Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn

mở đầu Đất nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất lương thực chủ yếu là cây lúa nước mà một số hoa màu khác nhưng phân tán. bên cạnh đó, nề kinh tế của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, chưa có đượcnề tảng để tạo đà phất triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra cho nền kinh tế nông nghiệp một hướng đi mới với một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước và đặc b

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt là nền kinh tế nông nghiệp đã được chú trọng hơn. Từ sau nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và nhiều chính sách mới được ban hành đã giải quyết được những ràng buộc phong kiến phi kinh tế trong nông nghiệp và chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng với nhân dân khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm người và người lao động. Đây được coi là chìa khoá vàng để mở ra thời kỳ mới của nông ngiệp. Bởi vì Đảng ta đã xác định để phát triển được nền kinh tế thì trước tiên là phải phát triển được nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với xu hướng giảm tỷ trọng cây lượng thực, tăng dần tỷ trọng cây công nghiệp và thuỷ sản và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong nông thôn và tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Phát triển nông ngiệp một cách toàn diện nhằm từ đó tích luỹ cho công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế. Việc thực hiện những chiến lược đó phụ thuộc phần lớn vào hiệu quả đổ mới cơ chế quản lý, các chính sach hồ tự phát triển và chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thực hiện như thế nào, tập trung vào những gì, thực thi những ngành nào mũi nhọn và then chốt, xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp... là hàng loạt những vấn đề cần phải được tính đến. Bài viết này được chia thành 3 phần: Phần I. Những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông ngiệp Phần II. Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ trước năm 1985-1988 tới nay. Phần III. Giải pháp cho xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001-2005 Phần I: những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp I. Vai trò, vị trí, đặc điểm của Nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Nông nghiệp là một lĩnh vực rất phong phú. Nông dân sống ở khu vực nông nghiệp gắn liền với nông thôn, sản xuất gắn liền với thiên nhiên, với môi trường và gặp nhiều rủi ro, đặc biệt là đối với nước chưa phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu. Đại bộ phận, xét một cách tổng thể, các nước đang phát triển và kém phát triển có trên 80% dân số và 70% lao động xã hội tập trung ở nông với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, kỹ thuật canh tác lạc hậu, trình độ lao động thấp. Người nông ở đây, họ vừa là những người sản xuất vừa là những người tiêu thụ sản phẩm của chính bản thân họ làm ra. Bởi vậy, tính phối hợp liên ngành (cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản phẩm) còn ở mức độ thấp, đóng góp từ khu vực nông nghiệp và thu nhập quốc dân chưa cao và bất ổn định. Bên cạnh đó nông nghiệp Việt Nam còn có đặc điểm nổi bật khác do những điều kiện tự nhiên và lịch sử đặc biệt. Nước ta nằm ở khu vực nhiệt đới, đất nước trải dài theo hướng Bắc-Nam, phần lớn địa hình là đồi núi, có ba mặt tiếp giáp với biển… chính vì vậy, có thảm thực vật phong phú, đa dạng, có tiềm năng sinh khối lớn, nhiều loài vật có giá trị kinh tế cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa dạng và có thể đi vào chuyên canh nhiều loại cây, con. Hiện nay, nông nghiệp nước ta sản xuất lương thực chủ yếu là cây lúa nước nhưng phần tán, việc áp dụng các kỹ thuật cơ giới hoá, hiện đại hoá vào sản xuất nông nghiệp thiếu kinh nghiệm và còn nhiều bất cập. -Nước ta đất chật, dân số không ngừng tăng lên lên khả năng mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hạn chế. -Việc chuyển nền nông nghiệp Việt Nam sang sản xuất hàng hoá gặp nhiều khó khăn về vốn, kỹ thuật, trình độ lao động, khả năng quản lý … Đây là những đặc điểm nổi bật cần phải khắc phục nhanh chóng tạo tiền đề cho nhiệm vụ công nghiệp hoá -hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta theo hướng bền vững, tiến lên một nền nông nghiệp mà : -Đi vào sản xuất hàng hoá -Năng suất cây trồng và gia súc cao. -Năng suất lao động cao. -Sử dụng hệ thống thuỷ canh. Và khắc phục những hạn chế : -Sử dụng năng lượng lãng phí -Chất lượng nông sản kém. -Môi trường bị ô nhiễm. 2. Vai trò, vị trí của sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Bởi vì các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho nhân dân, Chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn. Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu, đổi lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế . Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế việc tăng dân số ở khu vực ở khu vực thành thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng nâng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu nông nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Khu vực công nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, có ý nghĩa lớn là vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. Theo Timer-1988, Morris và Adelma -1981 từ kinh nghiệm thực tế của thế kỷ XIX và nhất là thập kỷ gần đâycho thấy, phát triển nông nghiệp là một điều kiện tiên quyết cho sự thành công của công nghiệp hoá (do tích luỹ từ công nghiệp mang lại) hình thành và phát triển thị trường trong nước, giải quyết việc làm ở nông thôn trong thời gian đầu, hạn chế áp lực làm chậm quá trình công nghiệp hoá …) Theo Timmer-1988 ở giai đoạn bắt đầu phát triển nông nghiệp chiếm phần lớn sản phẩm trong nước, tích luỹ chủ yếu từ nông nghiệp, nguồn thu của Nhà nước chủ yếu do các loại thuế đánh vào nông nghiệp. +Giai đoạn nông nghiệp đóng góp củ yếu cho sự tăng trưởng một phần nguồn thu từ nông nghiệp được đầu tư lại hco nông nghiệp (chủ yếu cho nghiên cứu và cơ sở hạ tầng) sản lượng nông nghiệp tăng lên. +Giai đoạn lao động nông nghiệp bắt đầu giảm, nông nghiệp phải được liên kết về thị trường lao động và tín dụng liên kết kinh tế thành thị-nông thôn, nông nghiệp ngày càng phụ thuộc vào thị trường. +Giai đoạn nông nghiệp dưới mức 20% của tổng lao động trong nước, nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp linh hoạt của Nhà nước. Để đạt được như vậy thì điều kiện đầu tiên quan trọng nhất là ta phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. ii. chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với phát triển nông nghiệp - nông thôn. 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là bộ phận cấu thành rất quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế -xã hội ở nước ta. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là tổng thể của kinh tế bao gồm mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong những khoảng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sau khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị và nhiều chính sách mới được ban hành đã giải được những khả năng buộc phong kiến phi kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, tạo cho nông nghiệp đạt được những thành tựu to lớn góp phần từng bước chuyển nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và nông thôn nói chung đã và đang có sự khởi sắc, sản xuất phát triển đời sống nhân dân được cải thiện. Mặt khác, việc chuyển dịch cơ cấu ngành, theo vùng, lãnh thổ, theo các thành phần kinh tế, theo cơ cấu kỹ thuật - công nghệ hướng tới nền sản xuất hàng hoá và đạt được nhiều tiến bộ đángg kể. Thế nhưng ở trong phạm vi của từng vùng trong nước thì không hẳn thế. Do có sự phát triển không đều giữa các vùng trong nước, quá trình đó diễn ra ở các vùng không giống nhau: ở vùng kinh tế phát triển , quá trình đó diễn ra theo trình tự chung còn ở vùng kinh tế kém phát triển, quá trình đó có thể bắt đầu từ việc phá thế độc canh hoá chuyển sang đa canh lúa, màu phát triển chăn nuôi và bước tiếp theô là phát triển các ngành nghề tiều, thủ công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là: tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn còn phải có sự quan hệ rất nhiều tới các ngành khác như phát triển nông nghiệp hàng hoá phải chịu sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp và nông nghiệp không thể tự đi lên nếu không có sự tác động trực tiếp của một nền công nghiệp phát triển. Và được các ngành nghề mới trong nông nghiệp. Trong nông nghiệp và nông thôn, đi cùng với sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn là sự phân công lao động cũng được diễn ra. Từ lao động trồng lúa chuyển sang lao động trồng hoa màu chăn nuôi, làm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nó không chỉ phụ thuộc vào phục vụ cho cả nhu cầu phát triển nông nghiệp mà còn phục vụ cho cả nhu cầu phát triển công nghiệp, thương nghiệp và các ngành doanh nghiệp khác. Từ thế kỷ 20 đã chứng minh và xác định khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển và đổi mới như vũ bão, tính cộng đồng trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngày càng cao, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước không thể tách rời với sự phát triển kinh tế của cộng đồng quốc tế hay cũng như không thể tách rời sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn với cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế chung của cả nước. Mặt khác, sự phân hoá giàu nghèo ở nông nghiệp và nông thôn không thể tránh khỏi, nó diễn ra theo hướng : khi sản xuất hàng hoá kém phát triển thì khoảng cách đó tương đối doãng ra, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao thì khoảng cách đó thu hẹp laih và có thể trở lại khoảng cách ban đầu (nhưng ở trình độ cao hơn). Điều đó chứng tỏ sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết quả, vừa là động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thêm vào đó, ở đâu có trình độ dân trí thấp thì ở đó việc xác lạp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đương nhiên là gặp nhiều khó khăn và khó tránh khỏi sai lầm . Điều này cũng chứng tỏ rằng với với trình độ dân trí hay mặt bằng trong giáo dục có chịu sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. 2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới a. Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đài Loan. Ta biết rằng Đài Loan là một lãnh thổ nhỏ với 2/3 là đồi núi, đất canh tác chỉ có gần 900.000 ha, khí hậu á nhiệt đối và nhiệt đới, bởi vậy cơ cấu nông nghiệp rất đa dạng, phong phú như trồng trọt có lúa nước, lúa mì, khoai lâng, khoai tây, lạc, chuối…. Về chăn nuôi có lợn, gàm vịt , trâu, bò… Ngư nghiệp có điều kiện thuận lợi để phát triển, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản, có những sản phẩm xuất khẩu có giá trị như tôm, cá… Tuy vậy, cho đến giữa thế kỷ xét xử, nông nghiệp Đài Loan vẫn ở tình trạng lạc hậu, sản xuất tiểu nông tự cấp, tự túc. Từ đầu những năm 1950 đến nay cơ cấu nông nghiệp Đài Loan, do có sự tác động của công nghiệp hoá, đã có một bước phát triển mạnh mẽ, cơ cấu nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng sản xuất nông sản hàng hoá, hướng về về xuất khẩu, và đã đạt được những thành tựu to lớn trong thời kỳ công nghiệp hoá. Quá trình đó của Đài Loan được chia làm 3 thời kỳ. *Thời kỳ thứ nhất: Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh chuẩn bị công nghiệp hoá (1949-1953). Trong thời kỳ này, Đài Loan bắt đầu thực hiện cải cách ruộng đất do chính quyền Quốc Dân Đảng thực hiện trong 4 năm (1949-1953) với nội dung: giảm tô từ 50-60% xuống 37,5% (1949), chính quyền đem 130.000 ha ruộng công bán cho 177.000 hộ nông dân thiếu ruộng (1951), ban chấp hành "luật người cày ruộng: (1953), trưng mua số ruộng đất quá hạn mức của địa chủ bán cho nông dân thiếu ruộng. Điều trên đã tạo điều kiện chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp phong kiến tiểu nông sang nền kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hoá Tư bản chủ nghĩa, dọn đường cho công nghiệp hoá. Kết quả, sản xuất nông nghiệp 1952 đạt 129,7% so với năm 1940-19443 (thời kỳ kinh tế thịnh vượng trước đây). Cơ cấu nông nghiệp thời kỳ này vẫn là cơ cấu truyền thông. Năm 1953, trong cơ cấu nông nghiệp, giá trị sản lượng trồng trọt chiếm 71,9%, chăn nuôi chiếm 15,6%, thuỷ sản chiếm 7,4%, lâm nghiệp chiếm 5,1%. Trong ngành trồng trọt: lua chiếm 58,7 %, mì màu 13,3%, cây công nghiệp 19,7%, rau 4,8, quả 3,5%. Trong ngành nông sản xuất khẩu năm 1952 đạt 114 triệu USD chiếm 95,5% kim ngạch xuất khẩu. Nó đánh dấu bước ngoặc đầu tiên của sản xuất nông nghiệp chuyển từ hướng nội thuần tuý sang hướng ngoại. * Thời kỳ thứ hai Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp (1953-1968): Đây là thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá ở Đài Loan nó được thực hiện trong 4 kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia (NEDP) Biểu 1: Cơ cấu nông nghiệp thời kỳ 1953-1968 Năm Giá trị sản lượng nông nghiệp Trồng trọt Chăn nuôi Ngư nghiệp Lâm nghiệp 1953 10.390 (1) 71,9% 15,6% 7,4% 5,1% 1968 48.883 60,1% 23,0% 10,6% 6,3% (1) Triệu đồng Đài Loan. Với chức năng phát triển nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp trong thời gian 1953-1968, nông nghiệp Đài Loan tập trung vào các mục tiêu: -Nâng cao nông nghiệp bằng đa dạng hoá sản phẩm và cạnh tranh để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho nhân dân. -Mở rộng xuất khẩu nông sản phẩm phục vụ công nghiệp hoá . -Cung cấp nguyên liệu và lao động cho công nghiệp để phát triển công nghiệp hoá. Kết quả: sản phẩm trồng trọt chính (lúa, mía, rau quả) tăng từ 60-400%, năng suất cấy trồng từ 50-200%, sản lượng thuỷ sản tăng 400%, lâm sản tăng 50%-120%. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 266,590 triệu USD, tăng 220%. Điểm chủ ý ở đây là cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ 1953-1968 đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá. Giá trị sản lượng nông, lâm ngư nghiệp năm 1968 tăng 5 lần so với 1953, cơ cấu giá trị chăn nuôi tăng từ 15,6% lên 23%, ngư nghiệp từ 7,4%-10,6%, lâm nghiệp từ 5,1%-6,3%. * Thời kỳ thứ ba Cơ cấu nông nghiệp trong thời kỳ phát triển công nghiệp để hỗ trợ nông nghiệp (1961 đến nay). Một trong những nội dung chủ yếu trong thời kỳ này là tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu và khả năng của công nghiệp hoá. Số trang trại gia đình bắt đầu giảm, lao động nông nghiệp giảm từ 1,6 triệu (1969) xuống 1,09 triệu (1991). Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội giảm từ 38,9% (1969) xuống 12,9% (1991). Diện tích canh tác giảm 914 ha (1969) xuống 883540 ha (1991). Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 47731 triệu Đài Loan (1969) lênhà nước 234185 triệu (1981). Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng 297 triệu USD (1969) lên 10,042 tỷ USD (1991). Biểu 2: cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp (1968-1981) Năm Giá trị Sl (1) nông nghiệp Tỷ trọng giá trị sản phẩm (%) Trồng trọt Chăn nuôi Ngư nghiệp Lâm nghiệp 1968 48833 60,1 23 9,5 5,6 1981 234185 47,1 29,5 21,4 2,0 (1) triệu đồng Đài Loan Kế hoạch của Đài Loan từ nay đến sau năm 2000 là tiếp tục chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp theo phương hướng chọn được cơ cấu nông nghiệp hợp lý trong điều kiện công nghiệp phát triển đạt trình độ cao, đất đai và lao động đất ở trong nước tập trung và sản xuất. Kế hoạch của Đài Loan từ nay đến sau năm 2000 là tiếp tục chuyển dịch chuyển nền kinh tế nông nghiệp theo hướng chọn được cơ cấu nông nghiệp hợp lý trong điều kiện công nghiệp phát triển đạt trình độ cao, đất đai và lao động đất ở trong nước tậ trung vào sản xuất các sản phẩm cần ít đất đai, lao động, đem lại giá trị kinh tế và lợi nhuận cao và tìm cách xuất khẩu vốn công nghệ , chuyên gia nông nghiệp ra các nước ngoài, có đất đai và lao động rẻ hơn, để sản xuất nông sản đưa về nước và đem xuất khẩu. Kết luận: +Trong thời gian từ 1949-1953 để mở đường cho công nghiệp hoá Đài Loan đã thực hiện cải cách ruộng đất, chuyển phương thức sở hữu và sử dụng đất phong kiến sang phương thức sử dụng ruộng đất tư bản chủ nghĩa. +Đài Loan đã chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ hướng nội phục vụ nhu cầu nhu cầu trong nước sang hướng ngoại phục vụ nhu cầu xuất khẩu nông sản. +Đã chuyển dịch cơ cấu nông lâm ngư nghiệp cho phù hợp từng thời kỳ công nghiệp hoá theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi thuỷ sản, rau quả và giảm tỷ trọng lương thực, lâm sản. +Chuyển dịch lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp ở thành thị và nông thôn, tạo ra thu nhập cao hơn, đáp ứng nhu cầu cho công nghiệp. +Chuyển dịch lao động động thủ công trong nông thôn sang lao động cơ khí trên lao động chuồng trại và trong xí nghiệp chế biến nông sản. + Khi công nghiệp phát triển trình độ lao động cao, sẩn xuất nông nghiệp có xu thế giảm sản xuất mọt số nông sản và thay thế bằng nông sản nhâp khẩu có lợi cao, chuyển sản xuất nông nghiệp từ nội địa ra nước ngoài, nhằm vào đất nước có đất đai và lao động rẻ để sản xuất và xuất khẩu nông sẩn từ nước ngoài có lợi hơn. b. Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Indonesia. Với hơn 200 triệu dân và 70% dân cư sống ở nông thôn, ngành nông nghiệp Indonesia có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nnn1 của Indonesia quan tâm sâu sắc, trong đó chính sách phát triển nông nghiệp tập trung sản xuất lương thực, thực phẩm vì mục tiêu an toàn lương thực, thực phẩm và đề cao vai trò khu vực nông thôn. Để thực hiện việc dễ dàng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chính phủ nước này đã tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, công trình thuỷ lợi, nghiên cứu ứng dụng các loại giống cao sản… đều được trợ giá ở mức độ khác nhau. Đây chính là điều kiện nhằm khuyến khích phát triển cho nền kinh tế nông nghiệp. Cơ cấu và diện tích cây trồng liên tục được mở rộng, chú trọng phát triển những cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu ở các trang trại nhà nước và tư nhân. Trong khu vực Đông Nam á, Indonesia thực hiện khá tốt chính sách phát triển kinh tế trang trại. Nhờ đó, Indonesia trở thành nước xuất khẩu ca cao, cà phê, chè hàng đầu thế giới. Chính phủ nước này luôn cố gắng duy trì sự cần bằng tương đối giữa nông nghiệp và những ngành công nghiệp, dịch vụ.. đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ giải quyết các yếu tố đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. +Vị trí đại lý và khí hậu tự nhiên: ở những vị trí địa lý khác nhau và vùng khí hậu khác , việc xác định cơ cấu kinh tế cũng khác nhau. Xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn cũng có nghĩa là xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở các vùng điều kiện địa lý và khí hậu tự nhiên khác nhau của nước ta. Bởi vậy, cơ cấu kinh tế của một nước, một vùng bao giờ cũng dựa trên qu thế về điạ lý và khí hậu của nước đó, vùng đó. +Các nguồn lợi: bao gồm tài nguyên khoáng sản,nguồn nước, nguồn năng lượng, đất đai… có hay không có, có nhiều hay có ít các tài nguyên này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định cơ cấu kinh tế của một quốc gia nó chung và của vùng đó nói riêng. +Phong tục tập quán và truyền thống dân tộc: Đây là nhân tố vừa có tác dụng thúc đẩy vừa có tác dụng kìm hãm. Một quốc gia nào hay một vùng nào đó ở đâu đó có phong tục tập quán canh tác lạc hậu ví dụ như du canh, du cư thì ở đó có sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất diễn ra không thể nhanh chóng và suôn sẻ được. Ngược lại, ở đâu có tập tụ, tập quán truyền thống sản xuất tiến bộ thì ở đó việc làm chuyển biến cơ cấu kinh tế nói chung sẽ dễ dàng hơn. +Trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ : với trình độ này càng cao thì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ càng dễ dàng hơn và công nghệ hiện đại, tiên tiến đó sẽ là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng. +Con người: ta biết rằng cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, thế nhưng việc nó hình thành nhanh hay chậm , hợp lý hay không hợp lý, lại do tác động chủ quan của con người. Bởi vì, con người là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc tiến hành cơ cấu kinh tế. Ví dụ điển hình như Nhật Bản, một nước hiếm tài nguyên, đất nước vươn lên ngang tầm với các nước phát triển nhất trên thế giới, một đất nước có nền kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển. 4. Sự cần thiết phải công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp Chuyển dịc cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng ngày càng tiến boọ là một xu thế tất yếu khách quan của các nền kinh tế quốc gia khác nhau, nó vừa có những nét chung mang tính quy luật và vừa có những nét riêng mang tính đặc thù phù hợp với yêu cầu và điều kiện cụ thể của nền kinh tế mỗi quốc gia ấy trong từng thời kỳ lịch sử. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là kết quả của sự phát triển trong cạnh tranh trên thị trường, những ngành có hiệu quả cao sẽ phát triển ngày càng mạnh mẽ, các ngành kém hiệu quả sẽ bị thu hẹp lại, mà việc chủ động thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo mục tiêu và nhu cầu của sự phát triển, gắn với dự báo tiến bộ khoa học công nghệ và thị trường là một trong những khâu quyết định tạo ra tăng trưởng kinh tế, ở những nước có công nghệ tiên tiến thì luôn tạo ra công nghệ mới, còn ở những nước đang phát triển thì tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, từ đó hình thành cơ cấu mới trong công nghiệp và trong nền kinh tế với các ngành nghề mới, sản phẩm mới, tạo ra sức cạnh tranh cao và tăng trưởng nhanh. Đất nước ta xuất phát và đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển vượt bậc. Thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ thúc đẩy được nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung, chuyên canh như: lúa, cao su, cà phê, chè.. Hơn nữa, với ngành công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản đã có những bước tăng trưởng đáng kể . Đó là điều kiện nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Phần ii: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 1985 đến nay. i. Giai đoạn từ trước năm 1985-1988 Nông nghiệp nước ta trong giai đoạn này gặp rất nhiều những rào cản, vượt qua tình trạng khủng hoảng và suy thoái kéo dài trong những năm 1976-1980. Đến tháng 1-1980 - Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời lúc đó với nhân dân khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm người và hộ lao động (và đây thực chất là khoán hộ). Chính vì vậy, đã được coi là chìa khoá vàng mở ra thời kỳ mới của nông nghiệp và cả của kinh tế nông thôn. Những kết quả đạt được trong giai đoạn này của sản xuất nông nghiệp là những thành tựu bước đầu hơn hẳn các thời kỳ trước. Bình quân 5 năm 1981-1985 so với bình quân 5 năm 1976-1980 sản lượng lương thực tăng 27%, riêng thóc tăng lên 32%, năng suất lúa tăng 23%, lương thực bình quân đầu người tăng 14%, đàn trâu tăng 8%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 22%. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5/4/1988) về đổi mới quản lý nông nghiệp với nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Sản xuất lương thực đã tăng lên với xu hướng năm sau cao hơn năm trước: năm 1987 là 17,5 triệu tấn, 1988 là 19,6 triệu tấn. Trong gần 3 thập kỷ lương thực ở nước ta luôn là vấn đề nóng bỏng, tình trạng thiếu lương thực diễn ra triền miên. Riêng 13 năm (1976-1988) nước ta nhập khẩu 8,5 triệu tấn quy gạo, bình quân hàng năm nhập 0,654 triệu tấn. Mặt khác, nông nghiệp nước ta mang nặng tính độc canh (vào những năm đấuau thời kỳ giải phóng). Diện tích cây lương thực năm 1976 chiếm 88,0% trong đó lúa chiếm 75,2% tổng diện tích gieo trồng, các loại cây trồng khác chiếm tỷ trọng diện tích còn thấp. Cây công nghiệp chiếm 6%, cây ăn quả 2%. Từ năm 1981 trở đi lương thực có sự phát triển, vấn đề lương thực giảm bớt khó khăn cho nhân dân ta trong nghiên cứu năm của thời kỳ đó. Nông nghiệp trong thời gian này cũng đã có được sự đóng góp quan trọng trong việc tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho đất nước với quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, do vậy, kinh tế nước ta đã có những tiến bộ khởi sắc và chuyển biến tích cực. Năm 1986 giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 513 triệu rúp-đo la. Có được những bước đầu khởi sắc của giai đoạn gần thập niên 90 này là do sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta nhằm từng bước phát triển nền kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng. Trong giai đoạn này, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới bắt đầu được hình thành song vẫn chưa được quan tâm đúng mức vì do điều kiện kinh tế nước ta tác động. Nông nghiệp ta thời kỳ này vẫn độc canh là chủ yếu, cây trồng vật nuôi mới chỉ là "có sự góp mặt" còn chủ yếu là lúa, hoa màu cho ta năng xuất thấp khiến nước ta vẫn phải nk lương thực, thực phẩm. ii. giai đoahn từ năm 1989 đến năm 1994 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp a. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Trong giai đoạn này, Đảng ta luôn luôn khẳng định sự phát triển kinh tế nước ta phải dựa trên cơ sở kết hợp một cách đúng đắn giữa công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trong hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khoá VII họp tháng 12 năm 1993 đã xác định "từ nay đến cuối thập kỷ phải rất quan tâm đến công nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…" (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiệnn Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Tháng 1 năm 1994). Trước đó nhà nước ta đã có chính sách ưu tiên , phát triển cho nông nghiệp và nông thôn, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tháng 1 năm 1980, chỉ thị 100 của Ban chấp hành bí thư Trung ương Đảng với nội dung khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm và người lao động (thực chất là khoán hộ). Đây là chìa khoá vàng mở ra thời kỳ mới của nông nghiệp và kinh tế nông thôn cho nước ta. Tiếp đến là Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5-4-1988) về đổi mới quản lý nông nghiệp với nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Đây là một mốc mới đánh dấu cho sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Những chính sách của Đảng và nhà nước ở trên là một tiền đề mở ra cho nền nông nghiệp một hướng đi mới, tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta một cách cơ nền tăng trưởng, có hiệu quả hơn. Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã và đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta một cách có nền tảng, có hiệu quả hơn. Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã và đang chuyển dịch theo cơ cấu ngành, theo vùng, theo lãnh thổ tới nền sản xuất hàng hoá, với những tiến bộ đáng kể: * Một là: cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển biến khá rõ nét, đã và đang tạo thế cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Với thành tựu to lớn nhất của nông nghiệp trong giai đoạn này là căn bản giải quyết được vấn đề lương thực. Sau 18 năm kể từ trước những năm 1985-1988, sau lượng lương thực nước ta tăng 86,6%, mức lương bình quân đầu người từ 274,4kg/năm năm 1976 tăng lên 359,2kg/năm 1993. Chỉ trong thời gian 6 năm ở giai đoạn này, khối lượng gạo xuất khẩu từ 1,5-2,0 triệutấn và xếp hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo trên thế giới. Giải quyết được vấn đề lương thực là điều kiện quyết định để phát triển đa dạng hoá cây trồng và vật nuôi. Đến năm 1993 diện tích cây công nghiệp tăng lên 1290.000ha, chiếm 13,3% trong đó cây công nghiệp tăng 3,77 lần, cây ăn quả tăng 3,0 lần so với trước những năm 1985-1988, tỷ trọng diện tích cây lương thực giảm xuống 78,4% trong đó riêng lúa chiếm 65,7. Lương thực dồi dào, nguồn thức ăn phong phú tạo điều kiện để phát triển chăn nuôi, trong đó đàn lợn là nguồn cung cấp thịt chủ yếu cho nhân dân, năm 1991 chiếm 70,5% tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng. Năm 1993 số lượng đàn bò ở Miền bắc đã gấp 2,56 lần so với năm 1976 và gấp 2,45 lần so với năm 1980. Ngoài ra, chăn nuôi gia cầm đang phát triển mạnh về số lượng và chủng loại cùng với phương thức chăn nuôi truyền thống, nông dân đã tiếp thu phát triển chăn nuôi theo kiểu công nghiệp. Trong những năm của giai đoạn này, thuỷ sản đã có bước phát triển đáng kế, công tác nuôi trồng thuỷ sản được co trọng, nhất là vùng ven biển. Những cơ sở sản xuất giống và nuôi tôm xuất khẩu được phát triển , mở rộng các hình thức tổ chức liên doanh với nước ngoài để nuôi tôm được triển khai ở ven biển Miền trung. Việc đánh bắt hải sản đang được khôi phục và phát triển ở nhiều địa phương, tầu thuyền, các phương tiện đánh bắt được tăng cường, nhờ vậy mà sản lượng thuỷ hải sản tăng nhanh, sản phẩm xuất khẩu ngày càng lớn. Biểu 3: Cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản cả nước 1991-1994 (%) 1991 1992 1993 1994 Nông nghiệp 84,5 84,7 84,5 85,3 Lâm nghiệp 7,7 6,8 7,0 6,5 Thuỷ sản 7,6 8,5 8,5 8,2 Việc giao đất, giao rừng được tiến hành rộng rãi tới người dân, việc bảo vệ, khoanh nuôi và tái sinh rừng tốt hơn, diện tích rừng trồng tăng lên, kết hợp trồng rừng với trồng cây công nghiệp, làm vườn và chăn nuôi, góp phần tạo ra sự bền vững về sinh thái và xã hội để phát triển rừng. ở nhiều vùng có dự án 327 đang triển khai tốt bước đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế lâm nghiệp miền núi. Nhà nước chủ trương hạn chế khai thác xuất khẩu gỗ tròn, sản lượng gỗ và kim ngạch xuất khẩu lâm sản có giảm xuống, những rừng đang từng bước được hồi phục. Chính nhờ vậy, nông nghiệp đã đóng góp quan trọng việc tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, kinh tế nước ta đã có những tiến bộ và chuyển biến tích cực. Năm 1993 tăng gần 3 lần (1500 triệu rúp đola) đến năm 1994 tăng lên khoảng 1800 triệu đô la, chiếm 48,0% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. * Hai là: ở các vùng sinh thái của đất nước đã bư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24279.doc
Tài liệu liên quan