Lời nói đầu
V.I.Lênin đã từng nói : “ Xét cho đến cùng thì năng xuất lao động là cái quan trọng nhất , chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”. Như vậy, chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của lực lượng lao động trong việc phát triển kinh tế. Nó là một trong những nhân tố quan trọng nhất cấu thành nên sản phẩm của xã hội. Và ngược lại, tất cả các của cải của xã hội sản xuất ra cũng chi phục vụ con người, cho con người mà thôi. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với nước ta, một nước đan
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch lao động - Việc làm & các pháp giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001 - 2005 ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, luôn lấy con người là trọng tâm của sự phát triển
Là một nước đang phát triển và nguồn nhân lực có đầy đủ các tính chất của một nước kém phát triển : tốc độ tăng dân số cao, nguồn lao động dồi dào, chất lượng lao động thấp.... nhưng trong những năm qua, chúng ta đã có những thay đổi đáng kể trong công tác đào tạo, sử dụng nguồn lao động, thúc đẩy sự chuyển biến nguồn lao động theo hướng tích cực nhất và cũng đã đạt được những thành quả nhưng cũng còn những bất cập nhất định.
Bài viết của em được viết nhằm đánh giá lại việc thực hiện kế hoạch lao động - việc làm trong 3 năm 2001, 2002 và 2003; xem xét các kế hoạch 2004 , 2005; những thuận lợi và thách thức trong việc thực hiện kế hoạch 2 năm cuối trong khuôn khổ kế hoạch 5 năm từ 2001-2005, đồng thời em cũng mạn phép đưa ra ý kiến của mình về những chủ trương, biện pháp giải quyết những khó khăn còn vướng mắc phải trong quá trình thực hiện kế hoạch
Trong khuôn khổ thời gian và năng lực có hạn ,bài viết của em không thể không tránh được những thiếu xót. Em xin chân thành cám ơn những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn
Em xin chân thành cám ơn Ts. Nguyễn Thị Kim Dung, giảng viên khoa Kế hoạch và phát triển đã giúp đỡ em hoàn thành bài đề án này!
Kế hoạch lao động – việc làm và các pháp giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001-2005 ở Việt Nam Chương i
những vấn đề cơ bản về kế hoạch hoá phát triển
lực lượng lao động
i . khái niệm và ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động
1 . Quan niệm cơ bản về lao động và việc làm
1.1.Quan niệm của thế giới
1.1.1.Cơ cấu lực lượng lao động
Để làm rõ khái niệm về lao động và việc làm, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra quan niệm về lực lượng lao động và mô tả nó bằng sơ đồ có tính chất chung nhất như sau :
cơ cấu về lực lượng lao động
Dân số trong tuổi lao động quy định
Không có việc làm
Có việc làm
Không muốn làm việc
Muốn làm việc
Không chủ động tìm việc
-Chủ động tìm việc
-Sẵn sàng làm việc
( Thất nghiệp)
Lực lượng lao động
Không thuộc lực lượng lao động
1.1.2.Nội dung các khái niệm trong sơ đồ về cơ cấu lực lượng lao động và mối quan hệ giữa chúng
A.Lực lượng lao động
Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định (theo quy định của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, độ tuổi theo quy định là từ 18 – 60 đối với nam và từ 18 – 55 đối với nữ ); thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm, tức là những người đang trong tình trạng thất nghiệp
Về cơ bản khái niệm nêu trên được thống nhất ở nhiều nước và cũng là khái niệm mà ILO chính thức đưa ra. Điều khác nhau ở mỗi nước chủ yếu là độ tuổi quy định , ở đây có hai sự khác biệt, khác biệt đó là giới hạn tuổi tối thiểu và giới hạn tuổi tối đa. Cơ sở thực tế để xác định giới hạn tuổi tối thiểu và tuổi tối đa của lực lượng lao động là: các nước thường dựa vào tuổi học sinh rời khỏi trường phổ thông để xác định tuổi tối thiểu và tuổi cao nhất quy định cho người được nghỉ hưu để xác định giới hạn tuổi tối đa.
B.Người có việc làm
Người có việc làm là những người làm những công việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hay những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Khi tiến hành cuộc điều tra thống kê về lao động và việc làm , khái niệm trên được cụ thể hoá thêm bằng một số tiêu thức khác tuỳ thuộc vào mỗi nước đặt ra. Có thể phân làm hai nhóm các tiêu thức bổ sung:
-Nhóm thứ nhất là nhóm có việc làm và đang làm việc , đó là những người làm bất kể công việc gì được trả công hoặc vì lợi ích làm việc hoặc làm việc không có tiền công trong các trang trại hoặc kinh doanh của gia đình.
-Nhóm thứ hai là người có việc làm hiện tại nhưng không làm việc, hiện đang nghỉ việc vì đang là kỳ nghỉ (nghỉ hè , nghỉ đông, nghỉ phép ...), ốm, do thời tiết xấu hoặc do các lý do cá nhân khác.
C.Người thất nghiệp
Người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Một điểm cần đề cập đến là phân loại thất nghiệp:
*) Nếu phân theo tính chất của thất nghiệp, chúng ta có các dạng sau:
-Thất nghiệp tạm thời: phát sinh là do sự di chuyển không ngừng của con người giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
-Thất nghiệp có tính cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu đối với công nhân. Sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác lại giảm đi , trong đó mức cung không điều chỉnh kịp với sự thay đổi này
-Thất nghiệp chu kỳ xảy ra khi mức cầu chung về lao động thấp. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm , chúng ta thấy thất nghiệp tăng hầu hết ở khắp nơi. Việc thất nghiệp tăng hầu hết ở các vùng là dấu hiệu cho thấy thất nghiệp tăng phần lớn là theo chu kỳ.
*) Nếu phân chia thất nghiệp theo khu vực chúng ta có các dạng thất nghiệp là:
Thất nghiệp hữu hình là hình thưcs thất nghiệp thường thấy ở khu vực thành thị. đặc điểm ccủa hình thức thất nghiệp nay là người lao động hoàn toàn không có một việc gì làm để tạo ra thu nhập, mặc dù anh ta luôn có cố gắng đi tìm việc làm
Thất nghiệp vô hình (trá hình) khái niệm này xuất phát từ quan điểm cùa nhà kinh tế học cổ điển Ricacdo về vấn đề lao động trong 2 khu vực nông thôn và thành thị. Theo ông, trong khu vực nông nghiệp luôn có tình trạng dư thừa lao động nhưng khác với khu vực thành thị, số lao động này vẫn làm việc, vẫn tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình nhưng khi rút họ ra khỏi khu vực lao động thì thu nhập của gia đình họ vẫn không thay đổi
Bán thất ngiệp là khái niệm chỉ những người vẫn có việc làm, vẫn tạo ra thu nhập và khi rút họ ra khỏi quá trình lao động thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất. Nhưng những người này thường lao động với năng xuất không cao. Hiện tượng nay thường gặp trong các công sở ở Việt Nam
D.Những người không thuộc lực lượng lao động
Là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà họ là những người không làm việc và cũng không có ý địng đi tìm việc, bao gồm các đối tượng là học sinh, sinh viên, những người mất khả năng lao động, nội trợ và những người thuộc tình trạng khác.
II.Khái niệm, ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động
1.Khái niệm
Kế hoạch hoá lực lượng lao động là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nó xác định quy mô, cơ cấu, chất lượng của bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế, xác định những chỉ tiêu xã hội của lực lượng lao động như tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ phần trăm thất nghiệp và mức thu nhập trung bình của lực lượng lao động, xác định những chính sách chủ yếu để sử dụng và điều phối lực lượng lao động một cách có hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu phúc lợi xã hội khác của một quôcs gia trong thời kỳ kế hoạch.
2.ý nghĩa
Xét theo toàn bộ hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch hoá lực lượng lao động là một bộ phận kế hoạch biện pháp vì nó phục vụ cho một số kế hoạch mục tiêu như kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch phát triển vùng ...
Tuy nhiên kế hoach hoá lực lượng lao động cũng là một bộ phận kế hoạch mục tiêu, trong nội dung này, kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động có bao hàm các chỉ tiêu mục tiêu mang tính hướng đạo của nền kinh tế.
Từ hai ý nghĩa trên có thể rút ra một điều như sau: Khi xây dựng kế hoạch hoá lực lượng lao động thì nó vừa phải mang tính bị động vì nó là kế hoạch biện pháp phụ thuộc vào kế hoạch khác, vừa mang tính chủ động vì nó là kế hoạch mục tiêu nên tự nó phải đặt ra các mục tiêu cho các kế hoạch biện pháp thực hiện.
Kế hoạch hoá lao động được đặc trưng bởi sự lồng ghép của các kế hoạch lao động với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trên tầm vĩ mô, và kế hoạch phát triển của doanh nghiệp ở tầm vi mô. Trong trường hợp này chiến lược lao động được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội và là điều kiện tiên quyết của các chiến lược phát triển.
chương ii
thực trạng về sử dụng lao động của nước ta
thời gian qua (tư 2001 – 2003)
i.khái quát về tình hình phát triển lực lượng
lao động thời gian từ 2001 - 2003
Phần 1 kế hoạch lao động và việc làm trong thời kì từ 2001 – 2005
Kế hoạch lao động và việc làm trong thời kì 01- 05 : văn kiện đại hội Đảng 9 có xác định những nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực nước ta thời kì 2001 –2005 như sau:
- Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nứơc ta trong thời kì từ 2001 – 2010 ( trích Văn kiện đại hội Đảng 9 )
1.Mục tiêu tổng quát
Kế hoạch 5 năm (2001-2005) thể hiện các quan điểm phát triển và mục tiêu chiến lược trong mười năm tới. Theo đó, mục tiêu của kế hoạch này là:
“Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ. Giải quyết các vấn đề bức xúc về việc làm, cơ bản xoá đói và giảm mạnh số hộ nghèo, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ổn định và cải thiện hơn đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo ,giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
2. Các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế, xã hội chủ yếu
2.1 Các mục tiêu kinh tế
-Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hành năm ít nhất là 7%. Tổng GDP năm 2005 gần gấp 2 lần so với năm 1995.
-Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng trên 4% /năm.
-Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 11,2%/năm.
-Giá trị dịch vụ tăng trên 7%/năm.
-Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 12-14.5%/năm.
-Lạm phát dự kiến 5-6% /năm.
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến
-Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp là 20-21%.
-Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38-39%.
-Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41-42%.
Dự kiến cơ cấu lao động trong tổng số lao động có việc làm đến năm 2005
-Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp 56-57%.
-Lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng 20-21%.
-Lao đông trong lĩnh vực dịch vụ 23-24%.
2.2.Các mục tiêu xã hội
Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80%, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 40% vào năm 2005, thực hiên chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở
Giảm tỷ lệ sinh trung bình hàng năm 0,5-0,5%; tốc độ phát triển dân số vào năm 2005 khoảng 1,23%. Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho 7,5-8,0 triệu người lao động, bình quân 1,5-1,6 triệu lao động/năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.
Cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ nghèo (theo tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam ) xuống còn 5% vào năm 2005. Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh trong nước; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuông còn 20-25% vào năm 2005. Nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2005 lên 70 tuổi, cung cấp nước sạch cho 80% dân số nông thôn.
3.Kế hoạch lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005
3.1.Số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động
Vào năm 2000, số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động là 43,8 triệu người, dự kiến và năm 2005 khoảng 50,8 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu người.
Số lao động cần có việc làm vào năm 2005 khoảng 47 triệu người, trong đó số lao động nông thôn khoảng 34,8 triệu người, chiếm 74%, lao động ở thàng thị khoảng 12,2 triệu người, chiếm 26%.
Ngoài số lao động đã có việc làm ổn định trong nền kinh tế, số lao động cần giải quyết thêm việc làm trong 5 năm trên 15 triệu người, bao gồm tăng tự nhiên 7 triệu người, công với số chưa có việc làm cũ chuyển qua khoảng 8 triệu người; trong đó ở nông thôn trên 12 triệu người (tính theo ngày công quy đổi), chiếm 79%, thành thị khoảng 3 triệu người, chiếm 21%
3.2.Dự kiến thu hút nguồn lao động mới tăng thêm vào các khu vực
Tại khu vực nông thôn, dự kiến có thể thu hút thêm trong 5 năm khoảng 6,3 triệu người, trong đó 3,7 triệu người cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp (tính theo ngày công quy đổi), 2,6 triệu người cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn là 28-29 triieụ người, trong đó 22-23 triệu người sản xuất nông nghiệp (tính theo ngày công quy đổi); 6-7 triệu người sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số lao đông chưa có việc làm (tính theo ngày công quy đổi) khoảng 5,8-6,8 triệu người, chiếm 12-15% số lao động trong độ tuổi và khoảng 17-20% số lao động cần có việc làm ở nông thôn.
Tại khu vực thành thị, dự kiến trong 5 năm có thể thu hút thêm khoảng 1,8 triệu người, trong đó 80 vạn người vào sản xuất công nghiệp và xây dựng, 1 triệu người vào các ngành dịch vụ.
Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở thành thị là 11,4-11,6 triệu người, trong đó 5,2-5,5 triệu người sản xuất công nghiệp và xây dựng, 6,1-6,2 triệu người vầo các ngành dịch vụ; số lao động chưa có việc làm khoảng 0,6-0,8 triệu người, chiếm 4,3-4,5% số lao động trong độ tuổi và khoảng 5-6% số lao động chưa có việc làm ở thành thị
3.3.Định hướng phát triển việc làm
Giải quyết việc làm và ổn dịnh việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là nhiệm vụ cơ bản, bức xúc mà các ngành, các cấp phải đặc biệt quan tâm. Phấn đấu giải quyết việc làm và ổn định việc làm cho 7,5-8 triệu người trong 5 năm, bình quân 1,4-1,5 triệu người/năm; phấn đấu đến năm 2005 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống khoảng 5-6% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%. Xuất khẩu lao động được xem là một khâu quan trọng trong giải quyết việc làm và tăng thu nhập.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng từ 16,7% (năm 2000) lên 20-21% (năm 2005), lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 22% (năm 2000) lên 23-24% (năm 2005).Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3% (năm 2000) xuống còn 56-57% (năm 2005).Tăng nhanh lao động kỹ thuật từ 18-20% năm 2000 lên 30% năm 2005.
“Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người HDI của nước ta, tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn 1,1%… Giải quyết việc làm cho cả ở thành thị và nông thôn ( thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80- 85%); nâng tỉ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%”
phần2 Tình hình thực hiện trong những năm từ 2001-2003
A).Thành tựu
1.Năm 2001
Tình hình dân số năm 2001
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/7/2001 thì nước ta có khoảng18,7 triệu người, tăng 1 triệu so với năm 2000, trong đó, dân cư ở thành thị khoảng 19,2 triệu, chiếm 24,4%, nông thôn khoảng 59.5 triệu người, chiếm 75,6%. Nếu so sánh về độ tuổi lao động thì dân cư ở nông thôn có xu hướng trẻ hơn dân cư ở thành thị. Tỉ lệ nhân khẩu dưới tuổi lao động ở khu vực thành thị chỉ chiếm 24,4% trong tổng dânsố, trong khi đó, tỉ lệ này ở nông thôn là 32,06%.
Cũng tại thời điểm điều tra, cả nước hiện có 39,489 nghìn người trong độ tuổi lao động, và có khoảng 37,617 ngàn người đang hoạt động kinh tế. Nếu phân theo 2 khu vực thành thị và nông thôn thì khu vực thành thị có 9,182 nghìn người chiếm 23,3%, khu vực nông thôn có30.307 nghìn người, chiếm 76,7% tổng lao động toàn xã hội.
Cơ cấu lao động năm 2001:
+ Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp có khoảng 22.812 nghìn người lao động, chiếm khoảng 60,54% tổng số nguồn lao động.
+ Lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng khoảng 5,248 nghìn người, chiếm khoảng 14,41%. Lao động trong kĩnh vực dịch vụ chiếm 25,05%, tức là có khoảng 9.436,5nghìn người.
+ Tỉ lệ thất nghiệp trong khu vực thành thị năm 2001 là khoảng 6,28, tỉ lệ sử dụng thời gian lao động trong khu vực nông thôn khoảng 74,37%
2. Năm 2002
Tình hình dân số năm 2002
Tại thời điểm điều tra ngày 1/7/2003, dân số Việt Nan có khoảng 79,930 nghìn người, trong đó thành thị có 19,880 nghìn người, chiếm 24,78% tổng dân số. Khu vực nông thôn có khoảng 60,05 nghàn người, chiếm 75,13% dân số.
Số người trong độ tuổi lao động và đang lao động là khoảng 39.286 nghìn người, tăng 1,612 triệu người
Tình hình thực hiện chung trong năm đã tạo việc làm mới và tăng thêm việc làm cho 1,42 triệu lao động ( trong báo cáo Quốc Hội khoá 10 là 1,4 triệu lao động), đạt 101,4% kế hoạch và tăng 1,4% so với thực hiện năm 2001; trong đó thu hút vào các nganh nông , lâm ngư nghiệp khoảng 87 van người; công nghiệp và xây dựng cơ bản khoảng 30 vạn người, dịch vụ, thương mại 25 vạn người. Ngoài ra trong năm đã xuất khẩu được khoảng 46 nghìn lao động, vượt 15,3% kế hoạch. Riêng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã giải quyết được việc làm cho khoảng 32 vạn động, đạt 106,6% kế hoạch, chiếm khoảng 3,5% tổng số lao động đuợc tạo làm mới
Cơ câú lao động đã có bước chuyển biến tích cực, theo hướng giảm dần lao động ở khu vực nông nghiệp, tăng lao động hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, có khoảng 60,95% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, giảm 1,8% so với năm 2001, khu vực công nghiệp có khoảng 15,08%, tăng 07%, khu vực dịch vụ khoảng 23,96%, tăng 1,16% so với năm 2001
Số lao động mới được giải quyết tập trung chủ yếu trong các hoạt động phát triển trang trại và kinh tế vườn, khoảng 10 vạn người, phát triển làng nghề và sản xuất hàng xuất khẩu, 27 vạn người, khai hoang và bố trí lại dân cư, 15 vạn người, các khu công nghiệp và chế xuất chỉ thu hút được 4,5 vạn người. Trong các hình thúc tổ chức sản xuất thì các doanh nghiệp tư nhân thu hút được nhiều lao động mới nhất, khoảng 18 vạn lao động
Tỉ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị khoảng 6,01%, giảm 0,27% so với năm 2001, tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn khoảng 75,3%, tăng 0,9% so với năm 2001
Về công tác hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
Kể từ năm 2000 cho đến hết năm 2002, cả nước đã tổ chức khoảng 20 hội chơ việc làm ở tại 14 tỉnh thành, thu hút khoảng 722 vạn đơn vị kinh tế tham gia, với khoảng 20 vạn người đăng kí tham gia, đã tuyển dụng khoảng 1677 người và dăng kí học nghề 2363 lượt người. Các hình thức dự án quốc tế như Dự án trung tâm dịch vụ việc làm, dự án cải thiện cơ hội việc làm cho người tàn tật, cho lao động trẻ và mở rộng cơ hội làm việc cho lao động nữ, chương trình quốc gia về phòng ngừa và xoá bỏ việc sử dụng lao động trẻ em…
Về công tác dạy nghề năm 2002, các hoạt động dạy nghề đã có những kết quả quan trọng, nối bật là đã tuyển mới khoảng 1.005.000 học sinh, đạt 100,5% kế hoạch đề ra, tăng khoảng 13,4% so với năm 2001.
3. Năm 2003
Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,5 triệu người, Đào tạo nghề cho trên 1 triệu người
Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 15,9% tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 59,8%; tỷ trọng lao động ngành dịch vụ tăng là 24,3%.
Giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 5,81%, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 77%
Đào tạo nghề cho 1090 nghìn người.
B).Bất cập còn tồn tại
1)Tốc độ tăng dân số và tăng nguồn lao động nhanh
Hằng năm dân số nước ta tăng khoảng 1,2 triệu người . việc tăng dân số như vậy là tương đối nhanh nếu so với các nước khác.Hiện tượng này vừa có mặt tích cực vừa có những ảnh hưởng không hay đối với phát triển kinh tế.
Theo các chuyên gia dân số dự báo từ nay đến năm 2019 tình hình dân số và lực lượng lao động nước ta có sự chuyển biến như sau:
Nhóm tuổi
1994
1999
2004
2009
2014
2019
0 – 9
17381,4
16592,5
15780,5
15320,0
15424,8
15056,7
10 – 14
8542,5
8853,3
8270,1
8112,5
7506,4
7680,6
Dân số trong tuổi lao động
38462,0
44470,2
50656,3
55606,0
59253,1
61264,5
60-64
1814,4
1704,9
1678,3
1868,1
2756,8
3914,3
Trên 65
3559,4
4168,0
4537,2
4752,7
5060,6
6105,0
Dân số cả nước
70777,9
76787,1
82004,2
87218,1
92216,5
96706,2
Tỷ lệ % so vớidân số
54,34
57,91
61,77
63,76
64,25
63,75
Đơn vị : Nghìn người (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Như vậy , nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Bước sang năm 2005, theo dự báo của bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn người bước vào độ tuổi lao động và đây là một thuận lợi lớn của nước ta về khả năng đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội.
Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua các năm . Cụ thể , năm 1994 chiếm 53,34% so với dân số, năm 1999 chiếm 57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao.
Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm 1998, cả nước có khoảng 45,2 triệu lao động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người, trung bình tăng 1,3 triệu người hàng năm. Đây là kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định của những năm trước. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực lượng lao động nước ta là 35,9 triệu người. Tốc độ tăng bình quân 2,95%/năm.Với số lao động mới tăng thêm, 4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết việc làm năm 1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu người; số lao động dôi ra do chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của việc nâng quỹ thời gian lao động trong nông thôn đã được sử dụng 72,11% năm 1996 lên 75% năm 2000. Trong 4 năm (1996-2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết việc làm. Cộng với đó, trong thời kì kế hoạch 2001 –2005, số lao động hằng năm tăng thêm khoảng 1,2 triệu người mối năm. Con số này cũng không phải là nhỏ. Nhưng trong những năm đầu tiên của kì kế hoạch này, tình trạng thất nghiệp có những chuyển biến khá tích cực. ở khu vực thành thị, năm 2000, tỉ lệ thất nghiệp là 6.44%, năm 2001 là 6,28% và năm 2002 là 6,01%. Thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng tăng lên dáng kể. Năm 2000, thời gian lao động là 73,86%, năm 2001 là 74,37%và 75,41% vào năm 2002. con số này vào năm 2003 là 77%.
2.Đặc tính nguồn lao động có nhiều điểm chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước không chỉ đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao về tay nghề và trí tuệ mà còn phải có cơ cấu hợp lý. Chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay nhìn chung thấp, điều đó không chỉ thể hiện ở tình trạng sức khoẻ và trình độ chuyên môn kỹ thuật yếu mà còn thể hiện ở những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động.
Về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Về lề lối, tác phong làm việc, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên còn chậm chạp, thiếu động lực sáng tạo trong lao động.
Năng xuất lao động nghìn chung còn thấp, cho nên thu nhập của người lao động vẫn chưa cao, tính trong năm 2001 –2002, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 357nghìn đông/người/tháng, trong đó ở nông thôn chỉ có 276 nghìn đồng/người/tháng.Thành thị khoảng 626 nghìn đồng/người/tháng
3. Cơ cấu lao động của nước ta còn nhiều điều phải bàn
Thứ nhất, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH, HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ cao, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao dộng xã hội cao. Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước một bước trong việc chuẩn bị lực lượng lao động (LLLĐ) có trình độ học vấn, tay nghề cao, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ.
Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao (khoảng trên dưới 85%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển thể hiện ở tháp sau:
Tháp lao động của Việt Nam các nước công nghiệp
0,5%5
0,3%
Các nhà khoa học
5%
2,7%
Kỹ sư
24,5%
33,5%
Chuyên viên kỹ thuật
35%
5,5%
Lao động lành nghề
35%
88%
Lao động không lành nghề
Nhìn vào hai hình trên cho thấy trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là LLLĐ không lành nghề. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến giữa năm1999 số này mới có khoảng 14%, ). Trong một số ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng 1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao nhất nước (khoảng 20,5% và 21,7% tổng LLLĐ xã hội). Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, LLLĐ chỉ có khoảng 4%, vùng duyên hải Miền Trung khoảng 10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng của quốc gia.
2.Nguyên nhân gây ra những bất cập.
Thứ nhất Tình hình tăng trưởng dân số nhanh dẫn tới tăng nhanh về LLLĐ. Đây vừa là một và thuận lợi cũng là một khó khăn. Thuận lợi nếu chúng ta biết cách đào tạo và sử dụng đúng nguồn lao động dồi dào này, nhưng khó khăn lớn nhất là nó tạo áp lực lớn về giải quyết việc làm. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này sẽ dẫn tới những tệ nạn xã hội gây những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Thứ hai, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề (ĐTN) dài hạn, mất cân đối với đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính ngành giáo dục và đào tạo. Cùng với tâm lí của người dân, họ chưa coi trọng việc học nghề, chỉ coi đó là bước đi cuối cùng của mình, khi không còn sự lựa chọn nào khác. Vì thế các cơ sở đào tạo nghề thường không hấp dẫn đối với học sinh khi lựa chọn công việccho bản thân
Thứ ba, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề thường nhỏ, trên 50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải. Cùng với đó là việc đầu của xã hội cho đào tạo nghề còn khá khiêm tốn. Nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo chủ yếu được đưa vào các trường đại học và cao đẳng , phổ thông trung học..chứ ít được đưa vào các trường dạy nghề. Vì thế chất lượng của việc dạy và học chưa thực sự cao
Thứ tư, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy sô” khá phổ biến.Nhưng theo một đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo thì đội ngũ giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá chất lượng cao hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có bằng đại học và sau đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa đủ để phản ánh toàn diện chất lượng giáo viên. Số năm thâm niên trung bình cao có thể cảnh báo một xu hướng già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên ở các trường ĐTN. Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn học ngành nghề hiện nay đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, điểm yếu vẫn đang tập trung ở các trường kỹ thuật ngành nghề.
Việc lao động phân bố không đồng đều ngoài các nguyên nhân khách quan cón phải kể đến một nghuyên nhân,đó là hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có việc làm cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị mà còn tạo xu thế kém phát triển lâu dài ở các vùng nông thôn rộng lớn tình trạng chậm phát triển ở khu vực này, càng làm tăng khoảng cách về phát triển cũng như thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời còn làm xói mòn các kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực
Phần 3 kế hoạch lao động và việc làm năm 2004
I) phương hướng và nhiệm vụ, giải pháp về lao động việc làm thời kì 2004 - 2005
1. Dự báo khả năng phát triển của nguồn nhân lực trong thời gian tới
Tốc độ tăng của lực lượng lao động khoảng 2,9%. Theo đánh giá chung, số lao động có thể giải quyết trong thời gian tới khoảng 3,8 – 4,1 triệu người. Trong đó, giải quyết cho khoảng 2,4 – 2,6 triệu việc làm mới, giải quyết thất nghiệp khoảng 0,5 triệu lao động. Việc nâng tỉ lệ lao động trong nông nghiệp lên 80% vào năm 2005 đồng nghĩa với v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0152.doc