Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001-2005 phương hướng và giải pháp thực hiện

Lời nói đầu Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá là một hướng đi đúng nhằm đạt được mục tiêu phát triển đã được đặt ra. Mục tiêu đặt ra đến năm 2005 cơ cấu ngành trong GDP nước ta đạt được là: Công nghiệp 38-39%, nông nghiệp 20-21% và dịch vụ 41-42%. Để đạt được mục tiêu này chúng ta đã có nhiều giải pháp để từng bước thực hiện. Đã có rất nhiều công trình khoa học, các ý kiến của các nhà kinh tế, các chuyển gia đã tham gia nghiên cứu lĩnh vực này nhằm đưa ra

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001-2005 phương hướng và giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các phương hướng, giải pháp phù hợp với thực tế. Trên cơ sở kinh nghiệm của các công trình, các bài viết đã được công bố. Đề tài “Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001-2005 phương hướng và giải pháp thực hiện” đã ra đời trên cơ sở tổng hợp những ý kiến đó nhằm cụ thể hơn mục tiêu và phương hướng, giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001-2005. Chương I: Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế I. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1. Khái niệm cơ cấu kinh tế. Là tổng hợp các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân và mối quan hệ của các bộ phận đó với nhau biểu thị bằng vị trí và tỷ trọng của mỗi bộ phận ttrong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế thể hiện trên các khía cạnh sau: - Tổng thể nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia. - Số lượng và tỷ trọng của các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước. - Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố hướng vào các mục tiêu đã xác định. 2. Phân loại cơ cấu kinh tế. - Cơ cấu ngành kinh tế do phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất. Nền kinh tế được chia ra làm 3 nhóm ngành cơ bản Nông nghiệp (gồm Lâm – ngư nghiệp) công nghiệp (gồm công nghiệp và xây dựng ) và dịch vụ. - Cơ cấu thành phần kinh tế (chế độ sở hữu) phân theo tính chất xã hội hoá, chia làm 6 thành phần kinh tế, khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân, khu vực tư bản Nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực hợp tác xã. Cơ cấu kinh tế phân theo vùng lãnh thổ. Dựa trên đặc trưng nổi trội của từng vùng, căn cứ vào sự phát triển của yếu tố tự nhiên kinh tế – xã hội và lợi thế so sánh của từng vùng. Cơ cấu lãnh thổ chia làm 6 vùng: vùng kinh tế trọng điểm miền bắc, vùng kinh tế trọng điểm miềm trung, vùng kinh tế trọng điểm miền nam, vùng niềm núi phía bắc, vùng Tây nguyên, vùng đồng bằng sông cửu long. II. Cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1. Khái niệm: Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ biểu hiện mới liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lại lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2. Nội dung: Phân tích cơ ngành người ta làm 3 nhóm ngành chính: + Nhóm ngành nông nghiệp + Nhóm ngành công nghiệp + Nhóm ngành dịch vụ - Mối quan hệ giữa các ngành với nhau, thể hiện ở vị trí của từng ngành cũng như tỷ trọng nền kinh tế quốc dân, mối quan hệ thể hiện ở tỷ trọng từng ngành tính theo GDP, GO… và tính theo lao động, vốn đầu tư. - Mối quan hệ cung cấp và trao đổi sản phẩm giữa các ngành. * Các dạng cơ cấu và tầm quan trọng của các ngành - Cơ cấu nông nghiệp (1) - Cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ (2) - Cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ (3) - Cơ cấu công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp (4) - Cơ cấu dịch vụ (5) Vị trí các ngành thể hiện mức độ quan trọng từng ngành đối với nền kinh tế. Nếu ở dạng (1). Cơ cấu là thuần nông thì nó là vị trí số (1), dạng (3). Công nghiệp vị trí số (1), dạng (5) dịch vụ lại chiếm vị trí số 1. Các ngành cơ vị trí khác nhau đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước. Sắp xếp vị trí của từng ngành phải dựa trên 2 căn cứ. - Tỷ trọng từng ngành theo GDP, GO… - Vị trí và phạm vi ảnh hưởng đến các ngành khác ở Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, công nghiệp 36,6%, nông nghiệp 24,3%, dịch vụ 39,1%, (năm 2000). Vì vậy công nghiệp được đặt lên vị trí số 1 vì: tỷ trọng của nước GNP. ảnh hưởng của công nghiệp đến quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá . Xét theo tính chất của nền kinh tế. - Cơ cấu kinh tế hướng nội (khép kín, đóng), là một dạng cơ cấu trong đó nền kinh tế tổ chức theo nhu cầu tiêu dùng trong nước. III. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1. Cơ sở lý luận của chuyển dịch cơ cấu ngành. Định luật Engel. Theo định luật này khi thu nhập của người dân tăng lên thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá thiết yếu giảm xuống và nhu cầu tiêu dùng hàng hoá xa xỉ tăng lên . Hàng hoá được chia làm 3 khâu, hàng hoá thứ cấp, bày tiêu dùng lâu bền và hàng hoá xa xỉ. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, bàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Do đó xét về phía cầu thì cầu đầu vào của lương thực, thực phẩm giảm, cầu hàng hoá công nghiệp và dịch vụ tăng, khi thu nhập tăng. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher. Fisher các các nước có thể phân loại theo tỷ lệ phân phối tổng số lao động của từng nước vào 3 khu vực. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp khu vực thứ 2 gồm công nghiệp, dịch vụ Nhà nước, dịch vụ tư nhân. Theo Fisher tiến bộ kỹ thuật có tác động đến sự thay đổi phân bố lực lượng lao động vào 3 khu vực này. Trong quá trình phát triển việc tăng cường sử dụng máy móc và phương thức canh tác mới làm tăng năng suất lao động kết qủa là để đảm bảo nhu cầu lương thực thì không cần lượng lao động nh cũ do vậy lực lượng lao động trong khu vực này giảm. Ngược lại tỷ lệ lao động được thu hút vào khu vực thứ 2 và thứ 3 ngày càng tăng do tính cơ dần về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này và khả năng hạn chế hơn của việc áp dụng kỹ thuật vào khu vực hai và ba. Trong quá trình hội nhập theo xu hướng quốc tế háo nền kinh tế toàn cầu. Do sự phát triển của phân công lao động xã hội ngày càng cao nên các nước khi tham gia vào quá trình hội nhập đều tận dụng lợi thế so sánh của mình. Sự phân công lao động ngày càng sâu sắc đã dẫn đến yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì xu hướng là tăng tỷ trọng các ngành đòi hỏi dung lượng vốn, khoa học công nghệ, giảm tỷ trọng các ngành có dung lượng lao động cao. 2. Vai trò của cơ cấu kinh tế đối với mục tiêu vĩ mô. Mỗi ngành, mỗi khu vực sản xuất vật chất có năng suất khác nhau. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế vĩ mô làm cho các khu vực, các ngành có năng suất cao chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho sản lượng tăng lên. Sự đổi mới cơ cấu thể hiện ở sự bố trí lại nguồn lực cho cơ cấu mới, bố trí lại cơ cấu tích luỹ và tiêu dùng, và các biện pháp tạo cung, tạo cầu .v..v.. . Điều đó làm chocc nhân tố tích cực được nhân lên, giảm bớt một cách tương đối những chi phí cũng đưa lại hiệu quả như một sự đầu tư. Như vậy tổ chức quản lý kinh tế theo hướng chuyển dịch cơ cấu thích hợp được coi như một nhân tố làm tăng lên sản lươngl. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá được thực hiện trên nhiều mặt và trải qua nhiều giai đoạn trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá hiện đại hoá (giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ) được coi là yếu tố quyết định đến sự thành công của quá trình này. Một nước mà tỷ trọng nông nghiệp chiếm đa số GDP, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp lớn thì không thể coi là nước công nghiệp phát triển được. Qua thực tế các nước phát triển cho thấy kể cả các nước mà xuất khẩu nông sản chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường quốc tế thì cũng chỉ chiếm lực lượng lao động rất its, mà điều chủ yếu của họ là áp dụng khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nông nghiệp. Điều đó dẫn đến tăng năng suất lao động. Vì vậy một nước muốn trở thành một nước công nghiệp phát triển thì phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý. Phát triển không chỉ là tăng trưởng mà còn có yếu tố xã hội trong nó. Do vậy cơ cấu kinh tế phù hợp sẽ tạo được một cơ cấu thu nhập phù hợp. Người nông dân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ được nâng cao do tăng năng suất, giảm về số lượng lao động. Những kết quả đó góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như công bằng, thu hẹp khoảng cách nông thôn, thành thị, ổn định xã hội…v..v.. 3. Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực. a. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Malaixia: Là một nước giành độc lập từ năm 1957 Malaixia bắt đầu bằng một nền kinh tế trong đó có hai mặt hàng chiếm ưu thế là thiếc và cao su. Liên tục thực hiện chính sách đa dạng hoá rộng rãi các mặt hàng sản xuất và đạt được tốc độ tăng trưởng. Trong bình quân 7% đến 8% năm. Bằng những chính sách thiết thực nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và ngành công nghiệp, số lượng hàng xuất khẩu tăng nhanh nhất là về các linh kiện điện tử, hàng tiêu dùng đổ điện, sản phẩm dệt và mặt hàng công nghiệp khoá. Nền kinh tế Malaixia bắt đầu phục hồi từ năm 1987 liên tục đến 1989 nhờ cải thiện về giá cả hàng hoá và tăng trưởng sản xuất trong công nghiệp vốn là nước có nguồn lực và đất đai dồi dào, lực lượng lao động có học vấn tốt và môi trường chính trị ổn định, tiết kiệm trong nước mạnh hơn, đủ vốn cho đầu tư, ngoài ra với chính sách đầu tư nước ngoài, khả năng tăng trưởng của Malaixia là có triển vọng và tiếp tục thịnh vượng. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc. Trung Quốc là nước rộng (Thứ 3 thế giới) và đông dân cư (nhất thế giới ). Năm 1975 Chính phủ Trung Quốc đã vạch ra một loạt các mục tiêu kinh tế mới nhằm đưa Trung Quốc lên vị trí hàng đầu về kinh tế vào năm 2000 chương trình “Bốn hiện đại hoá” với mục tiêu tăng nhanh sản lượng trong nông nghiệp, công nghiệp, khoa học kỹ thuật và quốc phòng. Năm 1978 chương trình này lại được khẳng định với kết hoạch 10 năm. Mục tiêu là tăng thu nhập và tiêu dùng cá nhân, áp dụng những hệ thống sản xuất khuyến khích cạnh tranh trên thị trường. Những cuộc cải cách đem lại nhiều thành tựu to lớn, thu nhập quốc dân, sản lượng nông nghiệp, công nghiệp tăng lên 10% trong những năm 80 thu nhập thực tế bình quân đầu người của nông dân tăng gấp đôi, của người dân thành thị tăng 43% Trung Quốc đã tự túc sản xuất được ngũ cốc, coi ngành sản xuất ở nông thôn tăng 23% sản lượng nông nghiệp. Cải cách công nghiệp đã làm đa dạng hoá các mặt hàng và hàng tiêu dùng sẵn có. Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 1996-2000 I. Đặc điểm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. 1. Nền kinh tế Việt Nam đang là giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn 24,3% (năm 2000), tỷ trọng công nghiệp tăng 28,7% (1995) lên 36,6%(2000), nhưng tỷ lệ tăng vẫn chậm. Nội bộ ba ngành lớn cơ cấu có thay đổi nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngành nông nghiệp trồng trọt vẫn là chủ yếu, chăn nuôi chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Ngành công nghiệp: Công nghệ còn lạc hậu chưa có đầu tư phần lớn là thế hệ cũ, lao động còn thủ công chưa quen với tác phong trình độ của công nghiệp hoá. 2. Nền kinh tế nước ta đã trải qua giai đoạn tạo tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá. Đã có tích luỹ ban đầu 30% (năm 2000). Vì vậy cần phải đặt ra yêu cầu đã có bước tăng trưởng khá nhỏ có đầu tư vào một số ngành: khai thác dầu, điện, xi măng…v..v. trong thời gian tới cần phải tập trung đầu tư phát triển theo chiều sâu: xây dựng nhà máy lọc hoá dầu, nâng cao chất lượng công nghệ chế biến, công nghiệp chế tạo ..v…v.. những yếu tố này sẽ tác động đến cơ cấu theo hướng tích cực. 3. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới chuyển dịch cơ cấu kinh tế diện ra trong bối cảnh hội nhập. Nhưng trong giai đoạn đang hoàn thiện cơ chế quản lý những cơ chế mới đã hình thành và phát huy tác dụng trong khi đó những cơ chế quản lý cũ gây khó khăn cho quá trình hội nhập vẫn còn tác dụng. Trong hoàn cảnh đó có thể cần phải tìm các giải pháp và bước đi trong quá trình quá độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một điều khó khăn là trong khi yêu cầu cần chuyển dịch cơ cấu để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững thì chúng ta lại thiếu nguồn lực cơ bản, thiếu vốn, trình độ lao động, công nghệ, kỹ thuật thấp kém. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu phải hướng vào những ngành, những mặt mà chúng ta có lợi thế so sánh mới có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển. Việt Nam đang đi vào thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với những xu thế lớn của thế giới đó là hoà bình và hợp tác, xu hướng quốc tế hoá có vai trò tác động ngày càng mạnh mẽ, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá giữa các quốc gia làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá ngày càng cao. Đặc điểm này đòi hỏi các nước đều phải nổ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa. * Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta. - Sự phát triển các loại thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Cần khẳng định thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết là cơ cấu ngành, bởi lẽ thị trường hướng dẫn, điều tiết các hoạt động sản xuất. Bởi vậy sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nước (hàng hoá - dịch vụ, vốn, lao động, khoa học - công nghệ ) có tác động mạnh đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Các nguồn lực và lợi thế so sánh của nước ta là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và hiệu quả đó là: + Tài nguyên thiên nhiên + Dân số, lao động + Sự phát triển các ngành nghề truyền thống - Tiến bộ khoa học công nghệ làm thay đổi tỷ trọng của các ngành làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, không những thế mà nước cải tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện của một số ngành mới, sản phẩm mới. Trong các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong giai đoạn tới chúng ta nhấn mạnh hai yêú tố đó là yếu tố thị trường và yếu tố nguồn lực. II. Hướng chuyển dịch cơ cấu ngành Việt Nam giai đoạn 1996-2000. 1. Tỷ trọng các nhóm ngành lớn trong GDP. Mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996-2000 là: đến năm 2000 cơ cấu kinh tế nước ta đạt chỉ tiêu : công nghiệp 34-35% nông nghiệp 19-20%, dịch vụ 45-46% thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1996-2000 đã chuyển theo hướng tích cực. Tuy nhiên chuyển dịch cơ cấu vẫn còn chậm, hiệu quả đầu tư còn kém, chưa thực hiện được chỉ tiêu đặt ra cho năm 2000. Một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 1996-2000 Năm ĐV 1996 1997 1998 1999 2000 Tăng trưởng GDP % 9,3 8,1 5,8 4,8 6,75 Cơ cấu % 100 100 100 100 100 Nông nghiệp (N-L-N) % 27,8 25,8 25,8 25,4 24,3 Công nghiệp & DV % 29,7 32,1 32,5 34,5 36,6 Dịch vụ % 42,5 42,2 41,1 40,1 39,1 Giá trị SXNN tăng % 5,1 7,0 3,9 7,1 4,3 Giá trị SXCN tăng % 14,2 13,8 12,5 10,4 15,3 Sản lượng quy thóc % 29,2 30,6 31,8 34,3 34,8 Tăng trưởng qua các năm từ 1996-2000 có xu hướng giảm dần từ 1996-1999 9,3 đến 9,8 là do trong những năm 2000 nguyên nhân là do trong những năm này nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á và thêm vào đó là thiên tai gây thiệt hại đến nền kinh tế tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 27,2% năm 1995 xuống còn 19,9% năm 2000 trong đó, nông lâm đã từ 22,4% GDP giảm xuống còn 19,9% GDP, lâm nghiệp giữ ở mức 1,3% GDP vào năm 2000, thuỷ sản chiếm khoảng 3% GDP. Trong nông nghiệp cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các loại sản phẩm cây trồng và vật nuôi có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất thuần nông. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm trong GDP đã từ 28,8% năm 1995 tăng lên 36,6% năm 2000. Trong đó các ngành công nghiệp khai thác từ 4,8% GDP lên 9,5% GDP, công nghiệp chế tác từ 15,0% GDP lên 17,8% GDP, công nghiệp điện, ga, nước bình quân khoảng 2,9% GDP. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP đã từ 44,1% năm 1995 xuống còn 39,1% năm 2000 trong đó thương nghiệp chiếm khoảng 14,5% GDP, khách sạn nhà hàng chiếm 3,2% GDP, vận tải, thông tin chiếm 4% GDP, kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn chiếm 4,3% GDP, tài chính tín dụng chiếm 1,9% GDP, quản lý Nhà nước 2,7%. Tuy tỷ trọng ngành công nghiệp có giảm nhưng giá trị tuyệt đối lại tăng qua các năm từ số lượng lương thực quy thóc từ 29,2 triệu tấn năm 1996 tăng lên 34,8 triệu tấn năm 2000 chính thành tựu đó mà nước ta là một trong số những nước đảm bảo an ninh lương thực, và đứng vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Sản lượng một số ngành nông sản quan trọng như cà phê, cao su tăng qua các năm. Riêng ngành dịch vụ đã có tỷ trọng giảm qua các năm nhưng nó lại phù hợp với thực tế. Năm 2000 nước ta đã tạo được tiền đề cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, có tích luỹ ban đầu, tỷ lệ tích luỹ so với năm 1996: 25,3, năm 1997 là 26,2 năm 1998 là 27,9 năm 1999 là 26,8 và năm 2000 là 28,7. Năm năm thực hiện 1996-2000 là 26,8, nhưng chúng ta đang cần tỷ lệ tích luỹ cao hơn nữa để tiến hành công nghiệp hiện đại hoá tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp nhanh hơn giá trị sản xuất nông nghiệp. Thực hiện 5 năm 1996 - 2000 công nghiệp tăng 13,9% nông nghiệp tăng 5,6%. Vì vậy giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và có vị trí ngày càng quan trọng trong cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ. Trong cơ cấu kinh tế hình thành một số sản phẩm mới, một số sản phẩm khối lượng lớn như khai thác dầu khí năm 2000 là 16,5 triệu tấn, lắp ráp ô tô tổng công suất hiện có là 132.860 xe/năm, lắp ráp xe máy có5 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài40 cơ sở trong nước. Tổng công suất mạch in 78 triệu chiếc. Đến nay đã có 62 doanh nghiệp sản xuất xi măng 14 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng. Nhiều sản phẩm công nghiệp tăng nhanh khối lượng lớn như săm lốp ô tô tăng gần 55% năm, thép tăng 30% năm, dầu thô 19,8% năm, xi măng, động cơ 16% năm, bia 21% năm, bông xỏ tăng 23% năm. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển manh, Ngân hàng tài chính đang ngày càng nâng cao vai trò của mình trong hệ thống kinh tế. Tuy cơ cấu ngành nước ta đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP, nhưng cơ cấu vẫn chuyển dịch chậm. Trong 5 năm 1996-2000 tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm gần 80% dân số và 63% lực lượng lao động. Trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 1996-2000 chưa xác định được sản phẩm mũi nhọn, sản phẩm thế mạnh dựa trên lợi thế so sánh. Chuyển dịch cơ cấu công nghệ còn chậm, đặc biệt là nhóm ngành công nghiệp với một số ngành công nghiệp then chốt như công nghiệp cơ khí thì lạc hậu 50-100 năm so với nước phát triển 30-50 năm so với nước trung bình. Mức cơ giới hoá công nghiệp 62%, nông nghiệp 19% hệ số đổi mới <10%. Cơ cấu kinh tế vẫn biểu hiện là một nước nông nghiệp, công nghiệp chưa chiếm được vị trí quyết định đối với nền kinh tế. 2. Tỷ trọng lao động trong các nhóm ngành. Hướng chuyển dịch lao động của nước ta là giảm tỷ lệ lao động làm việc trong nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Qua thực hiện kế hoạch 1996-2000 cơ cấu lao động của nước ta vẫn tập trung chủ yếu ở nông nghiệp với tỷ lệ 63%, công nghiệp 14% và dịch vụ 21%. Lượng lao động trong công nghiệp và dịch vụ quá ít so với lượng lao động trong nông nghiệp. Mặt khác lao động trong công nghiệp thì tỷ lệ qua đào tạo còn rất nhỏ lực lượng lao động phổ thông còn chiếm đa số. Trong nông nghiệp lao động chủ yếu là làm nông nghiệp chưa phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề, phường nghề, đang mất dần. Lực lượng lao động nông nghiệp 63% nhưng thực giờ làm việc nông nghiệp quá ít đa số di chuyển ra thành thị làm nghề phụ. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động trong các lĩnh vực giai đoạn 1996-2000 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Công nghiệp và dịch vụ Nông nghiệp Dịch vụ 13,25 69,74 17,02 12,93 69,22 17,85 12,52 68,78 18,7 12,72 68,78 19,01 12,50 68,27 20,0 14 63 21 Cơ cấu lao động ngành công nghiệp và dịch vụ không ổn định qua các năm, tính cả giai đoạn thì năm 2000 tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp tăng 0,75% nhưng tăng giảm qua các năm/ Tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp tuy có giảm qua các năm, năm 2000 giảm 6,74% nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn 63% (năm 2000) tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ năm 2000 tăng 3,98% so với năm 1995. Trong thời kỳ 1996-2000 chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp tăng tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên sự chuyển dịch này còn rất chậm chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn lớn hơn 50% trong tỷ trọng lao động điều này chứng tỏ nước ta vẫn là một nước nông nghiệp tỷ lệ lao động làm việc trong nhiều lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu. 3. Hướng và tỷ trọng vốn đầu tư. Vốn đầu tư là một yếu tố quan trọng tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn 1996-2000 cơ cấu vốn đầu tư vào ba nhóm ngành lớn đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng vốn đầu tư vào khu vực nông nghiệp và công nghiệp giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành dịch vụ. Cơ cấu vốn đầu tư qua các năm. Năm 1995 1996 1997 2000 Công nghiệp và dịch vụ Nông nghiệp Dịch vụ 8,0 30,6 55,4 7,4 41,6 51,0 7,4 41,6 51,0 11,5 43,7 44,8 Tỷ trọng vốn đầu tư trong nông nghiệp trong tổng vốn đầu tư xã hội đã tăng từ 8,0% năm 1995 lên 11,5% năm 2000 cùng với nó là tỷ trọng vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp tăng từ 36,6% năm 1995 lên43,7% năm 2000 ngành dịch vụ giảm từ 53,4% xuuống 44,8% năm 2000. Tuy tỷ trọng vốn đầu tư đã có thay đổi theo hướng hợp lý nhưng tỷ trọng vốn giành cho dịch vụ vẫn còn cao năm 2000 là 44,8%. Trong nội bộ tuy ngành đã chưa có cơ cấu hợp lý: như chú trọng đầu tư vào ngành chăn nuôi, đầu tư vào các sản phẩm công nghiệp mũi nhọn, trọng điểm. Trong thời gian tới cần chú trọng đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến. IV. Những nhận xét qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1996-2000. 1. Những thành tựu đạt được. Trong thời kỳ kế hoạch 1996-2000 cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Hướng chuyển dịch đó là đúng với yêu cầu qua quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đó là giảm tỷ trọng GDP tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành lớn của nền kinh tế khác nhau tăng trưởng nhanh nhất thuộc lĩnh vực công nghiệp sau đến là dịch vụ và thấp nhất là công nghiệp. 2. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nội bộ trong từng nhóm ngành kinh tế. Ngành nông nghiệp. Trong thời kỳ 1996-2000 cơ cấu nông nghiệp đã có chuyển biến tích cwch theo hướng giảm dần tỷ trọng trong GDP năm 1996: 27,8% năm 1997 25,8% năm 1999 là 25,4% năm 2000 là 23,4% tốc độ tăng trưởng bình quân cả thời kỳ là 5,48% . Tuy tỷ trọng trong GDP có giảm nhưng tăng giá trị tuyệt đối. Sản lượng quy thóc tăng qua các năm 1996; 29,2%, 1997 30,6%; 1998 31,8%; số lượng lương thực tăng 1,6 triệu, bình quân /năm. Số lượng châu, bò, lợn tăng qua các năm Đơn vị: Nghìn con Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Trâu Bò Lợn 2962,8 3638,9 16306,4 29,5 38000,0 16921,7 2943,6 3904,8 17635,9 2951,4 3987,3 18132,4 2955,7 4063,6 18885,8 Cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản thời kỳ 1996-2000 tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, giá trị sản lượng nông – lâm nghiệp tăng 5,7%. Tăng dần tỷ trọng ngành thuỷ sản ổn định tỷ trọng ngành lâm nghiệp như giá trị sản xuất của mỗi ngành vẫn tăng dần với nhịp độ khác nhau. Nông nghiệp 5,7%, nông lâm 0,4%, ngư 8,4% nông nghiệp vừa chiếm tỷ trọng lớn vừa có xu hướng giảm nhẹ trong cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản. Trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Nông nghiệp giảm 1% từ 84,8% 1996 xuống còn 83,8% năm 2000. Nguyên nhân là do trong những năm vừa qua nông nghiệp được mùa nhất là sản xuất lương thực nên tuy có giảm trong cơ cấu sản xuất nông – lâm – thuỷ sản nhưng vẫn tăng giá trị tuyệt đối. Lâm nghiệp vừa chiếm tỷ trọng nhỏ vừa không ổn định thất nhất là 1997 và 1998 5,5% cao nhất là năm 1996 và 2000 là 6%. Hiện này tỷ lệ chặt phá rừng lấy gỗ vẫn còn phổ biến nên ua cố gắng của 3 năm 1998,1999,2000 Nhà nước có chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng nhưng cũng chỉ bằng tỷ lệ năm 1996. Ngành thuỷ sản tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp năm 96; 9,2%, năm 97; 9,9%, năm 98; 10% và năm 2000 là 10,2%. Trong giai đoạn 1996-2000 tỷ lệ tuy cơ cấu giá trị thuỷ sản trong nhóm ngành nông nghiệp tăng 1% nguyên nhân do Nhà nước chú trọng đầu tư vào khai thác và chế biến thuỷ sản và hiện nay đây là ngành thế mạnh xuất khẩu của nước ta. Qua phân tích trên ta thấy trong cơ cấu nội bộ nhóm ngành nông nghiệp thì nông nghiệp vẫn chiếm vị trí độc tôn trong cơ cấu còn tỷ trọng lâm nghiệp không ổn định và chiếm tỷ lệ nhỏ điều đó phản ánh tình trạng phá rừng hiện nay. Tỷ trọng ngành thuỷ sản tăng điều này cho thấy ngành này đang có nhiều hứa hẹn. Thuỷ sản là một trọng ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực năm 96 đạt 695,5 triệu USD tăng dần qua các năm và đã đạt vượt mức kế hoạch (1-1,1) là 1479 triệu đô là năm 2000 sản lượng thuỷ sản cũng vượt mức kế hoạch (1,6-1,7 triệu tấn) năm 2000 đạt 2,15 triệu tấn. Sự thay đổi cơ cấu nhóm ngành công nghiệp nước ta đã bước đầu phát huy được lợi thế giữa các ngành nhưng sự chuyển dịch còn chậm. Cơ cấu ngành công nghiệp (theo nghĩa hẹp) nói chung hiện nay vẫn chủ yếu là hai ngành chăn nuôi và trồng trọt, cơ cấu có chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi nhưng tăng không đáng kể. Năm Trồng trọt Chăn nuôn Dịch vụ 1995 1996 1997 1998 1999 80,4 80,5 80,5 80,4 80,6 16,6 16,6 16,7 16,9 16,8 3,0 2,9 2,8 2,7 2,6 Tỷ trọng ngành chăn nuôi/ngành nông nghiệp năm 2000 đạt 17,3% không đạt được mức kế hoạch đề ra là 30-35%. Cơ cấu ngành trồng trọt chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cây công nghiệp trong tổng giá trị ngành trồng trọt nhưng tăng chậm và không đạt được mức kế hoạch đề ra cho năm 2000 là 45%. Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ trọng cây CN/trồng trọt(%) 16 21 21,8 22,5 23 23,7 Theo bảng trên sau 5 năm tỷ trọng ngành nông nghiệp tăng từ 80,4% (1995) lên 80,6% năm 1999. Vẫn chiếm tuyệt đối, ngành chăn nuôi tăng từ 16,6% năm 1995 lên 16,8% năm 1999, tăng 0,2% ngành dịch vụ giảm xuống từ 3,0% năm 1995 còn 2,6% năm 1999 giảm 0,4%. Cơ cấu ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹ) vẫn chưa có chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ còn quá nhỏ so với trồng trọt, chăn nuôi hiện nay vẫn chỉ tập trung lấy sức kéo chứ chưa chú trọng vào chăn nuôi lấy thịt và da. Cơ cấu cây trồng vật nuôi không có sự thay đổi chăn nuôi chưa tránh được ra khỏi trồng trọt để trở thành ngành sản xuất độc lập. Tỷ trọng cây công nghiệp trong ngành trồng trọt tăng qua các năm. Năm 2000 tăng so với năm 1996 là 2,7% nhưng tốc độ tăng này còn chậm và thực hiện còn quá thấp so với kế hoạch đề ra là 45% giá trị cây công nghiệp trong ngành trồng trọt. Giá trị sản xuất của ngành trồng trọt đóng góp chủ yếu là sản xuất lương thực khoảng 64% trong tổng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt. Cơ cấu cây ăn quả trong những năm gần đây đã sút giảm (từ 10% năm 1995 xuống còn 8,0% năm 1999) do tác động của thị trường, chúng ta chưa tìm được đầu ra xuất khẩu cho cây ăn quả và định hướng thị trường cho chúng. Cơ cấu ngành chăn nuôi: giá trị sản lượng tăng từ 13629,2% tỷ đồng năm 1995 lên 17337 tỷ đồng năm 1999, sản lượng thịt lợn hơi năm 2000 đạt 14 triệu tán bằng 1,4 lần so với năm 1995, tỷ trọng giá trị gia súc không thay đổi nhiều qua các năm. Năm 1995 là 65% năm 1999 là 65%. Cơ cấu ngành chăn nuôi không có sự thay đổi đáng kể. Những thành tựu ngành nông nghiệp đạt được là hết sức quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và có sự chuyển biến tích cực giá trị tuyệt đối tăng qua các năm. Nhưng đó là chỉ so với nến nông nghiệp lạc hậu tự túc, tự cấp còn trong yêu cầu mới của quá trình công nghiệp hoá thì tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm dần mặc dù vậy nhưng giá trị tuyệt đối lại phải tăng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm. Đứng trước yêu cầu đó, ngành nông nghiệp phải có một cơ cấu hợp lý hơn để tăng năng suất lao động, tăng thời gian làm việc trong năm (khi tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm dần). Nhà nước đã tạo ra được sự chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng đa dạng hơn với những sản phẩm công nghiệp và có hai mặt hàng chủ lực để xuất khẩu, cà phê chiếm 8,4% thị phần và đứng thứ 3 trên thế giới. Gạo đứng thứ 2 trên thế giới.Trong nông nghiệp đã bước đầu chú ý đến khu vực dịch vụ và chăn nuôi. b. Ngành công nghiệp và xây dựng. Giai đoạn 1996-2000 nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm làm 13,5% kế hoạch trong đó năm 1996 là 14,2 năm 1997; 13,8 năm 1998 là 12,5% kế hoạch năm 1999 là 11,6% là 15,7%. Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP ngày càng tăng, cao nhất là năm 2000 đạt 36,6% trong tổng GDP và thấp nhất là năm 1996 là 29,7% trong 5 năm tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng 6,9%. Một số ngành công nghiệp tiếp tục tổ chức và sắp xếp lại, lựa chọn các sản phẩm ưu tiên và có lợi thế, đổi mới công nghệ, đạt chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Năng suất sản xuất các sản phẩm công nghiệp tăng khá: năm 2000 so với năm 1995 công suất điện gấp 1,5 lần (tăng 2.715 MW); xi măng gấp 2,1 lần (tăng 8,2 triệu tấn) phân bón gấp trên 3,0 lần tăng (1,5 triệu tấn); thép gấp 1,7 lần tăng 1,0 triệu tấn, mía đường gấp 5 lần tăng 60.000tấn/ngày. Sản lượng một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh. Năm 2000 so với năm 1995: Dầu thô gấp 2,1 lần, điện gấp 1,8 lần, than sạch hơn 10 triệu tấn trong đó xuất khẩu trên 3,0 triệu tấn , thép gấp 3 lần, xi măng gấp 2 lần, vải các loại gấp 1,5 lần, giấy các loại gấp 1,7 lần. Cơ cấu ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn đến năm 2000 công nghiệp khai thác dầu thô chiếm khoảng 11,2% tổng giá trị sản xuất toàn ngành, công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm khoảng 20%, công nghiệp sản xuất điện, khí đốt, hơi nước chiếm khoảng 5,4% công nghiệp khai thác từ 4,8% năm 1995 trong GDP, công nghiệp chế tác từ 15,0% năm 1995 lên 18,7% năm 2000 trong tổng giá trị công nghiệp. Cơ cấu ngành cô._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34081.doc
Tài liệu liên quan