Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế & giải pháp nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn phát triển của từng quốc gia . Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với các nước đang phát triển trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam chúng ta cần lựa chọn cho mình một hướng đi riêng trên cơ sở kế thừa những bài học kinh nghiệm

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế & giải pháp nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quý báu của các nước đi trươc, tiếp thu những tiến bộ về khoa học kĩ thuật của thế giới và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện thực tế của nước ta. Làm được điều đó không phải là đơn giản, chúng ta phải xây dựng cho mình một hệ thống phát triển kinh tế - xã hội hợp lý, nhạy bén; các bộ phận cấu thành hệ thống kế hoạch hóa phải có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng vẫn phát huy được vai trò của mình. Là một bộ phận của hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoach chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đóng một vai trò quan trọng không thể phủ nhận được. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện một cách có hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra sẽ góp phần không nhỏ vào việc đạt được mục tiêu của kế hoạch tổng thể nói riêng và mục tiêu phát triển bền vững nói riêng. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 Có nội dung như thế nào? Tình hình thực hiện bản kế hoạch này tính đến hết quý III năm 2007 ra sao? những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện kinh doanh chuyển dịch cơ cấu ngành là gì? Chúng ta có khả năng hoàn thiện bản kế hoạch này hay không? Để trả lời những câu hỏi đó tôi xin phép chọn đề tài “Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010” cho bài đề án môn Kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội của mình. Bài đề án này được hoàn thành dười sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy Phạm Thanh Hưng. Bài làm chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy co và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Hà Nội ngày 19 tháng 11 năm 2007 Trương Thị Bích Ngọc NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ. Những vấn đề chung về cơ cấu kinh tế. Khái niệm cơ cấu kinh tế. Để đánh giá sự phát triển của một quốc gia, chúng ta thường dựa trên ba tiêu thức cơ bản: tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự thay đổi trong các chỉ tiêu xã hội. Trong ba tiêu thức trên,cơ cấu kinh tế được xem là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ tỉ lệ giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể kinh tế, các bộ phận này có những mối liên hệ hữu cơ, những tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng, các quan hệ tỉ lệ được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, chúng luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Đánh giá sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc độ của cơ cấu kinh tế. Phân loại cơ cấu kinh tế. Dưới các giác độ khác nhau cơ cấu kinh tế được phân thành nhiều loại, đó là: Cơ cấu ngành - xét dưới giác độ phân công sản xuất; Cơ cấu vùng - xét dưới giác độ hoạt động kinh tế - xã hội theo lãnh thổ; Cơ cấu thành phần kinh tế - xét hoạt động kinh tế theo quan hệ sở hữu; Cơ cấu đối ngoại - xét trình độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế; Cơ cấu tích lũy - xét tiềm năng để phát triển kinh tế… Khi đánh giá sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế người ta thường tập trung đánh giá sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế vì đây là những cơ cấu mang tính chất tổng hợp của nền kinh tế. Trong đó, cơ cấu ngành có vai trò quan trọng nhất, sự biến động của nó có ý nghĩa quyết định đến sự biến động của nền kinh tế vì nó trực tiếp giải quyết mối quan hệ cung - cầu trên thị trường, đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Xét về mặt lý thuyết, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả hai mặt định lượng cũng như định tính. Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Trong khi đó, mặt định tính lại thể hiện vị trí và tầm quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nước đang phát triển có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của các nước này thường cao từ 20% - 30% trong khi đó tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ là 1% - 7%. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bảng sau: Bảng 1. Cơ cấu ngành theo GDP cho một số nhóm nước năm 2003. Đơn vị tính:% Nhóm nước Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Các nước có thu nhập cao Các nước có thu nhập trung bình Các nước có thu nhập thấp Đông Nam Á và Thái Bình Dương Nam Á Châu Mỹ La Tinh Châu Phi 2 11 25 14 23 7 14 27 38 25 49 25 25 29 71 51 50 38 52 68 57 Nguồn: Báo cáo phát triển thế giới 2005, Ngân hàng Thế giới Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo một xu hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi, trong khi đó tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên. Những nội dung của cơ cấu ngành kinh tế. Thứ nhất là số lượng các ngành kinh tế được hình thành. Số ngành kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao động xã hội. Nhà kinh tế học Collin Clark căn cứ vào tính chất chuyên môn hoá của sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Ngành thứ nhất sản xuất những sản phẩm dựa trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên, bao gồm nông nghiệp và công nghiệp khai thác. Ngành thứ hai có chức năng gia công và chế biến sản phẩm có nguồn gốc từ ngành thứ nhất, đó là ngành công nghiệp chế biến. Hai ngành này đều là những ngành sản xuất của cải vật chất hữu hình. Còn ngành thứ ba là ngành sản xuất các sản phẩm vô hình. Cách phân loại của Clark có ảnh hưởng rộng rãi và đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. Tuy vậy cũng có nhiều cách phân loại khác nhau. Để thống nhất cách phân loại ngành, Liên Hợp Quốc đã đưa ra cách phân loại các ngành theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo tiêu chuẩn này, có thể gộp các ngành phân loại thành ba khu vực. Khác với cách phân loại của Clark, theo tính chất công việc Liên Hợp Quốc xếp công nghiệp khai thác vào khu vực II – là khu vực công nghiệp. Như vậy, khu vực I là khu vực nông nghiệp và khu vực III là khu vực dịch vụ. Kế đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động, vốn…) của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, còn mối quan hệ gián tiếp được thể hiện theo các cấp 1,2,3… Quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp là mối quan hệ truyền thống , xuyên suốt mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Nông nghiệp yêu cầu cần có sự tác động của công nghiệp đối với tất cả các yếu tố đầu vào, cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, các công cụ sản xuất, máy móc, thiết bị phục vụ cho việc cơ giới hóa sản xuất. Sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao về chất lượng và hiệu quả: Làm cho sản phẩm trở nên đa dạng về mẫu mã, phong phú về khẩu vị, vận chuyển và dự trữ được thuận lợi. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thực phẩm cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt động sản xuất công nghiệp và là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm 2 công nghiệp. Ngoài hai lĩnh vực sản xuất vật chất là nông nghiệp và công nghiệp nêu trên, tập hợp các ngành sản xuất phi vật chất còn lại bao hàm trong khối các ngành dịch vụ. Khối ngành này bao gồm những ngành gọi là “dịch vụ trung gian”: vận tải, thông tin, trung gian tài chính, điện, phân phối xây dựng, dịch vụ thương mại và những ngành “dịch vụ thỏa nhu cầu cuối cùng” du lịch và đi lại, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ về môi trường…Nếu như công nghiệp và nông nghiệp được gọi là các ngành sản xuất vật chất, thựchiện chức năng sản xuất trong quá trình tái sản xuất thì ngành dịch vụ lại đảm nhận nhiệm vụ đưa những sản phẩm của 2 ngành trên vào tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho đời sông thông qua quá trình phân phối và trao đổi. Không có sản phẩm hàng hóa thì không có cơ sở cho sự tồn tại của các hoạt động dịch vụ. Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì đời sống nhân dân càng được nâng cao, nhu cầu dịch vụ càng lớn. Như vậy, sự tác động qua lại giữa các ngành tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mối quan hệ của các ngành cả về số lượng và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa nghiên cứu của nó. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn còn bao gồm sự thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự phát triển không đều giữa các ngành. ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng và nghiên cứu lại, ngành có tốc độ phát triển thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất cả các ngành có tốc độ tăng trưởng như nhau thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là không có chuyển dịch cơ cấu ngành. Nhưng trong thực tế điều này ít xảy ra. Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo xu hướng tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản ngày càng giảm trong khi tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Tỷ trọng kỳ sau = Tỷ trọng kỳ trước ngành X x Tốc độ phát triển của X ngành X tốc độ phát triển chung Ví dụ: năm 2005, ngành nông nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng khá đạt 4,0% nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (8,4%), nên tỷ trọng giảm từ 21,8% năm 2004 xuống còn 20,9% năm 2005. Ngược lại, ngành công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng trưởng là 10,6% nên tỷ trọng của ngành này trong GDP cũng tăng từ 40,2% năm 2004 lên 41,1% năm 2005. Ý nghĩa nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế. Xét trên khía cạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế thì dạng cơ cấu ngành được xem là quan trọng nhất, được quân tâm nghiên cứu nhiều nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất. trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài và các lợi thế tương đối của nền kinh tế. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với sự phát triển chung của nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái về sự phân bố các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm nhất định vào những hoạt động sản xuất riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lý cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập thắng lợi. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu GDP Tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành, việc phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ cấu ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, dược phẩm, hóa mỹ phẩm… chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao hơn so với những lĩnh vực khai khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp lắp ráp… Trong khu vực dịch vụ, những lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, gắn với công nghệ hiện đại như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông, hàng không… chiếm tỷ trọng rất cao sẽ rất khác bới những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân cư với công nghệ thủ công hoặc trình độ thấp, quy mô nhỏ lẻ. Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành được đánh gía cao và coi trọng hơn vì chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó còn ít bị ảnh hưởng bởi các nhân tố bên ngoài trong khi cơ cấu GDP lại chịu ảnh hưởng của tình trạng méo mó về giá cả. Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động thậm chí còn được một số nhà kinh tế xem như chỉ tiêu quyết định nhất để đánh giá mức độ thành công của quá trình công nghiệp hóa trong nghiên cứu so sánh giữa các nền kinh tế. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong qúa trình phát triển. Cơ cấu ngành kinh tế có thể được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Nếu xem xét dưới góc độ các yếu tố đầu vào thì ta có cơ cấu lao động, cơ cấu kĩ thuật . Thông thường thì cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong GDP sẽ có xu hướng giảm xuống còn tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi nền kinh tế bước sang những giai đoạn phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ càng cao hơn so với tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trong ngành công nghiệp tỉ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng lớn và gia tăng với tốc độ nhanh, tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng lao động sẽ giảm dần. Đối với ngành dịch vụ, theo sự phát triển kinh tế, các ngành dịch vụ chất lượng cao như: tài chính, ngân hàng, luật, bảo hiểm, giáo dục, y tế, du lịch… sẽ có tốc độ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao. Thực tế cho thấy ràng khu vực dịch vụ là khu vực có tỷ trọng ngày càng gia tăng, nhất là khi nền kinh tế đã đạt đến một mức độ công nghiệp hóa nhất định, khi đó con người có mức thu nhập cao hơn, nảy sinh các nhua cầu về các dịch vụ mới hơn để nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Ở nhiều nước công nghiệp phát triển, yốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ đã vượt xa tốc độ tăng trưởng của ngành sản xuất công nghiệp. Hiện tại, dịch vụ đã chiếm tới ¼ tổng kim ngạch thương mại giữa các quốc gia và hơn một nửa khối lượng giao dịch của các chi nhánh công ty đa quốc gia trên toàn thế giới. Theo số liệu năm 2003 (Báo cáo phát triển thế giới 2005) thì tỉ trọng trong GDP của ngành dịch vụ ở các nước có thu nhập cao chiếm tới 71%, con số này ở Mỹ là 75%, Pháp 72%, Nhật 68%, Úc 71%... trong khi đó tỷ trọng dịch vụ chiếm trong GDP ở các nước có thu nhập thấp chỉ đạt khoảng 50%. Điều này có thể được lý giả một cách dễ dàng. Theo các nhà kinh tế học, lương thực, thực phẩm được coi là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Khi thu nhập của các hộ gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho các hàng hóa thiết yếu giảm xuống tất yếu dẫn đến tỉ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm đi. Thực tế ở các nước phát triên đã chứng minh, thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng tăng phù hợp với tốc độ tăng của thu nhập, còn chi tiêu cho hàng hóa cao cấp thì có tốc độ tăng nhanh hơn. Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau nhưng tốc độ chuyển dịch lại không giống nhau vì bị chi phối bởi các yếu tố khác về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn hóa mỗi nước. Ở Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây, cùng với việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nhanh, cơ cấu ngành cũng có sự chuyển dịch đáng kể. Nhìn chung sự thay đổi này phù hợp cới xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế. Điều này làm cho GDP của Việt Nam tăng liên tục với tốc độ khá cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa. Ngành nông nghiệp trong khoảng 15 năm trở lại đây đã giảm đi 17% trong cơ cấu ngành (từ 38,74% năm 1990 xuống còn 20,9% năm 2005), công nghiệp và xây dựng đã tăng thêm tương ứng ( từ 22,67% năm 1999 lên 41,0% năm 2005). Tuy vậy, ngành dịch vụ trong 15 năm qua nhìn chung không có sự biến đổi tích cực, có biẻu hiện giảm về tỷ trọng (năm 1999 là 38,59% đến năm 2005 chỉ còn 38,1%). Hạn chế này cùng với những yêu cầu về sự điều chỉnh nhất định trong nội bộ ngành nông nghiệp, công nghiệp chính là những nhiệm vụ đặt ra nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nước ta trong thời gian tới. Song song với sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo GDP là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết quả là xã hội không cần đến lực lượng lao động như cũ mà vẫn đảm bảo được lương thực, thực phẩm, điều đó có nghĩa là tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm. Ngược lại, tỉ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sử dụng sản phẩm của cả hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. Theo nguồn thống kê mới nhất, thì từ thời điểm năm 2001, ở Việt Nam, trong số gần 1 triệu lao động tăng thêm hàng năm, đã có khoảng hơn 600.000 người đi vào khu vực công nghiệp và xây dựng, gần 400.000 người đi vào khu vực dịch vụ, nghĩa là cứ 100 người mới gia nhập thị trường lao động thì không có một ai đi vào khu vực nông, lâm nghiệp mà tất cả đều đi vào khu vực phi nông nghiệp. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử công nghiệp hóa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt tới “điểm ngoặt” về chuyển dịch cơ cấu lao động, chia theo lao động, tức là thời điểm mà ở đó, lao động nông, lâm nghiệp không chỉ giảm đi về tỷ trọng mà còn bắt đầu giảm đi về số lượng tuyệt đối. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Khái niệm kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành là một bộ phận trong hệ thống phát triển kinh tế - xã hội. Nó xác định các mục tiêu cần đạt được về cơ cấu ngành kinh tế và đưa ra các giải pháp, chính sách cần thiết để thực hiện mục tiêu đó trong thời kỳ kế hoạch. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau nhưng tốc độ chuyển dịch không giống nhau vì bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn hoá mỗi nước. Và để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế thì mỗi quốc gia cần có một bản kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành riêng của nước mình. Nhìn chung thì kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành của các quốc gia có những nhiệm vụ chủ yếu sau: Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề về kinh tế- xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước. Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hóa bằng các quan hệ tỷ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo được cơ cấu đầu ra theo hướng đã xác định. Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội xần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Đánh giá thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010. Những thành tựu và tồn tại của công cuộc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005. Cơ cấu GDP 2001-2005 là giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển tương đối ổn định và bền vững. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%/năm (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá hiện hành đạt 839 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640 USD). Tuy nhiên, đây mới chỉ là những con số thống kê sơ bộ, khái quát để hiểu rõ sự phát triển của nền kinh tế VN trong 5 năm 2001- 2005 chúng ta cần phải xem xét kĩ lưỡng từng khía cạnh của nền kinh tế dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể ở đây là sự chuyển biến trong cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam. Bảng 2. Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001 – 2005. Đơn vị tính: % STT Chỉ tiêu Mục tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 5năm 2001-2005 1 Tăng trưởng kinh tế 7,5 6,89 7,08 7,34 7,79 8,4 7,5 - Nông, lâm và thủy sản 4,3 3,0 4,2 3,6 4,4 4,0 3,8 - Công nghiệp và xây dựng 10,8 10,4 9,5 10,5 10,2 10,6 10,2 - Dịch vụ 6,2 6,1 6,5 6,5 7,3 8,5 7,0 2 Tốc độ tăng giá trị sản xuất - Nông, lâm và thủy sản 4,8 4,7 6,5 5,5 5,8 4,9 5,4 - Công nghiệp và xây dựng 13,1 14,6 14,8 16,8 16,0 17,2 16,0 3 Cơ cấu kinh tế - Nông, lâm nghiệp và thủy sản 20 - 21 23,3 23,0 22,5 21,8 20,9 - Công nghiệp và xây dựng 38 - 39 38,1 38,5 39,5 40,2 41,0 - Dịch vụ 41 - 42 38,6 38,5 38,0 38,0 38,1 Nguồn: tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê Cơ cấu ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng của khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản thì giảm dần trong khi tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ thì tăng lên đáng kể. Năm 2001, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp là 23,3% nhưng đến năm cuối cùng của kỳ kế hoạch 5 năm, năm 2005 thì tỷ trọng của ngành này chỉ còn có 20,9%. Như vậy sau 5 năm, tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 2,4%. Trái ngược với sự giảm xuống về tỷ trọng của ngành nông nghiệp là sự tăng lên về tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng. Từ 38,1% năm 2001 đến năm 2005 con số này đã là 41%, tăng 2,9% (vượt chỉ tiêu kế haọch đề ra. Ngành dịch vụ vẫn giữ được vị thế quan trọng của mình khi chiếm tới 38,1% trong GDP, vượt xa đóng góp của khu vực nông nghiệp và gần bằng tỷ trọng của công nghiệp. Xét về mối quan hệ tương quan giữa các ngành, chúng ta có thể thấy, ngành công nghiệp và xây dựng là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất và cao nhất 10,2%, gấp 1,36 lần mức tăng GDP của toàn nền kinh tế (7,5%) và gấp 2,7 lần ngành nông nghiệp. Ngành dịch vụ có mức tăng xấp xỉ mức tăng GDP của cả nền kinh tế nên tỷ trọng không đổi, duy trì ở mức 38%. Dù đạt tốc độ tăng trưởng gần gấp 3 lần so với ngành dịch vụ, nhưng vì quy mô tuyệt đối nhỏ hơn, nên mức độ thay đổi tương quan tỷ lệ giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp không nhanh tương ứng với mức tăng trưởng công nghiệp. Sự tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ đã tạo nên sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế, bước đầu hình thành được một số ngành, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, sản xuất thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ô tô, xe máy... Về sự chuyển dịch trong nội bộ từng ngành. Trong 5 năm 2001 – 2005, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản vượt qua nhiều khó khăn, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tăng 5,4% trong khi kế hoạch đặt ra là 4,8%. Trong nội bộ của ngành đã có sự thay đổi nhất định, trong đó rõ rệt nhất là sự gia tăng của ngành thủy sản và sự suy giảm về tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho thấy sự được theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của ngành. Ngành thủy sản đã có những bước phát triển tương đối vững chắc, tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản trong toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 15,6% năm 200o lên 21,2% năm 2005. Đáng chú ý là hàng thủy sản xuất khẩu gia tăng nhanh chóng và trở thành một trong số những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp mặc dù có sự giảm đi về tỷ trọng nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu về lương thực thực phẩm trong nước và duy trì được vị trí là một trong ba nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo (Thái Lan, Hoa Kỳ, Việt Nam). Còn ngành lâm nghiệp vẫn tiếp tục chú trọng vào bảo vệ và trồng rừng. Độ che phủ rừng tăng từ 33,7% năm 2000 lên 37,4% năm 2005. Ngành công nghiệp tăng trưởng ổn định ổn định với tốc độ cao hơn nhiều so với 5 năm trước, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16% vượt mức kế hoạch đề ra (kế hoạch là 13,1%). có thể nói khu vực công nghiệp đã thực sự đóng vai trò đầu tàu trong sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành dịch vụ đã từng bước hình thành và phát triển đa dạng, góp phần phục vụ đắc lực cho sản xuất của các ngành nông nghiệp và công nghiệp, tốc độ tăng thêm giá trị của dịch vụ đạt nhịp độ khá cao, tăng 7,6%. Tuy đạt được những kết quả tích cực nhưng việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn nhiều hạn chế thể hiện chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao. Mức tăng trưởng nông nghiệp so với mức tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế là khá cao, thể hiện mức đóng góp của tăng trưởng nông nghiệp cho tổng mức GDP là khá lớn. Về ngành công nghiệp, mặc dù vị trí và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã được nâng lên trong những năm qua nhưng trong cơ cấu nội bộ nganh công nghiệp sự chuyển biến diễn ra vẫn còn chậm. Thực chất đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp trong những năm vừa qua chủ yếu vẫn là công nghiệp khai thác khoáng ản, tỷ trọng công nghiệp chế biến và chế tạo còn rất nhỏ bé. Trong khi đó, các ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp cơ khí như xe máy, ôtô mới phát triển ở giai đoạn đầu... Riêng trong khu vực dịch vụ, trái với sự mong đợi là tỷ trọng tăng lên thì trên thực tế hầu như không thay đổi thậm chí còn giảm từ từ 38,6% năm 2001 xuống còn 38,1% năm 2005. Tỷ trọng của các ngành khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu điện, du lịch là quá thấp (khoảng 3-4% trong GDP). Thương mại, mặc dù có tỷ trọng yương đối lớn khoảng 13-14% GDP nhưng chủ yếu vẫn là buôn bán nhỏ. Các loại hình dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, dịch vụ tư vấn pháp lý chưa được phát triển. Ngành tài chính – ngân hàng với tỷ trọng chưa đến 2% trong GDp là quá thấp. Cơ cấu lao động Đến năm 2005, tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế đạt gần 42,7 triệu người; trong đó 24,2 triệu người làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; 7,8 triệu người làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng; 10,9 triệu người làm việc trong các ngành dịch vụ. Trong 5 năm 2001-2005: số lao động được giải quyết việc làm đạt khoảng 7,5 triệu người, trong đó ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt trên 4,7 triệu; công nghiệp và xây dựng đạt trên 1,2 triệu người; các nàgnh thương mại và dịch vụ đạt 1,6 triệu. Bước đầu tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu lao động theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao hiệu qủa đầu tư trong kinh doanh. Tỷ trọng lao động trong nông, lâm, thủy sản trong tổng số lao động xã hội từ 68,2% năm 2000 giảm xuống còn 56,8% năm 2005; công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% lên 17,9%, được tăng từ 19,7% lên 25,3%. Bảng 3. Tình hình thực hiện kế hoạch kế hoạch lao động giai đoạn 2001 – 2005. STT Chỉ tiêu Đvị tính Mục tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 1 Số lao động làm việc trong nền kinh tế. Tr. ng 38,6 39,5 40,6 41,6 42,7 Cơ cấu lao động - Nông, lâm nghiệp và thủy sản % 56-57 63,4 61,9 60,3 58,8 56,8 - Công nghiệp và xây dựng % 20-21 14,3 15,4 16,5 17,3 17,9 - Dịch vụ % 22-23 22,3 22,7 23,2 23,9 25,3 2 Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 16,8 18,7 21,2 22,5 25,0 3 Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị % 5,4 6,28 6,01 5,78 5,60 5,31 4 Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn % 80 74,26 75,42 77,65 79,10 80,65 Nguồn: tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê Số liệu cho thấy sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ còn rất chậm chạp. Sự phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chưa tạo ra việc làm tương ứng cho lao động nông thôn, trong khi các khu đô thị mới, khu công nghiệp mở rộng đã lấy đi khá nhiều diện tích đất canh tác màu mỡ của nông nghiệp. lao động vẫn tập trung khá lớn ở khu vực nông nghiệp, lại ko được đào tạo dẫn đến khả năng tìm việc làm rất khó khăn, cho dù nhiều khu công nghiệp vẫn đang._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0357.doc
Tài liệu liên quan