Lời nói đầu
Một nề kinh tế phát triển nhanh. Mạnh và bền vững không thể không xây dựng một nề kinh tế có các ngành kinh tế hợp lý, hiệu quả. Đặc biệt đối với một nước đang phát triển, đi lên từ một nước nghèo như Việt Nam, lại đối diện với bao áp lực phát triển nặng nề (phải đạt được tốc độ cao, lâu bền, giải quyết được các vấn đề xã hội… ), vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế trên phương diện ngành hiện đang là đòi hỏi hết sức cấp bách.
Đại dội lần VII, VIII và IX của Đảng đã khẳng định: chuyển d
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001 - 2005 ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịch cơ cấu kinh tế là cần thiết, nó rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, chuyển dịch phải theo xu hướng công ngiệp hoá và hiện đại hoá phù hợp với yêu cầu và bước đi trong tiến trình hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới. Mục tiêu phấn đấu đến 2005 ở nước ta cơ cấu GDP theo ngành là: tỉ trọng ngành nông nghiệp từ 20 – 21%, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 – 39%, tỉ trọng các ngành dịch vụ khoảng 41 – 42%. Để đạt được mục tiêu đề ra, góp phần thực hiện chủ chương lớn của Đảng và nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, mỗi nhóm ngành phải đạt được tốc độ tăng trưởng: nông nghiệp khoảng 4,3%, công nghiệp khoảng 10,8% và dịch vụ là 6,2%, tăng trưởng GDP là 7,5% trong những năm qua cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, mang tính tự phát, chưa thật sự chủ động, còn bấp bênh rủi ro, hiệu quả sản xuất thấp dẫn đến không đạt được kế hoạch tăng trưởng đề ra. Nó là vấn đề bức súc nhất hiện nay, đang là vấn đề trung tâm của các cuộc nghiên cứu thảo luận của quốc hội và chính phủ.
Nằm trong vòng xoáy của sự phát triển kinh tế thế giới, với nhiều biến đổi hết sức phức tạp, chịu nhiều yếu tố tác động, sự biến động ngày càng trở lên khó lường cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam cần được chú trọng hơn, chủ động, linh hoạt và phù hợp hơn với những biến động của khu vực và thế giới. Để có thể hiểu rõ hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, em chọn đề án: “kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001 – 2005 ở việt nam và các giải pháp thực hiện” để nghiên cứu.
Đây là một vấn đề rộng và phức tạp, để hoàn thành đề án này em xin chân thành cảm ơn PGS,TS ngô thắng lợi đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu. Mặc dù đã cố gắng hết sức trong quá trình nghiên cứu, nhưng do trình độ, kinh nghiệm còn hạn chế và thời gian nghiên cứu ngắn nên chưa thực sự hiểu sâu sắc về vấn đề bởi vậy không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Mong được sự góp ý của các thầy các cô và bạn bè để em có thể hiểu sâu sắc hơn về vấn đề.
Hà nội ngày 20 tháng 11 năm 2004
ChươngI
Một số vấn đề lý luận về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và kinh nghiệm các nước trên thế giới
I. Cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1, Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế
Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm ”cơ cấu”. Là một phạm trù triết học khái niệm cơ cấu thường được sử dụng biểu thị cấu trúc bên trong, tỉ lệ và quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Có cấu được biểu hiện như là những mối liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là một thuộc tính của hệ thống. Do đó, nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng trong những không gian và điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao ngồm nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, được thể hiện về cả mặt định tính lẫn mặt định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác dinh của nền kinh tế.
Nhìn trung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất chủ yếu của cơ cấu kinh tế. Đó là các vấn đề:
tổng thể các nhóm ngành và các yếu tố cơ cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia.
Số lượng và tỉ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố… hướng vào các mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù chìu tượng; muốn nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách co hiểu quả cần xem xet từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu của gành kinh tế
Cơ cấu của ngành kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định gữa chúng.
Các chỉ tiêu đánh giá:
Loại chỉ tiêu đinh lượng thứ nhất: tỉ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế.
Chỉ tiêu định lượng thứ hai: có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại gia các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng cân đối lên ngành (của hệ số MPS) hay bảng Vào - Ra (I/O), (của hệ SAN)
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân cong lao động xã hội chung cho nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo ba nhóm ngành (khu vực).
+ nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông - lâm - ngư ngiệp.
+ nhóm ngành ông nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng
+ nhóm ngành dịch vụ: bao gồm các ngành thương mại, bưu điện, du lịch…
Trong công nghiệp cần chú ý đến các hệ số liên hệ phía ”thượng nguồn” và các hệ số liên hệ phía “hạ nguồn”.
* Các ngành công nghiệp ” thượng nguồn” là những ngành công nghiệp tạo ra nguyên liệu và sản phẩm trung gian, đòi hỏi vốn đầu tư cao và công nghệ cơ bản, công nghệ cao.
* Các ngành công nghiệp “hạ nguồn” là những ngành công nghiệp sản xuất ra sản phẩm cuối cùng cho tiêu dùng, thường đòi hỏi vốn đâuf tư ít, sử dụng nhiều lao động, có thể có quy mô sản xuất vừa và nhỏ.
Những ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn nêu trên có mối quan hệ dọc rất chặt chẽ, trong một chuyên ngành nhất định có thể có những hình thức tổ chức khép kín từ công nghiệp thượng nguồn đến hạ nguồn của quốc gia hay theo sự phâqn công lao động quôc tế (theo thương mại hay hợp đồng gia công) giữa các quốc gia.
Cơ cấu lãnh thổ
Nếu cơ cấu kinh tế hình thành từ sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý.
Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu địa lý thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và đều là sự biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu hướng phát triển kinh tế lãnh thổ thương là phát triển nhiều mặt tổng hợp có ưu tiên vài ngành và ngắn liền với sự hình thành phân bổ dân cư phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phù hợp với đặc điểm tự nhien ngành kinh tế xã hội, phong tục tập quán, ngành truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.
Cơ cấu thành phần kinh tế.
Nếu như phân công lao động xã hội là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lương sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội… theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế.
Ba bộ phận cơ vạn hợp thành cơ cấu kinh tế là có cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi cả nước. mặt khác việc phân bố lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đảy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.
2, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1. khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình cơ cấu kinh tế từ dạng này sang dạng khác phù hợp với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất và các nhu cầu kinh tế – xã hội của đất nước.
2.2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ câu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn biết đổi cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế. Mỗi thời kỳ với những điều kiện cụ thể các ngành kinh tế tăng trưởng với tốc độ khác nhau dẫn đến cơ cấu ngành thay đổi. Các điều kiện này vừ có điều kiện tích cực và tiêu cực tác động đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần chủ động chuyển dịch cơ cấu ngành, phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn do điều kiện hiện tại đặt ra để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững là vấn đề đặt ra đối với tất cả các quóc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển.
3- Những lý luận cơ bản và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
3.1- những yếu tố cơ bản liên quan đến xu hướng phát triển kinh tế của đất nước
Quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel.
Ngay từ đầu thế kỷ 19. Nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy rằng khi thu nhập của gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực phẩm giảm đi. Do đó chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật của E.Engel được phát hiện cho tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và viẹc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là.
Khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập.
Như vậy quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển.
Vai trò của khoa học và công nghệ trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
Khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế trí thức. Sự phát triển của khoa học và công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc đọ phát triển của các ngành mà còn làm phân công lao động xã hội trở nên sâu sắc và đưa đến phân chia các ngành thành nhiều ngành nhỏ hơn. Xuất hiện nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó làm thay đổi cơ cấu vị trí giữa các ngành, hay thúc đẩy các ngành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng:
+ Các ngành sản xuất vật chất (nông nghiệp, công nghiệp) đều tăng lên về sản lượng tuyệt đối, nhưng về tỉ trọng GDP so với các ngành sản xuất phi vật chất (dịc vụ) lại giảm tương đối:
Xu thế kinh tế thế giới.
*Xu thế hoà bình hợp tác.
Nhìn tổng quát, có thể dự báo xu thế hoà bình hợp tác phát triển trên thế giới và khu vực tiếp tục gia tăng đi đôi với những cọ sát đấu tranh, cạnh tranh ngày càng gay gắt có thể có những bùng nổ khó lường. Các nước lớn, các trung tâm phát triển lớn đang và sẽ giằng co, tranh giành ảnh hưởng, lấn át kinh tế với các nước khác. Bên cạnh đó, tỷình đọ phát triển ngày càng cao lực lượng sản xuất cũng như kinh tế nói chung của thế giới đã tạo ra những cơ hội hợp tác hội nhập để khai thác các nguồn lực quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển quốc gia. Mỗi nước có trình độ phát triển khác nhau đều tìm thấy lợi thế của mình qua các quan hệ kinh tế, quốc tế và có thể tham gia hợp tác phát triển dưới nhiều hình thức.
* Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ.
Trong thế kỷ XXI với dự báo của cách mạng khoa học và công nghệ sẽ có những nhảy vọt và khó lường, yêu cầu mới và cũng có thể là khả năng mới trong điều kiện nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước phải triển khai theo tư duy mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việt Nam có những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và dồi dào về nguồn nhân lực, nếu được phát huy sẽ là nhân tố tích cực để tiếp nhận khoa học và công nghệ gay dựng năng lực nội sinh.
* Toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Là xu thế khách quan ngày càng tác động mạnh, thậm chí chi phối phát triển kinh tế của các nước. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần thấy hết mặt tích cực, thuận lơi, cả mặt tiêu cực, khó khăn, thách thức và có chiến lược thich ứng và lợi dụng quá trình này có hiệu quả nhất.
Dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến các nước đang phát triển: Từ những năm đầu của thạp kỷ 90, toàn cầu hoá và khu vực hoá đã tạo điều kiện cho các dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Nguồn vớn này tăng liên tục qua các năm, tuy có suy giảm do tác đọng của khủng hoảng kinh tế năm 1997.
Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi (ODA) đến các nước đang phát triển đang có xu hướng giảm dần .
Quốc tế hoá thương mại vốn và sản xuất. Bốn mươi năm qua kim ngạch thương mại hàng hoá của toàn thế giới đã tăng 6% năm trong khi đó sản xuất hàng hoá chỉ tăng3,7% . Mức độ mở cửa của các nước tăng. Sau thương mại vốn đầu tư cũng đã nhanh chóng được quốc tế hoá. Cạnh tranh thương mại và thu hút đầu tư trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
3.2 Các lý thuyết phát triển.
Với tư cách là loại lý thuyết chủ yếu nghien cứu các con đường hay các mô hình phát triển kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang nỗ lực tiến hành công nghiệp hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hay gián tiếp đều bàn tới một trong những nội dung cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành. Song do bản thân thế giới chậm phát triển bao ngồm nhiều quốc gia với các đặc điểm đặc thù khác nhau, do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác nhau nên giải quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hoá của các lọi lý thuyết phát triển cũng rấtkhác nhau. Có thể thấy điều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau.
a, Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế.
Tư tưởng có bản của người chủ xướng lý thuyết này Walt Rostow cho rằng, quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đề trải qua năm giai đoạn tuần tự như sau:
1. Xã hội chuyền thống: với đặc trưng là nông nghiệp dữ vai trò thống trị trong đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém sinh hoạt.
2. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng và trong xã hội đã xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới kết cấu hạ tầng sản xuất, nhất là giao thông đã phát triển. Bát đầu hình thành những khu vực đầu tầu có tác động lôi kéo nền kinh tế phát triển.
3. Giai đoạ cất cánh: Với những dấu hiệu quan trọng như tỷ lệ đầu so với thu nhập quốc dân đạt tới mức 10%, suất hiện trong những ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hội, thuận lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đại và kinh tế đối ngoại.
4. Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế: là giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên thu nhập quốc dân đạt mức cao (từ 10 – 20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới.
5. giai đoạn tiêu dùng cao: là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất đa dạng hoá, thị ơ ường linh hoạt và có hiện tương suy dảm nhịp độ tăng trưởng.
Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này hầu hết các nước đang phát triển đang tiến hành công ngiệp hoá hiện nay nằm ở giai đoạn 2 và 3, theo mức độ phát triển của từng nước. ngoài những dấu hiệu kinh tế xã hội khác về mặt cơ cấu phải bắt đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua những giai đoạ phát triển cụ thể.
Do tiếp cận vấn đề góc đọ khái quát lịch sử của nhiều nước, lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế không mô tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nước đang phát triển hiện nay.
b- Lý thuyết nhị nghuyên của A. Lewir
lý thuyết nhị nguyên do A. Lewir (giải thưởng Nobel năm 1979) khởi xướng tiếp cận vấn đề từ đời sông kinh tế của các nước đang phát triển. Ông đã có những diễn giải khá cụ thể về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá hiên nay. Lý thuyết nhin nguyên cho rẳng ở các nền kinh tế này có 2 khu vực kinh tế song song tồn tại; khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại, du nhập từ bên ngoài. khu vực truyền thống có đặc điểm là trì trệ, năng suât lao động thấp và dư thừa lao động. Vì thế có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang khu vực công nghiệp hiện đại mà không ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp. Do có năgn suát cao nên khu vực công nghiệp hiện đại có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một cách đọc lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận đương nhiên được rút ra từ những nhận định này là để thúc đẩy phát triển kinh tế của những nươc chậm phát triển, cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan tâm đến khu vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất nông nghiệp xã hội từ trạng thái nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Phải nói răng những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây nhiều án tượng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển, đang mong muốn đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá. Trên thực tế, chính sách công nghiệp hoá và cơ cấu nền kinh tế ở nhiều quốc gia chậm phát triển từ chiến tranh thế giới thứ 2 đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hươcngr của lý thuyết này.
Lý thuyết kinh tế nhị nguyên còn được nhiều nhà kinh tế (J.Fri, G.Rani, Haris, Todaro…) tiếp tục nghiên cứu và phân tích, luận điểm phát triển của họ là khả năng phát triển và thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiện đại. Khu vực này có nhiều klhả năng lực chọn kỹ thuật, trong đó có những loại ky thuật có hệ số sử dụng kỹ thuật cao, nên về nguyên tắc có thể thu hút được lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp truyền thống. Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là do sự chênh lệch về mức thu nhập của lao động từ 2 khu vực kinh tế trên quyết định. Có nghĩa là khu vực công nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp trong trường hợp đang có nạn nhân mãn khi có mức lương cao hơn mức thu nhập khi họ còn ở nông thôn. nhưng khả năng duy trì sự chênh lệch này sẽ cạn dần cho đến khi nguồn lao động ở nông thôn không còn nữa. Đến lúc đó việc tiếp tục di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm cho sản lượng nông nghiệp giảm đi. khiến cho giá cả hàng hoá nông phẩm tieu dùng tăng lên kéo theo mức tăng lương tương ứng trong khu vực sản xuất nông nghiệp. Chính sự tăng lương của khu vực sản xuất công nghiệp sẽ đặt ra thời hạn về (mức cầu) tăng thêm về lao động của bản thân nó. Như vậy mặc dù về mặt kỹ thuật, công nghệ khu vực công nghiệp hiện đại có thể có khả năng thu dụng không hạn chế nhân lực, nhưng về mặt thu nhập và đọ co giãn cung cầu nhân lực của 2 khu vực thì sức thu nạp lao động từ khu vực nông nghiệp của công nghiệp là có hạn .
Một hướng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn ra khu công nghiệp thành thị. quá trình chuyển dịch lao động chỉ trôi chảy khi “tổng cung” về lao động từ nông nghiệp phù hợp với “tổng cầu” ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển này không chỉ phụ thuộc vào sự chênh lệch thu nhập mà còn phụ thuộc vào sản xuất tim được việc làm đối với những người lao động nông nghiệp khi đưa thêm yếu tố “sản xuất tìm được việc làm” vào phân tích, người ta thấy xuất hiện các tình huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giữa hai khu vực như sau:
Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: về việc này so với nền công nghiệp của các nước phát triển, khu vực gọi là “công nghiệp hiện đại” ở các nước chậm phát triển yếu kém hơm rất nhiều. Vì vậy để có khả năng cạnh tranh với nền công nghiệp nước ngoài khác vừa làm đầu tàu lôi kéo sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công nghiệp phải hướng tới những ngành kỹ thuậ cao. Nhưng những ngành này cần tăng hàm lượng vốn đầu tư hơn là tăng hàm lượng lao động. Vì thế, khu vực “công nghiệp hiện đại” ở các nước chậm phát triển cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề dư thừa lao động chứ không riêng gì khu vực nông nghiệp.
Khả năng đáp ứng về nhu cầu kỹ thuật của người lao động nông nghiệp khi chuyển sang lĩnh vự công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là lao động nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị, thậm chí chưa quen với môi trường lao động công nghiệp, việc đào tạo lao động công nghiệp kỹ năng cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà phải có đầu tưlớn đến mức người ta xem nhu một trong những lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất đối với một nền kinh tế. Với những phân tích trên, người ta thấy răng sản xuất tìm được việc làm mới ở khu vực công nghiệp đối với người nông dân dời bỏ ruộng đồng là có giới hạn.
Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai khu vực sản xuất vật chất quan trọng nhất là các nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập trung vào phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ ra những giới hạn của chúng và vì thế cần quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế này.
4.3 Các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới
a Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng nội
Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của chính phủ trong quản lý kinh tế, bảo đảm và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuát truyền thống của dân tộc, nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng nội.
Mô hình hướng nội là chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế co xu hướng nội, có chiến lược đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theo hướng sản xuất cho thị trường trong nước, nhấm mạnh việc thay thế nhập khẩu, tự túc về lương thực, có thể cả các mặt hàng phi mậu dịch.
Ban đầu chính phủ các nước đang phát triển nhiều khi cũng lựa chọn các chính sách chuyển dịch cơ cấu nhằm thúc đảy tự lực quốc gia, đặcbiệt là tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản và khoáng sản mà chúng không được nhập khẩu. Các biểu thuế nhập khẩu hoăc các quoto nhập khẩu lương thực được thực hiện, đồng thời chính phủ cũng đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu nhằm nâng cao nguồn thu, và làm giảm sức thu hút của mình của nền kinh tế định hương xuất khẩu tương đối so với nền nông nghiệp hướng nội.
Chính sách trên đã đem tới sự mở rộng cho các ngành công nhgiệp nhỏ với sự trợ cấp thích hợp và dần dần khuyến khích nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chung, họ còn có thể thưch hiện sự hỗ trợ có lựa chọn cho nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có tên là nền công nghiệp trẻ.
Chiến lược đóng cửa là thực hiện công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu núp sau bức tường bảo hộ mậu dịch. Do vậy ít tạo ra sức ép về cạnh tranh hơn, làm cho cơ cấu ít nhạy bén hơn, đông cứng hơn ngoài ra chiến lược dựa trên cơ sở bảo hộ mậu dịch và thay thế nhập khẩu co xu hướng kèm theo sự hối lộ và độc đoán, gây trì trệ cho quá trình phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng.
b Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng ngoại
Mô hình hướng ngoại là mô hình với chính sách chuyển dịch cơ cấu đưa nền kinh tế phát triển theo hướng mở cửa nhiều hơn, có thể thúc đảy thương mại và các luồng tư bản đổ vào, khuyến khích lợi nhuận cho việc sản xuất trong nước hay thị trương ngoài nước, tạo ra khả năng sinh lãi coa hơn trong việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu.
Có hai hình thức chiến lựơc kinh tế mở cửa đó là:
Thứ nhát, tạo khuýên khích về giá cả một cách trực tiếp cho xuất khẩu (chẳng hạn thông qua trợ cấp xuất khẩu).
Thứ hai, tạo ra sự trung lập thích hợp về gí cả giữa sản xuất trong nước và thị trương ngoài nước. Tức là chuyển các khuyến khích theo hướng có lợi cho sự mở của.
Đặc điểm của các chính sách hướng ngoại ban đầu ở nhiều nước đang phát triển là hướng vàu xuất khẩu vừa phải để tăng nguồn thu cho chính phủ, nhằm nâng cao cơ sở hạ tầng để hàng hoá hỗ trợ cho xuất khẩu. Mô hình này được thực hiện với các chính sách thương mại thiên về ủng hộ thay thế nhập khẩu, tạo ra một biểu thuế nhập khâu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần tới sự bảo hộ mạnh mẽ.
Sau khi hoàn thành những giai đoạn ban đầu của việc thay thế nhập khẩu, các nước đang phát triển thường chuyển sang các chính sách đối ngoại đối với các ngành chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến việc cung cấp các đầu vào cho nhà xuất khẩu trong khi cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đầy đủ. Tài quản lý của chính phủ ở đây là sự lựa chọn sáng suốt sự thay thế nhập khẩu có hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu. Xây dựng một chính sách thương mại quốc tế cho phù hợip với nền kinh tế đang phát triển, nhằm phục vụ tốt nhất các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia.
Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hướng ngoại rất có ý nghiã đối với thuế quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý vĩ mô trong nước. Vấn đê mở cửa có liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu hoặc tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán. Việc quyết định hướng ngoại cho dù ở mức độ nào thì cũng có những tác động quan trọng đến các mặt của đời sống kinh tế. Nó sẽ ảnh hưởng đến việc phân bố sản xuất giữa các mặt hàng trao đổi được xuất khẩu hoặc nhập khẩu; tăng cường sử dung nguồn lực và tới sự phân công thu nhập thông qua tác động đối với thị trường nhân tố sản xuát và thị trường sản phẩm; tới cơ cấu và tốc độ công nghiệp hoá; tới việc phân bổ đất đai và các nguồn lực khác giữa cây lương thực và cây phục vụ xuất khẩu..v.v…
Ưu điểm của sự mở cửa là nó thúc đảy quá trình đổi mới và tăng năng xuất lao động nhanh, tạo ra khả năng thích nghi của nền kinh tế; tác động tốt đến quá trình phát triển dài hạn, có tác dụng tốt đối với sự tăng trương của GDP.
Tuy nhiên, chiến lược kinh tế mở cửa sẽ mang lại cho chính phủ nước đó ít có khả năng hành động theo ý minh hơn; có tác dụng xấu đến công nghiệp trong nước do dựa vào tư liệu sản xuất và công nghệ nhập khẩu, đặc biệt đối với các nước nhỏ có thu nhập thấp mà nền kinh tế của họ ở vào vị thế không thuận lợi. Việc thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thấp ở giai đoạn đầu có thể đem lại ảnh hưởng xấu là tăng giá cả tiêu dùng và một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu. Ngoài ra, khi các điều kiện quốc tế trở nên không thuận lợi thì rủi ro có thể xảy ra, đem lại không ít hậu quả xấu cho nền kinh tế - xã hội trong nước.
c. Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hỗn hợp
Mô hình hướng về xuất khẩu lấy thị trương nước ngoài làm trọng tâm phát triển công nghiệp. Điều đó mang lại lợi ích thiết thực, song cũng đòi hỏi những điều kiện rất khắt khe, mà trước hết các sản phẩm xuất khẩu phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đó là điều các nước đang phát triển không dễ thực hiện trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Mặt khác, việc thực hiện về thị trường quốc tế đôi khi dẫn tới bỏ trống thị trường nội địa cho hàng hoá nước ngoài xâm nhập.
Đê khắc phục những tình trạng trên đây, người ta chuyển sang thực hiện mô hình hỗn hợp. Mô hình này được xây dựng trên cơ sở kết hợp các yếu tố của mô hình hướng nội (coi trọng thị trưòng rtong ước, phát triển sản xuất các sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả thay thế nhập khẩu) và các yếu tố của mô hình hướng ngoại (phát huy lợi thế so sánh để đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, lấy yêu cầu của thị trường quốc tế làm hướng phấn đấu phát triển sản xuất trong nước). Sự hình thanh mô hình này là sự điều chỉnh trọng tâm thị trường phát triển sản xuất của mô hình hướng nội và mô hình hướng ngoại. Trong sự kết hợp ấy, người ta vẫn ưu tiên nhiều hơn cho hướng ngoại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đị hoá ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác định rõ quan điểm “xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”.
Lý luận về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1, Khái niệm và nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
a, Khái niệm kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đó chính là sự can thiệp có ý thức của chính phủ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, nó thể hiện việc xác định các định hướng chuyển hướng mục tiêu cơ cấu ngành và các giải pháp chính sách cần thiết nhằm hướng chuyển dịch co cấu theo xu hướng hợp lý và có hiệu quả.
b, Nhiệm vụ kế hoạch chuyển dích cơ cấu ngành kinh tế
Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là mang tính quy luật, nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các nước. trong công tác kế hoạch nhữn vấn đề thường phải đặt ra như ưu tiên cho nông nghiệp đến mức nào đó so với công nghiệp trong thời kỳ đầu phát triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua từng thời kỳ. Do đó nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu là:
Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề về kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước.
Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng quan hệ tỉ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo s._.ự phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể.
Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao độngđảm bảo được cơ cấu đầu ra theo hướng đã xác định.
Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2, Nội dung của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
a, Xác định cơ cấu ngành kinh tế
Để xác định cơ cấu ngành trong thời kỳ kế hoạch, phương hướng được sử dụng phổ biến là dựa vào mô hình Vào – Ra. Mô hình này nghiên cứu những mối quan hệ tỉ lệ cân đối đặc trưng cho việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ gữa khối lượng sản phẩm và chi phí sản xuất ra những sản phẩm này.
Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa vào kế hoạch về sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực tiếp phù hợp với trình độ ký thuật củat từng ngành.
b, các yếu tố tác động đến cơ cấu ngành
Sự hình thành cơ cấu ngành thực chất là kết quả của việc phân phối các yếu tố đầu vào và các cách thức tổ chức sản xuất. Nói chung, trong mỗi ngành càng có nhiều vốn, nhiều lao động, kỹ thuật càng tiên tiến, tổ chức sản xuất càng khoa học thì năng lực sản xuất càng tăng. Do vậy, cơ cấu ngành kinh tế là mô hình phân bố các yếu tố sản xuất các ngành. Nó vừa là sự phân phối tài nguyên, lao động, vừa là sự phân phối máy móc, thiết bị, các yếu tố không gian và kỹ thuật. Trong mô hình I/O, hệ số chi phí trực tiếp phản ánh hao phí sản phẩm cần thiết của một ngành để trực tiếp sản xuất ra một sản phẩm. Trong thời kỳ kế hoạch, hệ số này phụ thuộc trình độ công nghệ của sản xuất, cho nên cũng được gọi là hệ số kỹ thuật. Để xem xét tác động của hệ số kỹ thuật đối với cơ cấu ngành chúng ta giả định rằng cơ cấu các yếu tố trung gian đầu vào không thay đổi. Trong điều kiện đó, nếu tình hình kỹ thuật của các ngành công nghiệp không thay đổi, hoặc thay đổi theo cùng một hướng, cùng với một tỷ lệ tốc độ thì hệ số hiệu xuấ đầu ra của các yếu tố đầu vào giữa các ngành cũng không thay đổi, do đó, có cấu năng lực sản xuất đầu ra cũng không thay đổi. Nếu kỹ thuật của một số ngành thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn như cũ, huặc tốc độ thay đổi cảu các ngành không giống nhau thì hệ số hiệu xuất đầu ra của các ngành sẽ thay đổi làm cho năng lực sản xuất của các ngành cũng thay đổi. Xét trong thời kỳ ngắn hạn, có thể có trường hợp thứ nhất, nhưng trong dài hạn thì chỉ có thể xảy ra trường hợp sau:
Như vậy tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành. Thực tế cho thấy sự tác động cuả tiến bộ kỹ thuật đến cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy ngành mới ra đời. Tiến bộ kỹ thuật làm nâng cao năng xuất lao động, tác động đến cơ cấu lao độngvà tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu thay đổi cơ cấu tài sản cố định và tỉ lệ các yếu tố trung gian đầu vào thì năng lực sản xuất của các ngành cũng thay đổi. Vì trong trường hợp trình độ kỹ thuật không thay đổi, năng lực sản xuất của tài sản gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này cũng sẽ tăng sản phẩm đầu ra. Sự thay đổi cơ cấu tài sản cố định và các yếu tố trung gian đầu vào chính là kết quả của sự thay đổi cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Do đó, có thể nói cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết định đối với cơ cấu ngành.
III. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành ở một số nước trên thế giới
1, Malaysia
Là một nước dành độc lập năm 1957, Malaysia bắt đầu bằng một nề kinh tế (từ chỗ phụ thuộc Anh quốc) trong đó có hai mặt hàng chiếm ưu thế là thiếc và cao su. Liên tiếp từ đó nền kinh tế của Malaysia liên tục thực hiện chính sách đa dạng hoá rộng rãi các hàng hoá sản xuất và đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình từ 7% - 8% hàng năm. Sản lượng GNP bình quân theo đầu người là 2000USD năm 1984. Danh mục các mặt hàng xuất khẩu có thêm dầu cọ sát, gỗ, cacao và hạt tiêu. Không những thế Malaysia còn là nước sản xuất đứng đầu thế giới về cao su và thiếc, dầu cọ và gỗ nhiệt đới và là nước có khối lượng xuất khẩu lớn về dầu mỏ và khí tự nhiên hoá lỏng.
Bằng những chính sách thiết thực nhămg thu hút vốn đầu tư nước ngoài và ngành công nghiệp, số lượng hàng hoá xuất khẩu tăng nhanh, nhất là các linh kiện điện dử, hàng tiên dùng đồ điện, sản phẩm dệt và các hàng công nghiệp khác, góp phần đáng kể tăng trưởng kinh tế.
Sau những năm 1981- 1982 (suy thoái kinh tế trên khắp thế giới), các mặt hành xuất khẩu truyền thống của Malaysia bị giảm giá, giảm thu nhập và đầu tư. Nhà nước Malaysia đã tìm cách kích thích nền kinh tế và đẩy mạnh tăng trưởng công nghiệp bằng việc đầu tư vào một số cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng. Chỉ tiêu chính phủ tăng bằng cách đi vay mượn nước ngoài để mua cổ phần của các công ty nước ngoài với mục đích có điều kiện kiểm soát các công ty lớn của nước ngoài. do vậy mà nợ nước ngoài của Malaysia đến năm 1984 đã tăng tới 15 tỷ USD. Năm 1985 – 1986, do ảnh hưởng của giá dầu mỏ và dầu cọ trên thế giới giảm nhanh, sản lượng GNP theo đầu người giảm xuống còn 160 USD bình quân đầu người, thâm hụt lới cho ngân sách nhà nước. Chính phủ đã phải thay đổi một số chính sách như bãi bỏ một số mục tiêu và chi tiêu và tăng trưởng trong kế hoạch lần thứ 5 (1986- 1990), chú trọng hơn về khu vực tư nhân, tư nhân hoá một số công ty quốc doanh và của chính phủ; công ty vận tải biển quốc gia và hàng không quốc gia được bán một phần cho các nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán.
Nền kinh tế Malaysia bắt đầu phục hồi từ năm 1987 lên tục đến năm 1989 nhờ sự cải thiện về giá cả hàng hoá vaf răng trương trong sản xuất công nghiệp. GDP thực tế tăng 4,7% năm 1987, 9,5% năm 1988 và 7,7% năm 1989. Hàng xuất khẩu chiếm hơn ắ tăng trưởng, dẫn tới cán cân thanh toán dư thừa, đầu tư nước ngoài tăng lên, nợ nước ngoài giảm. Vốn là nước có nguồn lực đất đai dồi dào, lực lượng lao động có học vấn tốt và môi trường chính trị ổn định, tiết kiệm trong nước mạnh tạo đủ vốn cho đầu tư, ngoài ra với chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khả năng tăng trưởng của Malaysia là có triển vọng tiếp tục và thịnh vượng. Tuy nhiên, chính phủ Malyasia vẫn luôn phải có những chính sách phù hợp để đề phòng những tổn thương do biến động từ bên ngoài.
2, Đài loan.
Giai đoạn thứ nhất (1953- 1964). Giai đoạn này tương ứng với ba kế hoạch bốn măn phát triển kinh tế của Đài Loan: 1953 – 1956, 1957 – 1960, 1961 – 1964.
Mục tiêu chiến lược của Đài Loan giai đoạn này là phát triển công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân như ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, giải trí… do vậy đối với công nghiệp choá (CNH) ở giai đoạn này thay thế nhập khẩu được coi là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong giai đoạn này, Đài Loan một mặt chủ trương phát triển các ngành sản xuất trong nước nhằm thay thế những sản phẩm phải nhập khẩu trước đây; mặt khác, đưa ra một loạt các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tự sản xuất được. Chính quyền Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ công nghệ nội địa như miễn giảm thuế kinh doanh, cho vay với lãi suất và các khoản trợ cấp khác.
Chiến lược CNH thay thế nhập khẩu với các biện pháp tích cực đã đem lại cho Đài Loan một số kết quả nhất định. Công nghiệp được mở rộng đã thu hút thêm một lượng lao động lớn, từ 17% trong toàn bộ lao động đang làm việc năm 1951 tăng lên 25% năm 1964. Bước ngoặt đánh dấu sự phát triển của công nghiệp Đài Loan là giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1956 đã bắt đầu vượt giá trị sản xuất nông nghiệp trong GDP.
Tuy nhiên, chiến lược CNH thay thế nhập khẩu kể từ đầu thập niên 60 cũng đã bộc lộ những mặt hạn chế của nó. Sản phẩm công nghiệp của Đài Loan không có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, cong lại thị trương trong nước sức mua của người dân rất hạn chế do thu nhập còn thấp. Trong khi đó, việc nhập khẩu các nguyên liệu, thiết bị cần thiết cho công nghiệp hoá vẫn tiếp tục tăng lên khiến thâm hụt mậu dịch, thâm hụt ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp bắt đầu giảm vào đầu thập kỷ 60, từ 20% năm 1955 xuống chỉ còn 9,8 % năm 1961. riêng tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến – một thế mạnh của dự kiếna trong thập kỷ 50 cũng giảm từ 14,4% năm 1960 xuống còn 8,1% năm 1962. để thoát khỏi tình thế bất lợi này và tìm kiếm con đương phát triển cho Đài Loan, chính phủ và các nhà kinh tế, giới kinh doanh của hòn đảo này đã chuyển chiến lược CNH thay thế nhập khẩu sang CNH theo hướng xuất khẩu.
Giai đoạn 2 (1964 - 1973). Triển khai CNH hướng về xuất khẩu Đài Loan đã thực hiện một bước thay đổi căn bản về chiến lược phát triển, về quy chế và quản lý kinh tế, thông qua một loạt cải cách quan trong như áp dụng một chế độ một tỷ giá hối đoái. Thứ 2, chính phủ Đài Loan áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất theo hướng xuất khẩu. Thứ 3, ngoài các nỗ lực huy động nguồn lực bên trong Đài Loan còn ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài.
Với phương châm đề ra trong giai đoạn này là “xuất khẩu để nhập khẩu”, “nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu”, cả công nghiệp nhẹ và công nghiệp năng của Đài Loan ở giai đoạn này đã có bước phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 41,3% trong khi nông nghiệp đã giảm tương đối, chỉ còn 15,5%. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh của Đài Loan. GDP của Đài Loan giai đoạn này luôn luôn tăng trung bình là 10,1% năm.
Giai đoạn 3 (1974 - 1990). Giai đoạn này Đài Loan tiếp tục công cuộc CNH song có bước điều chỉnh quan trọng về cơ cấu ngành nghề, trong đó có ưu tiên hàng đầu là tập trung phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng vốn và công nghệ cao, tuy vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công nghiệp nhẹ hướng ra xuất khẩu.
Chương ii
Thực trạng kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở việt nam thời kỳ 2001 – 2005
I. Những phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001 – 2005
1, phương hướng chung
Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu
Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ phát triển kinh tế binh quân hàng năm 7,5% đến năm 2005.
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư ngiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông lâm, ngư nghiệp bình quân hàng năm 4,8%. Phát triển các ngành công nghiệpchú trọng hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc phòng. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp binh quân năm 13,0%.
Phát triển các ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, du lịch, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công nghệ, pháp lý…tốc độ tăng trưởng giá trị dịch vụ bình quân hàng năm 7,5%.
Đến năm 2005 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 38 – 39% trong GDP, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 20 – 21%, dịch vụ chiếm khoảng 41 – 42%
2, Phương hướng các ngành
2.1. ngành nông, lâm, ngư nghiệp
Mục tiêu
Phát triển nông nghiệp toàn diện hướng và đảm bảo an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cải thiện chất lượng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và phát triển nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở đảm bảo vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiêp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc gia, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái, tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Nhiệm vụ
Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng băng có năng xuất và hiệu quả lao động cao. Bố trí lại mùa vụ để chánh né thiên tai, chuyển sang các vụ có năng xuất cao hay sang các cây có hiệu quả cao hơn. Dự kiến năm 2005, sản lượng lương thực đạt trên 30 triệu tấn bình quân đầu người khoảng từ 360 – 370kg.
Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả kinh tế cao; trông cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Đến năm 2005 tỉ trọng cây công nghiệp chiếm khoảng 45% giá trị sản phẩm nganh chồng trọt.
Hình thành và phát triển các vùng chăn nuôi tập chung gắn với công nghiệp chế biến thực phẩm. Đổi mới hệ thống giống có năng xuất cao, chất lượng tốt thực hiện chương trình nạc hoá đàn lợn, cải tạo đàn bò, phát triển bò sữa, bò thịt bà thanh toán một số bệnh nhiệt đới. Phấn đấu đến năm 2005, đư tỉ trọng chăn nuôi trong giá trị sản phẩm nông nghiệp lên khoảng 30 – 35%.
Phat triên ngành nuôi trông thuỷ hải sản ở cả nước ngọt nươc lợ và nước mặn. Bảo vệ và khôi phục rừng ngập mặn. Chuyển một số ruộng trũng, thường bị úng lụt hoặcbịnhiễm mặn, năbng suât thấp sang nuôi trồng thuỷ sản. Đến năm 2005 diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 60 vạn ha.
2.2. Ngành công nghiệp
mục tiêu
Đổi mới công nghệ của phần lớn doanh nghiệp. Phát triển nhanh một số ngành có lợi thế, hình thành một số ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực chế biến lương thực , thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu.
Hình thành các khu công nghiệp tập trung(bao gồm cả khu chế suất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng cấp cải tạo cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế xây dựng cơ sở công nghiệp lẫn khu dân cư.
Nhiệm vụ
Phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời hướng mạnh về xuất khẩu, ưu tiên phát triển những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và có hiệu quả cao.
Kết hợp nhiều loại quy mô, nhiều trình độ công nghệ thích hợp, bảo đảm chế biến phần lớn nông lâm, thuỷ sản các vùng. Đầu tư chiều sâu mở rộng công suất Và đổi mới công nghệ các cơ sở hiện có, đồng thời xây dựng với một số cơ sở sản xuất với công nghệ hiện đại. Đưa công suất xay xát lên khoảng 15triệu tấn thóc vào năm 2005.
Đầu tư chiều sâu, mở rộng các nhà máy đường hiện có. Xây dựng mới một số nhà máy có quy mô vừa và nhỏ ở những vùng nguyên liệu nhỏ, xây dựng các nhà máy có thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại kể cả liên doanh với các nước ngoài. sản lượng đường năm 2005 khoảng 1triệu tấn.
Cho dân vay vố đầu tư để phát triển mạnh cà phê. Tăng công suất chế biến, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm cà phê.
Nâng cao công suất chế biến mủ cao su từ 20000 tấn hiện nay lên đến 70000 tấn/năm. Phát triển các ngành chế biến sản phẩm từ cao su.
Phát triển chế biến thịt, sữa, thuỷ hải sản, ngành rau quả, theo nhiều quy mô. cải tạo các cơ sở hiện có và xây dựng các cơ sở mới hiện đại, nhất là để phục vụ cho xuất khẩu.
Phát triển mạnh công nghiệp nhẹ, nhất là dệt may, giầy da, giấy, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đầu tư hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Chuyển dần việc nhận gia công dệt may, đồ da sang nguyên liệu, vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Khác phục sự lạc hậu của ngành sợi, dệt; phấn đấu đến năm 2005 sản xuất trên 800 tiệu mét vải, lụa gán với việc phát triển bông và tơ tằm. Đầu tư chiều sâu các nhà máy hiện có và xây dựng mới một số nhà máy gắn với sự phát triển vùng nguyên liệu để đưa sản lượng giấy năm 2005 lên trên 30 vạn tấn. Sản xuất đồ dùng kim khí, đồ dùng bằng nhựa, chất tẩy rửa, mỹ phẩm đủ cho nhu cầu trong nước và có phần xuất khẩu.
Tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí năm 2005 đạt khoảng 20 triệu tấn dầu quy đổi, trong đó khoảng 16 triệu tấn dầu thô và 4 tỉ mét khối khí. Xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng khí thiên nhên khí đồng hành. Hoàn thành 2 công trình đường ống dẫn khí sử dụng 4,5 – 5 ti m/ năm. xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 (6,5 triệu tấn/năm) chuẩn bị xây dựng nhà máy lọc dầu số 2 huặc mở rộng nhà máy lọc dầu số 1 và xây dựng nganh công nghiệp hoá dầu.
Tăng nhanh nguồn điện; hoàn thành xây dựng và xây dựng gối đàu một số cơ sở phát điện lớn để tăng thêm khoảng 3000MW công suất huy động trong 5 năm tới và gối đầu khoảng 1000MW công suất cho năm 2005. sản lượng điện vào năm 2005 khoảng 30 tỉ KWh. Xây dựng, cải tạo hệ thống các chạm biến áp và đương dây tải điện đồng bộ với nguồn. Có chính sách và biện pháp tích cực, hữu hiệu để sử dụng điện hợp lý, tiết kiệm.
Phát triển ngành than hướng vào tăng công suất hiện có bằng phục hồi, cải tạo, mở rộng một số mỏ. Duy trì công suất các mỏ đang khai thác. Năm 2005 đạt khoảng 10 triệu tấn than sạch.
Xây dựng và phát triển nhanh công nghệ điện tử và công nghệ thông tin, chon một số hướng đi sớm đi vào hiện đại phục vụ chế tạo máy và tự động hoá một số khâu có sản phẩm suất khẩu. Phát triển dịch vụ tin học, nhất là phần mềm nghiên cứu khoa học.
2.3. Ngành dịch vụ
Mục tiêu
Phát triện mạnh các loại dịch vụ, mở thêm những loại hình mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất kinh doanh và đời sống.
Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong dịch vụ. Dữ ổn đinh giá cả nhất là đối với mặt hàng và dịch vụ thiết yếu.
Nhiệm vụ
Phát triển thương ngiệp, bảo đảm lưu thông hàng hoá thông suốt, dễ dàng trong cả nước nhất là vùng nông thôn, vùng sâu và miền núi, chú trọng công tác tiếp thị trong và ngoài nước. trương nghiệp quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống, nắm bán buôn, chi phối bán lẻ.
Tăng cường quản lý thị trường, hướng dẫn các thành phần kinh tế trong thương nghiệp phát triển đúng hướng đúng chính sấch, pháp luật, cạnh tranh lành mạnh; chống chốn thuế, lậu thuế, lưu thông hàng giả.
Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước, sử lí kịp thời mọi diễn biến bất lợi của thị trường. Hoàn thiện hệ thống dự trữ quốc gia, dự trữ lưu thông.
Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường đến năm 2005 gấp 2,5 lần năm 2000 tăng bình quân hàng năm 20% (tính theo giá năm 1995).
Tăng nhanh khối lượng, nâng cao chất lượng và độ an toàn vận tải hành khách, hàng hoá, trên tất cả các loại hình vận tải. Nâng cao năng lực đủ sức đảm nhận tỉ lệ thị phần theo luật pháp quốc tế trong vận tải hàng không, viễn dương.
Triển khai thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển du lịch tương sứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái, môi trường. Xây dựng các trương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh.
II. phân tích tinh hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ năm 2001 – 2005 (số liệu tính đến năm 2003).
1, Thực trang quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2001 – 2003
1.1 Thực trạng quá trình sử dụng cơ cấu ngành kinh tế nói chung năm 2001 – 2003.
Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực.
Cơ cấu ngành kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỉ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đa giảm từ 24,3% năm 2000 xuống còn 22,3% năm 2003; công nghiệp và xây dựng từ 36,6% tăng lên 39,9% và dịch vụ từ 39,1% giảm xuống còn 7,8%. Mặc dù vậy vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra trong nghị quyết đaij hội IX (cơ cấu năm 2005 tương ứng công nghiệp từ 38- 39%; nông, lâm, ngư nghiệp 20- 21%; dịch vụ 41- 42%).
Năm
Tốc độ tăng trưởng so với năm trước(%)
Cơ cấu
Tổng số
Nông lâm nghiệp và thuỷ sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
Nông lâm ngiệp và thuỷ sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
1996
9,34
4,40
14,46
8,80
27,76
29,73
42,51
1997
8,15
4,33
12,62
7,14
25,77
32,08
42,15
1998
5,76
3,53
8,33
5,08
25,78
32,49
41,73
1999
4,77
5,23
7,76
2.25
25,83
35,50
40,67
2000
6,75
4,04
10,07
5/07
24,30
36,61
39,09
2001
6,9
3,0
10.4
6,1
23,2
38,1
38,6
2002
7,0
4,1
9,4
6,5
23.0
38,5
38,5
ước2003
7,2-7,3
3,2
10,3
6,6
22,3
39,9
37,8
Để có điều chỉnh cho kế hoạch chuyển dịch co cấu ngành kinh tế phù hợp với những điều kiện mới nẩy sinh và kết quả thực tế chúng ta đã đạt được ở những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2001-2005 cần đánh giá thực trạng cơ cấu ngành đạt được trong những năm qua.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp.
Trong nông, lâm , ngư nghiệp, đã có những chuyển động mạnh hơn trong chuyển dịch cơcáu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi theo hướng hiệu quả; phát triển trồng cây nguyên liệu để phục vụ cho cơ sở chế biến để thay thế hàng nhập khẩu đã có bước khởi động, rõ nét là cây bông, cây thuốc lá… dự kiến giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp năm 2003 tăng 5% (kế hoạch 4,8%), trong đó nông nghiệp tăng 2,6%, thuỷ sản có bước phát triển khá, đã chiếm trên 8,6% giá trị toàn ngành lâm nghiệp chiếm 1,9%
Một lý do quan trọng nông nghiệp không đạt được kế hoạch là do giá các hàng hoá nông sản xuống thấp.
Tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp
Chỉ tiêu
đơn vị tính
Mục tiêu
đáh giá thực hiện 2001-2003
Kế hoạch 2004
2001
2002
ước 2003
Tăng trưởng sản xuất
%
4,8
4,9
5,4
4,7
4,6
Nông nghiệp
%
2,6
5,2
4,0
Lâm nghiệp
%
1,9
0,2
1,1
Thuỷ sản
%
16,4
8,2
8,6
Đến nay đã có hơn 200 ngàn ha đất trồnglúa, năng suất thấp chuyển sang nuôi tôm và một số cây trồng khác có hiệu quả hơn. giảm lượng lương thực có hạt năm 2003 ước khoảng 37triệu tấn tăng so với năm 2001.
Các loại cây côngnghiệp có thị trường tiêu thụ như cao su, chè…được phát triển theo hướng tăng năng suất; đối với một số cây công nghiệp có thị trường têu thụ khó khăn, giá xuống thấp như cà phê, hạt điều, nhân điều,…đã có sự chọn lọc, cơ cấu lại.
Căn nuôi phát triển khá; trồng trọt cũng được chú trọng và mở rộng diện tích; nuôi trồng thuỷ sản có bước phát triển mạnh. Chương trình phát triển về giống đã được chú trọng đầu tư, hệ thống các trung tâm giống, các trạm, trại giống cây trồng vật nuôi… dược đầu tư nâng cấp. Mặc dù nhiều vùng đã có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cây trồng và vật nuôi theo hướng phát huy lợi thế và hiệu quả hơn, nhưng cũng chỉ là bvước đầu. Công tácc quy hoạch các vùng chưa thực sự gắn kết với việc xây dựng các cơ sở chế biến, giữa sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm, nên hiệu quả không cao.
Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp và xây dựng
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao và đồng đàu trong các khu vực kinh tế và các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp ngoài quốc doanh tăng rất cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 14 – 15% (kế hoạch là 13%).
Nhiều sản phẩm quan trọng tăng khá cả về sản xuất và tiêu thụ như khai thac khí, sản xuất điện, than sạch, thép, xi măng, xe đạp, cơ khí, chế biến sữa, chế biến thuỷ sản…
Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp vẫn còn nhiều tồn tại, một số ngành sản xuất còn khó khăn, chưa tập trung đầu tư đúng mức cho các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh; một số sản phẩm sản xuất trong nước giá thành còn cao, khả năng cạnh tranh các sản phẩm thấp. Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước như cấp vốn, hạ lãi suất vay vốn, bù lỗ, miễn giảm thuế… tính năng động trong sản xuất kinh doanh kém.
Một vấn đề bức xúc nhất hiện nay là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam không chỉ trên thị trường quốc tế, mà ngay cả trên sân nhà. Nhiều sản phẩm của Việt Nam hiện nay tồn tại được là nhờ sự bảo hộ của nhà nướcnhw đồ nhựa, xe máy, xe đạp, đồ dùng gia đình, đồ hộp, gạch ốp lát…đó là chưa kể các biện pháp bảo hộ phi thuế quan hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu… trong khi đó thời hạnn cam kết cắt giảm thuế quan theo CEPT/ AFTA đã đến gần kề.
Để tăng tính cạnh tranh, trong đó một nhân tố quan trọng là phải giảm được chi phí “đầu vào”. muốn giảm chi phí “đầu vào “ có những vấn đề phụ thuộc vào khả năng của doanh nghiệp như đổi mới quản lý, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ, đào tạo đội ngũ quản lý… nhưng còn nhiều vấn đề nằm ngoài khả năng của doanh nghiệp thuộc về cơ chế, chính sách, hiệu quả quản lý của nhà nước.
Theo số liệu của ban vật giá chính phủ, điện dùng cho sản xuất công nghiệp ở việt nam lên tới 6,30 Cent/kwh, trong khi đó tại Trung Quốc chỉ là 4,50Cent/kwh., Malaixia là5,7Cent/kwh, InĐône xia là 4,50Cent/kwh. Cước điện thoại đi quốc tế bình quân của Việt Nam là 1,97 USD/phút, trong khi đó ở Trung Quốc là 6,3USD/phút, Thái Lan là 1,55USD/phút, Singapore 0,88USD/ phút, Malaixia1,03USD/phút, Inđonêxia là 1,38USD/ phút. Xi măng đóng bao của Việt Nam là 51,5 USD/tấn, Trong khi tại SingaPore là 47,7USD/ tấn, Inđônexia là 46,7 USD/tấn, còn nhiều chi phí khác lớn hơn các nước như chi phí vận chuyển, nước, bảo hiểm, lương tối thiểu…nhiều chi phí “đầu vào” đã Không hợp lý, nhưng vẫn đang có xu hướng tăng lên.
Ngoài chi phí “đầu vào “ các doanh nghiệp còn đối mặt với các loại phí và lệ phí. Hiện nay, bên cạnh những loại phí và lệ phí chính thức khác (?). đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, bên cạnh phí hải quan hay chi phí cho các loại thuế dã quy định còn phải đóng rất nhiều loại “phi” dưới các hình thức khác nhau, mà nếu không nộp đủ thì hàng hoá sẽ bị ách tắc, doanh nghiệp phảo chịu chi phí lưu kho, mất cơ hội kinh doanh , làm tăng chi phí sản xuất và tăng giá thành sản phẩm.
Chi phí để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế thường là rất lớn. Nhà nước chưa có cơ chế quản lý, hỗ trợ đủ mạnh để cung cấp thông tin và phương tiện giao dịch công cộng. Một trong những điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường thế giới là khả năng tiếp hỗ trợ xuất khẩu.
Thêm vào đó là các thủ tục hành chính quá rườm rà mất nhiều thời gian, việc cấp giấy phép kinh doanh, quyết định cho thuê đất, vấn đề giải phóng mặt bằng thường kéo dài, quy chế đấu thầu còn nhiều bất cập, tình trạng hình sự hoá các giao dịch kinh tế còn nhiều phức tạp, phiền nhiễu…
Hàng hoá Việt Nam cạnh tranh kém còn do trình độ thiết bị công nghệ lạc hậu. Ví dụ, ngành cơ khí, thiết bị cơ khí lạc hậu đến 4-5 thập kỷ so với mặt bằng thế giới. Hiên nay toàn bộ hệ thống công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam sử dụng để sản xuất công cụ, hàng tiêu dùng, máy động lực… hầu hết đều ra đời từ trước thập kỷ 80 và có tới 30% có tuổi thọ hơn nửa thế kỷ. Trong nông nghiệp, thiếu công nghệ bảo quản và chế biến. Đến nay, khoảng 70% lượng hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, làm cho giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu thấp. Và ngược lại các mặt hàng gạo cao cấp, cà phê, hạt điều đã qua chế biến của nước ngoài vẫn chiếm lĩnh thị trường Việt Nam.
Tỷ lệ nội địa hoá của hàng Việt Nam thấp. Để sản xuất, các ngành phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Ví dụ để sản xuất giấy, các công ty phải nhập khẩu bột giấy, loại nguyên liệu này chiếm tới 70% giá thành sản phẩm. Đối với ngành dệt may 90% nguyên liệu là nhập khẩu và theo đó nguyên liệu này chiếm tới 60% giá thành sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hoá ở các ngành xe máy, ôtô còn rất thấp.
Đó là kết qủa của việc tổ chức cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ chưa được làm tốt. Cụ thể là ở lĩnh vực công nghiệp nhẹ còn chưa đa dạng về ngành hàng và tập trung khá nhiều vào một số lĩnh vực dẫn đến sự trùng lặp. Trong hơn 740 dự án còn hiệu lực có đến 300 dự án đầu tư vào ngành sợi, dệt, may, trên 60 dự án về sản xuất về sản xuất giầy dép và nguyên phụ liệu, 60 dự án về bao bì các loại và hơn 30 dự án về sản xuất kinh doanh túi sách… ước tính chỉ 3 nhóm ngành hàng trên chiếm hơn 3/4 tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp nhẹ do đó đã dẫn đến cạnh tranh gay gắt về đầu ra còn đầu vào thì phần lớn phải nhập khẩu.
1.4- CDCC ngành DV
Các hoạt động dịc vụ, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông và các loại hình dịch vụ khác như tài chính ngân hàng, chuyển giao công nghệ… đều có bước phát triển đặc biệt ngành du lịch có bước phát triển mới, tiềm năng du lịch ở địa phương đã được khai thác có hiệu quả. Lượng hàng hoá trong lưu thông ở hầu hết các địa phương tăng khá, kể cả các tỉnh miền núi; giá cả thị trường ổn định.
Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ hàng hoá xã hội tăng 8,7%; khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 9,6%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 6,7%. Tổng doanh thu bưu chính viễn thông khoảng 14%; mật độ điện thoại đạt 5,2 máy trên 100 dân; khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng 7,5%. Công suất sử dụng phòng, buồng ở các khách sạn đạt trên 60%.
Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ chưa được cải thiện rõ rệt; dịch vụ vận chuyển chất lượng cao còn nhiều bất cập, tình trạng chậm giờ, bỏ tuyến trong vận chuyển hàng không chưa được khắc phục; tai nạn giao thông tiếp tục gia tăng, vận chuyển hành khách bằng phương tiện giao thông công cộng tại các thành phố lớn tăng chậm; dịch vụ ngân hàng, dịch vụ cá nhân và cộng đồng, dịch vụ khoa học và công nghệ, tư vấn; kinh doanh bất động sản… chạm phát triển.
Một tình trạng bức xúc nhất là ngân hàng có tiền nhưng không cho vay được còn người kinh doanh muốn vay tiền nhưng không vay được.
Đánh giá tổng quát:
Năm 2003 nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển khá và ổn định; cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp có bước chuyển dịch tích cực, thuỷ sản phát triển khá, sản xuất công nghiệp và các hoạt động dịch vụ tăng khá cao.
Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch chưa kịp với yêu cầu của thị trượng nhất là việc khắc phục kém về chất lượng và giá cả cao; chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp còn mang tính tự phát chưa thật sự chủ động, còn nhiều bấp bênh, rủi ro; việc quy hoạch, xác định từng sản phẩm để đầu tư, kể cả đầu tư chiều sâu nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong công nghiệp tíên hành còn chậm; chi phí sản xuất cao vàcó xu hướng tăng lên; thiếu thông tin thị trường; đóng góp của khoa học công nghệ và tăng năng suất chất lượng, giá trị sản phẩm còn ít.
2. Những thuận lợi và khó khăn cho năm tiếp theo
2.1. Những thuận lợi
Những thành tựu về kinh tế, xã hội đạt được trong những năm đổi mới đã tạo nhiều thuận lợi cơ bản cho các năm tiếp theo; nguồn lực._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33647.doc