiết xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển ngành thuỷ sản I/ Vai trò của ngành thuỷ sản đối với phát triển kinh tế - xã hội. 1. Đặc điểm của ngành thuỷ sản: Thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại, là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thuỷ sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thuỷ sinh, tiềm năng các vùng nước, do vậy có mối liên ngành rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, du lịch, hải quan v.v... Ngành thuỷ sản được xác định là giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài nguyên có thể tái sinh quan trọng của đất nước. Những tài nguyên với tiềm năng có thể đóng góp lớn cho các mục tiêu về tài chính, về công ăn việc làm và về dinh dưỡng. Xét một cách toàn diện thì ngành thuỷ sản có các đặc điểm sau: + Là một ngành vừa mang tính công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, lại vừa chịu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên. + Là ngành có các đối tượng tham gia hoạt động sản xuất rất đa dạng: Nhà máy, Xí nghiệp, hộ gia đình, Hợp tác xã, nông trường, trường học, quân đội v.v.. + Là ngành sản xuất có liên quan tới việc sử dụng diện tích mặt nước cũng như khai thác sản phẩm có liên quan tới mặt nước. Các sản phẩm thuỷ sản, có khẩu vị ngon, dễ chế biến, lượng đạm không tích mỡ, đa dạng, có giá trị dinh dưỡng có kinh tế cao. + Là ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, có thể thu được sản phẩm và tiêu thụ trong một thời gian ngắn. Thực tiễn đã chứng minh rằng việc đầu tư lao động sống và lao động vật hoá vào hoạt động sản xuất nghề cá một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Một ngư dân bình quân hàng năm đánh bắt được từ 2,04 - 2,07 tấn cá biển, trị giá tương đương với khoảng 10 tấn thóc. Trong khi đó, một lao động nông nghiệp nếu thực hiện 1 ha gieo trồng lúa chỉ đạt được 3- 4 tấn thóc/năm. + Hoạt động sản xuất của ngành diễn ra trong một phạm vi rộng lớn: các cơ sở chế biến, bến cảng, biển, ao, sông, hồ, suối v.v... + Là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn tạo khả năng khai thác quy mô lớn nhưng phải có sự tác động của con người để tái tạo nguồn tài nguyên này. Như vậy, với những đặc điểm vốn có như vậy thì ngành thuỷ sản Việt Nam muốn phát triển tốt phải biết tận dụng nguồn tài nguyên quý hiếm này để đem lại hiệu qủa kinh tế xã hội cao nhất. 2. Vai trò của ngành thuỷ sản đối với phát triển kinh tế xã hội. Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, vai trò quan trọng của ngành thuỷ sản trong sự phát triển kinh tế xã hội, nhất là 20 năm qua với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng về sản lượng và giá trị xuất khẩu, ngành kinh tế thuỷ sản ngày càng được xác định rõ là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những hướng ưu tiên của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay. Các kết quả trong quá khứ đã cho ta thấy nghề đánh bắt và nuôi trông thuỷ sản có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ công ăn việc làm ở vùng nông thôn. Nó cũng chứng minh tiềm năng ngành thuỷ sản đóng góp cho thu nhập ngoại tệ và thương mại quốc tế. Những năm qua là giai đoạn tăng trưởng liên tục của ngành thuỷ sản trên mọi mặt, từ khâu đánh bắt, nuôi trồng đến chế biến thuỷ sản. Năng lực sản xuất hiện có đã tạo cho nghề cá có truyền thống của nước ta trong quá trình đổi mới, đạt tổng sản lượng tăng 2,13 lần giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 49 lần trong giai đoạn 81 - 94 đưa ngành thuỷ sản thực sự là một ngành kinh tế quốc dân đóng góp 5% GDP, thu hút hơn 3 triệu lao động trong cả nước, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng trên vùng biển tổ quốc. Ngành thuỷ sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng hiện nay ngành thuỷ sản chưa được ưu tiên hơn bất kỳ lĩnh vực nào của nên kinh tế. Vì vậy với tiềm năng nguồn lợi phong phú và đa dạng ngành thuỷ sản muốn phát triển thì một điều quan trọng là ngành phải được nhìn nhận và được cho là ngành trong những ngành kinh tế ưu tiên phát triển. Vai trò quan trọng của ngành thuỷ sản được thể hiện ở các mặt sau: 2.1. Phát triển ngành thuỷ sản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy GDP Việt Nam ước tính khoảng 446194 tỷ đồng vào năm 2000. Điều này tương ứng với mức GDP tính theo đầu người khoảng 400USD. Việc chia bình quân GDP tính theo đầu người cũng đã cho thấy thực tế là thu nhập của dân cư ở nông thôn còn bị bỏ xa đáng kể so với những người sống ở Hà nội và vùng thành thị. ở vùng nông thôn hẻo lánh, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. GDP bình quân đầu người còn thấp và tình trạng nghèo đói còn cao. Theo thống kê GDP được cấu thành như nêu ở bảng sau: Biểu 1 Tốc độ tăng GDP và tỷ trọng đóng góp của ngành trong GDP của Việt Nam năm 2000. Các lĩnh vực kinh tế tỷ lệ trong GDP (%) Tốc độ tăng rưởng Nông nghiệp 24,3 % 4,04% Công nghiệp 36,6% 10,07% Dịch vụ 3,91% 5,57% Tổng 100% 6,75% Theo số liệu thống kê, tổng sản phẩm nội địa của ngành thuỷ sản đạt 18.434,6 tỷ đồng chiếm 5% GDP của Việt Nam, tổng sản lượng thuỷ sản năm 2000 đạt 2.003.700 tấn tăng 9,59 % so với thực hiện năm 1999. Trong đó: + Khai thác hải sản đạt 1.280.590 tấn tăng 5,6% so với thực hiện năm 1999 so với chỉ tiêu Đại hội Đảng đề ra 1.100.00 tấn đã vượt 16,71%. + Nuôi trồng thuỷ sản và khai thác nội địa đạt 723.110 tấn, tăng 17,6% so với năm 1999, so với chỉ tiêu Đại hội Đảng đề ra 500.000 - 600.00 tấn đã tăng 20,51%.trung + Công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu là công nghiệp đông lạnh thuỷ sản với164 cơ sở với tổng công xuất là 760 tấn 1 ngày đã đóng vai trò to lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước và thu hút nguyên liệu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu. + Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ: Các hoạt động và thành tựu về khoa học công nghệ nổi bật được xây dựng và áp dụng trong hơn 20 năm qua, trước hết phải kể đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp hàng năm hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong đánh cá dần dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu quả cao, du nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ. + Hoạt động hợp tác quốc tế xét cả 3 mặt: Thị trường xuất khẩu, nguồn vốn nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt được những kết quả khích lệ. Từ cơ chế lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi trồng, qua thời kỳ Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, sản phẩm thuỷ sản nước ta đã có mặt tại 64 nước và vùng lãnh thổ với một số sản phẩm bắt đầu có uy tín trên thị trường quan trọng. Theo tổ chức nông lương thế giới FAO thì nước ta đứng thứ 29 thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, đứng thứ 4 ở khu vực ASEAN. Trao đổi quốc tế trên lĩnh vực công nghệ đã góp phần để có kết quả nêu ở trên đây. Là thành viên của NACA từ năm 1998, của SEAFDEC từ năm 1994, tham gia các hoạt động ICLARM, quan sát viên của INFOFISH cũng như sự hiện diện nghề cá nước ta ở nhiều hoạt động nghề cá thế giới. Đó là những nhân tố tạo tiền đề cho sự phát triển của chúng ta. Dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thuỷ sản đối với ngành kinh tế quốc dân sẽ tăng từ mức hiện nay năm 1998 từ 18.434,6 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng vào năm 2010. Tỷ trọng tương ứng của ngành thuỷ sản trong GDP sẽ giảm do có sự tăng trưởng mạnh trong các ngành khác của nền kinh tế, song đóng góp của ngành thuỷ sản đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng và tiềm năng phân phối thu nhập của ngành thuỷ sản ở các vùng nông thôn. Một bộ phận dân ở nông thôn, thường là vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào nghề cá và ngành nuôi trồng thuỷ sản bao gồm cả thiểu số ở vùng cao. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản sẽ tăng cường năng lực của ngành này bằng cách đó sẽ tăng sự đóng góp của ngành đối với xã hội. Hiện đại hoá và phát triển sẽ giúp thiết lập các ngành công nghiệp mới và những ngành công nghiệp đã hoàn thiện tại các vùng ven biển mà sẽ nâng cao vai trò của ngành thuỷ sản đối với phát triển kinh tế xã hội. 2.2. Vai trò của ngành thuỷ sản đối với hoạt động xuất khẩu của nước ta. Tổng sản lượng thuỷ sản Việt Nam tăng hơn 2,2 lần giai đoạn 1985 - 1999 trong đó hải sản đánh bắt tăng hơn 2 lần và thuỷ sản nuôi trồng tăng 2,6 lần. Biểu2: Sản lượng thuỷ sản Việt Nam Năm 1985 1990 1995 1999 Đánh bắt 580 710 930 3.200 Nuôi trồng 230 310 415 610 Tổng sản lượng 810 1.020 1.345 1.810 Nếu như năm 1986 Việt Nam mới chỉ có 385 ngàn ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, thì đến năm 1999 đã tăng lên 630 ngàn ha. Trong đó 340 ngàn ha mặt nước ngọt và 290 ngàn ha mặt nước lợ, mặn với nhiều chủng loại hải sản phong phú: tôm, cá, nhuyễn thể, cua, rong biển v.v... và dưới nhiều hình thức nuôi đa dạng: nuôi ao, hồ, ruộng trũng, lồng trên sông trong đầm nước lợ, rừng ngập mặn... Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển Nam bộ gần ( 80% ). Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 1999 đạt 985 triệu USD ( chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam hay gần 2% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới ) tăng gần 10 lần so với năm 1996. Biểu3: Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 1996 - 2000. Năm 1986 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Kim ngạch XK ( triệu USD ) 102 205 262 305 368 458 550 670 780 858 985 Tốc độ tăng trưởng % 101 28 16 20 24 20 21 15 10 14 Năm 1999 tổ chức lương thức thế giới FAO đã xếp Việt Nam vào vị trí thứ 29 trên thế giới và thứ 4 trong các nước ASEAN về xuất khẩu thuỷ sản Hiện nay thuỷ sản xuất khẩu ở Việt Nam đã vươn tới 64 nước trên thế giới. Ngành xuất khẩu thuỷ sản ở Việt Nam đang phát triển rất nhanh chóng và cạnh tranh mạnh mẽ với Thái Lan, Indonesia, Malaysia tại hầu hết các thị trường truyền thống của những nước này nhờ những ưu thế về sản phẩm sạch, ít ô nhiễm, giá cả thấp. 2.3. Vai trò của ngành thuỷ sản trong việc tạo công ăn việc làm góp phần xoá đói giảm nghèo. Dân số Việt Nam có khoảng 80 triệu người trong đó có khoảng 64 triệu chiếm 80% sống ở các vùng nông thôn và 16 triệu người chiếm 20% sống ở đô thị. Tỷ lệ nữ là 55,6%; nam là 44,6%. Mật độ dân số trung bình khoảng 240 người/km2 trong khi mật độ ở các vùng nông nghiệp là 900 người/km2. Ngành đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản đảm bảo việc làm thường xuyên cho khoảng 3 triệu người. Khoảng 3,8 triệu người sống trong các hộ gia đình làm nghề đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, sống nhờ chủ yếu dựa vào ngành này. Những số liệu này cho thấy khoảng 6,8 triệu người chiếm 8,7% tổng số dân sống phụ thuộc vào ngành thuỷ sản như một nguồn sinh sống. Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản cũng như từ các ngành và các hoạt động hỗ trợ thuỷ sản được ước tính cao tới 8 triệu người. Ngoài ra đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản còn đảm bảo việc làm không thường xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triêụ người. Dự kiến toàn bộ số dân dựa vào nghề cá sẽ tăng từ 6,2 triệu người năm 1995 lên 8,1 triệu người vào năm 2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa thu nhập trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/ năm trong thời gian nêu trên. Trên 1,2 triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trông thuỷ sản sẽ thêm thu nhập vào năm 2000 tăng 3 triệu người. 2.4. Vai trò của ngành thuỷ sản trong việc cung cấp dinh dưỡng. Gần 95% khối lượng thuỷ sản và các sản phẩm thuỷ sản được tiêu thụ tại chỗ. Trong đó số các sản phẩm thuỷ sản được tiêu thụ trong nước, thì 50% được chế biến thành nước mắm, bột cá và các thực phẩm: 25% được tiêu thụ ở dạng tươi sống. Năm 1998 ngành thuỷ sản cung cấp khoảng 11,5 kg các sản phẩm thuỷ sản cho tiêu thụ/ người/năm. So sánh với mức cung cấp và tiêu thụ thuỷ sản tại các nước Đông Nam á khác Malaisia 15kg/người; Thái Lan 17kg/người ; Inđônêxia 14kg/người, thì mức cung cấp và tiêu thụ này là tương đối thấp. Tuy nhiên nó đã chiếm khoảng hơn 30% toàn bộ nguồn cung cấp đạm động vật cho người dân Việt Nam. Việc cung cấp và tiêu thụ thuỷ sản chênh lệch nhiều giữa vùng cao nhất ở vùng ven biển và thấp nhất ở các vùng núi cao của đất nước. Số liệu dưới đây cho thấy các hình thức cung cấp và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản: Miền bắc : 6- 8 kg/người/ năm. Các huyện thị ven biển miền nam : 50 - 60 kg/người/năm Khu vực miền núi : 2 - 3kg/người/năm. Mức tiêu thụ bình quân toàn quốc hàng năm thường được sử dụng cho mục đích lập kế hoạch là vào khoảng 11 - 13kg/người/năm. Cũng như sự đóng góp của ngành thuỷ sản với mục tiêu dinh dưỡng quốc dân cũng được tăng cường. Dự kiến việc cung cấp cá và các sản phẩm thuỷ sản toàn quốc sẽ từ mức tăng trưởng này có tính đến nhu cầu dinh dưỡng của một số dân sẽ tăng lên mà dự kiến sẽ tăng khoảng 1,2 triệu người ở Việt Nam vào năm 2010. II/ sự cần thiết xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển ngành thuỷ sản 1. Vai trò của kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thời kỳ 1961- 1965. Sau đó kế hoạch bị gián đoạn do chiến tranh xâm luợc ra miền bắc, để chi viện sức người sức của cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, chúng ta vẫn chú trọng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc làm hậu phương và chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau khi thống nhất Việt Nam tiếp tục thực hiên các kế hoạch 5 năm. Đến nay chúng ta đã thưc hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 6. Qua mỗi chặng đường 5 năm kinh tế có sự chuyểndịch đáng kể. Kế hoạch 5 năm là cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nội dung chủ yếu của kế hoạch 5 năm bao gồm: - Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm qua; những mục tiêu kinh tế xã hội đạt được; những khó khăn tồn tại; những bài học kinh nghiệm. - Dự báo các tình huống phát triển, khả năng, cơ hội và các thách thức. Xác định các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội chia ra từng năm; xác lập một số cân đối lớn (tích luỹ, tiêu dùng, ngân sách Nhà nước, thanh toán quốc tế; nguồn nhân lực; nguồn vốn trong nước, nước ngoài; cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền hàng, vật tư, hàng hoá chủ yếu; xuất nhập khẩu,...) - Đề xuất chủ trương phát triển các ngành, các lĩnh vực then chốt, các vùng lãnh thổ trọng điểm, các chương trình dự án lớn. - Đề xuất các giải pháp, các cơ chế chính sách nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch. Thí dụ: kế hoạch 5 năm 1991-1995 đã đạt được thành tựu nổi bật là đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và tạo đà phát triển cho những năm sau. Kế hoạch 5 năm 1996-2000 phải tiếp tục công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nhiệm vụ tổng quát là: phấn đấu tăng trưởng nhanh hơn, hiệu quả cao hơn và vững chắc hơn, tiếp tục phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội và bảo đảm vững chắc về quốc phòng, an ninh, phát triển hài hoà các vùng kinh tế, đưa đất nước vượt qua tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, cải thiện mức sống nhân dân, nâng cao tích luỹ nội bộ, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển cao hơn sau năm 2000, kế hoạch chuyển từ kế hoạch tập trung chỉ đạo sang kế hoạch định hướng, công tác điều hành có sự thay đổi cơ bản thể hiện trên các mặt sau: Kế hoạch hoá giá trị được coi trọng hơn (nghĩa là coi trọng các chỉ tiêu giá trị, đề cao vai trò của các tổ chức tài chính, ngân hàng). Nói cách khác, sử dụng ngày càng nhiều công cụ chính sách kinh tế thông qua ban hành luật, pháp lệnh và các pháp quy của Chính phủ (về tài chính, tín dụng, lãi suất, thuế,...). - Xây dựng và thực hiện các chương trình quốc gia, các dự án lớn. Tập trung các nguồn lực vào việc chỉ đạo điều hành thực hiện các chương trình quốc gia và các dự án naỳ. Nhờ đó mà chỉ trong một thời gian ngắn tiềm lực kinh tế được nâng lên một bước đáng kể. - Chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. - Chú trọng vào các chỉ tiêu xã hội (nhất là đối với các vùng nông thôn, vùng xa, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, nâng cao mặt bằng dân trí, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phổ cập tiểu học, xoá đói giảm nghèo,...). - Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút vốn, đầu tư nước ngoài thông qua nhiều kênh khác nhau, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thương trường. Kế hoạch 5 năm là kịch bản hai chiều thể hiện theo không gian và thời gian, thể hiện qua không gian và thời gian quá trình phát triển của nền kinh tế nói chung cũng như từng ngành, lĩnh vực, thậm chí cả nội bộ một số ngành, một số sản phẩm chủ yếu. Xét về mặt thời gian kế hoạch chia làm 3 loại: + Chiến lược phát triển kinh tế xã hội: kế hoạch dài hạn + Kế hoạch 5 năm: kế hoạch trung hạn phát triển kinh tế xã hội. + Kế hoạch hàng năm: kế hoạch ngắn hạn. Trong đó kế hoạch 5 năm là hình thức chủ yếu của kế hoạch hoá: Trong điều kiện trình độ phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại thì 5 năm là thời gian trung bình cần thiết để hoàn thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản trong các ngành kinh tế quốc dân để đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả đồng vốn. Thời gian 5 năm có thể quy định được phương hướng phát triển kinh tế kỹ thuật tương đối sát, chọn đúng khâu chủ đạo trong phát triển kinh tế và xác định được hiệu quả của việc áp dụng kỹ thuật mới, công nghệ mới trong các ngành của nền kinh tế quốc dân. Thời gian 5 năm có thể tiến hành những chủ trương đổi mới về tổ chức quản lý và kế hoạch hoá, áp dụng các chính sách kinh tế. 5 năm là thời gian cần thiết đối với việc đào tạo cán bộ kế hoạch 5 năm, tạo ra những thay đổi tiến bộ trong cơ cấu đồng thời thường xuyên duy trì tính chất cân đối của các yếu tố và các lĩnh vực kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch 5 năm là yếu tố liên kết chính trong hệ thống kế hoạch. Nhằm nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá ở nước ta trong thập kỷ tới 2001-2010. Cân đối trong kế hoạch 5 năm, lấy kế hoạch 5 năm làm hình thức chủ yếu quản lý nền kinh tế quốc dân. 2. ý nghĩa của kế hoạch 5 phát triển ngành thuỷ sản. Kế hoạch 5 năm vừa bảo đảm tính tác nghiệp vừa bảo đảm tính định hướng phát triển ngành thuỷ sản. Trong 5 năm là khoảng thời gian đủ để cho quá trình đầu tư phát huy hiệu quả đó là : - Việc đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng cho nghề cá nói chung và cho chế biến xuất khẩu nói riêng không thể làm ngày một ngày hai và đỏi hỏi phải có kế hoạch cụ thể để đầu tư phát triển một cách tốt nhất và nhanh nhất đáp ứng được nhu cầu phát triển chung của ngành. - Việc đầu tư vào các chương trình phát huy được hiệu quả như chương trình khai thác xa bờ hay chương trình nuôi trồng thuỷ sản cần có thời gian để có được đội tàu có công suất lớn đáp ứng được yêu cầu cũng như để đảm bảo được sự phối hợp đồng bộ giữa các chương trình dự án. - Ngày nay trong bối cảnh chung của toàn xã hội việc gia nhập các tổ chức quốc tế, các hiệp hội thì vấn đề công nghệ và gen, các loại giống có năng suất cao là một đòi hỏi và thách thức lớn đối với ngành thuỷ sản. Ngành thuỷ sản Việt Nam muốn phát triển tốt thì bên cạnh việc nghiên cứu những công nghệ truyền thống cần phải chuyển giao công nghệ từ các nước khác nhằm áp dụng nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên để vận dụng được công nghệ đó cho phù hợp với điều kiện địa lý, thời tiết, khí hậu thì thời gian trong kế hoạch 5 năm là cần thiết cho việc thử nghiệm các loại giống, công nghệ gen nhằm khắc phục những hạn chế để đưa lại hiệu quả cao nhất. Đối với kế hoạch 5 năm phát triển ngành thuỷ sản, nội dung chủ yếu là nhằm cụ thể hoá chiến lược, các chương trình lớn phát triển ngành thuỷ sản. Đó là: - Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển ngành trong thời gian qua; những mục tiêu đã đạt được từ đó tìm ra những khó khăn, tồn tại và rút kinh nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch tới. - Phân tích môi trường hoạt động của ngành để có thể tìm ra những cơ hội, thách thức đối với ngành cả ở trong nước và quốc tế. Dự báo sự thay đổi phát triển cuả thị trường và công nghệ trên thế giới. Từ đó xác định các mục tiêu kế hoạch ngành, xác định một số cân đối lớn, đặc biệt là cân đối xuất nhập khẩu. - Đề xuất các chủ trương phát triển ngành, lĩnh vực then chốt, các vùng trọng điểm khai thác nuôi trồng, các chương trình lớn như chương trình khai thác hải sản xa bờ,... - Đề xuất các giải pháp và chính sách để phát triển khai thác, nuôi trồng. Chế biến và tiêu thụ sản phẩm ngày càng nâng cao giá trị hàng thuỷ hải sản ở Việt Nam. Như vậy việc xây dựng kế hoạch 5 năm có 1 ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển bền vững ngành thuỷ sản nó không những tạo điều kiện cho việc phát huy hiệu quả đầu tư phát triển mà còn có thể tạo khả năng phát triển lâu dài trong tương lai của ngành thuỷ sản Việt Nam. 3. Những tính chất cần chú ý khi xây dựng kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản. - Tính đồng bộ: đặc điểm của ngành thuỷ sản là bao gồm nhiều lĩnh vực, mỗi lĩnh vực có hình thức hoạt động khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Do đó khi xây dựng kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản phải đảm bảo tính đồng bộ giữa khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy mới phát huy được tiềm năng phong phú đa dạng của biển cũng như lợi thế về nguồn lao động dồi dào và truyền thống lâu đời của ngư dân ven biển. - Tính toàn diện: Ngành thuỷ sản muốn phát triển nhanh cần có sự đóng góp tích cực của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại,... đồng thời nó cũng là ngành có các đối tượng tham gia hoạt động sản xuất rất đa dạng: Nhà máy, xí nghiệp, hộ gia đình, hợp tác xã, nông trường, trường học, quân đội,... thuỷ sản là một thành phần trong hệ thống kinh tế xã hội của đất nước, nó một mặt chịu sự tác động của tất cả các thành phần khác trong hệ thống kinh tế xã hội, mặt khác nó cũng tác động trở lại hệ thống tính tổng thể cũng như từng thành phần của hệ thống đó tuỳ thuộc ở vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân và cộng đồng xã hội. Vì vậy trong xây dựng kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản cần đảm bảo sự phát triển toàn diện của các ngành khác và các thành phần kinh tế khác nhau. Bởi lẽ sự phát triển của kinh tế thuỷ sản tất yếu cũng dẫn đến sự phát triển chung của kinh tế đất nước, ngược lại sự phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng thúc đẩy kinh tế thuỷ sản phát triển. - Tính hiệu quả: Thông thường mục đích của phát triển kinh tế thuỷ sản là góp phần đảm bảo yêu cầu về lương thực và thực phẩm cho nhân dân với số dân không ngừng tằng lên, tăng cường xuất khẩu để có ngoại tệ cấn đối cho nhu cầu phát triển của ngành và để có tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đáp ứng một phần bột cá cho chăn nuôi, tham gia phân bố lại lao động trong cả nước, góp phần củng cố quốc phòng, an ninh. Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng vốn là một mối quan tâm lớn trong mọi hoạch định chiến lược cũng như kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh. Trước đây với quan niệm sản xuất quyết định tiêu dùng, với mục đích thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của xã hội mà mục tiêu của kế hoạch thường đặt ra theo tính chủ quan với ý thức điều khiển tiêu dùng theo khả năng sản xuất. Cách xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất như vậy nhiều khi dẫn đến nghịch cảnh: ứ đọng trong sản xuất trong khi thiếu thốn trong tiêu dùng với hậu quả là sản xuất bị đình trệ không phát triển được, thua lỗ thường xuyên trong khi thị trường thì nghèo nàn, khủng hoảng thiếu, dân chúng choáng ngợp trước sự phát triển của thế giới tiêu dùng, trong khi cầu đầu tư sản xuất bao nhiêu thì càng thua lỗ bấy nhiêu. Ngày nay khi thị trường của mỗi quốc gia ngày càng hoà nhập với thị trường quốc tế thì quan niệm này càng được khẳng định đúng đắn là: chính tiêu dùng mới quyết định sản xuất, chính sức mạnh, sức hút của thị trường mới là động lực kích thích tự nhiên của sản xuất. Chính vì vậy, mục đích của kế hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản là không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh thuỷ sản nhằm mục đích đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất từ đó góp phần tích cực để đáp ứng nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng lên của xã hội, cải thiện điều kiện dân sinh và tích luỹ cho phát triển kinh tế đất nước. III/ Tiềm năng phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá: 1. Điều kiện tự nhiên: Thanh Hoá có bờ biển hình cánh cung dài khoảng 102 Km, giới hạn phía Bắc là cửa Đáy (tỉnh Ninh Bình) và phía Nam là Lạch Cồn (huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An). Có 5 cửa lạch chính là: Lạch Sung, Lạch Trường, Lạch Hới, Lạch Ghép và Lạch Bạng. Hai bên vùng cửa lạch là những bãi triều rộng có tiềm năng lớn để nuôi trồng thuỷ sản. Đáy biển vùng ven bờ Thanh Hoá có độ dốc thoải và khá bằng phẳng rất thuận tiện cho tàu nhỏ hoạt động, nhất là đối với nghề lưới kéo đáy. Các vùng và vịnh như: Gầm (Sầm Sơn), vụng Thuỉ, vụng Biện Sơn, vụng Quyển, cùng các đảo Hòn Nẹ, Biện Sơn, Hòn Mê và các đảo nhỏ lân cận đủ tạo điều kiện thuận lợi cho tàu thuyền khai thác hải sản neo đậu và trú gió bão. Điều kiện tự nhiên cùng với nguồn lợi hải sản ở vùng ven bờ khá phong phú và đa dạng đã tạo cho Thanh Hoá tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển nói chung và tình hình kinh tế thuỷ sản nói riêng. 2. Tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản: 2.1. Nguồn lợi hải sản: Thực hiện quyết định 2179/QĐ-UB ngày 18/12/1999 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc phê duyệt dự án: Điều tra nguồn lợi hải sản ven bờ tỉnh Thanh Hoá. Đoàn quy hoạch Thuỷ sản Thanh Hoá (thuộc Sở Thủy sản Thanh Hoá) đã kết hợp với Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng thực hiện dự án này. Theo kết quả bước đầu trữ lượng hải sản vùng biển Thanh Hoá từ 90.000 - 100.000 tấn/năm . Bao gồm: Cá nổi, cá đáy, tôm, moi, mực.v.v. - Cá nổi: Có các loại cá kinh tế như: Cá chim, cá the, cá lục, cá đé, cá mục, cá lầm, cá ngừ.v.v. Trữ lượng : 52.000 - 60.000 tấn/năm. Vùng khơi : 24.000 - 25.000 tấn/năm. Vùng lộng : 28.000 - 35.000 tấn/năm. Khả năng khai thác: 16.000 - 17.000 tấn/năm. - Cá đáy: Có các loại cá kinh tế như: Cá hồng, cá nhỡ, cá đù, cá dưa, cá phèn, cá lượng.v.v. tập trung ở bãi cá đáy. Trữ lượng : 40.000 - 45.000 tấn/năm. Khả năng khai thác: 16.000 - 18.000 tấn/năm. - Tôm: Có các loại kinh tế như: Tôm he, tôm hùm, tôm sắt.v.v… tập trung chủ yếu ở hai bãi tôm: Hòn Nẹ - Lạch Ghép và Lạch Bạng - Lạch Quân. Trữ lượng : 1.700 - 2.200 tấn/năm. Khả năng khai thác: 1.000 tấn/năm. - Mực: Có các loại kinh tế: mực ống, mực nang. Trữ lượng : 6.000 tấn mực ống và 3000 tấn mực nang. Khả năng khai thác: 3.000 tấn mực ống và 2.000 tấn mực . - Moi Trữ lượng : 5.000 tấn/năm. 2.2. Tiềm năng nuôi trồng thủy sản: - Nước ngọt: Hơn 8500 ha ao bờ, ruộng trũng, sông cụt và hàng trăm cụm sông suối có khả năng phát triẻn nuôi trồng thuỷ sản. Nguồn lợi nước ngọt có: Cá mè, cá trôi, cá trắm, cá chép, lươn, ếch, ba ba... - Nước lợ: Diện tích 8000 ha bãi triều và lúa nhiễm mặn năng xuất thấp có khả năng nuôi trồng thuỷ sản. Nguồn lợi thuỷ sản nước lợ có: Tôm sú, tôm lốt, tôm xảo, cá vược, cá bớp, cua, rau câu.v.v - Nước mặn: Diện tích khoảng 1000 ha, tập trung ở vùng đảo Mê, Biện Sơn. Đối tượng nuôi chủ yếu là: Cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm. Hình thức nuôi chính là lồng bè. 3. Tình hình kinh tế xã hội: 3.1. Dân cư vùng biển: Gồm 6 huyện thị miền biển, số dân chiếm 1/3 dân số toàn tỉnh. Từ 98.000 người giai đoạn 86 - 90 đã tăng lên 1.093.900 người giai đoạn 91 - 93. Tỉ lệ phát triển dân số vùng biển ở mức cao: 3,35% lao động ngành thuỷ sản từ 26.023 người giai đoạn 86 - 90 đã tăng lên 37.208 người giai đoạn 91 - 99. 3.2. Dân trí: So với thời kỳ trước thì hiện nay trình độ dân trí của cư dân miền biển đã tăng lên đáng kể. Số trẻ em bỏ học giảm dần, đặc biệt là số người mù chữ. Đời sống văn hoá - xã hội được nâng cao nhất là các xã vùng cửa Lạch. 3.3. Cơ sở hạ tầng ngành thủy sản: - Cơ sở chế biến đông lạnh hải sản xuất khẩu có 2 nhà máy với công xuất 1.000 tấn/năm. - Cơ sở chế biến hải sản nội địa: Trước kia có 8 cơ sở, sức chứa 400 - 500 tấn, nay còn 5 cơ sở với sức chứa 3.000 tấn. - ._.Cơ sở thu mua hải sản (tổ, trạm) : Từ 21 cơ sở trước kia nay còn 12 cơ sở. - Sản xuất nước mắm có 1 xí nghiệp quốc doanh và 6 Công ty Thuỷ sản cấp huyện trước đây, nay còn 1 quốc doanh ngành và lực lượng sản xuất nước mắm trong dân. - Đóng sửa tàu thuyền: Trước đây 6 cơ sở với công xuất đóng mới và sửa chữa 4.500 - 5.000 tấn/năm, nay còn 3 cơ sở với công xuất 3.000 - 3.500 tấn/năm (1 DNNN). - Cơ khí sửa chữa, cung ứng vật tư lưới sợi: Có 2 cơ sở hàng năm cấp bán khoảng 600 tấn dầu, 60 tấn lưới sợi vật tư. - Cơ sở sản xuất giống cá: Có 7 trại với công xuất 400 triệu cá bột. Trong đó: Khối quốc doanh sản xuất 200 triệu, còn của tư nhân và mua của tỉnh ngoài: 200 triệu. - Cơ sở sản xuất giống tôm: 3 cơ sở, công xuất 20.000 triệu con P15. - Cảng cá bến cá: Có các bến Lạch Hới, Lạch Bạng, Ngư Lộc, Lạch Trường, Lạch Ghép. Cơ sở hạ tầng còn rất đơn giản hầu như chưa có gì. Riêng cảng cá Hới đã có triền kéo tàu và kè chắn sóng 300 m. Qua những điều kiện trên có thể nói rằng Thanh hoá có tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản đa dạng, phong phú. Trong những năm gần đây nhờ sự đổi mới cơ chế của nhà nước đã khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành thuỷ sản. Nhờ đó mà đời sống vật chất và tinh thần của dân cư vùng ven biển được nâng lên. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng yếu kém, cộng với thiên tai bão lụt diễn ra thường xuyên nên đời sống bấp bênh . chương hai đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá I/ đóng góp của ngành Thuỷ sản đối với phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hoá: 1. Về tốc độ tăng trưởng: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2000 tăng 7,2% , trong đó các ngành nông lâm, thuỷ sản tăng 3,7%, công nghiệp - xây dựng tăng 13,5% công nghiệp tăng 13,9%, xây dựng tăng 12,8% và các ngành sản xuất dịch vụ tăng 7,3%. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2000 gấp 9,7 lần so với năm 1990, trong đó các ngành nông lâm, thuỷ sản gấp 9,44 lần, công nghiệp - xây dựng gấp 3,1 lần và các ngành sản xuất dịch vụ gấp 2,2 lần. Các ngành sản xuất chủ yếu đều tăng khá so với thời kỳ trước giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2000 tăng 6,3% (thời kỳ 1993 - 1995: 5%) sản xuất nông nghiệp tăng cả trồng trọt và chăn nuôi và các cây con chủ yếu, trong đó thành tựu nổi bật là sản xuất lương thực, mở rộng diện tích cây công nghiệp hình thành nguyên liệu, vùng cây công nghiệp tập trung. Trong sản xuất lương thực chỉ trừ năm 1996 do thiên tai, sản lượng lương thực (quy thóc) đạt dưới 1triệu tấn, còn liên tục từ năm 1997 đến nay đều đạt trên 1 triệu tấn, năm 2000 thiên tai khắc nghiệt, vụ đông và vụ thu mùa tuy có thất nhiệt, song nhờ vụ chiêm tăng khá nên sản lượng lương thực cả năm đạt 1294,3 nghìn tấn, xấp xỉ đạt mục tiêu đề ra. Bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2000 đạt 1150,4 nghìn tấn, tăng 25,7% = 235 nghìn tấn so với bình quân thời kỳ 1991 - 1995. Bình quân lương thực đầu người thời kỳ 1996 - 2000 là 331,4kg, năm 2000 là 363,3kg. Diện tích cây trồng công nghiệp hàng năm tăng khá, đến năm 2000 toàn tỉnh có 54 nghìn ha cây công nghiệp hàng năm, gấp 1,82 lần năm 1995. Tỷ trọng cây công nghiệp hàng năm tăng từ 7,8% năm 1995 lên 12,7% năm 2000 . Các cây công nghiệp hàng năm có tốc độ tăng khá cả về diện tích, sản lượng mía, lạc, cói, đậu tương, vừng ... các vùng cây công nghiệp tập trung chuyên canh được quan tâm phát triển đến nay đã hình thành các vùng nguyên liệu mía 29 nghìn ha, cao su 7 nghìn ha, cà phê 3 nghìn ha. Chăn nuôi phát triển tuy chậm hơn so với trồng trọt, nhưng các loại gia súc, gia cầm chủ yếu đều tăng so với thời kỳ 1991 - 1995, bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2000 tổng đàn lợn tăng 2000 nghìn con, đàn bò tăng 38,6 nghìn con, gia cầm tăng 2,2 triệu con ... Nghề rừng đã có chuyển biến tích cực theo hướng từ lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp xã hội, từ khai thác sang trồng rừng chăm sóc, bảo vệ là chủ yếu. Đến nay đã giao 693 nghìn ha cho trên 97 nghìn hộ. Bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2000 trồng được 7314 ha rừng tập trung, nâng độ che phủ lên 37%, tăng 1,3% so với mục tiêu đại hội đề ra. Khai thác thuỷ sản tăng khá do đầu tư cho phương tiện đánh bắt, nhất là phương tiện đánh bắt xa bờ, mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản từ năm 1996 - 2000 đầu tư thêm 128 tàu có công xuất 90 - 254CV, đưa tổng số tàu truyền máy lên 3500 chiếc với tổng công xuất 60 nghìn CV. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng từ 7.600ha năm 1990 lên 9.700 ha năm 1995 và 10.2 nghìn ha năm 2000. Dự ước giá trị sản xuất ngành thuỷ sản bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2000 tăng 8,3%, sản lượng thuỷ sản năm 2000 đạt 47,3 nghìn tấn, gấp 1,48 lần năm 1995. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp trên địa bàn bình quân thời kỳ 1996 - 2000 cao hơn nhiều thời kỳ 1991 - 1995 (15,8% so với 7,5%). Thời kỳ này đã đầu tư vào ngành công nghiệp khá lớn hơn 6,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 45,3% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh. Các cơ sở công nghiệp lớn được đầu tư xây dựng mới đã đưa vào sử dụng tạo ra năng lực sản xuất mới. Trên địa bàn tỉnh hiện nay đã hình thành 4 khu công nghiệp (Bỉm Sơn - Thạch Thành, Lam Sơn - Mục Sơn, Nghi Sơn, Thành phố Thanh Hoá, Sầm Sơn). Hoạt động của các ngành dịch vụ phong phú, đa dạng, phát triển ở mọi thành phần kinh tế, tốc độ tăng trưởng, bình quân năm thời kỳ 1996 - 2000 là 7,3%. Thương nghiệp phát triển rộng khắp, hàng hoá phong phú, lưu thông thuận tiện, giá cả ngày cang ổn định, tổng mức bán lẻ hàng hoá thị trường xã hội tăng khá hơn thời kỳ trước (4% so với 2%). Xuất phát bước đầu đã giảm với sản xuất bằng việc đầu tư vốn, vật tư, phân bón, kỹ thuật với thu mua, chế biến, tiêu thụ. Các điểm du lịch Sầm Sơn, Lam kinh ... bước đầu được đầu tư tôn tạo, nâng cấp, chất lượng khách du lịch tăng bình quân 13,9% năm, ngày khách tăng 12,4%, vận tải phát triển khối lượng, hàng hoá luân chuyên tăng bình quân hàng năm 2,3% hành khách luân chuyển tăng 3% năm. Thông tin liên lạc phát triển khá, mạng lưới bưu chính viễn thông, số máy điện thoại tăng nhanh, đến cuối năm 2000 khả năng có 40.283 cái, gấp 5,7 lần năm 1995, đưa số máy bình quân trên 9000 dân năm 1995 có 2,1 cái đến năm 2000 có 11,3 cái. Thu ngân sách luôn đạt và vượt mức kế hoạch, đã góp phần đáp ứng các nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển của địa phương. Hoạt động tín dụng ngân sách đã tập trung khai thác các nguồn vốn tăng đầu tư trung và dài hạn phục vụ sản xuất nguồn vốn huy động trên địa bàn tỉnh hàng năm 34,6%, dư nợ đến năm 2000 gấp 2,94 lần, năm 1995. Tỷ lệ dư nợ cho vay trung, dài hạn từ 22.1% năm 1995 tăng lên 42% năm 2000. Biểu 4: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) Chỉ tiêu 1995 1999 2000 Bình quân năm thời kỳ 1991-1995 1996-2000 Nông lâm thuỷ sản 6,8 6,9 2,3 +3,7 +3,7 + Nông nghiệp 7,5 7,2 3,4 4,4 4,6 + Lâm nghiệp 3,7 1,7 -15,5 -0,6 -7,5 + Thuỷ sản 2,2 10,7 8,0 +4,2 +8,9 Công nghiệp - xây dựng 13,5 3,8 27,9 10,6 13,5 + Công nghiệp 6,7 5,0 45,0 9,6 13,9 + Xây dựng 22,6 2,0 2,0 10,7 12,8 Dịch vụ 8,6 4,5 5,2 8,8 7,3 + Thương nghiệp KS,NH 5,6 4,5 5,4 5,8 5,6 + Vận tải, bưu điện 73,3 4,3 6,0 6,6 6,7 Nguồn:Sở thuỷ sản Thanh Hoá 2. Về chuyên dịch cơ cấu: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng các ngành nông lâm thuỷ sản giảm trong khi đó tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng và các ngành dịch vụ tăng lên. Tỷ trọng nông lâm, thuỷ sản trong GDP bình quân từ 46,13% thời kỳ 1991 - 1995 xuống 42,22% thời kỳ 1996 - 2000. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng từ 20,29% lên 23,56%, các ngành sản xuất dịch vụ tăng từ 33,58% lên 34,22% . Cơ cấu trong GDP năm 2000 là nông lâm. Thuỷ sản 39,94%, công nghiệp - xây dựng 26,29% và dịch vụ 33,67%. Cơ cấu vùng biển, kết cấu hạ tầng ... đã có sự chuyển biến đến nay đã hình thanh 4 khu công nghiệp tập trung, sản xuất chiếm trên 60% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, kinh tế vùng biển phát triển cả về đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ. Vùng đồng bằng có sự chuyển biến về cơ cấu mùa vụ, diện tích vụ đông được mở rộng từ 29.320ha năm 1990 lên 40.180ha năm 1995 và 41.531 ha năm 2000, cơ cấu cây trồng cũng có năng xuất cao, hiệu quả, tăng diện tích ngô, giảm diện tích khoai lang, sắn... kinh tế trung du, miền núi có sự chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hoá, đã hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung, chuyên canh vùng nguyên liệu, kinh tế trang trại phát triển, có nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả. Kết cấu hạ tầng cầu, đường, điện, thuỷ lợi ... được đầu tư phát triển, được hình thành nhiều thị xã, thị trấn, tỷ lệ dân số thành thị tăng lên từ 7,16% thời điểm 1/4/1989 lên 9,2% thời điểm 1/4/1999. Biểu 5: Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP của Thanh Hoá Đơn vị: % Chỉ tiêu 1995 1999 2000 Bình quân năm thời kỳ 1991-1995 1996-2000 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nông lâm thuỷ sản 46,00 42,90 39,94 46,13 42,22 + Nông nghiệp 37,11 35,34 33,37 37,90 34,68 + Lâm nghiệp 5,75 4,13 3,17 6,18 4,26 + Thuỷ sản 3,14 3,43 3,40 2,05 3,28 Công nghiệp - xây dựng 20,10 22,70 26,39 20,29 23,56 + Công nghiệp 13,9 12,90 17,18 14,77 14,50 + Xây dựng 6,20 9,80 9,21 5,52 9,06 Dịch vụ 33,90 34,40 33,67 33,58 34,22 + Thương nghiệp KS,NH 10,57 10,40 9,48 10,36 10,41 + Vận tải, bưu điện 3,08 3,05 2,94 3,20 240 Nguồn: Sở thuỷ sản Thanh Hoá 3. Đóng góp của ngành với nền kinh tế chung của tỉnh: - Giá trị tổng sản lượng: năm 1995 tăng 1,5 lần so với năm 1990 tăng 3,37 lần năm 1995 so với năm 2000. Thời kỳ 1996 - 2000 tăng 1,15 lần so với thời kỳ 1991 - 1995 . Tỷ trọng trong sản xuất nông lâm ngư : luôn phát triển bình quân năm thời kỳ 1991 - 1995 là 2,05% so với thời kỳ 1996 - 2000 là 3,28%. - Xuât khẩu: Thời kỳ 1991 - 1995 đạt 6948 triệu đồng tăng 1,32 lần thời kỳ 1989 - 1990: thời kỳ 1996 - 2000 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10.0% trong đó chính ngạch là 9,7% , so với thời kỳ 1993 - 1995 tăng 140%. - Các sản phẩm chủ yếu. Sản lượng khai thác ổn định từ 25.000 - 35.000 tấn, giá trị sản lượng khai thác tăng 240 tỷ đồng năm 1991 lên 306 tỷ đồng năm 1995 lên 420 tỷ đồng năm 2000. - Giải quyết việc làm và tăng thu nhập: Thực hiện cơ chế phát triển, kinh tế nhiều thành phần đã giải phóng được mọi năng lực sản xuất, mọi nguồn vốn được huy dộng để đầu tư phát triển sản xuất ở mọi lĩnh vực: Khai thác, nuôi trồng và chế biến. Do vậy số lao động có việc làm đã tăng lên nhanh từ 26.000người thời kỳ 1986 - 1990 tăng lên 37.000 người thời kỳ 1991 - 1995 và lên 42.000 người thời kỳ 1996 - 2000. - Thu nhập cũng tăng lên bình quân thu nhập lao động 1,5 - 2 triệu động trên năm, nhiều lao động giỏi đạt 5 - 10 triệu đồng trên năm có 1 số chủ hộ có quy mô và số vốn sản xuất lên đến 200 - 300 triệu đồng và thu nhập hàng năm 50-70 triệu đồng . Một số nghề mới có hiệu quả cao cũng đã được thu nhập và phát triển ở địa bàn Thanh Hoá. - Đời sống văn hoá - xã hội và dân trí. Văn hoá xã hội vùng ven biển đã có nhiều thay đổi. Nạn mù chữ và thôi học giảm hẳn, các công trình phúc lợi công cộng được xây dựng mới và củng cố: Trạm xá nhà văn hoá, sân vận động, hệ thống điện. Các phương tiện sinh hoạt như : Tivi, Casset và các tiện nghi khác đã trở thành bình thường đối với dân cư vùng biển. An ninh chính trị ổn định tuy nhiên công tác kế hoạch hoá gia đình còn phổ biển ở mức cao 3,35 Biểu 6: Những chỉ tiêu chủ yếu đạt được (1996 - 2000). Chỉ tiêu 1995 2000 Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) 1996-2000 So với 1991- 1995 1. Tổng sản lượng (tấn) 32.010 48.000 9,3 154 - Khai thác hải sản(Tấn) 22.050 36.000 13,0 162 - Nuôi mặn - lợ(Tấn) 3.950 5.500 7,0 154 - Nuôi nước ngọt (Tấn) 5.01. 6.500 8,9 146 2. Chế biến xuất khẩu (tấn) 3.683 6.925 10,0 140 Trong đó: Tôm đông (Tấn) 352 450 9,0 150 3. Giá trị kim ngạch XK(Triệu USD) 8.300 14.000 10,0 140 Trong đó: Chỉnh ngạch(Triệu USD) 3.032 4.300 9,7 145 4. Nộp ngân sách Nhà nước (Triệu đồng) 1.716 2.082 8,4 135 5. Giải quyết việc làm (Ngưòi) 31.000 41.500 6,7 138 6. Tổng vốn đàu tư (triệu đồng) 15.500 75.000 8,0 152 Nguồn: Sở thuỷ sản Thanh Hoá. II/ đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000 ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá. 1. Quá trình phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá: Thanh Hoá là một tỉnh có bờ biển dài, có tiềm năng lớn để khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Nguồn hải sản ở Thanh Hoá rất đa dạng và phong phú, nhiều loại có trữ lượng lớn rất thuận tiện cho việc khai thác. Đặc biệt là các bãi triều rộng dài theo bờ biển là điều kiện tốt để phát triển nuôi trồng thuỷ sản có gía trị kinh tế cao như tôn sú, mực, tôm hùm... đó chính là những tiềm năng rất thuận lợi cho phát triển ngành thuỷ sản tỉnh ta. Tuy nhiên ngành Thuỷ sản tỉnh có những quá trình phát triển nhất định cụ thể như sau: * Về khai thác hải sản: Từ khi đất nước đổi mới 1986 đến 1990 nghề cá nổi chủ yếu là các loại nghề vó ánh sáng (40 - 50% sản lượng). Khai thác các loại nục, lầm, đốm ngô, các nghề gõ vây, te bảy, xăm vùng chiếm 20-25% sản lượng còn lại các nghể rẽ thu, rẽ trích chiếm 10% sản lượng. Nghề cá đáy (giả tôm, giả cá, giả moi) chiếm 15 - 30% sản lượng. Các nghề này nhìn chung đạt năng xuất và sản lượng cao song hiệu quả kinh tế thấp do chi phí cao và giá trị thấp, nhiều cơ sở sản xuất thua lỗ kéo dài đặc biệt là giả cá. Thời kỳ 1991 - 1995 do được tự chủ trong sản xuất kinh doanh và do nhu cầu thị trường nên nghề nghiệp khai thác được đa dạng hoá và chuyển dần sang các nghề mới như. Nghề câu mực phát triển mạnh 70% phương tiện khai thác nâng giá trị khai thác lên 30-40 lần nghề cá nổi và gấp hàng trăm lần nghề cá đóng. Nghề giả tôm, rẻ tôm và câu các loại cũng được phát triển mạnh. Cá nghề rẻ, vùng và vó ánh sáng còn lại rất ít nghề cá đóng giảm hẳn do chi phí cao, kỹ thuật còn yếu. * Về nuôi trồng Thuỷ sản: Thời kỳ 1989 - 1990 nhìn chung nuôi trồng chưa được chú ý. Mặt nước ao hồ đầm nước lợ còn hoang hoá hoặc để khai thác tự nhiên là chính. Thời kỳ 1991 - 1995 nuôi trồng phát triển mạnh cả về diện tích hình thức và quy mô nuôi đặc biệt là nuôi nước lợ. Diện tích nuôi nước lợ tăng từ 800 - 5.800ha. Sản lượng và giá trị cũng tăng, riêng tôm nguồn lợi xuất khẩu đã tăng từ 300 tấn (1991) lên 1.500 tấn (1995) hình thức nuôi được cải tiến dần từ quảng canh chuyển sang nuôi quảng canh cải tiến (gồm 50% diện tích nuôi). Đối tượng nuôi được xác định chính là tôm sú, tôm he, cua, rau câu. Riêng nuôi nước ngọt diện tích biến động, cá lồng tăng nhiều. Đặc biệt hình thức nuôi được chú trọng hơn các loài lươn, ếch, ba ba. * Về chế biến: Thời kỳ 1986 - 1990 do quốc doanh chế biến là chủ yếu, sản phẩm chế biến đơn điệu và chất lượng kém. Thời kỳ 1991 - 1995 nhiểu tổ hợp sản xuất được hình thành và khép kín từ khâu khai thác đến chế biến và tiêu thụ, chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm chế biến được đa dạng hơn đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Về chế biến xuất khẩu tăng cả về số lượng và đa dạng về sản phẩm, sản phẩm đông lạnh chiếm 80% giá trị và có thị trường ổn định. Các sản phẩm sứa, mực phale, ngao, cá chiếm 20% giá trị. Các mặt hàng xuất khẩu tiểu ngạch chủ yếu là mực khô, rau câu, cua, ốc hương, cá tươi và cá ướp đá đã tăng mạnh, nhưng thị trường xuất tiểu ngạch vẫn chưa ổn định. Về chế biến nội địa đáp ứng được nhu cầu của dân, sản phẩm phong phú dần: cá tươi, cá kho nồi, cá khô, cá xốp, cá ướp lạnh, chế biến mắm và sản xuất nước mắm chất lượng ngày càng được nâng cao, thị trường ngày càng mở rộng. * Về hậu cần dịch vụ: Thời kỳ 1986 - 1990 chủ yếu do quốc doanh đảm nhận chiếm 60-70% còn lại là các thành phần khác. Nhưng sang thời kỳ 1991 - 1995 chủ yếu do kinh tế ngoài quốc doanh đảm nhận, quốc doanh còn 30%. 2. Đánh giá thực hiện kế hoạch 1996 - 2000 ngành thuỷ sản tỉnh Thanh Hoá: 2.1. Thực trạng khai thác hải sản tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 1996- 2000: Thực hiện chương trình đầu tư phát triển tàu khai thác hải sản xa bờ của chính phủ được sự quan tâm chỉ đạo của các ngành TW và của UBND tỉnh Thanh Hoá. Ngành Thuỷ sản Thanh Hoá tập trung phát triển năng lực nghề cá theo hướng đầu tư tàu có công suất lớn vươn ra khai thác vùng khơi, đồng thời xắp xếp đổi mới nghề cá ven bờ, hạn chế tầu thuyền hay gặp rủi ro trên biển, loại bỏ các loại tàu thuyền đánh cá mang tính huỷ diệt nguồn lợi, phá hoại môi trường. Cụ thể số tàu được đầu tư phát triển như sau: - Năm 1996 (trước khi có chương trình khai thác xa bờ) đóng mới 96 chiếc công suất từ 60 - 200CV. - Từ năm 1997 - 1999 đóng mới 122 chiếc công suất từ 90 - 320CV. Trong đó: + Vốn vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước : 90 chiếc + Dân tự bỏ vốn đầu tư: : 32 chiếc Tổng cộng sau 4 năm (1996 - 1999) toàn ngành đầu tư phát triển được 138 chiếc công suất từ 60-320CV (tổng công suất là 25.726CV). Với tổng vốn đầu tư : 132.798 triệu đồng Trong đó: + Vốn từ quỹ hỗ trợ đầu tư : 102.106 triệu đồng. + Vốn vay ngân hàng công thương : 9.600 triệu đồng. + Vốn tự có của dân : 21.038 triệu đồng. Đến cuối năm 1999 tổng số tàu thuyền toàn ngành là 4024 chiếc với tổng công suất đạt được 50.000 CV, năm 2000 nâng công suất len 55000CV. Với việc phát triển đội tàu khai thác hải sản xa bờ và đổi mới nghề nghiệp đánh bắt hợp lý, kết quả một số chỉ tiêu kinh tế xã hội tăng lên hàng năm. - Sản lượng khai thác hải sản tăng bình quân 13% gấp 2,6 lần thời kỳ 1991 - 1995 . Năm 1996 đạt 22.050 tấn (kế hoạch là 23.000tấn), năm 1997 đạt 25.000tấn (kế hoạch 25.000tấn) năm 1998 đạt 28.500tấn (kế hoạch 28700) năm 1999 đạt 32.300 tấn (kế hoạch 35.000tấn), năm 2000 đạt 36.000tấn (kế hoạch 34.000tấn) Biểu 7: Chỉ tiêu thực hiện kế hoạch khai thácthời kỳ 1996- 2000 Đơn vị: Tấn Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Chỉ tiêu kế hoạch 23000 25000 28700 35000 34000 Chỉ tiêu thực hện 20000 25000 28500 32300 36000 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Thanh Hoá Năm 1996 không đạt kế hoạch đặt ra do thiên tai bão lụt và chưa triển khai chương trình khai thác xa bờ. Từ năm 1997 bắt đầu thực hiện chương trình nên sản lượng tăng lên nhiều. Năm 2000 vượt mức kế hoạch do hiệu quả của chương trình khai thác xa bờ phát huy tác dụng. Giá trị khai thác hải sản tăng nhanh hàng năm, năm 2000 đạt 277.100 triệu đồng so với năm 1996 đạt 170.280 triệu đồng . Đáng chú ý là nhiều chủng loại hải sản có giá trị cao góp phần tăng nhanh giá trị khai thác: mực ống, mực nang, cá thu, tôm he, tôm bột ... Tuy nhiên tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu còn ít bình quân 10.62%. Do đó làm giá trị sản phẩm không đạt cao. Số lao động nghề cá ngày một tăng năm 1996 là 37.000 người , năm 1997 là 38.050 người, năm 1998 là 38.342 người, năm 1999 là 39.500 người. Ngoài ra còn tạo việc làm cho hàng nghìn lao động dịch vụ hậu cần, thu gom, chế biến hải sản, thu nhập và mức sống của người dân nông thôn vùng biển ngày càng được cải thiện. Biểu 8 : Một số chỉ tiêu thực hiện kế hoạch 1996 - 2000 Chỉ tiêu ĐV 1996 1997 1998 1999 2000 1. Sản lượng khai thác Tấn 20.000 25.200 28.500 32.300 36.000 . Cá Tấn 17.000 21.420 24.225 27.455 30.600 Tôm Tấn 1.000 1.000 1.100 1.200 1.400 Nghêu, Sò, Diệp Tấn 2.000 2.780 3.175 3645 4.000 2.Giá trị sản lượng Tr.đ 170.280 180.840 197.700 230.930 277.100 3. Tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu % 10 10.5 10,8 10,8 11.8 4. Lao động người 24.500 27.600 26.904 27.500 28.000 Nguồn: Sở thuỷ sảnThanh hoá 2.2. Tình hình nuôi trồng thuỷ sản trong kế hoạch 1996 - 2000: Thanh Hoá có 17.800 ha diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản. Trong đó: - Nước lợ : 8.000ha. - Nước ngọt : 8.500ha. - Nước mặn : 1.300ha. 2.2.1. Nuôi trồng thuỷ sản mặn, lợ: Thanh Hoá có tiềm năng lớn để nuôi trồng thuỷ sản mặn, lợ với 8.000ha diện tích mặt nước lợ và 1.300ha diện tích mặt nước mặn, phân bố ở các vùng, vịnh ven biển rất thuận tiện cho nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là thuỷ sản có giá trị cao như tôm sú, tôm he, cua ... chương trình 773 của chính phủ được triển khai tại Thanh Hoá từ 1993 đến hết năm 1999 số vốn được cấp là 19 tỷ đồng. Trên 7 huyện thị có vùng triều đã thực hiện quy hoạch, xây dựng nhiều dự án về cống, đê, mương, đường phục vụ tốt nhu cầu nuôi của nhân dân, kết quả được như sau: Biểu 9: Chỉ tiêu thực hịên kế hoạch NTTS 1996- 2000 Năm Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện 1996 1997 1998 1999 2000 1996 1997 1998 1999 2000 Diện tích(ha) 6800 6000 6000 6000 6500 6800 7000 7080 7120 7800 Sản lượng(T) 5000 5000 5000 5000 6000 4000 4800 4800 5000 6000 Năng xuất(T/ha) 0,82 0,8 0,79 0,8 0,92 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Thanh Hoá Diện tích nuôi trồng tăng: Năm 1996 đạt 6800 ha (kế hoạch 6000 ha) năm 1997 đạt 7000ha (kế hoạch 6000 ha, năm 1998 đạt 7080ha, năm 1999 là 7120ha (kế hoạch 6000ha), năm 2000 đạt 7.800ha (kế hoạch 6500ha). Diện tích tăng kéo theo sản lượng nuôi trồng cũng tăng theo năm 1996 là 4.750tấn đạt năng suất 0,82 tấn/ha, năm 1997 là 4.800tấn (kế hoạch 5.000tấn) đạt năng suất 0,8 tấn/ha, năm 1998 là 4.800tấn (0,79 tấn/ha), năm 1999 là 5000 tấn (kế hoạch 5000 tấn), năm 2000 đạt 6000 tấn (kế hoạch 6000 tấn) đạt năng suất 0,92 tấn/ha. Diện tích nuôi trồng trong thời kỳ này tăng khá nhanh trong đó phát triển mạnh nhất là diện tích nuôi tôm từ 4000 ha năm 1996 lên 5500 ha năm 2000, trong khi đó diện tích nuôi cá, thuỷ đặc sản, nuôi rau câu chiếm tỷ lệ ít nhưng diện tích có xu hướng giảm dần để nhường chỗ cho nuôi tôm đặc biệt là tôm sú. Sở dĩ diện tích nuôi trồng tăng vượt mức kế hoạch là do trong thời kì này có sự quan tâm đầu tư của nhà nước và của tỉnh trong việc hỗ trợ vốn đầu tư cho nuôi trồng theo chương trình nuôi trồng thuỷ sản. Mặt khác nhờ có sự đổi mới trong chính sách đất đai tạo điều kiện cho các hộ gia đình có thể tham gia vào phát triển nuôi trồng theo mô hình kinh tế trang trại. Đó là những tín hiệu rất đáng mừng vừa góp phần tăng thu nhập cho các hộ gia đình vừa cải tạo đất đai hoang hoá. Tuy diện tích tăng nhiều nhưng sản lượng và năng xuất tăng lên không đáng kể, nhiều năm không đạt kế hoạch đặt ra là do hình thức và kỹ thuật nuôi chưa được cải tiến, chủ yếu là nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến. Mội nguyên nhân nữa là do sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn lưu động đã ảnh hưởng đến việc chủ động trong khâu giống và thức ăn cho nuôi tôm. Hơn nữa Thanh Hoá thuộc khu vực thường xuyên xảy ra bão lũ, lượng mưa lớn nên mức độ rủi ro rất lớn cùng với sự thiếu quy hoạch đồng bộ trong việc xây dựng hệ thống kênh mương. Do đó không chủ động trong việc nuôi trồng và đang còn phụ thuộc vào thiên nhiên dẫn đến làm giảm sản lượng, thậm chí mất trắng Biểu 10 : Một số chỉ tiêu chủ yếu về NTTS Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 1. Diện tích - Ao, đầm lợ - Đầm, phà, vịnh Tổng DT nước lợ chia ra - DT có khả năng nuôi tôm - DT nuôi cá - DT nuôi đặc sản - DT nuôi rau câu 2. Sản lượng nuôi trồng - Tôm nguyên liệu ha - - - - - - tấn - 6.800 5.800 1.000 4.000 500 200 1.100 4.000 150 7.000 6.000 1.000 4.000 500 200 1.100 4.800 280 7.080 6.080 1.000 5.000 200 200 680 4.800 400 7.120 6.120 1.000 5.000 200 200 720 5.000 400 7.800 6.500 1.300 5.500 200 200 600 6.000 500 Nguồn:Sở thuỷ sản Thanh Hoá Để đáp ứng nhu cầu nuôi trồng thủy sản thì Thanh Hóa cũng có sự đầu tư vào phát triển sản xuất và cung ứng giống đặc biệt là giống tôm. Hiện tại có 3 trại sản xuất tôm giống. + Trại Hải Bình - Tĩnh Gia công suất 3 triệu con/năm. + Trại Sầm Sơn công suất 3 triệu con/năm + Trại Hoằng Thanh - Hoằng Hóa công suất 10 triệu con/năm Tổng công suất toàn ngành là 16 triệu con/năm. Đối tượng cho đẻ là tôm sú, tôm he, gần đây là tôm càng xanh đang được sự quan tâm thu hút của thị trường, kể cả thị trường các tỉnh phía bắc. Tuy nhiên khả năng sản xuất giống tại chỗ chỉ đạt 20 - 30% nhu cầu giống, số còn lại ngành phải tổ chức chỉ đạo đi mua từ tỉnh ngoài về thuần hóa để bán cho nhân dân. Hình thức nuôi nâng dần từ quảng canh, quảng canh cải tiến lên bán thâm canh và thâm canh (đang ở dạng mô hình). Năng suất đạt từ 150kg lên 500 kg/ha/vụ, cá biệt có hộ đạt 700 - 800 kg/ha/vụ. Cùng với phong trào nuôi tôm sú, nhân dân đang phát triển mạnh nuôi các đặc sản như cua biển, sá song, cá mực, nổi trội hơn là rau câu và ngao. - Rau câu đạt 800 - 1000 tấn/năm. - Nuôi ngao đạt từ 1.500 - 2000 tấn/năm, sản lượng bình quâ 10 tấn/ha. 2.2.2. Nuôi thuỷ sản nước ngọt : Tiếp tục được giữ vững những mô hình nuôi thích hợp : Nuôi cá lồng, nuôi cá ruộng trũng, tận dụng các ao hồ và nuôi các loại đặc sản kết hợp VAC. Các đối tượng nuôi trồng chủ yếu vẫn là phục vụ nhu cầu nội địa, cải thiện dinh dưỡng các bữa ăn như cá chép, trắm, trôi, mè, rô phi ... các giống có giá trị hàng hóa cao phục vụ cho xuất khẩu và thị trường nội địa cao cấp như cá rô phi đơn tính, cá chép lai 3 máu, cá qủa, cá chim trắng, lươn, ếch, ba ba ... sản lượng chưa nhiều. Các trại sản xuất giống trong ngành đã và đang triển khai đầu tư nâng cấp để thực hiện chức năng giữ gen và thuần chủng đàn cá giống gốc, tạo giống mới cung cấp cho nhu cầu của nhân dân. Khuyến khích nghề nuôi nước ngọt lên các vùng trung du và miền núi, trên nguyên tắc bảo về môi trường sinh thái, đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong những năm gần đây Nhà nước đã đầu tư bằng chương trình nuôi trồng thuỷ sản, cải tiến nhiều hình thức nuôi đặc biệt là kết hợp với kinh tế VAC. Do đó sản lượng và năng suất cá ngày càng tăng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ cho xuất khẩu. Biểu 11 : Một số chỉ tiêu nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 1. Năng suất 2. Sản lượng 3. Diện tích T/ha Tấn Ha 0.69 5.500 8.500 0.69 5.900 8.500 0.71 6.000 8.500 0.76 6.500 8.500 0.82 7.000 8.500 Nguồn: Sở thuỷ sản Thanh Hoá Tóm lại chương trình nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua đã phát triển cả 3 vùng : Nước ngọt, mặn, lợ với tốc độ khá nhanh cả về diện tích và sản lượng. Đã đóng góp một phần vào chuyển đổi cơ cấu ngành, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho các vùng nông thôn và địa phương có nghề cá trong tỉnh. Nhưng còn có sự hạn chế trong công tác quy hoạch đồng bộ cho phát triển lâu dài ngành nuôi trồng thuỷ sản. 2.2.3. Công tác khuyến ngư, công tác quản lý chất lượng giống và các dịch vụ như thuốc phòng trị bệnh, thức ăn công nghiệp cho tôm cá ... cũng được các ngành quan tâm chỉ đạo, bộ phận chức năng thực hiện nhiệm vụ trên thời gian qua hoạt động có chất lượng và hiệu qủa. Trung tâm khuyến ngư đã làm tốt nhiệm vụ chuyển giao công nghệ nuôi trồng thuỷ sản xuống đến dân trên cả 3 vùng nước . Đã xây dựng mô hình trình diễn và chuyển giao công nghệ cho người dân nuôi trồng thuỷ sản trong tỉnh. 2.3. Tình hình chế biến thuỷ sản thời kỳ 1996 - 2000 tỉnh thanh hoá. a-Thực trạng chế biến xuất khẩu : Toàn ngành có 3 cơ sở chế biến xuất khẩu (Công ty XKTS Thanh Hóa, Xí nghiệp Đông Lạnh Hoằng Trường. Công ty TĐSXK Tĩnh Gia) về cơ sở vật chất kỹ thuật đã xuống cấp, thiết bị công nghệ lạc hậu, vốn hoạt động thíêu. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dạng sản phẩm thô, sản phẩm thông thường truyền thống là hải sản đông lạnh BLOCK giá trị thấp, SXKD thua lỗ, kéo dài nhiều năm. Sản lượng hàng năm đạt 700 - 800 tấn tương ứng bình quân đạt 2,7 triệu USD/năm ( giá trị XK chính ngạch ). Từ năm 1999 được sự quan tâm của tỉnh ở 2 cơ sở chế biến ( Công ty XNK thủy sản và XN Đông lạnh Hoằng Trường ) đã từng bước nâng cấp nhà xưởng, đổi mới thiết bị công nghệ bằng sự cố gắng nỗ lực cao của cán bộ công nhân viên chức tình hình sản xuất kinh doanh được cải thiện và phát triển. Làm ăn bước đầu có lãi, việc làm và thu nhập của người lao động ngày càng tăng ( đặc biệt công ty XNK Thủy sản ). Kết quả sản xuất đạt và vượt mức chỉ tiêu kế hoạch năm, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành năm 1999 đạt 3,358 triệu USD, năm 2000 đạt 5 triệu USD ( kế hoạch giao 1,3 triệu USD ). Trong chế biến xuất khẩu thì xuất tiểu ngạch đang chiếm tỷ trọng lớn 70 - 75% giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh. Các đơn vị chế biến xuất khẩu ở Thanh Hoá chủ yếu là xuất khẩu ủy thác, cơ sở vật chất thiết bị nhà xưởng chưa đủ yêu cầu cần được xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường lớn giá trị cao. b-Thực trạng chế biến nội địa : Có xu thế phát triển ổn định, đáp ứng nhanh hơn nhu cầu của xã hội và thị trường tiêu thụ. Sản phẩm chính là nước mắm, mắm chươm, hải sản khô, cá tươi sống, và ướp đá các loại. Phần lớn các sản phẩm này được chế biến thủ công truyền thống ở các làng nghề ven biển nên chất lượng và giá trị không cao, các cơ sở chế biến nhỏ lẻ, phân tán nên hiệu quả chế biến thấp. Chính vì thế mà từ năm 1998 ngành thủy sản đã tập trung chỉ đạo chế biến hải sản theo hướng phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, gắn đánh bắt với dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm. Đến nay đã có 6 hợp tác xã và tổ hợp chế biến thủy sản được đầu tư bằng nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước ( gần 1 tỷ đồng ) và nhiều cơ sở tư nhân, ngày càng tạo ra thế chủ động, kinh doanh đa dạng, tăng hiệu quả và giá trị của hàng hoá thủy sản. Nhờ có sự đầu tư chú trọng phát triển chế biến thuỷ sản mà sản lượng hải sản chế biến ngày càng tăng, nâng cao giá trị hàng thủy sản tạo thêm ngoại tệ cho đất nước. Mặt khác chế biến hải sản góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân đặc biệt là nhân dân vùng biển cụ thể giai đoạn 1996 - 2000 thu hút 8350 lao động cho chế biến hải sản. Ngoài ra còn phát triển các cơ sở chế biến thức ăn cho nuôi trồng thủy sản : chế biến thức ăn nuôi tôm. Biểu 12 : Một số chỉ tiêu chế biến hải sản Chỉ tiêu ĐVT 1996 1997 1998 1999 2000 I. Sản phẩm chế biến 1. Chế biến hàng xuất khẩu - Tôm đông lạnh - Cá đông lạnh - Mực đông lạnh - Cá đá - Hải sản đông lạnh khác - Tôm khô tấn - - - - - - 302 61 100 2800 200 370 54 66 3500 580 245 50 70 4000 80 80 300 50 150 4200 50 9,5 450 70 260 5000 100 15 - Mực khô - Cá khô các loại - Hải sản khô khác 2. Chế biến nội địa - Nước mắm - Mắm các loại - Khô các loại - Bột cá II. Năng lực chế biến 1. Cơ sở chế biến thức ăn tôm - Sản lượng 2. Cơ sở chế biến đông lạnh 3. Cơ sở chế biến nước mắm - Tổng công suất 4. Số cơ sở sản xuất nước mắm Tổng công xuất tấn - - 1000l tấn - - cơ sở tấn cơ sở cơ sở 1000l cơ sở tấn/năm 600 80 220 750 1800 1200 2 4 3 18 9000 40 65.000 600 88 225 ._. trở lên vươn ra đánh bắt xa bờ. Nâng cao tổng số tàu thuyền máy từ 3.800 chiếc năm 2001 lên 4.000 chiếc năm 2005 và tổng công xuất là 8.500 CV năm 2005 . Biểu17: Dự kiến xây dựng kế hoạch khai thác hải sản năm 2001-2005. Chỉ tiêu ĐVT 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1- Sản lượng khai thác tấn 36000 39.000 42.000 45.000 48.000 51.000 - Sản lượng đánh bắt xa bờ " 3600 6.000 6.500 7.500 8.500 10.000 Trong đó: + Cá " 30600 33.000 35.400 37.600 39.800 42.100 + Tôm " 1400 2.000 2.200 2.500 2.800 3.100 + SL nghêu, sò, điệp " 4000 4.000 4.400 4.900 5.400 5.800 - Tỷ lệ sản phẩm cho XK % 11,8 15 15 15 15 15 2- Phương tiện đánh bắt * Tổng số tàu thuyền chiếc 4050 4.150 4.150 4.170 4.220 4.300 - Công xuất CV 54000 65.000 70.000 75.000 80.000 85.000 Số lượng thuyền máy chiếc 3640 3.800 3.850 3.870 3.920 4.000 - Số lượng thuyền thủ công " 410 350 300 300 300 300 * Phân loại tàu thuyền máy " 3.800 3.850 3.870 3.920 4.000 - Dưới 20 CV " 2790 2.620 2.505 2.360 2.140 1.940 - Từ 21 - 45 CV " 600 800 900 1.000 1.200 1.400 - Từ 46 - 90 CV " 70 200 250 300 350 400 - Từ 90 - 150 CV " 40 60 70 80 90 100 - Từ 150 CV trở lên " 140 120 125 130 140 160 Nguồn: Sở thuỷ sản thanh hoá 2.2. Các biện pháp để đạt mục tiêu kế hoạch. * Đối với khai thác hải sản xa bờ: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn quản lý của ngành trên tất cả các mặt từ trình độ kỹ thuật, tổ chức quản lý điều hành sản xuất, kiện toàn hợp tác xã và tổ hợp có dự án đầu tư 1996 - 1999. Đảm bảo có hiệu quả hoạt động, trả nợ cho Nhà nước đầy đủ. Tiếp tục đầu tư phát triển tàu khai thác hải sản xa bờ một cách đồng bộ, có chọn lọc, loại nghề có hiệu quả và chủ dự án đủ năng lực quản lý sản xuất. Bên cạnh đó phải tiến hành đào tạo đội ngũ thuyền trưởng có đủ trình độ ở xa khơi, trang bị công cụ, dụng cụ đánh bắt đầy đủ, hiện đại phù hợp với công xuất của tàu. Đồng thời phải có sự nghiên cứu điều tra , dự báo ngư trường để xác định được trữ lượng hải sản. * Khai thác hải sản gần bờ: ( vùng dở lộng, dở khơi ). Sắp xếp bố trí chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, cải tiến phương tiện hiện có theo hướng khai thác hiệu quả gắn với kết quả điều tra quy hoạch, với bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và bảo đảm an toàn trên biển. Huy động nhiều nguồn vốn để đóng góp mới vào cải hoán tàu thuyền, phấn đấu hàng năm có 50 tầu đánh bắt vùng dở khơi, dở lộng ( công xuất từ 45 - 90 CV trở lên để thay thế dần thuyền nghề nhỏ ven bờ. * Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cảng cá, biển cá, các khu dịch vụ hậu cần nghề cá tại: - Cảng cá Lạch Hới ( giai đoạn II ). - Xây dựng trung tâm nghề cá Lạch Trường. - Bến cá nhân dân Lạch Ghép. - 3 Khu trú bão tàu thuyền ( Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Sầm Sơn ). 3. Kế hoạch nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 2001- 2005: Biểu 18: Dự kiến kế hoạch nuôi trồng thuỷ sản 2001 - 2005 Chỉ tiêu ĐVT 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1- Sản lượng NTTS tấn 12500 12.600 13.500 14.700 16.500 18.900 Nước ngọt " 6500 6.600 6.700 6.900 7.200 7.600 Nước mặn, lợ " 6000 6.000 6.800 7.800 9.300 11.300 - Cá " 7.938 8.407 9.107 10.220 11.740 - Tôm " 667 800 1.000 1.400 2.000 - Thủy sản khác 2- Diện tích nuôi trồng ha 15000 15.100 15.380 15.600 16.500 16.500 - Nước lợ, mặn ha 6500 6.600 6.880 7.100 8.000 8.000 - Nước ngọt ha 8500 8.500 8.500 8.500 8.500 8.500 Nguồn: Sở thuỷ sản thanh hoá 3.1. Nuôi trồng thuỷ sản mặn, lợ. Trong 5 năm tới lấy nuôi tôm công nghiệp làm đột phá để tăng tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ sản theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nông thôn ven biển tỉnh nhà. Kế hoạch nội dung cần phải triển khai thực hiện là: Khẩn trương tập trung quy hoạch đồng bộ để xây dựng các vùng nuôi tôm công nghiệp ( vùng trung cao triều ) và chương trình 773 ở các huyện thị ven biển phấn đấu đến năm 2005 toàn ngành đạt 1.500 - 2000 ha đủ điều kiện nuôi tôm sú thâm canh năng suất từ 2 - 4 tấn 1ha/vụ ( gồm Tĩnh Gia: 400ha, Quảng Xương: 350 ha, Sầm Sơn: 100 ha, Hoằng Hoá: 500 ha, Hậu Lộc: 400 ha, Nga Sơn: 100 ha, Nông Cống: 50 ha ). Đầu tư cải tạo, nâng cấp ao đầm cũ vùng hạ tiêu đủ điều kiện để nuôi quảng canh cải tiến và bán thâm canh đạt năng suất 3 - 3,5 tấn/ha/vụ. Phấn đấu đến năm 2005 đạt 1.500 ha. - Xây dựng mới từ 10 - 20 trại giống mi ni công xuất 5 triệu con/năm, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia. - Cải tạo nâng cấp 3 trại giống tôm của ngành đến năm 2005 đạt 100 triệu con/năm, xây dựng 3 cơ sở ương tôm giống tại các vùng có nhu cầu nuôi tôm lớn. - Hình thành mạng lưới cung cấp giống tôm từ miền trung ra với chất lượng tốt không bệnh tật. - Đầu tư mới 2 xưởng sản xuất thức ăn cho tôm công xuất 1tấn/ ngày/ xưởng ( tại Hoằng Hoá và Quảng Xương ), - Mở rộng phát triển nuôi các loại hải đặc sản. + Nuôi ngao: Diện tích tăng từ 600ha ( 2001) lên 1.000 ha năm 2005. + Nuôi rau câu và các loại hải sản lồng trên biển. 3.2. Nuôi nước ngọt. - Duy trì ổn định sản xuất giống và nuôi các loại cá truyền thống. Cần du nhập các loại giống mới có giá trị kinh tế cao là nguyên liệu cho xuất khẩu như tôm càng xanh, cá chim trắng. - Đầu tư nâng cấp các trại cá giống ( Hậu Lộc, Thiệu Hoá, Cẩm Thuỷ ) đủ sức giữ gen đàn cá giống gốc và sản xuất đạt từ 200 - 300 triệu cá bột/năm. ưu tiên phát triển nuôi ở vùng trung Đảng uỷ miền núi của tỉnh. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia trên nguyên tắc đảm bảo chủng loại và chất lượng giống. 4. Kế hoạch phát triển chế biến sản phẩm thuỷ sản: Phát triển ngành chế biến thuỷ sản sao cho sử dụng được tốt để sản lượng đánh bắt và nuôi trồng vào sản xuất thực phẩm trực tiếp, gián tiếp và hàng xuất khẩu, sản phẩm chế biến phải phù hợp với sức mua của từng giai đoạn, thuận tiện trong lưu thông và đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Phát triển nhanh ngành chế biến hiện đại để xây dựng công nghiệp chế biến các sản phẩm công nghiệp với hàm lượng kỹ thuật cao từ nguồn nguyên liệu thuỷ sản. Biểu19: Dự kiến các chỉ tiêu chế biến sản phẩm Chỉ tiêu ĐV 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. Chế biến xuất khẩu tấn 8.910 9.870 11.900 15.000 18.600 - Tôm đông lạnh - Cá đông lạnh - Mực đông lạnh - Cá đá - Hải sản đông lạnh khác - Tôm khô - Mực khô - Cá khô các loại - Hải sản khô các loại tấn " " " " " " " " 450 70 350 5000 350 70 600 150 200 800 300 350 6.000 250 100 650 180 280 1.000 350 400 6.500 300 120 700 200 300 1.700 400 450 7.500 350 150 750 250 350 2.200 500 600 9.650 500 200 850 300 400 2.800 600 700 11.750 600 250 1.000 400 500 2. Chế biến nội địa 1000 l - Nước mắm - Mắm các loại - Khô các loại - Bột cá - Thức ăn cho tôm " tấn " " " 8500 4500 1800 9.000 4.800 2.000 100 150 9.500 5.500 2.400 200 380 10.000 6.200 2.800 500 600 10.500 7.000 3.300 1.800 1.000 11.000 8.000 3.600 2.000 1.500 Nguồn: Sở thuỷ sản thanh hoá 4.1. Chế biến nội địa : Sản phẩm cho tiêu dùng trong nước gồm các mặt hàng : Cá ăn tươi, cá Đông, các loại sản phẩm phân ra (nước mắm, mắm các loại ) các chế phẩm thuỷ sản ở dạng khô và nhão, các loại sản phẩm khô, thức ăn chín, bột cá chăn nuôi. Phấn đấu đến năm 2005 chế biến được 11.000 (1.000 lít) nước mắm, 8.000 tấn mắm các loại, 2.000 tấn bột cá, 1.500 tấn thức ăn cho tôm. Để đạt được mục tiêu chế biến trên cần phải nâng cấp, cải tạo các cơ sở chế biến ở địa phương, cổ phần hoá các Xí nghiệp chế biến của Nhà nước. Đồng thời phát huy hiệu quả, tăng cường các cơ sở chế biến của các hộ gia đình, hợp tác xã theo hướng truyền thống để tận dụng được kinh nghiệm chế biến truyền thống của nhân dân lao động ven biển. Tuy nhiên cần phải có sự thống nhất kết hợp giữa khai thác, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước phải hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho người dân. - Tăng cường chế biến sản phẩm thô để cung cấp cho các nhà máy chế biến xuất khẩu. - Phải có bước đột phá về sản xuất bột cá chăn nuôi để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi gia xúc, gia cầm. 4.2. Chế biến xuất khẩu : Lấy chế biến xuất khẩu làm mũi nhọn để đầu tư công nghệ mới vào sản phẩm có giá trị trên thị trường quốc tế. Khuyến khích mọi thành phần có giá trị kinh tế tham gia chế biến (kể cả chế biến công nghiệp ) để đa dạng hoá mặt hàng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Từng bước đổi mới công nghiệp chế biến bằng hình thức liên doanh liên kết tạo thị trường ổn định. Đặc biệt ưu tiên cho các sản phẩm cao cấp đạt tiêu chuẩn vào các siêu thị. Trước mắt đầu tư chiều sâu cho 2 xí nghiệp : Đông lạnh, Thuỷ sản xuất khẩu Hoàng Trường và Mật Sơn, từng bước đưa 2 xí nghiệp này đảm nhận lớn các sản phẩm chế biến xuất khẩu ở Thanh Hoá và một phần tiêu thụ nội địa. Phải coi các vùng nguyên liệu là một bộ phận (tế bào ) của các nhà máy chế biến xuất khẩu này. - Xây dựng thêm 1 số cơ sở sản xuất đá ở Lạch Hới, Quảng Nam, Hậu Lộc, Nga Sơn, Tĩnh Gia, Đảo Mê với công xuất 15 - 30 tấn/ ngày. - Xây dựng 2 phân xưởng chế biến thuỷ sản xuất khẩu công xuất 1 - 2 tấn/ngày ở Lạch Hới và Lạch Bạng. - Xây dựng mới nhà máy chế biến thỷ sản xuất khẩu. Tại Tính Gia với thiết bị công nghệ hiện đại, sản phẩm chất lượng cao, làm đầu mối để xuất khẩu trực tiếp. Phấn đấu đến năm 2001 đạt 6.000 triệu USD xuất khẩu trực tiếp và 14.000 triệu USD vào năm 2005. 5. Kế hoạch tiêu thụ và mở rộng thị trường. 5.1. Dự báo thị trường thuỷ sản thời kỳ 2001 - 2005 : 5.1.1. Thị trường thuỷ sản thế giới : Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của tất cả các quốc gia đã và đang tăng mạnh, kéo theo việc tăng khả năng chu chuyển hàng hoá thuỷ sản trên quy mô lớn. Trong thập niên qua, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới tăng bình quân 25%/năm, nhập khẩu tăng 26,6%/năm năm 1950 lên trên 50%/năm vào đầu những năm 90. Từ nay đến năm 2010 cho thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật sẽ có nhiều thay đổi trong công nghệ sản xuất thuỷ sản, tuy nhiên theo dự báo về cơ bản cơ cấu mặt hàng thuỷ sản sẽ không thay đổi so với hiện nay. Yêu cầu về chất lượng ngày càng cao, xu thế sử dụng thuỷ sản tươi sống và hàng đông lạnh sẽ phát triển với mức độ cao. Các sản phẩm thuỷ sản chủ yếu bao gồm 4 nhóm mặt hàng chính. + Giáp xác và nhuyển thể đông lạnh : Nhu cầu có thể tăng với mức độ 20 - 22%/năm. + Cá sống, tươi, đông lạnh : Nhu cầu sẽ tiếp tục duy trì mức tăng 25 - 30%/năm. + Cá hộp chủ yếu là cá ngừ : Nhu cầu sẽ tiếp tục tăng ở mức 15 - 25%/năm. + Đồ hộp giáp xác và chuyển thể, thực phẩm phối chế đẩy mạnh với mức 20 - 25%/năm. Các thị trường thuỷ sản chính vẫn là Nhật Bản, Châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Nam á, nhưng sẽ có sự phân công mới và thế cân bằng mới giữa các thị trường này... Do chuyển dịch cơ cấu kinh thế, các nước thuộc thị trường này không nới lỏng dần các biện pháp hạn chế nhập sản phẩm giá trị gia tăng từ các nước đang phát triển. 5.1.2. Thị trường thuỷ sản trong nước : Do đã tiếp cận và hội nhập với khu vực và thế giới, thị trường trong nước sẽ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các thị trường nước ngoài các loại nguyên liệu có thể xuất khẩu ngày càng đa dạng về chủng loại về cơ cấu sản phẩm cá tươi, cá ướp đá, thuỷ sản đông lạnh và sống vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tiêu dùng nội địa. Các sản phẩm chế biến sẵn theo phương thức công nghiệp ngày càng có nhu cầu lớn, sẽ được sử dụng phổ biến sau năm 2000. Do du lịch phát triển nhu cầu xuất khẩu tại chỗ sẽ tăng, mức giá các loại hàng thuỷ sản sẽ cao ngang với giá xuất khẩu. Thị trường vùng đô thị sẽ thay đổi lớn về chủng loại và yêu cầu chất lượng. Thị trường nông thôn miền núi và các khu công nghiệp chủ yếu vẫn tiêu thụ thuỷ sản tươi, đông lạnh, khô và mắm nhưng yêu cầu về chất lượng sẽ tăng. Một số mặt hàng truyền thống (cá khô, nước mắm loại thường ) sẽ có tỷ trọng giảm dần. 5.2. Các biện pháp nhằm tiêu thụ và mở rộng thị trường thuỷ sản ở Thanh Hoá. Hình thành các trung tâm buôn bán, giao dịch hàng thuỷ hải sản qua đó có thể trao đổi thông tin về thị trường, các doanh nghiệp có điều kiện quảng cáo sản phẩm của mình. Tuy nhiên cần có sự trợ giúp của cơ quan Nhà nước trong việc tìm kiếm thông tin cung cấp cho thị trường. - Các doanh nghiệp chế biến cần có sự hợp đồng, liên kết chặt chẽ với người khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Các công ty này có thế nên đầu tư tàu thuyền lớn để có thể vừa thu mua hải sản của tàu vừa cung cấp nhiên liệu dụng cụ cho tàu khai thác hải sản xa bờ ở ngoài khơi. Hoặc có thể đóng vai trò trung gian trong việc cung cấp giống. Thức ăn cho những người nuôi trồng thuỷ sản đổi lại họ sẽ được thu mua sản phẩm nuôi trồng theo giá cả thị trường. - Nhà nước giúp đỡ, các doanh nghiệp nỗ lực cải tiến công nghệ theo hướng hiện đại đáp ứng theo các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm của thế giới. Muốn vậy phải đầu tư đồng bộ từ khâu thu mua, tổ chức chế biến đến tiêu thụ. - Nhà nước có chính sách ưu đãi cho những doanh nghiệp xuất khẩu về thuế, vốn đầu tư, thông tin... 6. Tổng hợp các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển thuỷ sản: Biểu 20 : Mục tiêu chủ yếu kế hoạch thời kỳ 2001- 2005 Chỉ tiêu ĐVT 2001 2005 Tốc độ tăng trưởng bình quân 2001 - 2005% So với (%) 1996 - 2000 1- Tổng sản lượng tấn 51.600 69.000 11,0 145 Trong đó: - Khai thác hải sản tấn 39.000 51.000 10,0 141 - Nuôi mặn, lợ tấn 6.000 11.300 12,0 205 - Nuôi nước ngọt tấn 6.600 7.600 6,0 117 2- Chế biến xuất khẩu tấn 8.910 18.600 12,5 268 - Tôm đông lạnh tấn 800 2.800 13,5 600 3- Giá trị kim ngạch XK tr USD 16.500 25.000 11,5 178 - Chính ngạch tr USD 6.500 16.000 12,5 372 4- Nộp ngân sách Nhà nước tr đ 2.200 3.200 10,0 153 5- Giải quyết việc làm LĐ 43.000 50.000 8,0 120 6- Tổng vốn đầu tư tr đ 109.500 267.000 12,0 356 Nguồn: Sở Kế hoạch - Đầu tư Thanh Hoá Iii/ Các giải pháP thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản thanh hoá 1. Giải pháp huy động vốn cho phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá thời kỳ 2001-2005. Nhu cầu vốn cho phát triển ngành thuỷ sản trong thời gian tới cần một lượng rất lớn để đầu tư cho khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản. Để huy động được nguồn vốn đó cần có các giải pháp đồng bộ để có thể khai thác được nguồn vốn trong nước và thu hút được đầu tư nước ngoài. Đối với nguồn vốn cho khai thác hải sản: Đây là nguồn vốn để đầu tư cho đóng mới và cải hoán tàu đánh bắt hải sản xa bờ đòi hỏi một lượng vốn lớn. Do đó cần huy động nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, đặc biệt là vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, vốn vay của ngân hàng kết hợp với nguồn vốn tự có của nhân dân. Để huy động được vốn này cần giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà gây ảnh hưởng tới việc tiếp cận nguồn vốn, nâng cao trình độ thẩm định các dự án của các cán bộ tài chính để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn. Bên cạnh đó phải cung cấp thông tin đầy đủ cho người dân tiếp cận được nguồn vốn nhưng cần chú ý là nguồn vốn vay được phải được người dân tiếp nhận và trực tiếp đầu tư để có thể tận dụng được năng lực sản xuất hiện có và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tránh tình trạng vốn vay chỉ qua ngân hàng đến các xí nghiệp đóng tàu và người vay vốn chỉ được tiếp nhận tàu đánh bắt. Thực trạng đó dẫn đến không khuyến khích ngư dân bỏ vốn vào đầu tư. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần phải được đầu tư có trọng điểm tránh tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Cần kiên quyết thu hồi những tàu khai thác thua lỗ thường xuyên không có khả năng hoàn trả nợ. Đối với nguồn vốn cho nuôi trồng thuỷ sản: cần khuyến khích các hộ gia đình bỏ vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản theo hướng kinh tế trang trại. Bên cạnh đó tạo điều kiện cho các hộ nuôi trồng thuỷ sản tiếp cận và vay được nguồn vốn ngân hàng để đảm bảo vốn cho việc mua giống và thức ăn phục vụ nuôi trồng. Muốn vậy các ngân hàng và tổ chức tín dụng cần có ưu đãi đặc biệt là khâu thế chấp, chấp nhận hộ nuôi trồng vay vốn lấy đất đai làm tài sản thế chấp. Tuy nhiên để phát triển được nuôi trồng cần có đầu tư lớn và đồng bộ trong xây dựng cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản. Do đó phải huy động nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước là chủ yếu, đặc biệt là nguồn vốn ưu đãi từ chương trình nuôi trồng thuỷ sản để sử dụng vào việc xây dựng hệ thống kênh mương cấp thoát nước, hệ thống đê chắn ngăn mặn, máy bơm và chú trọng hơn vào xây dựng hạ tầng nuôi công nghiệp. Do đó cần có sự quy hoạch, lập dự án khả thi để trình lên cơ quan cấp trên làm điều kiện xin cấp ngân sách Nhà nước. Tích cực thu hút nguồn vốn ODA vào xây dựng hạ tâng nuôi trông thuỷ sản. Trong chế biến thuỷ sản cần huy động vốn từ kênh trực tiếp đó là khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến, đổi mới công nghệ, đặc biệt là thu hút nguồn vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Để làm được điều đó cần phải có chính sách thông thoáng, ưu tiên cho các doanh nghiệp chế biến về thuế, chính sách đất đai, chính sách xuất khẩu. 2. Giải pháp đổi mới công nghệ. Từng bước đầu tư đổi mới đội tàu khai thác xa bờ, nâng cao công suất của tàu, trang bị các công cụ dụng cụ, phương tiện khai thác đồng bộ, hiện đại tương ứng với công suất của tàu, đồng thời nghiên cứu đổi mới hiện đại hoá, trang bị các cơ sở bảo quản, sơ chế ngay trên tàu đảm bảo cho tàu được bám biển lâu dài. Liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học của ngành thuỷ sản như các viện, trường, trại để nghiên cứu dự báo nguồn lợi thuỷ sản, dự báo môi trường để hướng dẫn cho các tàu khai thác đảm bảo được hiệu quả cao. Trong nuôi trồng thuỷ sản cần nghiên cứu quy hoạch vùng nuôi đảm bảo môi trường sinh thái, hướng việc đổi mới công nghệ vào áp dụng hình thức nuôi mới lấy nuôi công nghiệp là chính, chủ yếu sử dụng máy móc như máy bơm nước, máy đo ô xi, máy đo độ PH,... đảm bảo việc nuôi trồng chủ động trong nguồn nước làm tăng mật độ nuôi. áp dụng công nghệ nhân giống nhân tạo tiến tới chủ động cung cấp giống cho nuôi trồng, tiếp tục giữ gen đàn giống gốc, nghiên cứu công nghệ sinh học để tạo ra các loại giống lai có năng suất và chất lượng cao cung cấp cho nhu cầu giống của nhân dân. Đồng thời tăng cường công tác kiểm dịch để đảm bảo phát hiện nhanh dịch bệnh và có biện pháp để phòng chống dịch bệnh. Thay thế dần công nghệ chế biến lạc hậu, chủ yếu là công nghệ đông lạnh (BLOCK) sang áp dụng công nghệ đông rời là công nghệ thế giới đang sử dụng vào bảo quản chế biến sản phẩm để đảm bảo chất lượng sản phẩm đủ sức xuất khẩu trực tiếp. Phấn đấu trong thời gian tới các sản phẩm chế biến đạt các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm của thế giới. Để đổi mới công nghệ thành công cần đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu khoa học, có chế độ ưu đãi khuyến khích những người làm công tác khoa học. Đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp tăng cường hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, chuyển giao công nghệ, mở rộng liên doanh liên kết với các nước có trình độ khoa học công nghệ cao trong lĩnh vực thuỷ sản để tiếp thu kỹ thuật mơi. 3. Giải pháp đào tạo lao động cho phát triển ngành thuỷ sản Thanh Hoá. Bổ sung tiếp nhận lực lượng cán bộ trẻ có trình độ về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học. Đào tạo bổ túc kiến thức mới cho số cán bộ đã tốt nghiệp lâu năm. Hàng năm gửi đi học nâng cao về nghiệp vụ, chính trị cho cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý trong ngành. Mở các lớp đào tạo thuyền trưởng, thuyền viên đảm bảo sử dụng công nghệ hiện đại cho vận hành tàu khai thác hải sản xa bờ. Mở lớp tập huấn cho các chủ hộ nuôi trồng thuỷ sản để họ tiếp thu được kiến thức cơ bản về kỹ thuật nuôi, cách phát hiện và phòng chống dịch bệnh, tiếp cận dần đến phương thức nuôi công nghiệp. Tăng cường đầu tư cho trường trung cấp thuỷ sản của tỉnh trong việc đào tạo lao động lạnh nghề cung cấp cho ngành thuỷ sản Thanh Hoá. 4. Giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển ngành thuỷ sản. Khuyến khích các hợp tác xã đầu tư khai thác hải sản xa bờ. Sự hình thành các hợp tác xã mới sẽ tạo điều kiện đảm bảo tàu khai thác xa bờ hoạt động hiệu quả hơn. Bởi lẽ thực tế là khai thác xa bờ muốn đạt hiệu quả tốt cần phải có sự hỗ trợ, hợp tác, liên kết giữa các chủ tàu với nhau trong các khâu đánh bắt, cung cấp dịch vụ hậu cần, bảo quản,... do đó mô hình hợp tác xã sẽ thích hợp cho việc liên kết giữa các đội tàu với nhau. Có thể hợp tác xã chỉ đảm nhận một số khâu trong quá trình sản xuất như khâu dịch vụ hậu cần: cung cấp dầu, thực phẩm, công cụ đánh bắt cho tàu bám biển dài ngày hay khâu bảo quản, chế biến, vận chuyển,... điều đó sẽ tạo điều kiện cho các tàu khai thác làm ăn tốt hơn. Tuy nhiên các hợp tác xã nghề cá phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, gắn lợi ích với trách nhiệm của các xã viên và hoạt động theo cơ chế thị trường. Đồng thời phải khuyến khích các công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư vào lĩnh vực khai thác hải sản xa bờ. Bên cạnh đó cần tận dụng những hộ gia đình có vốn ít, phương tiện nhỏ, tập trung khai thác gần bờ đảm bảo tăng thu nhập. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo mô hình kinh tế trang trại gia đình là chủ yếu, kết hợp với kinh tế tiểu chủ. Để làm được đòi hỏi Nhà nước và các địa phương có chính sách đất đai hợp lý để khuyến khích các hộ gia đình bỏ vốn, công sức để khai hoang, cải tạo các vùng ven biển thành các ao đầm nuôi trồng thuỷ sản. Nhưng để phát huy được các trang trại cần lấy thị trường là trung tâm, phát triển cơ cấu nuôi trồng hợp lý đảm bảo cung cấp sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, cần lựa chọn các loại hải sản nuôi trồng có giá trị cao như tôm sú, tôm he, tôm càng xanh, cua,... . Nên đầu tư trên cả hai vùng nước mặn lợ và nước ngọt. Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Thực hiện các hình thức cho thuê, khoán, bán đối với các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả thấp. Khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 5. Giải pháp cơ cấu lại và phát triển các lĩnh vực sản xuất nghề cá: Nuôi trồng thuỷ sản : Song song với việc tiếp tục củng cố nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt, nuôi cá lồng bể, cần tạo bước nhảy vọt trong cơ cấu nuôi trồng nước lợ và đặc biệt là trong nghề nuôi hải sản trên biển. Nhanh chóng xây dựng các mô hình nuôi chuyên canh tập trung năng suất cao với các đối tượng tôm sú, rong câu ... đồng thời đầu tư công nghệ sớm có các quy trình sản xuất giống để chủ động đối với các đối tượng hải sản có giá trị cao khác. Trong tương lai, sản lượng nuôi trồng sẽ vượt qua sản lượng khai thác và là nguồn nguyên liệu chủ yếu ổn định cho chế biến xuất khẩu. Khai thác hải sản : Đổi mới mạnh mẽ cơ cấu tàu thuyền, nghề nghiệp, đối tượng khai thác để tiếp tục giữ vững và phát huy vị trí chủ lực của khai thác hải sản trong các lĩnh vực sản xuất thuỷ sản. Phát triển hợp lý, có hiệu quả khai thác xa bờ, tăng nhanh tỷ trọng sản lượng hải sản khai thác xa bờ trong tổng sản lượng khai thác. Điều chỉnh cơ cấu khai thác ven bờ, giảm dần sản lượng khai thác hải sản ven bờ xuống mức giới hạn cho phép để đảm bảo khả năng tái tạo, phát triển của nguồn lợi. Đi đôi với phát triển, chuyển đổi cơ cấu biển và hải đảo. Cần chuyển một lực lượng đáng kể từ khai thác sang nuôi trồng thuỷ sản và tổ chức xuất khẩu một bộ phận lao động đánh bắt sang các nước có nhu cầu lao động có nghề cá phát triển. Chế biến thuỷ sản : Nâng cấp điều kiện sản xuất và đổi mới công nghệ trong các nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng có chất lượng có đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của thị trường quốc tế theo tiêu chuẩn HACCP và GMP. Đối với chế biến tiêu thụ . Bên cạnh việc duy trì và hiện đại hoá các ngành nghề và sản phẩm chế biến truyền thống thì phải đổi mới công nghệ, đổi mới cơ cấu sản phẩm để vừa bảo tồn, vừa thích nghi cuộc sống công nghệ hiện đại. Đầu tư đồng bộ nâng cấp cơ sở hạ tầng dịch vụ nghề cá : Đây là một giải phát cực kỳ quan trọng để phát triển nghề cá trong thời kỳ tới, không có được một hệ thống cơ sở hạ tầng dịch vụ hầu cần tương xứng, không thể phát triển được nghề cá công nghiệp hiện đại. Do đó nhất thiết phải quy hoạch lại hệ thống cơ sở hạ tầng và hậu cần dịch vụ hiện có bao gồm : Cầu cảng, bến cá, chợ cá, cơ sở sản xuất, dịch vụ cơ khí, lưới sợi, đóng sửa tàu thuyền, vui chơi, giải trí ... từ quy hoạch đó xây dựng kế hoạch đồng bộ, dứt điểm từng hạng mục, từng bến cá đưa vào khai thác sử dụng phục vụ cho khai thác xa bờ, cho các vùng nuôi tập trung, cho các cơ sở chế biến. Đồng thời việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phải thống nhất quy hoạch xây dựng các tụ điểm, thị trấn, thị tứ, xây dựng các trung tâm nghề cá giàu đẹp. 6. Giải pháp liên kết giữa sản xuất và chế biến thuỷ sản. Tiến tới xây dựng và phát triển quan hệ liên kết theo chiến lược sản phẩm và thị trương thống nhất giữa doanh nghiệp chế biến tiêu thụ với các nhà sản xuất nguyên liệu là một giải pháp vừa mang tính chiến lược tình thế, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Việc liên kết nên thực hiện theo nhiều hình thức: quốc doanh cung cấp nhiên liệu, ngư lưới cụ cho ngư dân để mua lại thuỷ sản đưa vào chế biến. Liên doanh giữa các cấp hành chính tỉnh, huyện với các doanh nghiệp lớn như Seaprodex Hà Nội với các huyện Hâu Lộc, Tĩnh Gia bằng cách cung ứng vốn cho bà con nuôi tôm đổi lấy sản phẩm. Xí nghiệp liên hiệp Hải Phòng đầu tư tàu đánh cá cho ngư dân ở Quảng Nam Đà Nẵng. Hoặc như công ty Agifish An Giang đầu tư 50% vốn cho người nuôi cá bè. Khi có nguyên liệu phải quy hoạch hệ thống chế biến đưa công suất chế biến lên 1.000 tấn sản phẩm/ngày vào năm 2000 và 1.500 tấn sản phẩm/ngày vào năm 2005. Như vậy các cơ sở chế biến đều được áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng xuất khẩu. Tỷ trọng hàng có giá trị gia tăng hiện nay từ 25-30% có thể lên đến 40-45% vào năm 2005. 7. Bố trí xắp xếp lại hệ thống các đơn vị trong ngành theo hướng tinh giản đủ khả năng công tác và phát huy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. - Khối hàng chính sự nghiệp : + Có cơ quan văn phòng sở : Thành lập phòng kỹ thuật. + Chi cục bảo vệ nguồn loại : Năm 2001 - 2002 : Thành lập trạm BVNL thuỷ sản Lạch Trường. Năm 2004 - 2005 : Thành lập trạm BVNL thuỷ sản Lạch Ghép. + Trung tâm khuyến ngư : Thành lập một trại thực nghiệm nước lợ. + Thành lập trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản . + ở các huyện thị : Thành lập các phòng thuỷ sản . - Khối doanh nghiệp : + Năm 2000 : Thực hiện cổ phần hoá Xí nghiệp tàu thuyền Tân Châu. + Chỉ đạo thực hiện theo nghị định 103/CP với 4 doanh nghiệp về bán, khoán, cho thuê (XN nuôi tôm xuất khẩu, XN nuôi trồng thuỷ sản Hoằng Hoá, Công ty Thuỷ sản Sầm Sơn, Công ty thuỷ sản Tĩnh Gia ). + Củng cố phát triển 4 doanh nghiệp : Công ty thuỷ sản Thanh Hoá, Công ty XNK thuỷ sản Thanh Hoá, Xí nghiệp đông lạnh XNK Hoằng Hoá, Công ty giống thuỷ sản Thanh Hoá. Iv/ Một số kiến nghị nhằm thực hiện kế hoạch phát triển thuỷ sản thanh hoá: - Bộ thuỷ sản, UBND tỉnh Thanh Hoá ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng các dự án cho hậu cần như cảng cá, bến cá, nạo vét luồng lạch, khu trú bão tàu thuyền, phương tiện cứu hộ, cứu nạn ... bằng vốn ngân sách Nhà nước. - UBND tỉnh chỉ đạo các tổ chức tín dụng cho các thành phần kinh tế nghề cá vay vốn với cơ chế, thủ tục thuận lợi, lãi xuất thấp, cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất nhỏ không cần thế chấp. - UBND tỉnh duy trì chính sách trợ giá sản xuất giống thuỷ sản và ưu tiên đầu tư cho các đề tài nghiên cứu triển khai trong lĩnh vực phát triển giống. - Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh phí đào tạo, bổ túc tay nghề cho con em ngư dân, đặc biệt là với lao động cho tàu cá xa bờ. Nhà nước xây dựng các hình thức chợ, trung tâm buốn bán thuỷ sản ở các thành phố, thị trấn ven biển. Đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ về giống và tìm cơ chế hỗ trợ rủi ro đối với các dự án nuôi trồng và đánh bắt hải sản. Nhà nước thành lập Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam để tập hợp các nhà sản xuất và kinh doanh thuỷ sản nhằm giúp đỡ nhau về công nghệ, thông tin kinh tế - thương mại nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp. Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống tín hiệu báo hiệu cho tàu khai thác biết để hạn chế tai nạn trên biển do thiên tai gây ra. Nhà nước hoàn thiện chính sách đất đai đảm bảo lợi ích lâu dài cho người đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. Kết luận Trong mấy năm gần đây ngành thuỷ sản Thanh Hoá đã phát triển khá nhanh, xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhà, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành đã có sự đầu tư đẩy mạnh vào phát triển cơ sở hạ tầng cho khai thác, nuôi trồng và chế biến. Do đó sản lượng và giá trị khai thác, nuôi trồng ngày càng tăng, giá trị xuất khẩu nhất là xuất khẩu chính ngạch tăng đã tạo ra nhiều ngoại tệ cho đất nước. Đặc biệt là thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, đáng chú ý là thị trường xuất khẩu sản phẩm đã vươn tới những thị trường khó tính như : EU, Mỹ và từ chỗ xuất khẩu sản phẩm thô là chủ yếu đã dần dần chuyển sang sản xuất các sản phẩm tinh chế đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường. Tuy nhiên để tiếp tục phát huy được nhữg lợi thế của mình, nâng cao giá trị sản phẩm thì ngành thuỷ sản Thanh Hoá cần tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại làm động lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành. Trong đó phải xác định khai thác xa bờ là chủ yếu, chuyển đổi phương thức nuôi trồng theo hướng nuôi công nghiệp là chính, đồng thời phát triển ngành công nghiệp chế biến tương xứng đảm bảo chế biến tinh để xuất khẩu Tất nhiên muốn thực hiện được các mục tiêu trên ngoài sự nỗ lực của ngành cần phải có sự quan tâm và ưu đãi của Nhà nước cũng như sự hỗ trợ, hiệp lực tích cực của các ngành có liên quan. Tài liệu tham khảo 1. Chiến lược phát triển Thuỷ sản Thanh Hoá đến năm 2010 - Sở Thuỷ sản Thanh Hoá- 2. Báo cáo xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005 ngành Thuỷ sản Thanh Hoá - Sở Thuỷ sản tháng 8/2000 - 3. Thực trạng kinh tế xã hội 5 năm 1996 - 2000 tỉnh Thanh Hoá - Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá tháng 12/2000 - 4. Tạp chí kinh tế và phát triển. - Số 44 tháng 2/2001- 5. Tạp chí thuỷ sản. - Số tết Tân tỵ - 6. Tạp chí thuỷ sản - Số 6/2000- 7. Niên giám Thống kê tỉnh Thanh hoá 8. Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô. - NXB Chính trị quốc gia năm 2000 - 9. Tạp chí kinh tế và dự báo. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6669.doc
Tài liệu liên quan