Kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động cho Việt Nam

Mục lục Nội dung Trang Mục lục..................................................................................................................... 1 Lời nói đầu................................................................................................................ 3 Chương I.Những vấn đề cơ bản về kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động....... I.khái niệm và ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động................... 1.Quan niệm cơ bản về lao động và việc làm.

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
........................................................... 2.Vai trò của lao động đối với phát triển kinh tế....................................................... 3.Khái niệm về kế hoạch hoá phát triển lao động..................................................... II.Nội dung và phương pháp kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động................ 1.Xác định nhu cầu về sức sản xuất xã hội............................................................... 2.Xác định khả năng cung cấp lực lượng lao động kỳ kế hoạch............................... 3.Cân đối nhu cầu và khả năng cung cấp lực lượng lao động .................................. 4 4 4 8 8 9 9 10 11 Chương II.Thực trạng về sử dụng lao động nước ta thời gian qua............................ I.Khái quát về tình hình phát triển lực lượng lao động............................................. 1.Thực trạng.............................................................................................................. 2.Nguyên nhân gây ra những bất cập....................................................................... 3.Kết luận................................................................................................................. II.Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam thời gian qua.......................................... 1.Thực trạng giải quyết việc làm thời gian qua......................................................... 2.Đánh giá nguyên nhân thất nghiệp thời gian qua................................................... 3.Một số biện pháp giải quyết việc làm.................................................................... III.Thực trạng cân đối lao động việc làm thời gian qua............................................ 1.Khủng hoảng thiếu về chất lượng lao động............................................................ 2.Một số biện pháp để cân đối tốt hơn giữa nhu cầu và khả năng cung cấp............. IV.Kết luận................................................................................................................ 12 12 12 17 20 22 22 30 30 31 31 32 33 Chương III.Kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005................................................................................................................. I.Mục tiêu phát triển của Việt Nam giai đoạn 2001-2005........................................ 1.Mục tiêu tổng quát................................................................................................. 2.Các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội chủ yếu..................................... II.Kế hoạch lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005............................................ 1.Số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động..................................... 2.Dự kiến thu hút nguồn lao đông tăng thêm và các khu vực................................... 3.Định hướng phát triển việc làm.............................................................................. III.Những chính sách cơ bản để thực hiện công tác kế hoạch hoá lao đông và việc làm giai đoạn 2001-2005.......................................................................................... 1.Chính sách khuyến khích và đãi ngộ người có trình độ ........................................ 2.Chính sách khuyến khích dạy và học nghề............................................................ 3.Chính sách phát triển nguồn nhân lực.................................................................... 4.Bổ sung và hoàn thiệ một số chính sách vĩ mô...................................................... 5.Hình thành đồng bộ các chính sách chủ yếu khuyến khích các hình thức và lĩnh vực thu hút được nhiều lao động............................................................................... IV.Những biện pháp cơ bản để thực hiện công tác kế hoạch hoá lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005.......................................................................................... 1.Tiếp tục thực hiện tốt công tác dân số-kế hoạch hoá gia đình............................... 2.Phổ cập giá dục tiểu học........................................................................................ 3.Nâng cao chất lượng nguồn lao động.................................................................... 4.Biện pháp tăng cầu lao động trong thời gian tới.................................................... 5.Giải quyết việc làm cho các khu vực .................................................................... 34 34 34 34 35 35 35 35 36 36 36 36 37 38 41 41 41 42 42 43 Kết luận chung.......................................................................................................... 45 Lời nói đầu Với bất kỳ một quốc gia nào, lao động luôn luôn là một trong những yếu tố sản xuất quan trọng, góp hần phát triển kinh tế quốc gia. Đối với Việt Nam, là một nước đông dân trên thế giới, có nguồn lao động dồi dào nhưng trình độ còn thấp, muốn đáp vứng được yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhất là đáp ứng cho yêu cầu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2001-2005, cần phải có một kế hoạch rõ ràng về đào tạo, huy động, và sử dụnglực lượng lao động. Nguyên nhân trên là cơ sở để cho đề tài “ Kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động cho Việt Nam giai đoạn 2001-2005” ra đời. Nội dung chính của đề tài là đi sâu vào phân tích thực trạng lao động và việc làm của Việt Nam trong giai đoạn qua đồng thoừi đề ra các chính sách và biện pháp đào tạo, huy động và sử dụng lao động cho Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Đề tài được hoàn thành với sự giúp đỡ của T.S Ngô Thắng Lợi-Khoa kinh tế phát triển, trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Chương i những vấn đề cơ bản về kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động i . khái niệm và ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động 1 . Quan niệm cơ bản về lao động và việc làm 1.1.Quan niệm của thế giới 1.1.1.Cơ cấu lực lượng lao động Để làm rõ khái niệm về lao động và việc làm, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra quan niệm về lực lượng lao động và mô tả nó bằng sơ đồ có tính chất chung nhất như sau : cơ cấu về lực lượng lao động Dân số trong tuổi lao động quy định Không có việc làm Có việc làm Muốn làm việc Không muốn làm việc E -Chủ động tìm việc -Sẵn sàng tìm việc Không chủ động tìm việc U N N Không thuộc lực lượng lao động Lực lượng lao động E: Người có việc làm U: Người thất nghiệp N: Người không tham gia hoạt động kinh tế 1.1.2.Nội dung các khái niệm trong sơ đồ về cơ cấu lực lượng lao động và mối quan hệ giữa chúng a.Lực lượng lao động Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định (thuộc từng nước ) thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Về cơ bản khái niệm nêu trên được thống nhất ở nhiều nước và cũng là khái niệm mà ILO chính thức đưa ra. Điều khác nhau ở mỗi nước chủ yếu là độ tuổi quy địn , ở đây có hai sự khác biệt, khác biệt đó là giới hạn tuổi tối thiểu và giới hạn tuổi tối đa. Cơ sở thực tế để xác định giới hạn tuổi tối thiểu và tuổi tối đa của lực lượng lao động là: các nước thường dựa vào tuổi học sinh rời khỏi trường phổ thông để xác định tuổi tối thiểu và tuổi cao nhất quy định cho người được nghỉ hưu để xác định giới hạn tuổi tối đa. b.Người có việc làm Người có việc làm là những người làm những công việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật. Khi tiến hành cuộc điều tra thống kê về kao động và việc làm , khái niệm trên được cụ thể hoá thêm bằng một số tiêu thức khác tuỳ thuộc vào mỗi nước đặt ra. Có thể phân làm hai nhóm các tiêu thức bổ sung: -Nhóm thứ nhất là nhóm có việc làm và đang làm việc , đó là những người làm bất kể công việc gì được trả công hoặc vì lợi ích làm việc hoặc làm việc không có tiền công trong các trang trại hoặc kinh doanh của gia đình. -Nhóm thứ hai là người có việc làm hiện tại không làm việc, là những người không làm việc nhưng vẫn có việc làm, hiện đang nghỉ việc vì đang là kỳ nghỉ (nghỉ hè , nghỉ đông, nghỉ phép ...), ốm, do thời tiết xấu hoặc do các lý do cá nhân khác. c.Người thất nghiệp Người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc. Một điểm cần đề cập đến là phân loại thất nghiệp: -Thất nghiệp tạm thời: phát sinh là do sự di chuyển không ngừng của con người giũa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. -Thất nghiệp có tính cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu đối với công nhân. Sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác lại giảm đi , triong đó mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng. -Thất nghiệp chu kỳ xảy ra khi mức cầu chung về lao động thấp. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm , chúng ta thấy thất nghiệp tăng hầu hết ở khắp nơi. Việc thất nghiệp tăng hầu hết ở các vùng là dấu hiệu cho thấy thất nghiệp tăng phần lớn là theo chu kỳ. d.Những người không thuộc lực lượng lao động Là một bộ phận dan số mà ở bộ phận này họ là những người không có việc làm và cũng không phải là những người thất nghiệp, bao gồm các đối tượng là học sinh, sinh viên, những người mất khả năng lao động, nội trợ và những người thuộc tình trạng khác. 1.2.Quan điểm của Việt Nam 1.2.1.Khái niệm việc làm Các nhà nghiên cứu của Việt Nam đã đưa ra khái niệm chung nhất về việc làm như sau: Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. Từ đó họ đưa ra khái niệm việc làm như sau: Việc làm là hoạt động lao động đượ hể hiện ở một trong ba dạng sau: -Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng giá trị hoặc hiện vật cho công việc đó. -Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất nông nghiệp trên mảnh đất do chính thành viên đó sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng ; hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần. -Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó, bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng ; hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong gia đình làm chủ hoặc quản lý. Các nhà nghiên cứu cũng phân việc làm ra thành: -Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với các công việc khác. -Việc làm phụ: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. 1.2.2.Lực lượng lao động (Dân số hoạt động kinh tế) a.Người có việc làm -Người có việc làm ổn định: là những người trong 12 tháng làm việc từ 6 tháng trở lên hoặc ngững người làm việc dưới 6 tháng và sẽ tiếp tục làm việc đó ổn định. -Ngưòi có việc làm tạm thời: là những người làm việc dưới 6 tháng trong 12 tháng trước thời điểm điều tra và tại thời điểm điều tra đang làm một công việc tạm thời hoặc không có việc làm dưới một tháng. b.Người không có việc làm (Thất nghiệp) Những người từ 15 tuổi trở lên trong 7 ngày không làm bất cứ việc gì trong ba loại việc đã nêu ở mục 1.2.1: -Trong 7 ngày có đi tìm việc làm -Trong 7 ngày không đi tìm việc làm do ốm đau tạm thời, chờ nhận việc làm mới, nghỉ phép hoặc tạm nghỉ. c.Lực lượng lao động Lực lượng lao động là một bộ phận của dân số có độ tuổi từ 15 tuổi trở lên có việc làm và không có việc làm trong 7 ngày. 1.2.3.Dân số không phải lực lượng lao động Là những người từ 15 tuổi trở lên trong 7 ngày không làm việc gì trong ba loại việc ở mục 1.2.1 và trong 7 ngày đó không đi tìm việc, không tính đến những người không tìm việc do ốm tạm thời, chờ nhân việc làm mới, nghỉ phép hoặc tạm nghỉ. 1.2.4.Sơ đồ lực lượng lao động ở nước ta cấu thành lực lượng lao động ở việt nam Dân số ở độ tuổi 15 tuổi trở lên Dân số có việc làm Dân số không có việc làm Không muốn tìm việc làm Việc làm ổn định (đầy đủ) Số không hoạt động kinh tế thường xuyên Việc làm tạm thời (thiếu việc làm) Muốn tìm việc làm -12 tháng qua làm việc từ 6 tháng trở lên. -Làm việc 6 tháng qua và sẽ tiếp tục làm việc ổn định. Người có việclàm Lực lượng lao động -Làm việc dưới 6 tháng trong 12 tháng qua , tại thời điểm điều tra đang làm một công việc tạm thời hay không có việc dưới một tháng. Người thất nghiệp Có hoạt động tìm việc trong 7 ngày. Dân số không thuộc lực lượng lao động -Học sinh ,sinh viên -Người nội trợ,người hưởng lương hưu -Trợ cấp xã hội: +Người mất khả năng lao động +Trẻ con không tới trường 2.Vai trò của lao động đối với phát triển kinh tế. Tất cả mọi của cải vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động là một bộ phận cực kỳ quan trọng đóng vai trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. Trong một xã hội dù lạc hậu hay hiện đại cũng cần đến vai trò của lao động, dùng đến vai trò của lao động để vận hành máy móc, thiết bị hoặc dùng đến lao động để trực tiếp sản xuất. Mọi thứ không thể tự biến thành hàng hoá hay của cải khi không có sự đóng góp của lao động. Các nhà kinh tế từ cổ điển đến hiện đại đều nói rằng lao động là một trong những yếu tố sản xuất. Theo David Ricardo, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động là vốn. Theo Mark, có 4 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Trong đó ông cho rằng lao động là yếu tố quyết định nhất tới tăng trưởng kinh tế và muốn có tăng trưởng cao phải nâng cao trình độ sử dụng lao động. Đối với tăng trưởng kinh tế, lao động được đánh giá là yếu tố năng động nhất, là động lực mạnh tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra những công nghệ tiên tiến có khả năng đưa tới sự phát triển cao. Và trên thực tế thấy rằng chiến lược con người bao giờ cũng là chiến lược hàng đầu của mỗi quốc gia. 3.Khái niệm về kế hoạch hoá phát triển lao động 3.1.Khái niệm Kế hoạch hoá lực lượng lao động là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nó xác định quy mô, cơ cấu, chất lượng của bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế, xác định những chỉ tiêu xã hội của lực lượng lao động như tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ phần trăm thất nghiệp và mức thu nhập trung bình của lực lượng lao động, xác định những chính sách chủ yếu để sử dụng và điều phối lực lượng lao động một cách có hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu phúc lợi xã hội khác của một quôcs gia trong thời kỳ kế hoạch. 3.2.Y nghĩa Xét theo toàn bộ hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch hoá lực lượng lao động là một bộ phận kế hoạch biện pháp vì nó phục vụ cho một số kế hoạch mục tiêu như kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch phát triển vùng ... Tuy nhiên kế hoach hoá lực lượng lao động cũng là một bộ phận kế hoạch mục tiêu, trong nội dung này, kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động có bao hàm các chỉ tiêu mục tiêu mang tính hướng đạo của nền kinh tế. Từ hai ý nghĩa trên có thể rút ra một điều như sau: Khi xây dựng kế hoạch hoá lực lượng lao động thì nó vừa phải mang tính bị động vì nó là kế hoạch biện pháp phụ thuộc vào kế hoạch khác, vừa mang tính chủ động vì nó là kế hoạch mục tiêu nên tự nó phải đặt ra các mục tiêu cho các kế hoạch biện pháp thực hiện. Kế hoạch hoá lao động được đặc trưng bởi sự lồng ghép của các kế hoạch lao động với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trên tầm vĩ mô, và kế hoạch phát triển của doanh nghiệp ở tầm vi mô. Trong trường hợp này chiến lược lao động được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội và là điều kiện tiên quyết của các chiến lược phát triển. II.nội dung và phương pháp kế hoạch hoá phát triển lực lượng lao động 1.Xác định nhu cầu về sức sản xuất xã hội Nhu cầu về sức sản xuất xã hội thể hiện khả năng tiếp cận và sử dụng lực lượng lao động từ nền kinh tế và xã hội của một quốc gia. Nó cũng nói lên số chỗ làm việc có thể có được từ các ngành sản xuất và dịch vụ của một nền kinh tế. Các căn cứ để xác định nhu cầu về sức sản xuất xã hội như sau: -Quy mô dung lượng của nền kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế trong kỳ kế hoạch (vì sản lượng đầu ra phụ thuộc vào lao động nên nếu có sản lượng đầu ra sẽ có được lao động). -Tốc độ tăng trưởng của năng suất lao động (p): Nếu quy mô dung lượng của nền kinh tế không thay đổi thì lao động phụ thuộc trực tiếp vào p. -Sự thay đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế: Ngành trong nền kinh tế thay đổi thì sản phẩm cũng phải thay đổi, do đó kéo theo sự thay đổi về nhu cầu lao động. -Sự thay đổi trong sức sản xuất của nền kinh tế: Đó là sự thay đổi vế trình độ sản xuất, công nghệ, kỹ thuật. Do vậy, nhu cầu lao động cũng thay đổi theo để phù hợp với hoàn cảnh. Trong phần này ta chỉ xét hai phương pháp tiếp cận đến nhu cầu lao động của xã hội: *Phương pháp của Harrod-Domar: Trình tự để tiếp cận đến nhu cầu lao động của xã hội theo phương pháp này căn cứ vào quy mô và dunh lượng của nền kinh tế, nó bao gồm năm bước: Bước 1: Xác định chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế GDP theo kế hoạch tăng trưởng. Bước 2: Xác định chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo GDP hay kế hoạch chuyển dịch cơ cấu nganhf kinh tế. Bước 3: Xác định nhu cầu về tổng số lao động xã hội cần có. Bước 4: Xác định cơ cấu của lực lượng lao động xã hội theo ngành. Bước 5: Xác định nhu cầu đào tạo nghề phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Theo Harrod-Domar, tỷ số ΔK/L=K/L luôn không đổi, do vậy chỉ có một cách để tăng trưởng kinh tế là phải có ΔK tăng lên , từ đó tăng ΔL theo một tỷ lệ cố định bằng ΔK/L . Người ta dựa vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế mà xác định được ΔY kỳ kế hoạch. Mà ta lại có: ΔK= k•ΔY Vậy nhu cầu bổ sung lực lượng lao động theo ΔK là: ΔK ΔL= –– ΔK/L Cuối cùng tổng hợp được nhu cầu lao động kỳ kế hoạch như sau: L= L0 + ΔL Ưu điểm của phương pháp này là dễ làm , dễ thực hiện. Tuy nhiên , nó cũng có nhược điểm rất lớn là tỷ lệ ΔK/L luôn thay đổi cho nên nhiều khi dự báo không chính xác. Do vậy phương pháp này chỉ được áp dụng khi cần phác họa một cách tương đối lực lượng lao động xã hội cần có. *Phương pháp của trường phái Tân cổ điển và Hiện đại: Trường phái này cho rằng sản lượng đầu ra là hàm của các yếu tố vốn(K), lao động(L), đất đai (R) và công nghệ (T): Y=f(K,L,R,T) Trong đó T là yếu tố tác động quyết định tới Y. Do vậy tỷ số ΔK/L thường xuyên biến đổi, nên có nhiều cách kết hợp giứa K và L trong việc tạo ra Y. Tỷ số đó thay đổi nên sức sản xuất xã hội cũng thay đổi kéo theo năng suất lao động xã hội thay đổi.Vì vậy tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào năng suất lao động. Các bước để xác định nhu cầu lao động xã hội: -Xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế (g): Được lấy ra từ kế hoạch tăng trưởng. -Dự báo tốc độ tăng trưởng năng suất lao động kỳ kế hoạch: +Thống kê xác định năng suất lao động trung bình kỳ kế hoạch. +Phương hướng sử dụng lao động kỳ kế hoạch. -Tính nhu cầu tăng trưởng kỳ kế hoạch: g= p+l với l là tốc độ tăng trưởng lao động kỳ kế hoạch Δl= g-p -Tính tổng nhu cầu về lực lượng lao động kỳ kế hoạch: L= L0 + ΔL Với ΔL= l•L0 L0: lực lượng lao động năm gốc Phương pháp này có ưu điểm là khoa họ, chính xác nhưng nhược điểm là khó làm vì khi xác định p là một điều rất khó khăn. 2.Xác định khả năng cung cấp lực lượng lao động kỳ kế hoạch. Khi nói đến khả năng cung cấp lực lượng lao động là nói đến tổng dân số nằm trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. Các nhân tố tác động đến số lượng lao động có khả năng cung cấp cho nền kinh tế : -Quy mô dân số và tốc độ tăng trưởng dân số của một quốc gia. -Cơ cấu theo độ tuổi dân số và cơ cấu lực lượng lao động theo độ tuổi. -Quy định về độ tuổi lao động. Có ba phương pháp tiếp cận đến khả năng cung cấp lực lượng lao động: *Phương pháp trực tiếp suy ra: Căn cứ của phương pháp: -Số lao động có mặt ở năm gốc. -Sự biến động về lao động kỳ kế hoạch so với kỳ gốc: +Số người đến tuổi lao động kỳ kế hoạch. +Số người hết tuổi lao động kỳ kế hoạch. -Thực trạng về số người trong tuổi lao động không có khả năng lao động Từ đó ta tính được như sau: Khả năng Số lượng lao Phần dân số Số lao động Số lao động cung cấp lực lượng= độngcó mặt kỳ + đến tuổi lao động - hết tuổi kỳ - không có khả lao động gốc chuyển sang kỳ kế hoạch kế hoạch năng lao động *Phương pháp suy ra từ trạng thái động: Căn cứ của phương pháp: -Thực trạng lao động kỳ gốc. -Nghiên cứu, điều chỉnh theo mục tiêu mục tiêu kỳ kế hoạch. Nội dung: -Tính tốc độ tăng trưởng lao động thuần tuý kỳ gốc: Tốc độ tăng trưởng Số lao động tăng lên kỳ gốc - Số lao động hết tuổi kỳ gốc lao động thuần tuý = ––––––––––––––––––––––– kỳ gốc Tổng dân số lao động kỳ gốc -Điều chỉnh tốc độ tăng trưởng lao động thuần tuý kỳ gốc để có tốc độ tăng trưởng lao động thuần tuý kỳ kế hoạch. -Tính khả năng cung cấp lực lượng lao đỗngã hội kỳ kế hoạch: Khả năng cung cấp Tổng lao động Tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động = kỳ gốc x (1 + lao động thuần tuý ) kỳ kế hoạch kỳ kế hoạch *Phương pháp xác định theo tỷ lệ: -Xác định tỷ lệ lực lượng lao động xã hội so với tổng quy mô dân số kỳ gốc : Tổng lao động xã hội Tỷ lệ = ––––––––– Tổng dân số quốc gia -Điều chỉnh tỷ lệ lực lượng lao động xã hội kỳ gốc để có con số kỳ kế hoạch. -Tính khả năng cung cấp lực lượng lao động xã hội kỳ kế hoạch: Khả năng cung cấp Tổng dân số Tỷ lệ lực lượng lực lượng lao động = kỳ kế hoạch x lao động xã hội kỳ kế hoạch kỳ kế hoạch Sau khi tính được khả năng cung cấp lực lượng lao động xã hội kỳ kế hoạch theo các phương pháp trên, ta sẽ tính con số thực tế của khả năng này như sau: Khả năng cung cấp Khả năng cung cấp Tỷ lệ thất nghiệp lực lượng lao động xã hội = lực lương lao động x ( 1 - dự kiến kỳ ) thực tế kỳ kế hoạch xã hội kỳ kế hoạch kế hoạch 3.Cân đối nhu cầu và khả năng cung cấp lực lượng lao động. Việc cân đối này là nhằm xác định xem có khả năng cung cấop đầy đủ lao động về số lượng và chất lượng hay không để có những chính sách và biện pháp thích hợp để giải quyết. Đối với Việt Nam, trong phép cân đối cung thường lớn hơn cầu về mặt số lượng nhưng chất lượng lao động lại không đáp ứng được cầu. Vì vậy, khi cân đối cần phải: -Giảm áp lực của sự tăng cung lao động bằng cách: +Giảm tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên. +Xuất khẩu lao động tại chỗ và ra nước ngoài. +Phân phối lại lao động giữa các vùng. -Có chính sách tăng ccầu lao động bằng cách đưa ra những chính sách thúc đẩy quy mô nền kinh tế , phát triển các ngành sản xuất sử dụng mhiều lao động... . -Xây dựng và áp dụng giá ngầm lao động cho việc xây dựng và xét duyệt các phương án đầu tư sản xuất. -Nâng cao chất lượng dân số, đặc biệt quan tâm tới chất lượng lao động. chương ii thực trạng về sử dụng lao động của nước ta thời gian qua i.khái quát về tình hình phát triển lực lượng lao động thời gian qua 1.Thực trạng 1.1.Số lượng lao động Việt Nam là một nước có tổng số dân số thuộc loại cao trên thế giới. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã cố gắng giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên và đã đạt được những thành công đáng kể. Đó là giảm được tốc độ tăng dân số từ trên 2%/năm xuống còn 1,7%/năm vào năm 1999. Tuy nhiên với tình hình dân số đông như vậy vẫn là một áp lực lớn cho toàn xã hội. Ta hãy xét bảng sau để đánh giá tình hình dân số cũng như lực lượng lao động của Việt Nam: Bảng 1: Dự báo dân số việt Nam 1/4 năm 1994-2024 Đơn vị : Nghìn người Nhóm tuổi 1994 1999 2004 2009 2014 2019 2024 0 - 9 17381,4 16592,5 15780,5 15320,0 15424,8 15056,7 14270,9 10 - 14 8542,5 8853,3 8270,1 8112,5 7506,4 7680,6 7632,1 Dân số trong tuổi lao động 38462,0 44470,2 50656,3 55606,0 59253,1 61264,5 62947,2 60-64 1814,4 1704,9 1678,3 1868,1 2756,8 3914,3 4733,5 65- 3559,4 4168,0 4537,2 4752,7 5060,6 6105,0 8077,9 Dân số cả nước 70777,9 76787,1 82004,2 87218,1 92216,5 96706,2 100491,4 Tỷ lệ % so với dân số 54,34 57,91 61,77 63,76 64,25 63,75 62,64 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Như vậy , nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Đây là một áp lực lớn cho xã hội trong việc giải quyết việc làm. Bước sang năm 2005, theo dự báo của bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn người bước vào độ tuổi lao động và đây là con số đủ khả năng cung cấp nhu cầu lao động của xã hội. Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua các năm . Cụ thể , năm 1994 chiếm 53,34% so với dân số, năm 1999 chiếm 57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm 1998, cả nước có khoảng 45,2 triệu lao động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người, trung bình tăng 1,3 triệu người hàng năm. Đây là kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định của những năm trước. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực lượng lao động nước ta là 35,9 triệu người. Tốc độ tăng bình quân 2,95%/năm.Với số lao động mới tăng thêm, 4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết việc làm năm 1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu người; số lao động dôi ra do chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của việc nâng quỹ thời gian lao động trong nông thôn đã được sử dụng 72,11% năm 1996 lên 75% năm 2000. Trong 4 năm (1996-2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết việc làm. 1.2.Cơ cấu nguồn lao động có nhiều bất cập. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước không chỉ đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao về tay nghề và trí tuệ mà còn phải có cơ cấu hợp lý. Chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay nhìn chung thấp, điều đó không chỉ thể hiện ở tình trạng sức khoẻ và trình độ chuyên môn kỹ thuật yếu mà còn thể hiện ở những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động. Về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Về lề lối, tác phong làm việc, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên còn chậm chạp, thiếu động lực sáng tạo trong lao động. Về mặt cơ cấu lao động của nước ta quả thật còn rất nhiều nan giải cần phải giải quyết được thể hiện qua thực trạng sau: Thứ nhất, tuy tỷ lệ biết chữ của nước ta cao so với một số nước nhưng trình độ văn hoá vẫn thuộc loại thấp, thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế phân theo trình độ văn hoá(%) 1996 1997 1998 Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Chưa biết chữ 5,8 62,3 5,1 61,6 3,8 62,4 Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 56,4 20,3 55,5 18,5 56,1 Đã tốt nghiệp cấp I 27,8 49,7 28,1 49,2 29,4 45,3 Đã tốt nghiệp cấp II 32,1 48,3 32,4 48,1 32,3 48,3 Đã tốt nghiệp cấpIII 13,5 44,1 14,1 44,0 16,0 44,2 Nguồn: Thực trạng lao động - Việc làm ở Việt Nam, nxb Thống kê 1996-1998 Theo số liệu của bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, là kết quả của chương trình xoá mù chữ do Chính phủ thực hiện trong những năm qua. Số lao động chưa tốt nghiệp cấp I trong hai năm 1997-1998 đẫ giảm từ 20,3% xuống 18,5% nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao và tốc độ chậm, trong khi đó cơ cấu lao động theo trình độ cấp I, II, III chuyển biến còn rất chậm. Thực tế là tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp I năm 1996 là 27,8% nhưng đến năm 1998 cũng mới chỉ là 29,4%; lao động tốt nghiệp cấp III năm 1996 là 13,5% đến năm 1998 là 16%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp III chiếm một tỷ lệ không cao trong toàn lao động, do đó cơ hội tìm việc làm là rất khó khăn. Thứ hai, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH, HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ cao, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao dộng xã hội cao. Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước một bước trong việc chuẩn bị lực lượng lao động (LLLĐ) có trình độ học vấn, tay nghề cao, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao(88%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển thể hiện ở tháp sau: Hình 1: Tháp lao động của Việt Nam Hình 2: Tháp lao động của các nước công nghiệp 0,5%5 0,3%% Các nhà khoa học 5% 2,7% Kỹ sư 24,5% 33,5% 35% 5,5% Chuyên viên kỹ thuật 35% 88% Lao động lành nghề Lao động không lành nghề Nhìn vào hai hình trên cho thấy trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là LLLĐ không lành nghề. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến giữa năm1999 số này mới có khoảng 14%). Trong một số._. ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Một số khu chế xuất, khu công nghiệp cần tuyển lao động có kỹ thuật thì lao động của nước ta chỉ đáp ững được rất ít. Ví dụ: Khu chế xuất Linh Trung cần tuyển 7000 công nhân nữ có trình độ tay nghề bậc 3/7 trở lên nhưng chỉ đáp ứng được 1500 người. Khu chế xuất Tân Thuận cũng ở tình trạng tương tự: cần tuyển 15000 công nhân kỹ thuật, ta chỉ đáp ứng được 3000. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ ba, tình trạng thừa thầy thiếu thợ ở mức khá nghiêm trọng. Tức là ngay trong LLLĐ có trình độ chuyên mộ kỹ thuật đã ít lại còn có cơ cấu bất hợp lý. Có thể thấy tình trạng đó ở bảng sau: Bảng 3: Cơ cấu LLLĐ kỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn 1979-1999 1979 1989 1997 1999 Tổng số 100 100 100 100 Công nhân kỹ thuật 68,6 44,9 40,8 30,3 Trung học chuyên nghiệp 21,7 35,2 35,4 36,8 Cao đẳng , đại học 9,7 19,9 23,8 32,9 Nguồn: Thời báo kinh tế, số 13 ngày 31/1/2000 Nhìn vào biểu trên ta thấy, nếu như năm 1979, cơ cấu LLLĐ kỹ thuật của nước ta là tương đối phù hợp với yêu cầu thực hiện CNH, HĐH đất nước (tỷ lệ phổ biến của cơ cấu LLLĐ kỹ thuật của các nước đã thành công trong CNH, HĐH là 1 đại học, cao đẳng/ 4 trung học chuyên nghiệp/10 công nhân kỹ thuật và lúc đó tỷ lệ tương ứng của ta là 1/2, 2/7, 1). Nhưng sau 10 năm (đến năm 1989) tỷ lệ đó chuyển dịch theo hướng lệch đi (1/1, 8/2 ,2), bộc lộ rõ tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, đến năm 1997 là 1/1,5/ 1,7 và đến năm 1999 tỷ lệ này càng chệch hướng thêm nữa (1/1,2/0,92), nó gần như “lộn ngược” với các nước khác. Cũng từ biểu trên ta thấy số lao động có trình độ đại học, cao đẳng trở lên từ năm 1979 đến năm 1989 tăng rất nhanh (3,4 lần ), trong thời gian đó số công nhân kỹ thuật lại giảm rất nhanh ( 2,26 lần ). Vì thế, chúng ta đang còn ở trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” rất nghiêm trọng. Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo, trong 10 năm (1986-1996), số học sinh học nghề giảm 35%, số giao viên dạy nghề giảm 31%, số trường dạy nghề giảm 41%, trong khi đó có 70-80% số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng ra trường không có việc làm, riêng nghành y hiện nay có trên 3000 bác sỹ không có việc làm. Thứ tư, LLLĐ là chủ yếu trong cơ cấu lao động trong ngành. Sự nghiệp CNH đã được tiến hành vài thập kỷ song cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn mang nặng dấu ấn một nền kinh tế thuần nông, thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao động theo ngành. Năm 1993, lao động nông nghiệp chiếm tới 71%, trong khi đó lao động công nghiệp chỉ chiếm 12% và dịch vụ 17% trong tổng LLLĐ xã hội. Năm 1998, cơ cấu lao động theo ngành đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu còn rất chậm: lao động nông nghiệp giảm còn 66% và lao động công nghiệp, dịch vụ tăng lên 13% và 21%.So với một số nước trong khu vực, cơ cấu LLLĐ của nước ta như vậy là còn rất lạc hậu. Chẳng hạn, năm 1997, tỷ trọng lao động nông nghiệp của Mianma giảm xuống còn 51,8%, Malayxia còn 14,8%, Indonexia còn 39,2%, Phillipin 37,2%, Thái Lan 49,2%. Để có nền kinh tế tiên tiến, hiệu quả vấn đề không chỉ đơn thuần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, mà quan trọng hơn là thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân số. Hiện tại vẫn còn khoảng gần 70% lao động nằm trong khu vực I (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) và 80% dân số sống ở vùng nông thôn thì việc thực hiện CNH, HĐH rất không dễ dàng. Điều này cho thấy tính phức tạp của việc chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế có vóc dáng hiện đại, và cũng phải biết từ bỏ tham vọng đốt cháy giai đoạn để tránh những bệnh do hình thức mà ra. Từ năm 1980 đến năm 1997, dân số tăng 1,3 lần, lao động tăng 1,7 lần, riêng lao động trong nông nghiệp là 1,75 lần nhưng diện tích trồng trọt là 1,38 lần. Do đó, diện tích gieo trồng tính bình quân năm 1997 giảm đi. Vì vậy, cần phải tăng mạnh năng suất lao động trong nông nghiệp để cải thiện tình hình. Thứ năm, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao nhất nước (20,5% và 21,7% tổng LLLĐ xã hội). Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, LLLĐ chỉ có 4%, vùng duyên hải Miền Trung10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng của quốc gia. Thứ sáu, chuyển dịch cơ cáu lao động diễn ra rất chậm theo nghành kinh tế. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thực ra không dừng lại ở chỗ nó chiếm bao nhiêu phần trăm trong GDP mà ở chỗ nó thu hút đến trên 80% LLLĐ xã hội (bảng 4 và 5): Bảng4: Thay đổi lao động trong khu vực nhà nước1990-1995 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tổng số lao động(nghìn) 30286 30994 31815,2 32718 33663,9 34589,6 Khu vực nhà nước 3415,7 3135,7 2975,2 2960,4 2928,3 3053,1 Tỷ trọng(%) 11,3 10,1 9,4 9,0 8,7 8,8 Tăng, giảm9nghìn) -280 -160,5 -14,8 -32,1 124,8 Nguồn: Niên giám thống kê Bảng 5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế Đơn vị: % 1994 1995 1996 1997 (1) (2) (1) (2) (1) (2) (1) (2) Tổng số 33,664 8,70 34,950 8,83 35,792 8,77 33,994 8,83 Khu vực I Nông nghiệp và Lâm nghiệp Thuỷ sản 71,68 69,99 1,69 1,24 1,23 1,68 69,74 68,00 1,74 1,21 1,20 1,48 69,22 67,48 1,74 1,04 1,03 1,49 68,78 67,07 1,70 1,01 1,00 1,35 Khu vực II CN khai thác CN chế biến SX và PP điện, khí đốt và nước Xây dựng 12,93 0,34 9,26 0,44 2,89 22,79 73,33 19,07 32,21 27,25 13,25 0,60 9,33 0,44 2,88 22,93 49,08 18,56 35,15 29,78 12,93 0,59 9,19 0,43 2,72 23,37 46,48 19,09 39,46 30,18 12,52 0,57 8,90 0,41 2,64 24,73 52,6 19,38 38,56 34,65 Khu vực III Thương nghiệp và sửa chữa Khách sạn, nhà hàng Vận tải, kho bãi, thông tin Tài chính và tín dụng Hoạt động và KHCN Kinh doanh tài sản và tư vấn QLNN, ANQP, BHXH Giáo dục và đào tạo Y tế và cứu trợ xã hội Hoạt động VHTT Hoạt độngdảng, đoàn thể Phục vụ cá nhân và cộng đồng 15,39 6,56 0,51 1,65 0,35 0,12 0,16 0,59 2,67 1,04 0,31 0,23 1,02 31,62 8,98 17,77 34,43 41,88 65,86 56,72 91,99 75,55 44,25 28,27 68,15 4,00 17,02 5,46 1,46 2,26 0,37 0,11 0,16 1,13 2,81 0,81 0,27 0,28 1,65 29,07 10,51 6,83 24,96 37,66 69,79 51,72 52,00 73,01 58,52 33,83 56,32 2,71 17,85 0,63 1,54 2,39 0,35 0,11 0,21 1,14 2,78 0,82 0,72 0,28 1,66 28,16 9,61 7,27 24,49 39,66 81,63 44,21 53,10 74,49 57,24 33,72 54,91 2,78 18,70 7,22 1,40 2,31 0,34 0,11 0,21 1,11 2,70 0,80 0,26 0,27 1,61 26,95 7,68 7,19 23,00 41,78 79,63 44,13 57,60 77,75 58,51 34,72 64,66 3,68 Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê (1):Tổng số lao động: Triệu người, cơ cấu lao động là % trong tổng số (2): Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà nước trong tổng số lao động của mỗi ngành kinh tế Bảng 4 cho ta thấy lao động trong khu vực nhà nước chỉ chiếm 10% trong tổng số lao động đang làm việc. Năm 1990, tỷ trọng đó là 11,3%, năm1994 còn 10,1% và năm 1995 còn 8,8%và duy trì ở mức đó cho đến nay (nhưng trong tương lai sẽ còn giảm). Theo số liệu thống kê thì từ năm 1991 đến năm1994, khu vực nhà nước đã đưa ra gần nửa triệu lao động và chính khu vực ngoài quốc doanh đã tiếp nhận phần lớn số lao động này. Ta hãy xét bảng 5 ở trên để thấy được cơ cấu lao động và quá trình phân bổ lại lực lượng lao động trong nền kinh tế từ năm 1994 đến năm 1997. Khu vực I chiếm 70% lao động đang làm việc, khu vực II chỉ chiếm vào khoảng 13% và còn lại là khu vực dịch vụ trên dưới 17%. Lao đông trong khu vực I có xu hướng giảm, khu vực II gần như không thay đổi và khu vực III có chiều hướng gia tăng, nhưng nói chung sự thay đổi là không đáng kể, qqua trình phân bổ lại lực lượng lao động giữa các ngành kinh tế lớn vẫn chưa diễn ra, khu vực I vẫn còn quá lớn và hầu hết là ngoài quốc doanh. Khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và hầu như bao trumg ở những ngành công nghiệp, những ngành đòi hỏi có trình độ kỹ thuật và đào tạp tốt. Có hay không sự trùng hợp về lao động từ khu vực nhà nước chảy sang khu vực tư nhân từ năm 1991 đến năm 1994 làm cho tỷ lệ tăng trưởng cao, và khi khu vực nhà nước thu hút lao động trở lại thì qúa trình tăng trưởng bị giảm sút là điều còn theo dõi và phân tích về sau này. Từ bảng trên cho thấy trong khu vực ngoài quốc doanh hầu hết là nông nghiệp và những ngành nghề đơn giản, trình độ kỹ thuật thấp, ít được đào tạo, vì thếviệc phân bổ lại lực luợng lao động trong thời gian tới sẽ hết sức khó khăn. Thứ bẩy, năng suất lao động của nước ta còn rất thấp. Năng suất lao động xã hội có thể hiểu là lượng GDP do một lao động làm ra trong năm. Chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa lao động và vốn đầu tư qua bảng sau đây: Bảng 6: Năng suất lao động và trang bị vốn đầu tư cho lao động GDP(triệu đồng)/1 LĐ Vốn ĐT(triệu đồng)/1 LĐ 1995 1996 1997 1995 1996 1997 Chung trong nền kinh tế 5,65 5,97 6,25 1,68 1,89 2,14 Kinh tế nhà nước 25,67 27,79 29,27 6,72 9,73 11,66 Nguồn: Tính toán từ thống kê Tính theo giá cố định năm 1994, năng suất lao động xã hội năm 1995 là 5,65 triệu đồng, năm 1996 là 5,97 triệu đồng và năm 1997 là 6,25 triệu đồng. Nghĩa là có sự gia tăng liên tục năng suất lao động trung bình của toàn xã hội nhưng bức tranh năng suất trong từng ngành lại rất khác nhau: năng suất thấp và hầu như không tăng trong khu vực I với ngành nông nghiệp và thuỷ sản; ở khu vực III có năng suất khá cao nhưng không có gia tăng trong các năm 1995-1997. Kinh tế nhà nước với các ngành công nghiệp, dịch vụ có mức năng suất cao và tăng nhanh qua các năm, nhưng ở khu vực I, khu vực lao động của ngoài quốc doanh thì lại có năng suất rất thấp và sự gia tăng không đáng kể. Nguyên nhân chính là vốn đầu tư cho một lao động ở khu vực II, III cao hơn so với khu vực I và ở khu vực I hầu như không tăng qua các năm 1995-1997 về mức vốn đầu tư cho một lao động. 2.Nguyên nhân gây ra những bất cập. Thứ nhất, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề (ĐTN) dài hạn, mất cân đối với đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính ngành giáo dục và đào tạo. Bảng 7: Số học sinh của các trường nghề và vốn đầu tư qua các niên học 1986-1997 Năm Số học sinh đi học(nghìn người) Đầu tư Trung học CN Dạy nghề Tỷ đồng % GDP Năm có nhiều học sinh nhất 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 147(1979/1980) 126,6 123,3 115,8 107,5 101,3 104,7 92,3 97,8 108,1 116,4 116,1 124,6 171(1984/1985) 119,7 102,0 118,4 92,4 60,3 57,6 68,7 74,7 58,7 69,9 102,5 439 748 1495 2321 3414 4722 5500 7150 1,0 1,0 1,4 1,7 2,0 2,1 2,1 2,1 Nguồn : Niên giám thống kê Trong giai đoạn 1990-1998, tổng đầu tư từ ngân sách cho giáo dục gia tăng liên tục, tỷ lệ đầu tư cho từng cấp giáo dục riêng lẻ kể cả ĐTN giảm. Năm 1994, chi phí choĐTN là 11% tổng ngân sách nhà nước dành cho giáo dục (mức chi phí này ở các nước khác là 25% ). Hơn nữa, phần chi cho giáo dục từ ngân sách nhà nước chiếm phần lớn trong chi phí cho ĐTN. Sự suy giảm các chương trình ĐTN dài hạn thể hiện rất khác nhau tong từng loại hình và chuyên ngành đào tạo. NHìn chung, năm 1992-1993 là năm có số học sinh đi học thấp nhất. SSự suy giảm mạnh nhất diễn ra ở các nhóm ngành nông-lâm-thuỷ sản và sư phạm đối với loại hình trung học chuyên nghiệp; và ở nhóm ngành xây dựng, cơ khí đối với loại hình ĐTN. đối chiếu thực trạng này với tình hình mở rộngviệc làm trong nửa đầu thập niên 90 cho thấy, ĐTN dài hạn đã suy giảm trong khi cơ hội việc làm gia tăng, số học sinh giảm mạnh nhất trong chuyên ngành dịch vụ, nơi có tốc độ gia tăng việc làm nhanh nhất. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề nổi cộm đối với hệ thống ĐTN. Theo Bộ Giáo dục và đào tạo, có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu do sự thích ứng chậm của hệ thống ĐTN đối với nền kinh tế nhiều thành phần, cả về chất lượng đào tạo lẫn cơ cấu ngành đào tạo; sự nghèo nàn của đội ngũ giáo viên và trang thiết bị cũng làm suy giảm đáng kể năng lực của các trường nghề. Phần lớn các trường nghè hiện nay chỉ đáp ứng được dưới 50% như cầu về hạ tầng “trường sở”, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, sách giáo khoa, xưởng thực hành. Thứ hai, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề quá nhỏ, trên 50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải. Thứ ba, từ lâu nay, chúng ta hầu như đào tạo rất ít cho đào tạo nghề. Từ năm 1995 đến năm 1995, tỷ trọng đầu tư cho giáo dục đào tạo từ ngân sách Nhà nước tăng từ 11% lên 13% ( từ mức 1094 tỷ đồng lên 1600 tỷ đồng ) nhưng số tiền này chủ yếu được rót vào cho hệ đại học, cao đẳng, phổ thông, còn các trường dạy nghề không được CHLB Đức và Hàn Quốc trang bị cho một số thiết bị hiện đại. Đã thế, đầu tư cho đào tạo nghề lại rất phân tán và không đúng hướng. Do nhiều năm không được đầu tư nên số trường ĐTN giảm từ 512 trường năm 1991 xuống 400 trường năm 1998. Trường sở và nơi ăn, ở của học sinh dột nát nhiều, số lượng người học giảm một nửa. Trang thiết bị dạy nghề lạc hậu cũ kỹ, nhiều trường hoàn toàn dùng thiết bị của 50 năm trở về trước. Thứ tư, về quản lý thì hầu như phân tán và buông lỏng. Sau ngày sáp nhập Tổng cục dạy nghề và Bộ Giáo dục và đào tạo, các cơ sở dạy nghề phải tự túc về nội dung, chương trình và phương tiện đào tạo, phải chạy lo tìm đủ môn sinh, hàng loạt trường phải chấp nhận tuyển gần như 100% người nộp đơn dự tuyển. Do đó chất lượng đào tạo kém. Trong khi đó thì hệ đại học dưới dạng khầu hiệu “đa dạng hoá ngành, cấp học và hình thức học”, cùng với cách đào tạo theo kiều “mì ăn liền” của cá nhân và tổ chức khắp nơi nhảy ra kinh doanh lĩnh vực đào tạo làm cho các trường ĐTN vắng lạnh một cách dễ sợ. Cái buông lỏng nữa là Nhà nước không có quy định bắt buộcvề nội dung đào tạo, chương trình và thời gian đào tạo và kiểm tra việc thực hiện, kể cả với một số trường đã từng có một thời thực hiện khá nghiên ngặt. Một số người đi học thực chất chỉ là lấy bằng cấp chứ không phải lấy kiến thức. Thứ năm, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy sô” khá phổ biến.Nhưng theo một đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo thì đội ngũ giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá chất lượng cao hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có bằng đại học và sau đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa đủ để phản ánh toàn diện chất lượng giáo viên. Số năm thâm niên trung bình cao có thể cảnh báo một xu hướng già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên ở các trường ĐTN. Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn học ngành nghề hiện nay đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, điểm yếu vẫn đang tập trung ở các trường kỹ thuật ngành nghề. Thứ sáu, nhu cầu ĐTN phần lớn còn mang tính tự phát, thiếu qui hoạch đồng bộ với nhu cầu của nền kinh tế. Các chỉ tiêu đào tạo của bộ chủ quản còn quá lệ thuộc vào kinh phí, chưa theo nhu cầu thực tế của nền kinh tế, có nơi, có lúc còn mang nặng tư tư tưởng “xin-cho”, cấp phát đơn thuần. Do áp lực từ phía người lao động mà gần đây ĐTN ngắn hạn nổi lên như một hình thức mới để bù đắp cho sự suy giảm ĐTN dài hạn và sự thiếu hụt trầm trọng công nhân kỹ thuật. Số học sinh theo học các khoá ngắn hạn tăng 8 lần trong 10 năm từ 1986-1996. Sự thu hẹp các khoá ĐTN dài hạn còn chứa đựng xu thế “sao nhãng” các nghề đòi hỏi đào tạo công phu, chi phí đào tạo cao. Qua khảo sát 421.500 người được ĐTN gần đây, chỉ có 0,5 % thuộc ngành cơ khí, 2,4% thuộc ngành điện. Thêm vào đó sự phân bố các trung tâm ĐTN rất không đồng đều theo địa lý cũng như theo nhu cầu sử dụng. Phần lớn các trung tâm tập trung ở thành thị, trong khi lại rất vắng bóng ở các vùng nông nghiệp, nông thôn, nơi đang cần có những người nông dân được đào tạo bài bản để hội nhập nền nông nghiệp nước nhà với thế giới. Hơn nữa, không có sự bổ sung kịp thời những lao động có đào tạo cho nông nghiệp thì quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn khó mà đạt kết quả như mong muốn. Tính tự phát và thiếu qui hoạch đồng bộ một thời gian dài đã gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về nguồn lực, trong khi kinh nghiệm của các nước trên thế giới là duy trì cơ cấu bậc học “tháp hình chuông” thì ở nước ta, số học sinh vào đại học thường vượt quá nhiều lần so với học sinh các trường nghề. Thứ bảy, có cả lý do từ tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị tuy đã giảm từ 12% năm1989 xuống 6% năm1996, nhưng lại tăng lên 8-10% năm 1998 và 1999. Tại nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm là từ 25% đến 35% và nhóm bất lợi là độ tuổi từ 15-24. Có một nghịch lý là trong khi tỷ lệ thất nghiệp cao thì thị trường lao động lại không cung cấp đủ nhu cầu cho doanh nghiệp, nghĩa là có tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Lao động thiếu không chỉ ở trình độ lành nghề mà còn ở trình độ kỹ thuật cấp trung. Nếu ở các khu vực kinh tế phát triển hơn, sự thiếu hụt lao động có thể nhìn thấy rõ trong các ngành kinh tế đang mở rộng, thì ở khu vực nông thôn sự thiếu hụt lục lượng lao động có kỹ năng khó nhìn thấy hơn và khó đánh giá hơn. Các khu vực kinh tế kém phát triển ở các vùng nông thôn rộng lớn đang cần những nhóm lao động hạt nhân, năng động để tạo ra phong trào làm kinh tế giỏi. Thứ tám, hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có việc làm cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm xói mòn các kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực, mà còn tạo xu thế kém phát triển lâu dài ở các vùng nông thôn rộng. Thứ chín, hiệu quả đầu tư giáo dục của nước ta còn thấp, Chính phủ đã đặt mục tiêu nâng tỷ lệ lao động được đào tạo tới 25% lực lượng lao động và nâng cáap các chương trình đào tạo, cung cấp các trang thiết bị, tài liệu giảng dạy mới và theo sát hơn các công nghệ mới. Tuy nhiên, mục tiêu chung ấy phải được chi tiết hoá thành các chỉ tiêu cụ thể để có tính khả thi khi triển khai. Khi đưa ra các mục tiêu như vậy, cần được tính đến các mối quan hệ về lợi ích -chi phí. Song đến nay tỷ lệ thu hồi đối với đầu tư giáo dục là rất thấp. Gần đây, tài liệu của nước ta và của ngân hàng thế giới lưu ý rằng hầu hết các khoản đầu tư cho giáo dục ỏ Việt Nam có tỷ lệ thu hồi thấp, trong đó đầu tư cho ĐTN tỏ ra là một khoản đầu tư đặc biệt kếm hiệu quả. Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư từ góc độ cá nhân ở cả ĐTN lẫn giáo dục đại học không thoả mãn kiểm nghiệm 10%. Trong khi ngay các nước thu nhập thấp khác có mức thu hồi trung bình là 10,6%. Điều này chúng tỏ hiệu quả đầu tư giáo dục ở nước ta còn quá thấp. 3.Kết luận. Từ những phân tích về thực trạng LLLĐ của nước ta thời gian qua, ta có thể rút ra một số đánh giá tổng quát như sau: -Tình hình tăng trưởng dân số nhanh dẫn tới tăng nhanh về LLLĐ. Đây vừa là một và thuận lợi cũng là một khó khăn. Thuận lợi nếu chúng ta biết cách đào tạo và sử dụng đúng nguồn lao động dồi dào này, nhưng khó khăn lớn nhất là nó tạo áp lực lớn về giải quyết việc làm. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này sẽ dẫn tới những tệ nạn xã hội gây những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. -Do những bất cập trong cơ cấu lao động không những gây khó khăn cho chính người lao động khi đi tìm việc làm, người thuê lao động, mà còn gây ra những khó khă cho người hoạch định, đưa ra những chính sách có liên quan đến vấn đề lao động, việc làm để làm sao giải quyết ổn thoả những bất cập đó. -Cũng chính vì những lý do bất cập kể trên mà khi định ra những biện pháp khắc phục tình trạng này nhiều khi giải quyết được vấn đề này lại làm trầm trọng hơn những vấn đề khác. -Do những tồn tại trong vấn đề giáo dục mà trong thời gian tới, muốn nâng cao chất lượng lao động thì chúng ta phải sử dụng rất nhiều vốn để đầu tư trong khi nền kinh tế còn kém phát triển. Mặt khác, khi sử dụng những đồng tiền đó có hiệu quả hay không còn là một vấn đề cần xem xét và nghiên cứu. Từ những đánh giá tổng quát trên, có thể đưa ra phương hướng để nâng cao chất lượng LLLĐ trong thời gian tới như sau: Thứ nhất, về quy môvà mức độ, ở Việt Nam mặc dù đẫ có mục tiêu đạt 25% LLLĐ qua đào tạo song mục tiêu này không được gắn trực tiếp với tỷ lệ của các cấp đào tạo. Tính đến các yếu tố như, nguồn lực hạn hẹp, chi phí cao của các cấp ĐTN ở bậc sau trung học và khả năng tạo việc làm của nền kinh tế, Việt Nam cần khuyến khích ĐTN cấp trung học. Hiện tại cần lưu ý một số yếu tố thuận lợi cho việc mở rộng giáo dục ĐTN cấp trung học như sau: Một là, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, giới trẻ trở nên thực tế và định hướng thị trường nhanh nhạy hơn. Do vậy, yếu tố thu nhập chứ không phải các yếu tố khác quyết định tham gia vào chương trình đào tạo này hay chương trình đào tạo khác. Hai là, hệ thống tiền lương hiện nay duy trì sự khác biệt quá nhỏ giữa lao động chân tay với lao động trí óc, không tạo ra sự khác biệt lớn giữa sự lựa chọn giáo dục phổ thông, với mục tiêu nhất thiết là phải vào cho được đại học với lựa chọn vào trưòng dạy nghề. Ngoài ra, mở rộng ĐTN còn giúp lớp trẻ có lựa chọn nghề sớm ngay khi họ tốt nghiệp trung học. Điều giúp cho giảm áp lực vào các cuộc tuyển sinh đại học và tiết kiệm chi phí, giúp cho học sinh tránh được cú sốc tinh thần khi thi trượt. Sự hướng nghiệp sớm còn giúp họ yên tâm với sự lựa chọn từ đầu của mình. Nhờ đó, khi có việc làm theo đúng chuyên môn đào tạo họ nỗ lực làm việc tốt hơn và cho năng suất lao đôngj cao hơn, khắc phục được tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Thứ hai, trong khi khuyến khích mở rộng ĐTN, các nhà hoạch định chính sách cần lưu ý đến giới hạn tối ưu của nó, ở giai đoạn phát triển hiện nay vốn dựa chủ yếu vào ngành sử dụng nhiều lao động và tổ chức lao đôngj theo phương pháp Tay-lo thì việc mở rộng ĐTN thung học đồng nghĩa với việc tiết kiệm nguồn lực trong nước và giảm chi phí cơ họi cho học sinh. Việc mở rộng ĐTN nên được xem như một quá trình luôn có sự điều chỉnh và sự điều chỉnh này cũng cần tính tới khả năng, việc mở rộng thái quá ĐTN trung học cũng có thể dẫn tới một thực tế ngoài mong đợi, khi nền kinh tế đi vào con đường hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và thực hiện mô hình tổ chức linh hoạt, đòi hỏi phải có những công nhân đa chức năng. Thứ ba, để tiết kiệm nguồn lực và thời gian, cần sắp xếp lại và nâng cấp các trường ĐTN sẵn có, khuyến khích luồng học sinh vào để khắc phục quy mô nhỏ, vốn là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chi phí đơn vị cao trong ĐTN hiện nay. Đồng thời tiến hành các thay đổi cần thiết trong các chương trình học và phân ngành đào tạo sao cho có thể phản ánh được các thay đổi trong cơ cấu ngành nghề trong hệ thống làm việc.Cần chuyển khỏi đào tạo nghề chuyên môn hẹp và đi theo hướng đào tạo rộng hơn trong ĐTN. Cần tăng cường kiểm soát chất lượng và tạo cơ hội cho học sinh được chuyển đổi giữa các lựa chọn trung học phổ thông và trung học nghề. Sau khi cac strường nghề hiện thời được nâng cấp và đạt được quy mô hợp lý, mới xem xét mở rộng trường mới. Thứ tư, có chính sách cụ thể quan tâm thực sự tới sự phát triển bền vững của ĐTN. Khác với giáo dục đại học, ĐTN không dễ có một vị thế cao trong xã hội. Vị thế xã hội đáng mong ước của ĐTN bao quát hai khía cạnh: Một là, sự kính trọng và uy tín của cấp giáo dục này trong nhận thức của người dân. Những thái độ và giá trị của người dân dành cho ĐTN là rất quan trọng vì chúng cho phép tái sản xuất quá trình đào tạo, nói cách khác cho phép quá trình đào tạo được liên tục. Hai là, các giá trị của ĐTN cần được thể hiện trong hệ thống việc làm, chế độ đãi ngộ. Điều đó có nghĩa là đầu tư cá nhân vào ĐTN (dưói hình thức tiền của lẫn thời gian) phải được phản ánh rõ trong việc làm và thu nhập. Thứ năm, xây dựng một hệ thống ĐTN ưu tiên phát triển nông nghiệpvà nông thôn, tự tạo việc làm và kỹ năng kinh doanh nhỏ. Với yêu cầu sử dụng lao động cũng như cuộc cải cách nông nghiệp trong những năm 80, hệ thống ĐTN dường như tụt lại phía sau so với hệ thống việc làm. Do đó, LLLĐ thiếu việc làm ở nông thôn tương đối cao. Hậu quả là luồng di cư từ nông thôn ra thành thị diễn ra mạnh, làm tăng thêm số người nghèo đói ở thành thịcùng với áp lực môi trường và nhiều tiêu cực khác. Nguyên nhân có nhiều nhưng yếu tố không thể bỏ qua là thiếu ĐTN. Nếu hệ thống ĐTN nhấn mạnh khả năng tự tạo việc làm kết hợp với các giải pháp chính sách hỗ trợ kinh doanh nhỏ sẽ giúp cải thiện đáng kể tình hình. Phát triển hệ thống ĐTN ở nông thôn thực hiện lin hoạt vvới chương trình, thời gian và địa điểm đào tạo theo nhu cầu địa phương. Trong vài năm trước mắt, ưu tiên phát triển ĐTN dài hạn ở khu vực thành thị và ĐTN ngắn hạn ở nông thôn, đồng thời sự phát triển ĐTN ở nông thôn còn được khuyến khích song song với các hệ thống phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn. Trong khi phát triển hệ thống ĐTN ở nông thôn cần chú trọng đào tạo kỹ năng kinh doanh nhỏ và tự tạo việc làm. Thứ sáu, tăng cường đội ngũ giáo viên. Thực tế cho thấy đội ngũ giáo viên dạy nghề hiện đang là khâu yếu, cần tập trung phát triển khi đất nước mở rộngĐTN. Ngay từ đầu cuộc cải cách ĐTN ở nước ta cần đưa ra các giải pháp khắc phục sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng giáo viên dạy các môn ngành nghề. Trong giai đoạn trước mắt của ta, khi đội ngũ giáo viên nghề giỏi chưa hình thành đầy đủ, việc sử dụng đội ngũ thợ lành nghề đã về hưu hoặc đưng chức là phù hợp. Sử dụng đội ngũ thợ lành nghề về hưu sẽ tận dụng được một nguồn lực không nhỏ. Tuy có thể phương pháp sư phạm của họ bị hạn chế, song ở họ lại có sự dày dạn về kinh nghiệm. ii.vấn đề giải quyết việc làm ở việt nam thời gian qua 1.Thực trạng giải quyế việc làm thời gian qua. 1.1.Những kết quả đạt được. Giải quyết vấn đề việc làm và sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu chiến lược của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nước ta cũng vậy, lao động và việc làm luôn được coi là một trong những vấn đề kinh tế xã hội vừa bức xúc, vừa nhạy cảm. Nhìn lại 15 năm đổi mới, vấn đề giải quyết việc làm đã đem lại những kết quả to lớn, là bước ngoặt quan trọng để sử dụng tiềm năng lao độngcủa đất nước. Có thể nêu khái quát những kết quả đã đạt được trên các lĩnh vực của thời kỳ này như sau: 1.1.1.Từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy và hệ thống chính sách về việc làm. Thời kỳ từ năm 1986 đến trước khi ban hành Bộ luật Lao động, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực lao động và việc làm ở thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bố trí sắp xếp và sử dụng lại lao động khu vực nhà nước, đối với lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đặc biệt là ngày 1/4/1996, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị quyết số 120/HĐBTvề chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm trong các năm tới, trong đó quy định rõ trách nhiệm giải quyết việc làm là của nhà nước, của các ngành các cấp, các tổ chức xã hội và của mỗi người lao động; Nhà nước tạo điều kiện cần thiết thông qua cơ chế, chính sách, pháp luật và hỗ trợ một phần về tài chính để khuyến khích các đơn vị, tổ chức kinh tế và người lao động ở mọi thành phần kinh tế tự giải quyết việc làm và tạo việc làm mới. Năm 1994, Quốc hội nước ta thông qua Bộ luật Lao động và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1995, trong đó có một chương riêng về việc làm, đã quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động, chương trình quốc gia về việc làm... . Ngày 31/12/1995, Chính phủ đã ban hành nghị định 72/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về việc làm, trong đó quy định cụ thể về chương trình việc làm, dịch vụ việc làm... . Ngày 11/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 126/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000 và các văn bản thuộc cac slĩnh vực Lao động-Tiền lương đã tạo ra khung pháp luật quan trọng để tạo điều kiện cho mọi người, hộ gia đình và tổ chức giải quyết việc làm. 1.1.2.Nhận thức về việc làm thay đổi một cách căn bản. Đây là thời kỳ đã tạo ra nhận thức mới về trách nhiệm giải quyết việc làm từ chỗ Nhà nước đứng ra lo việc làm cho từng người lao động mà tập trung chủ yếu ở hai khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể sang việc xác định rõ trách nhiệm tạo việc làm là của người lao động, hộ gia đình, các tổ chức, các cấp các ngành. Nhà nước tạo môi trường pháp luật và điều kiện thuận lợi bằng việc mở thể chế chính sách, hỗ trợ một phần nguồn lực về tài chính, cung cấp thông tin kinh nghiệm hay, từ đó tạo được tính chủ động, sáng tạo của mỗi người, tổ chức, tránh được sự trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước để có việc làm. 1.1.3.Số người lao động được giải quyết việc làm ngày càng tăng. Bình quân thời kỳ 1990-1999 mỗi năm giải quyết việc làm cho 0,91 triệu người, trong đó mấy năm gần đây bình quân mỗi năm giải quyết được khoảng 1,2 triệu người có việc làm, tương ứng với số bổ sung hàng năm của nguồn lao động nước ta. 1.1.4.Xuất hiện nhiều lĩnh vực mới giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Số lao động được giải quyết việc làm chủ yếu ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, còn ở trong khu vực kinh tế quốc doanh chủ yếu là sắp xếp lại lao động để sử dụng số lao động hiện có hợp lý, có hiệu quả nhất. Riêng ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đã xuất hiện nhiều lĩnh vực thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm như: các doanh nghiệp tư nhân phát triển nhanh chóng đặc._.u người, dự kiến và năm 2005 khoảng 50,8 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu người. Số lao động cần có việc làm vào năm 2005 khoảng 47 triệu người, trong đó số lao động nông thôn khoảng 34,8 triệu người, chiếm 74%, lao động ở thàng thị khoảng 12,2 triệu người, chiếm 26%. Ngoài số lao động đã có việc làm ổn định trong nền kinh tế, số lao động cần giải quyết thêm việc làm trong 5 năm trên 15 triệu người, bao gồm tăng tự nhiên 7 triệu người, công với số chưa có việc làm cũ chuyển qua khoảng 8 triệu người; trong đó ở nông thôn trên 12 triệu người (tính theo ngày công quy đổi), chiếm 79%, thành thị khoảng 3 triệu người, chiếm 21%. 2.Dự kiến thu hút nguồn lao động mới tăng thêm vào các khu vực Tại khu vực nông thôn, dự kiến có thể thu hút thêm trong 5 năm khoảng 6,3 triệu người, trong đó 3,7 triệu người cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp (tính theo ngày công quy đổi), 2,6 triệu người cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn là 28-29 triieụ người, trong đó 22-23 triệu người sản xuất nông nghiệp (tính theo ngày công quy đổi); 6-7 triệu người sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số lao đông chưa có việc làm (tính theo ngày công quy đổi) khoảng 5,8-6,8 triệu người, chiếm 12-15% số lao động trong độ tuổi và khoảng 17-20% số lao động cần có việc làm ở nông thôn. Tại khu vực thành thị, dự kiến trong 5 năm có thể thu hút thêm khoảng 1,8 triệu người, trong đó 80 vạn người vào sản xuất công nghiệp và xây dựng, 1 triệu người vào các ngành dịch vụ. Tính đến năm 2005, tổng số lao động có việc làm ở thành thị là 11,4-11,6 triệu người, trong đó 5,2-5,5 triệu người sản xuất công nghiệp và xây dựng, 6,1-6,2 triệu người vầo các ngành dịch vụ; số lao động chưa có việc làm khoảng 0,6-0,8 triệu người, chiếm 4,3-4,5% số lao động trong độ tuổi và khoảng 5-6% số lao động chưa có việc làm ở thành thị. 3.Định hướng phát triển việc làm Giải quyết việc làm và ổn dịnh việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là nhiệm vụ cơ bản, bức xúc mà các ngành, các cấp phải đặc biệt quan tâm. Phấn đấu giải quyết việc làm và ổn định việc làm cho 7,5-8 triệu người trong 5 năm, bình quân 1,4-1,5 triệu người/năm; phấn đáu đến năm 2005 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống khoảng 5-6% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%. Xuất khẩu lao động được xem là một khâu quan trọng trong giải quyết việc làm và tăng thu nhập. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng từ 16,7% (năm 2000) lên 20-21% (năm 2005), lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 22% (năm 2000) lên 23-24% (năm 2005).Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3% (năm 2000) xuống còn 56-57% (năm 2005).Tăng nhanh lao động kỹ thuật từ 18-20% năm 2000 lên 30% năm 2005. Iii.những chính sách cơ bản để thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005 Để nâng cao chất lượng lao động và giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để cho người lao động có điều kiện hoàn thiện năng lực, tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua các chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu lao động, đồng thời làm cho cung và cầu lao động phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Có thể đưa ra một số chính sách chủ yếu có tính chất định hướng như sau nhằm thực hiện tốt hơn kế hoạch về lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005: 1.Chính sách khuyến khích và đãi ngộ người có trình độ Mục tiêu của người lao động là có thu nhập tương ứng khả năng của mình, đảm bảo cuộc sống ổn định cho gia đình. Vì vậy, càng có những yếu tố vật chất và tinh thần để khuyến kích và đãi ngộ thì người lao động càng nâng cao trình độ của mình, đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội. Cần tập trung vốn cho giáo dục và đào tạo nhằm khuyến khích mọi người tự nâng cao và được nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của mình đồng thời phải có những hình thức đãi ngộ riêng cho những người có trình độ cao hơn người khác, xã hội đang khan hiếm từ đó có động lực hơn cho mọi lao động phấn đấu. 2.Chính sách khuyến khích dạy và học nghề Nước ta đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động có kỹ thuật, vì vậy nâng cao số lượng lao động này để đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH là những việc cần làm ngay trong thời gian tới. Do đó phải có những chính sách cụ thể về khuyến khích dạy và học nghề như tạo điều điều kiện ưu đãi cho cho những giáo viên dạy nghề bằng cách tăng phụ cấp, tiền lương, tạo ra nhiều việc làm cho những học sinh học nghề, có kế hoạc sử dụng ngay nguồn lực, này khi họ tốt nghiệp và đảm bảo những điều kiện tốt nhất về nơi làm việc, điều kiện sinh hoạt hàng ngày cho họ... 3.Chính sách phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là vốn quý của quốc gia nhưng làm sao để có thể sử dụng được thì mới là kết quả cuối cùng. Do vậy, phải phát triển nguồn nhân lực ngay từ thời kỳ đầu nhằm cung cấp đầy đủ cho sự phát triển của đâts nước. Cần tập trung vào vấn đề y tế, chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng để năng cao khả năng làm việc đông thời phải đầu tư để nâng cao trình độ của người lao động như đầu tư vào giáo dục đào tạo, đầu tư vào dạy nghề... 4.Bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô 4.1.Chính sách tạo vốn Yếu tố cơ bản trước tiên của giải quyết việc làm là phải có vốn.Chính sách tạo vốn phải chú ý hai hướng: Một là, tập trung nguồn lực vốn cho mở rộng việc làm thông qua các chương trình tổng thể, nhất là các chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình khai thác tiềm năng các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ... Hai là, huy động đến mức cao nhất nguồn vốn trong nhân dân bằng các chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển việc làm như chính sách cho thuê, mượn đất đề người có vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh... Trong chính sách tạo vốn, quan trọng nhất là hoàn thiện chính sách về hệ thống tín dụng. Cần phải hình thành hệ thống tín dụng với cấu trúc như sau: -Hệ thống tín dụng thương mại. Hệ thống này chủ yếu phục vụ các đối tượng là chủ thể sản xuất, kinh doanh đúng theo cơ chế thị trường. Người vay được áp dụng theo chính sách lãi suất đúng thị trường. -Hệ thống tíndụng có tính chất tài trợ của Nhà nước cho các chương trình xã hội. Thực chất là Nhà nước trợ giúp tạo mở việc làm thông qua chính sách tín dụng với lãi suất nâng đỡ. -Hệ thống tín dụng nhân dân.Là hình thức tín dụng trong cộng đồng, giúp nhau tạo vốn phát triển sản xuất, kinh doanh. 4.2.Chính sách đất đai Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng khuyến khích nhân dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tạo ra nhiều việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Cụ thể là: -Đối với người nghèo ở nông thôn không được thu bớt ruộng đất của họ trong trường hợp người nghèo nợ sản lượng khoán, mà phải viện trợ cho họ về vốn, kinh nghiệm làm ăn... -Trợ giúp vốn kỹ thuật, và công nghệ, thị trường tiêu thụ để nông dân thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, trước mắt là nâng vòng quay của đất bằng cách phát triển vụ đông, chuyển một phần ruộng trồng lúa sang làm vườn kinh tế... -Xác định giá đất hợp lý theo hướng ưu đãi cho các gia đình khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở quê cũ để đến vùng kinh tế mới, tạo cho họ có thêm vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. -Khuyến khích người có vốn đến khai hoang và kinh doanh theo kiểu trang trại ở các vùng đất còn hoang hoá bằng cách cho vay vốn với lãi suất nâng đỡ, cho mượn hoặc thê đất lâu dài với giá thấp... -Quy hoạch lại các vùng nông, lâm trường để giao phần đất chưa sử dụng cho các hộ gia đình theo mô hình “nông, lâm trường mở”, trong đó nông, lâm trường là trung tâm, các hộ gia đình là vệ tinh. 4.3.Chính sách thuế Mặc dù nước ta đã có luật thuế, Chính phủ cũng luôn thay đỏi mức thuế cụ thể cho phù hợp với thực tế, song để khuyến khích các chủ kinh tế phát triển, giải quyết việc làm cho nhiều người trong cơ chế thị trường, Nhà nước cần bổ sung, hoàn chỉnh một số vấn đề trong chính sách thuế theo hướng: Thứ nhất, cần áp dụng chính sách khuyến khích doanh nghiệp đưa công nghệ thích hợp vào sản xuất, trong đó vừa đảm bảo yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, vừa tạo thêm việc làm mới cho người lao động, đặc biệt là tạo ra các tầng khác nhau để sử dụng được nhiều lao động. Thứ hai, đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ cần phải nghiên cứu tách chi phí xã hội ra khỏi chi phí sản xuất để Nhà nước có chính sách trợ giúp thông qua chính sách xã hội dưới hình thức giảm thuế tương ứng. Thứ ba, thực hiện chính sách miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình mới ra đăng kí kinh doanhlần đầu (2-3 năm đầu) thu hút được thêm lao động. Thực hiện chính sách này phải có sự phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đứng mức, trước hết là: -Các doanh nghiệp, các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn (làng nghề). -Các hộ gia đình, các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn sử dụng lao động nhàn rỗi. -Các cơ sở sản xuất của người tàn tật, thương binh, các đối tượng tệ nạn xã hội, người thôi việc trong khu vực Nhà nước, lao động hợp tác nước ngoài trở về, người mãn hạn tù... Thứ tư, miễn giảm thuế cho sự nghiệp dạy nghề xã hội gắn với việc làm của các trung tâm xúc tiến việc làm. Trung tâm dạy nghề, khuyến nông, các cơ sở dạy nghề tư nhân là cơ sở vệ tinh của hệ thống các Trung tâm thuộc chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Thứ năm, nghiên cứu, xacs định hợp lý suất miễn thu để trừ ra trong tổng doanh thu chịu thuế với các hộ sản xuất, kinh doanh ở quy mô gia đình có thuê hoặc không thuê lao động. 5.Hình thành hệ thống đồng bộ các chính sách chủ yếu khuyến khích các hình thức và lĩnh vực thu hút được nhiều lao động 5.1.Chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ gia đình để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Để giải quyết việc làm cho lao dộng nông thônthông qua hình thức kinh tế hộ gia đình, Nhà nước cần bổ sung một số chính sách cụ thể sau: -Tăng tỷ lệ đầu tư vào khu vực nông thôn từ ngân sách thông qua các chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện chuyển các hộ gia đình sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá. -Lập quỹ tín dụng cho các hộ gia đình vay theo món nhỏ với lãi suất hợp lý và theo chu kỳ sản xuất. Tăng dần tỷ lệ cho vay trung hạn để mọi người có điều kiện tập trung đầu tư theo chiều sâu. Đặc biệt khuyến khích các hộ gia đìng vay vốn để phát triển tiểu thủ công nghiệpvà dịch vụ, tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại... -Thiết lập hệ thống chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, và các hộ gia đình để sản xuất các mặt hàng nông sản gắn với xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. -Có chính sách trợ giá cho nông nghiệp hoặc nghiên cứu lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho các hộ gia đình, xác lập mối quan hệ giá cánh kéo hợp lý trong từng thời kỳ. 5.2.Đổi mới chính sách di dân xây dựng các vùng kinh tế, xã hội dân cư mới để gắn lao động với đất đai và tài nguyên đất nước Những định hướng cơ bản đổi mới chính sách này có thể khái quát như sau: -Thay đổi chính sách đầu tư khai thác các vùng trên cơ sở đó thực hiện phân bố lại lao động, dân cư và giải quyết việc làm. -Tiếp tục đổi mới các hình thức di dân xây dựng các vùng kinh tế mới theo chương trình, dự án quốc gia, vùng và địa phương. Nhà nước tập trung vào một số vùng trọng điểm theo dự án quốc gia, còn lại cần quy hoạch để dân tự đến khai thác, trong dó cần chú ý luồng di dân tự do từ các tỉnh phía Bắc vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. -Sửa đổi, bổ sung một số chính sách cụ thể liên quan đến di dân xây dựng các vùng kinh tế mới như: thực hiện việc đánh thuế đất đai để sử dụng tiết kiệm đất, trao quyền sử dụng đất lâu dài cho dân, tạo vốn cho các hộ gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới... 5.3.Chính sách khuyến khích phát triển khu vực kinh tế quy mô nhỏ và linh hoạt trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ở thành thị để giải quyết việc làm Đây là loại chính sách tác động vào phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực phi kết cấu ở thành thị phù hợp với cơ chế thị trường. Để khuyến khích khu vực này phát triển, chính sách của Nhà nước cần tập trung vào các hướng sau: -Cụ thể hoá Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước cho sát với thực tế để tạo hành lang pháp luật cho dân tự do kinh doanh. Trong đó, đặc biệt là cần đơn giản hoá thủ tục và giảm lệ phí thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. -Sớm ban hành một số chính sách khuyến khích và trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình có cơ sở sản xuất, kinh doanh như miễn, giảm thuế cho họ trong 2-3 năm đầu, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi... -Quy hoạch, tổ chức lại phố phường, vỉa hè, chợ ở các thành phố để tạo điều kiện cho các khu vực phi kết cấu phát triển song không ảnh hưởng đến vệ sinh đô thị và mỹ quan thành phố. -Phát triển sự nghiệp đào tạo các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chủ hộ kinh doanh về kiến thức quản lý doanh nghiệp theo cơ chế thị trường như marketing, hạch toán doanh nghiệp. 5.4.Chính sách khôi phục và phát triển nghề truyền thống để tạo việc làm cho người lao động Nghề truyền thống có khả năng thu hút được nhiều lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người, kể cả nông thôn và thành thị. Để khôi phục và phát triển nghề truyền thống, Nhà nước cần phải có một chính sách khuyến khích và trợ giúp, cụ thể là: -Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các cơ sở snr xuất, các hộ gia đình làm nghề truyền thống như cho vay vốn với lãi suất thấp từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, giảm đến mức tối đa các lệ phí, cho mượn hoặc thuê mặt bằng để sản xuất... -Tổ chức lại các cơ sở làm nghề truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời phát triển mạnh mẽ hình thức hợp tác kiên gia đình, các làng nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ... 5.5.Chính sách khuyến khích tự do di chuyển lao động và hành nghề theo pháp luật Dưới góc độ việc làm, tự do di chuyển và hành nghề là hiện tượng tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sụ phát triển của thị trường lao động ở nước ta nhằm điều chỉnh quan hệ cung-cầu lao động, giảm thất nghiệp kết cấu. Bởi vậy, việc ứng xử của Nhà nước không phải là cấm nó phát triển, mà trái lại phải có cơ chế và chính sách để quản lý và kiểm soát nó, khuyến khích nó phát triển đúng hướng. Các chính sách quan trọng nhất là: -Ban hành đồng bộ các thể chế, biện pháp quản lý và kiểm soát về mặt Nhà nước đối với thị trường lao động, đảm bảo người lao động được di chuyển và hành nghề một cách tự do theo pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước. Trước hết đó là các chính sách về tiền lương tối thiểu, an toàn vệ sinh lao động, hợp đồng lao động... -Tổ chức hệ thống văn phòng dịch vụ giới thiệu việc làm và cung ứng lao động, thông tin về thị trường lao động ở các địa phương và các vùng. -Trong các thành phố, ở các địa phương cần có chương trình phối hợp để quản lý được tốt đối tượng hành nghề tự do phù hợp với chính sách quản lý hộ khẩu, chính sách nhà ở... theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được tự do hành nghề theo pháp luật. 5.6.Chính sách đối với hình thức thanh niên xung phong làm kinh tế và giải quyết việc làm cho thanh niên Thanh niên xung phong là một trong những hình thức quan trọng thu hút lực lượng trẻ tuổi của thanh niên ta. Trong điều kiện hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức này theo hướng vừa gắn với nghĩa vụ của thanh niên trong giai đoạn cách mạng mới, tham gia gải quyết những nhiệm vụ khó khăn trong phát triển kinh tế xã hội, giải quyết việc làm cho thanh niên, vừa phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả trong hoạt động của lực lượng thanh niên xung phong. Về mặt chính sách, Nhà nước cần tập trung vào một số định hướng sau: -Nhà nước cần định hướng hoạt động chủ yếu của lực lượng thanh niên xung phong là lực lượng xung kích trong việc thực hiện những công trình trọng điểm của quốc gia. Nhà nước ưu tiên dành cho những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội theo kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cho lực lượng thanh niên xung phong đảm nhận dưới hình thức nhận thầu hoặc giao cho thanh niên xung phong đứng ra lập luận chứng kinh tế xã hội các dự án lớn có sự đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước. -Khuyến khích tổ chức thanh niên xung phong phát triển sản xuất và dịch vụ hoạt độngtheo cơ chế thị trường và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. -Nhà nước có chính sách tiền công hợp lý, chính sách bảo hiểm xã hội để bảo vệ quyền lợi chính đáng của thanh niên và có những chính sách ưu đãi thích hợp như đào tạo, dạy nghề... sau khi hết hạn phục vụ trong thanh niên xung phong để thanh niên yên tâm cống hiến. -Phát triển các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm, trung tâm dịch vụ cung ứng lao động cho thanh niên xung phong, có sự đầu tư trợ giúp ban đầu của Nhà nước. 5.7.Chính sách khuyến khích lực lượng vũ trang tham gia phát triển kinh tế và tạo việc làm Lực lượng vũ trang có một đội ngũ khoa học, kỹ thuật, lao động và cơ sở vật chất kỹ thuật đáng kể. Vì vậy, lao động sản xuất và tham gia hoạt động kinh tế là một trong những nhiệm vụ chiến lược của lực luượng vũ trang, thể hiện quan điểm nhất quán kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Định hướng cơ bản của chính sách này như sau: -Hoạt động kinh tế của lực lượng vũ trang chủ yếu là kết hợp và tận dụng năng lực sản xuất hiện có để sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá tiêu dùng, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho công nhân viên quốc phòng, an ninh. -Cần hình thành các đơn vị vũ trang làm kinh tế kết hợp với an ninh, quốc phòng để thực hiện xây dựng hạ tầng cơ sở, là những công trình có tính chất tạo mở và phát triển việc làm để thu hút lao động xã hội ở các ddịa bàn chiến lược kinh tế-quốc phòng, nhưng cũng phải trên cơ sở chương trình, dự án đầu tư của Nhà nước. -Nhà nước cần có cơ chế và chính sách riêng đối với mô hình lực lượng vũ trang làm kinh tế kết hợp với an ninh, quốc phòng như các chính sách tín dụng cho vay với với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm... -Phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm trong hệ thống quốc phòng để dạy nghề và tạo việc làm cho bộ đội trước khi xuất ngũ. Các trung tâm này nằm trong hệ thống Trung tâm xúc tiến việc làm quốc gia và được đầu tư trợ giups một phần ban đầu từ ngân sách Nhà nước. 5.8.Chính sách mở rộng đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là hướng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh để phát triển kinh tế, xã hội trong nước, vừa đảm bảo mục tiêu giải quyết việc làmcho một bộ phận lớn lao động xã hội. Trong thời gian tới, đổi mới chính sách này theo hướng đa dạng hoá phương thức và hình thức đưa lao động đi vlàm việc có thời hạn ở nước ngoài đảm bảo mục tiêu hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Mở rộng địa bàn sang tất cả các nước có nhu cầu sử dụng lao động của Việt Nam. Nhà nước sớm ban hành quy chế hoặc pháp lệnh đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, khẩn trương tổ chức hệ thống dạy nghề cho người lao động để chuẩn bị lực lượng lao động có trình độ tay nghề và ngoại ngữ đpá ứng yêu cầu của nước sử dung lao động, dần dần hình thành đội quân chuyên nghiệp đi lao động ở nước ngoài, từng bước hoà nhập vào thị trường lao động quốc tế. Iv.những biện pháp cơ bản để thực hiện công tác kế hoạch lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005 1.Tiếp tục thực hiện tốt công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình Trong giai đoạn tới sẽ giảm mức sinh bình quân hàng năm 0,04-0,05%, tốc độ tăng dân số vào năm 2005 là 1,23%, quy mô dân số khoảng 83 triệu người, trong đó ở nông thônkhoảng 60 triệu người, thành thị khoảng 23 triệu người, từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư nhằm hạn chế việc mở rộng chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư và các nhóm xã hội khác nhau, đưa các yếu tố tích cực của dân số vào các kế hoạch phát triển. 2.Phổ cập giáo dục tiểu học Tiếp tục phổ cập giáo dục tiểu học, xoa mù chữ ở người lớn, đặc biệt tập trung cho các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Đối với một số thành phố lớn nên phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, một số nơi có điều kiện có thể thực hiện phổ cập phổ thông trung học. Để thực hiện, Nhà nước cần tăng chi ngân sách cho giáo dục tiểu học và thực hiện công bằng trong chi tiêu cho giáo dục. Đối với một số tỉnh giàu, thành phố lớn, nên đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục để tăng nguồn lực cho giáo dục, qua đó Nhà nước có thể ưu tiên ngân sách Nhà nước cho vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. 3.Nâng cao chất lượng nguồn lao động Thứ nhất, khẩn trương điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung vào ba hướng sau: -Với đào tạo đại học, cao đẳng: Giảm ngay chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường mà quy mô đào tạo hiện đang quá tải so với điều kiện cho phép và ở những ngành học có quy mô đào tạo quá nhu cầu như báo chí, luật, kinh tế. Tăng chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường sư phạm, kỹ thuật, nông nghiệp nhất là các trường nằm ngay ở đồng bằng sông Cửu Long và trung du miền núi phía Bắc. Để làm tốt điều này, cần rà soát lại chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để điều chỉnh kịp thời chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các trường, các ngành học. Các cơ sở đào tạo, một mặt, phải thực hiện đúng chỉ tiêu tuyển sinh, khắc phục tình trạng tuỳ tiện tăng chỉ tiêu, mặt khác phải tiến hành khâu tuyển sinh chặt chẽ, nghiêm túc, đảm bảo chất lượng đầu vào cho các trường và ngành học. -Nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trong mấy năm qua, quy mô đào tạo tuy đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Cần dấy lên phong trào học nghề trong toàn xã hội, phải quy hoạch lại hệ thống dạy nghề theo hướng đồng bộ cả về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng kinh tế và ở từng địa phương. Đổi mới phương pháp, nội dung và giáo viên dạy nghề cho phù hợp với thực tế. -Thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Việc phân luồng này, một mặt phải được điều khiển bằng cơ chế, chính sách vĩ mô của Nhà nước trên cơ sở nhận thức rõ ràng giá trị xã hội của từng loại lao động và có chính sách khuyến khích vật chất cho học sinh vào học các trường nghề, mở ra cho họ có khả năng phát triển trong tương lai, mặt khác, đòi hỏi các trường phổ thông phải làm tốt công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực trong đó cần đặc biệt coi trọng các chính sách sau: tập trung đầu tư thoả đáng vào đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao; khuyến khích các doanh nghiệp, giáo viên và người học trong lĩnh vực đào tạo nghề; khuyến khích người học nghề phát triển tài năng và mở đường cho họ phát triển không hạn chế tài năng; khuyến khích vật chất và đãi ngộ tài năng thoả đáng (tiền lương, phụ cấp, bồi dưỡng vật chất) cho các nghệ nhân dạy nghề và truyền nghề ... Thứ ba, phát triển và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm vào việc đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động, cũng như nhu cầu vay vốn dài hạn với lãi xuất ưu đãi cho kinh tế hộ nông thôn nhằm giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở khu vực này, giải toả sức ép di dân đến đô thị. 4.Biện pháp tăng cầu lao động trong thời gian tới. Thứ nhất, đối với nước nghèo và nhiều lao động như Việt Nam thì tăng cầu lao động là một mục tiêu quan trọng nhưng phải đảm bảo hai nguyên tắc: chi phí thấp và tạo được càng nhiều việc làm càng tốt thông qua biện pháp kinh tế là chính. Các kiến nghị là: -Cần nhanh chóng cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi lĩnh vực. -Cần có chính sách rõ ràng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo được nhiều việc làm. Khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp lớn-vừa-nhỏ, qua đó có thể tuyển dụng lao động có trình độ khác nhau từ giản đơn đến kỹ thuật cao, vừa thực hiện chuyển giao kỹ thuật giữa doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện đào tạo theo phương thức vừa học vừa làm. Thứ hai, khuyến khích các hoạt độngphi nông nghiệp ở nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình để giải quyết việc làm tại chỗ. Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin, giới thiệu sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ và tạo cầu nối giữa nông dân và cơ quan hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân. Thứ ba, nâng cao hiệu quả các chương trình giải quyết việc làm bằng cách xây dựng hệ thống hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, điều chỉnh chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Cần nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm, bao gồm trách nhiệm về đóng góp tài chính, hướng dẫn thực hiện, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát và đánh giá, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chương trình khi không đạt được mục tiêu. Không nên thực hiện chương trình giải quyết việc làm một cách dàn trải, nên ưu tiên cho các vùng căng thẳng về giải quyết lao động và cần sự giúp đỡ của nhà nươc trung ương. Tuy nhiên, chương trình cũng chỉ nên triển khai tại một số nơi đã có đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ địa phương am hiểu thực tế và có khả năng giám sát đánh giá hiệu quả của các biện pháp giải quyết việc làm, ở nơi người lao động có đủ khả năng vay vốn để tự tạo công ăn việc làm. Thứ tư, do thị trường lao động mới được hình thành, nên việc tiếp tục hoàn thiện khung khổ luật pháp cho nó vận hành trong nền kinh tế thị trường là rất cần thiết. Cụ thể là cần hoàn thiện khung khổ luật pháp về lao động, như quy định về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với người lao động khi chuyển việc, thôi việc, mất việc .... 5.Giải quyết việc làm cho các khu vực. 5.1.Khu vực thành thị. Thành thị mặc dù có tỷ trọng về dân số và lao động không lớn hơn so với khu vực nông thôn, nhưng lại là địa bàn tập trung mật độ dân cư, lao động cao, cũng là nơi chịu tác động mạnh của cơ chế thị trường, dễ nảy sinh những điểm nóng về các vấn đề kinh tế xã hội, nhất là vấn đề việc làm. Phương hướng rất quan trọng để giải quyết việc làm cho lao động ở thành thị là phải gắn với chương trình phát triển doanh nghiệp có quy mô lớn, nhất là ở địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển mạnh các tập đoàn sản xuất mạnh của nhà nước ở các vùng hoặc trên phạm vi cả nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn .... Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu cũng là hướng rất lớn để giải quyết việc làm cho lao động thành thị. Phải coi trọng gia công xuất khẩu là một quốc sách và lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta có nhiều lao động với giá rẻ, dễ tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới lại có nguồn nguyên liệu trong nước tại chỗ dồi dào Phát triển các cơ sở dịch vụ công cộng và sự nghiệp nhà ở trong các thành phố, thị xã sẽ tạo ra rất nhiều việc làm cho thanh niên thành thị, đặc biệt là ở một số thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung. Khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven thành phố, thị xã, trong mối quan hệ và liên kết kinh tế giữa nội-ngoại thành là hướng quan trọng để tạo việc làm cho lao động thành thị. 5.2.Khu vực nông thôn. ở nông thôn vấn đề cơ bản nhất cần phải giải quyết là nạn thiếu việc làm còn rất phổ biến và nghiêm trọng, việc làm kém hiệu quả và thu nhập thấp dấn đến đời sống thấp, một bộ phận lớn dân cư còn ở trong tình trạng nghèo khổ. Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, phải làm thay đổi và chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm dần về số hộ thuần nông để giải phóng đất đai, khắc phục tình trạng bình quân đầu người diện tích đất nông nghiệp quá thấp như hiện nay. Đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện người nào giỏi việc gì thì làm việc ấy, trên cơ sở giao đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, đồng thời bằng cơ chế, chính sách và luật pháp tập trung dần ruộng đất có điều kiện cho các hộ gia đình có khả năng sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn nhưng cần ít vốn và hướng vào xuất khẩu như xí nghiệp nhỏ ở nông thôn và công nghiệp gia đình, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao... 5.3.Đối với lao động nữ. Để tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động nữ trong cơ chế thị trường, vấn đề then chốt và cơ bản nhất là phải bằng mọi biện pháp tăng sức cạnh tranh của lao động nữ trên thị trường lao động, để lao đông nữ có nhiều cơ hội trong tìm kiếm việc làm có thu nhập đảm bảo cuộc sống bản thân và gia đình. Muốn vậy cần lưu ý đến các vấn đề: -Có chính sách đào tạo, dạy nghề và di chuyển nghề cho lao động nữ phù hợp với cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi. -Khuyến khích chủ doanh nghiệp tăng cường sử dụng lao động nữ bằng các chính sách cụ thể. -Ưu tiên các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực hoạt động phù hợp với lao đông nữ ( may mặc, phi kết cấu...). -Đảm bảo trên thực tế quyền bình đẳng của lao động nữ thuộc mọi thành phần kinh tế, trong các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và ở các khu vực. Kết luận chung Qua những phân tích ở trên có thể thấy lao động và việc làm đang là một vấn đề xã hội hết sức rộnglớn, muốn giải quyết thì nó đòi hỏi phải có sự quan tâm của toàn xã hội bên cạnh sự quyết tâm cao nhất của Nhà nước. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội để chúng ta có thể thể hiện được sự khéo léo trong việc quản lý xã hội, tạo đà cho sự phát triển mới trong tương lai. Trong giai đoạn 2001-2005, giải quyết được vấn đề lao động và việc làm sẽ là một thành công lớn để tạo cơ sở cho việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005. Tài liệu tham khảo 1) Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng 2) Tạp chí “thị trường lao động” số 1,2,3 năm 2000 3) Tạp chí “nghiên cứu lý luận” 6/2000 4) Tạp chí “lao động và xã hội” 5,6/1998, 11/1999, 9/2000 5) Tạp chí “nghiên cứu kinh tế” 12/1999, 1/2000 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29351.doc
Tài liệu liên quan