Phần I: JSP TECHNOLOGY
Chương I: CĂN BẢN VỀ JSP
JavaServer Pages (JSP) là một kỹ thuật server-side do đó chúng ta không thể thực hiện bất kỳ hành động nào ở client. JSP cho phép chúng ta tách thành phần động của trang ra khỏi thành phần tĩnh HTML. Rất đơn giản, chúng ta chỉ cần viết một tài liệu HTML bình thường rồi sau đó bao quanh mã của thành phần động trong các tag đặc biệt, hầu hết các tag bắt đầu với . Ví dụ, đây là một phần của trang JSP, có kết quả trả về là “Thanks for reading jsp b
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3644 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu JSP Java Beans, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ook.” với URL là
Thanks for reading book.
Kỹ thuật JSP là một thành phần trong đại gia đình Java; nó sử dùng ngôn ngữ kịch bản dựa vào ngôn ngữ lập trình Java, và các trang JSP được biên dịch thành servlets. Từ đó chúng ta cũng nhận biết được, JSP thì không phụ thuộc bất kỳ nền (platform) nào. Nó đáp ứng được khuynh hướng của Sun MicroSystem là “write one, run anywhere”.
Các trang JSP có thể gọi các thành phần JavaBeans, Enterprise JavaBeans (EJB) hoặc custom tags để thực hiện các xử lý trên server. Và như thế, kỹ thuật JSP là thành phần chủ chốt trong kiến trúc khả chuyển của Java cho những ứng dụng dựa vào Web.
Như đã biết, JSPs sẽ biên dịch thành servlets nhưng JSP không thể thay thế servlet vì các lý do sau:
Một số tác vụ được giải quyết rất tốt bằng servlet. Ví dụ, các ứng dụng xuất ra dữ liệu nhị phân hoặc chỉ xác định nơi gởi trở lại cho người dùng (bằng cách dùng response.sendRedirect) được dùng servlet thì tốt nhất.
Một số tác vụ khác lại được giải quyết rất tốt bằng JSP như các tình huống mà cấu trúc nền tảng của trang HTML là cố định nhưng các giá trị trong nó lại thay đổi.
Còn các tác vụ còn lại cần sự kết hợp cả servlet và JSP. Ví dụ, trong yêu cầu gốc được trả lời bằng một servlet mà thực hiện mọi công việc, lưu trữ các kết quả trong các Beans và điều phối yêu cầu này đến một trong những trang JSP có thể hiển thị nó.
Cả ba định hướng này đều có chổ đứng của nó. Chẳng có định hướng nào hổ trợ đầy đủ cho mọi ứng dụng .
Trước khi đi vào chi tiết công nghệ JSP, chúng tôi có một vài so sánh các công nghệ được sử dụng trong ứng dụng với các công nghệ khác.
Một số so sánh các công nghệ được sử dụng với công nghệ khác?
MySQL Server.
MySQL là hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ. Cơ sở dữ liệu là một tập dữ liệu có cấu trúc và được lưu trữ trong các bảng riêng biệt, mỗi bảng được lưu trong ba files với tên cơ sở dữ liệu là tên thư mục chứa các files đó. SQL được viết tắt từ Structured Query Language, là ngôn ngữ chuẩn phổ biến nhất để truy cập cơ sở dữ liệu. Sau đây là một số ưu và nhược điểm của MySQL với các hệ quản trị cơ sở dữ liệu khác:
Ưu diểm.
Chạy được trên rất nhiều nền khác nhau như Unix, Windows, MacOS, ….
MySQL là hệ quản trị nhanh, nhỏ gọn. Các script files có thể chạy trên một số hệ quản trị khác như MS SQL Server, Oracle.
Theo một số web site thống kê, việc thực hiện các lệnh insert, update, delete nhanh nhất trong các hệ quản trị.
Miễn phí và mã nguồn mở (open source code).
Khuyết điểm.
Chưa hổ trợ một số chuẩn ANSI SQL92 như không cho các câu select lồng nhau, select into table, khoá ngoại, triggers, stored procedures,…
Không có môi trường đồ hoạ.
So sánh JSP với các công nghệ khác.
JSP với ASP.
ASP là công nghệ tương đương từ Microsoft. JSP có ba lợi thế so với ASP.
Phần động được viết bằng Java, chứ không phải bằng các ngôn ngữ script như VBScript, JavaScript. Vì thế nó mạnh mẽ hơn tốt hơn đối với các ứng dụng phức tạp cần các thành phần sử dụng lại.
JSP chạy được trên nhiều hệ điều hành và web servers khác nhau ngay cả với IIS của Microsoft (cần có plugins từ Webphere, JRun, ...)
Hổ trợ sự mở rộng tag với custom tag.
JSP với PHP.
Lợi điểm của JSP với PHP cũng như với ASP. JSP được viết bằng Java mà chúng ta đã biết với các API mở rộng cho mạng, truy cập cơ sở dữ liệu, các đối tượng phân tán, … trong khi với PHP đòi hỏi chúng ta phải học cả một ngôn ngữ mới.
Tầm quan trọng của XML cùng với XSLT.
XML.
XML là tập con của SGML, nó kết hợp tính linh động và sức mạnh của SGML cùng với một số tính năng hữu ích của HTML. Vì XML là tập con của SGML nên nó cũng tương thích với các hệ thống dựa vào SGML đã có. XML là lực đẩy cho các nghi thức trên internet và các phần mềm để dễ dàng xử lý và truyền dữ liệu.
Ở trên đã nói XML là tập con của SGML và HTML là một sự cài đặt của SGML, mô hình sau đây diễn tả mối quan hệ giữa các ngôn ngữ và các siêu ngôn ngữ:
SGML
HTML
XML
CDF
SMIL
CML
MML
Metalanguages Languages Implementation
subset
Implementation
CDF : Channel Difinition Format – cho phép các tác giả của các Web sites cho phép các người đăng ký biết khi nào Web site này thay đổi, CDF đã được giới thiệu trong IE4 vì vậy nó chỉ làm việc với IE của Microsoft.
SMIL : Synchronized Multimedia Integration Language – được sử dụng để đồng bộ hóa các dòng dữ liệu đa truyền thông được truyền qua internet.
CML : Chemical Markup Language – mô tả các công thức hóa học.
MML: Mathematical Markup language- mô tả các phương trình, biểu thức toán học.
Tính tự mô tả dữ liệu của XML : các tags mô tả các vấn đề, các đối tượng gần gủi với thế giới thực. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn với hai ví dụ sau, đây là ví dụ minh họa nên nó còn thiếu nhiều thuộc tính trong thế giới thực :
Ví dụ với XML tags
Giang
Le
Dinh
0750
22
Ví dụ với HTML tags
Giang
Le
Dinh
Number id :
0750
Age :
22
XML có mối quan hệ chặt chẽ với JSP, đặt tả JSP hổ trợ cú pháp XML, chúng ta có thể trộn lẫn mã chúng với nhau dễ dàng như JSP với HTML như thế chúng ta có thể dùng JSP tự động phát sinh trang XML.
Hiện nay có rất nhiều sản phẩm quản trị cơ sở dữ liệu mà mỗi sản phẩm đều có các đặc tính riêng nó, do đó khi các cơ sở dữ liệu khác nhau cần chuyển đổi dữ liệu với nhau lại không tương thích. Vì vậy người làm công việc này cần phải biết nhiều sản phẩm quản trị cơ sở dữ liệu khác nhau. Do đó XML là một định dạng chuẩn mà các hệ quản trị cần hổ trợ. Hiện nay có nhiều hệ quản trị lớn hổ trợ XML như MS SQL Server, Oracle, …
XSLT.
Extensible Stylesheet Language Transformation (XSLT) là một ngôn ngữ được tách ra từ ngôn ngữ XSL, “XSLT là một ngôn ngữ dùng để chuyển đổi các XML document thành các XML document khác”. Nó được viết bằng XML, điều này có nghĩa rằng sự chuyển đổi trong XSLT được trình bày như một well-formed XML document. XSLT đóng vai trò quan trọng trong hướng phát triển “phát sinh ngôn ngữ markup hướng người dùng”.
JSP scripting elements.
Các scripting elements trong JSP cho phép chúng ta chèn mã vào servlet mà sẽ được phát sinh từ trang JSP. Có ba dạng sau:
Biểu thức có dạng , được định giá trị và chèn vào luồng xuất của servlet.
Scriptlet có dạng , được chèn vào phương thức _jspService của servlet (được gọi là service).
Khai báo có dạng , được chèn vào thân của lớp servlet, như là các field của lớp thông thường.
Template text
Trong nhiều trường hợp, phần lớn các trang JSP chỉ bao gồm HTML tĩnh, được biết như là template text. Có hai ngoại lệ phụ cho quy tắc “template text được chuyển thẳng sang HTML tĩnh”. Đầu tiên, nếu chúng ta muốn có <% trong luồng xuất thì chúng ta cần phải đặt <\% trong template text. Thứ hai, nếu chúng ta muốn có chú thích trong JSP mà không có trong tài liệu kết quả, dùng:
Chú thích HTML có dạng:
thì được chuyển qua tài liệu HTML thông thường.
Cú pháp XML
Trong JSP có rất nhiều element có cú pháp XML như jsp:useBean, jsp:include, jsp:setProperty, ... Tuy nhiên scripting elements lại có hai dạng cú pháp sau:
JSP Syntax
XML Syntax
Java code
Java code
Java code
Các biến được định nghĩa sẵn trong JSP
Để đơn giản hoá mã trong các biểu thức hay scriptlets trong JSP, người ta cung cấp cho chúng ta chín đối tượng đã được định nghĩa trước, có người còn gọi là các đối tượng ngầm định. Do các khai báo trong JSP nằm ngoài phương thức _jspService (được gọi bởi service) nên các đối tượng này không cho phép các khai báo truy cập vào.
request
Biến này có kiểu là javax.servlet.http.HttpServletRequest, có phạm vi trong một yêu cầu (request). Nó cho phép chúng ta truy cập vào các tham số của request như loại request (GET, POST, …) và các incoming HTTP header (cookies).
response
Có kiểu là javax.servlet.http.HttpServletResponse, có phạm vi toàn trang (page). Chú ý rằng vì luồng xuất thì thường làm vật đệm cho nên việc gán mã tình trạng của HTTP và response header thì hợp lý trong JSP, mặc dù điều này thì không được phép trong servlet một khi đã có luồng xuất nào được gởi đến client.
out
Có kiểu javax.servlet.jsp.JspWriter và phạm vi trong một trang (page). Dùng để gởi các thông xuất đến client. Đối tượng out được dùng thường xuyên trong scriptlets, các biểu thức tự động được đưa vào luồng xuất nên hiếm khi cần tham chiếu đến đối tượng này.
session
Có phạm vi trong một phiên truyền (session) và kiểu tương ứng là javax.servlet.http.HttpSession. Gọi về các phiên truyền được tạo tự động vì thế biến này vẫn còn kết nối ngay cả chẳng có một tham chiếu incoming session nào. Một ngoại lệ là nếu chúng ta sử dụng thuộc tính session của page directive để tắc các phiên truyền, mà lại cố tham chiếu đến biến session thì sẽ gây ra các lỗi vào lúc trang JSP được dịch thành servlet.
application
Biến này có kiểu là javax.servlet.ServletContext, có phạm vi trong toàn ứng dụng (application). ServletContext lấy từ một đối tượng cấu hình servlet là getServletConfig().getContext(). Các trang JSP có thể lưu trữ dữ liệu persistent trong đối tượng ServletContext tốt hơn là trong các biến thể hiện. ServletContext có các phương thức setAttribute và setAttribute mà cho phép chúng ta lưu trữ dữ liệu
config
Biến này có phạm vi trang (page) và có kiểu tương ứng là javax.servlet.ServletConfig.
pageContext
Biến này có kiểu là javax.servlet.jsp.PageContext và có phạm vi là trang (page). pageContext cho phép một điểm truy cập duy nhất tới nhiều thuộc tính của trang và cung cấp một nơi thuận tiện để lưu trữ dữ liệu dùng chung. Biến pageContext lưu trữ giá trị của javax.servlet.jsp.PageContext cùng với trang hiện hành. Có thể xem chi tiết trong chương II về JavaBeans.
page
Biến này đồng nghĩa với this và điều này thì không hữu ích trong ngôn ngữ lập trình Java, có kiểu là java.lang.Object và có phạm vi trang (page).
exception
Trong một trang lỗi, chúng ta có thể truy cập vào đối tượng exception. Biến này có kiểu là java.lang.Throwable và phạm vị là trang (page).
Biểu thức trong JSP
Biểu thức trong JSP được dùng để chèn các giá trị trực tiếp vào luồng xuất. Nó có dạng sau:
Biểu thức này được định trị, được chuyển thành chuổi, và được chèn vào trong trang. Sự định trị diễn ra ở thời gian runtime (khi trang được yêu cầu) và do đó có đầy đủ quyền truy cập các thông tin của yêu cầu này. Ví dụ sau đây mô tả ngày/giờ mà trang được yêu cầu:
Current time:
Trong Java mỗi câu lệnh đều có dấu ‘;’ kết thúc dòng. Tại sao biểu thức trong JSP lại không có dấu ‘;’? Vì biểu thức này được đưa vào luồng xuất chẳng hạn như PrintWriter. Với ví dụ trên có thể chuyển vào servlet như sau:
PrintWriter out = response.getWriter();
out.println(“Current time:” + new java.util.Date());
Biểu thức như là giá trị trong elements khác.
Biểu thức có thể được sử dụng trong các thuộc tính của các elements khác. Giá trị từ các biểu thức này sẽ được tính vào thời gian yêu cầu (request time). Các elements cho phép sử dụng biểu thức trong các thuộc tính của chúng là:
Tên Element
Tên thuộc tính
jsp:setProperty
name và value
jsp:include
page
jsp:forward
page
jsp:param
value
Ví dụ expression.jsp.
Đây là một ví dụ hoàn chỉnh đầu tiên của JSP. Nó chỉ hiển thị thời gian hiện thời, tên máy,.. khi file này được truy cập.
Code 1: expression.jsp
<!DOCTYPE html
PUBLIC "-//W3C//DTD XHTML 1.0 Strict//EN"
"DTD/xhtml1-strict.dtd">
JSP Expressions
<meta name="description" content=
Code 1: expression.jsp (tiếp theo)
"A quick example of JSP expressions." />
<link rel="stylesheet" href="JSP-Styles.css"
type="text/css" />
JSP Expressions
Current time:
Your hostname:
Your session ID:
The testParam form parameter:
JSP scriptlets
Scriptlets là những đoạn mã có chứa bất kỳ mã Java nào nằm giữa “”. Nếu chúng ta muốn thực hiện thứ gì đó phức tạp hơn là chỉ chèn vào một biểu thức đơn giản thì JSP scriptlets cho phép chúng ta thêm bất kỳ đoạn mã Java nào vào trang JSP. Các scriptlets này được đưa vào phương thức _jspService (mà được gọi bởi service) của servlet. Có cú pháp:
Code 2: scriptlet.jsp
Code 2: scriptlet.jsp (tiếp theo)
JSP Scriptlets
<%
String bgColor = request.getParameter("bgColor");
boolean hasExplicitColor;
if (bgColor != null) {
hasExplicitColor = true;
} else {
hasExplicitColor = false;
bgColor = "WHITE";
}
%>
">
Color Testing
<%
if (hasExplicitColor) {
out.println("You supplied an explicit background color of " + bgColor + ".");
} else {
out.println("Using default background color of WHITE. " + "Supply the bgColor request attribute to try " +
"a standard color, an RRGGBB value, or to see " +
"if your browser supports X11 color names.");
}
%>
Khai báo trong JSP
Một khai báo trong JSP cho phép chúng ta định nghĩa các phương thức hoặc các trường (biến) có phạm vi toàn trang. Khai báo sẽ được chèn vào trong lớp của servlet (bên ngoài phương thức _jspService được gọi bởi service để xử lý một yêu cầu). Một khai báo có dạng sau:
Các khai báo trong JSP thì không phát sinh ra bất kỳ thông xuất nào, chúng thường được dùng để liên kết với các biểu thức hoặc scriptlets. Chẳng hạn, đây là một trang JSP mà in ra số lần truy cập vào trang.
Code 3: declaration.jsp
JSP Declarations
JSP Declarations
Accesses to page since server reboot:
JSP directives.
Directives là các lệnh (chỉ thị) đến JSP container để xử lý trang JSP, chúng tác động lên toàn bộ cấu trúc của lớp servlet. Chúng có dạng sau:
Cú pháp này thì dễ để soạn thảo, ngắn gọn, súc tích nhưng không tương thích với XML (Cú pháp XML ở dưới).
Directives thì không xuất bất kỳ thứ gì ra luồng xuất out. Chỉ có ba directives trong JSP: page, include và taglib.
Cú pháp XML
Tương tự như scripting elements, các directives cũng có hai dạng cú pháp:
JSP Syntax
XML Syntax
: attr_list sẽ được mô tả phần sau trong chương này.
: directive này được trình bày trong chương III Tag Libraries.
The page directive
page directive cho phép chúng ta điều khiển cấu trúc của servlet bằng cách đưa vào các lớp, đặt MIME type, …. Một page directive có thể được đặt bất cứ nơi nào trong trang JSP.
page directive định nghĩa một số thuộc tính phụ thuộc vào trang và giao tiếp giữa các thuộc tính này với JSP container.
language
Định nghĩa ngôn ngữ kịch bản được sử dụng trong scriptlets, biểu thức và khai báo. Trong JSP 1.2 là phiên bản mới nhất chỉ có hổ trợ “java” cho thuộc tính này do đó “java” này cũng là giá trị mật định.
extends
Thuộc tính này chỉ định lớp cha (superclass) của servlet sẽ được phát sinh cho trang JSP, có dạng sau:
Chú ý rằng khi sử dụng thuộc tính này phải hết sức cẩn thận vì tại server có thể đã dùng lớp cha mật định.
import
Thuộc tính này mô tả các kiểu sẵn dùng trong môi trường kịch bản (theo java). Chúng ta có thể import vào từng lớp hoặc cả một gói (package).
Nếu import vào nhiều lớp hay packages thì cách nhau dấu “,”.
session
Thuộc tính session kiểm soát liệu có hay không một trang tham gia vào HTTP session. Có hai giá trị “true” và “false”. Mật định là “true”, chỉ ra rằng biến ngầm định session nên được nối kết với session hiện hành. Giá trị “false” có nghĩa rằng chẳng có session nào được sử dụng tự động và nếu cố truy cập vào biến session sẽ trả lỗi vào lúc trang được dịch thành servlet.
buffer
Thộc tính này xác định kích thước của vùng đệm được sử dụng bởi biến out. Có dạng sau:
Thuộc tính này có giá trị mật định là “8kb”, giá trị “none” chẳng có vùng đệm nào được cấp và tất cả dữ liệu xuất sẽ được ghi trực tiếp qua ServletResponse, PrintWriter.
autoFlush
Xác định liệu luồng xuất có vùng đệm được tự động flush (giá trị “true” mật định) khi vùng đệm đầy hay sẽ tung ra một ngoại lệ khi vùng đệm tràn (“false”).
Chú ý rằng sẽ không hợp lý nếu đặt autoFlush=“false” khi buffer=“none”.
isThreadSafe
Xác định mức độ an toàn của tiểu trình (thread) được cài đặt trong trang (với giao tiếp SingleThreadModel), “true” là giá trị mật định.
info
Định nghĩa một chuỗi có thể truy xuất từ servlet bằng phương thức getServletInfo().
errorPage
Thuộc tính này xác định một trang JSP nên bất kỳ các ngoại lệ nào được tung ra nhưng không bắt ngoại lệ này trong trang hiện hành.
Ngoại lệ tung ra sẽ có sẵn trong biến ngầm định exception.
isErrorPage
Xác định trang JSP hiện thời có thể hoạt động như một trang lỗi cho một trang JSP khác. Giá trị “false” là mật định cho thuộc tính này.
contentType
Thuộc tính này gán Content-Type cho response header, mô tả kiểu MIME của tài liệu được gởi đến client. Thuộc tính contentType có một trong hai dạng sau:
Một số kiểu MIME-Type thường dùng: “text/html”, “text/xml”, “text/plain”, “image/gif”, “image/jpeg”.
pageEncoding
Định nghĩa bộ mã hoá ký tự cho trang JSP (character encoding), thuộc tính này hổ trợ cho bộ mã Unicode và Latin-1, có giá trị mật định là “ISO-8859-1”
Code 4: pagedirective.jsp
<!DOCTYPE html
PUBLIC "-//W3C//DTD XHTML 1.0 Strict//EN"
"DTD/xhtml1-strict.dtd">
The page Directive
<link rel="styleshhet" href="JSP-Styles.css"
type="text/css" />
The page Directive
Ví dụ 4: pagedirective.jsp (tiếp theo)
<%!
private String randomID() {
int num = (int)(Math.random()*10000000.0);
return("id" + num);
}
private final String NO_VALUE = "No Value";
%>
<%
Cookie[] cookies = request.getCookies();
String oldID = ServletUtilities.getCookieValue(cookies, "userID", NO_VALUE);
String newID;
if (oldID.equals(NO_VALUE)) {
newID = randomID();
} else {
newID = oldID;
}
LongLivedCookiecookie = new LongLivedCookie ("userID" , newID);
response.addCookie(cookie);
%>
This page was accessed at with a userID
cookie of .
The include directive
Chúng ta sử dụng include directive để đưa một file vào tài liệu JSP chính vào lúc tài liệu dịch thành servlet (mà thường vào lần đầu tiên truy cập vào trang này). Có cú pháp như sau:
Thật sự JSP chia làm hai nhánh để include một file vào một tài liệu chính. File được include thì được chèn vào trang vào lúc biên dịch, Còn nhánh còn lại thì được chèn vào tại thời gian yêu cầu (request) với element là jsp:include sẽ được trình bày trong mục IV. Các action chuẩn.
File được include vào không những chứa HTML tĩnh mà còn chứa được mã JSP động. Đặc tính này cho phép chúng ta tạo các thanh định hướng, các phần thông tin cần tương tác, đếm số trang, ... riêng trên một file khi chúng ta có nhiều trang sử dụng lại chúng. Nếu file được include thay đổi thì tất cả JSP files sử dụng nó cần phải được cập nhật lại.
Ví dụ về include directive
File đầu tiên là một đoạn của trang chứa các thông tin tương tác cần thiết cho file thứ hai dùng lại bằng include directive.
Code 5: contact.jsp
<%! private int accessCount = 0;
private Date accessDate = new Date();
private String accessHost = "No previous access";
%>
This page © 2000
my-company.com.
This page has been accessed
times since server reboot. It was last accessed from
at .
Code 6: includedirective.jsp
<!DOCTYPE html
PUBLIC "-//W3C//DTD XHTML 1.0 Strict//EN"
"DTD/xhtml1-strict.dtd">
Code 6: includedirective.jsp
The include Directive
Some Random Page
Information about our products and services.
Le, Le, Le.
Giang, Giang, Giang.
The taglib directive
Directive này định nghĩa thư viện tag và tiếp đầu ngữ cho những custom tag được sử dụng trong trang JSP. Có cú pháp sau:
taglib directive sẽ được trình bày chi tiết trong chương III.
Các action chuẩn.
Actions chẳng qua là elements được định nghĩa trong bản đặc tả JSP và luôn luôn có sẵn trong các JSP file mà không cần import vào bất kỳ thứ gì và chúng có cú pháp XML. Có chín actions chuẩn: jsp:include, jsp:useBean, jsp:setProperty, jsp:getProperty, jsp:plugin, jsp:forward, jsp:fallback, jsp:params, jsp:param sẽ được giới thiệu trong mục này.
Action chèn vào files ở thời gian request.
Với include directive cho phép chúng ta thêm vào các tài liệu chứa mã JSP vào nhiều trang khác nhau nhưng lại có vấn đề là đòi hỏi chúng ta phải cập nhật lại ngày sữa đổi của trang khi file được include thay đổi. Để loại bỏ vấn đề này đặt tả JSP cung cấp cho chúng ta một action là để include các file vào thời gian yêu cầu (request). Mặc khác, do trang được biên dịch thành servlet vào thời gian yêu cầu vì thế các file được include không thể chứa mã JSP. Cú pháp của action này là:
Ví dụ sau sử dụng jsp:include action để include bốn file html, ví dụ này chỉ hiện thị các thông tin của các web sites nỗi tiếng.
Code 7: includerequest.jsp
What’s New
What's New at JspNews.com
Here is a summary of our four most recent news stories:
Code 8: item1.html
Bill Gates acts humble. In a startling and unexpected
development, Microsoft big wig Bill Gates put on an open act of
humility yesterday.
More details...
Code 9: item2.html
Scott McNealy acts serious. In an unexpected twist,
wisecracking Sun head Scott McNealy was sober and subdued at
yesterday's meeting.
More details...
Code 10: item3.html
Larry Ellison acts conciliatory. Catching his competitors
off guard yesterday, Oracle prez Larry Ellison referred to his
rivals in friendly and respectful terms.
More details...
Code 11: item4.html
Sportscaster uses "literally" correctly. In an apparent
slip of the tongue, a popular television commentator was
heard to use the word "literally" when he did not
mean "figuratively."
More details...
Action chèn vào Applets cho Java Plug-In.
Với JSP, chúng ta không cần có bất kỳ cú pháp đặc biệt nào để include vào các applet; chỉ dùng APPLET tag của HTML bình thường. Tuy nhiên, các applet này phải sử dụng từ JDK 1.1 trở xuống vì cả hai trình duyệt phổ biết nhất là Netscape 4.x và Internet Explorer 5.x vẫn chưa hổ trợ JDK 1.2. Do đó applet có một số giới hạn sau:
Để sử dụng Swing, chúng ta phải gởi các Swing files qua mạng. Tiến trình này tốn rất nhiều thời gian và cũng thất bại trong Internet Explorer 4 và Netscape 3.x (chỉ hổ trợ JDK 1.02) mà Swing lại phụ thuộc vào JDK 1.1.
Chúng ta không thể dùng Java 2D.
Chúng ta không thể dùng gói collection (tập hợp) của Java 2.
Mã của chúng ta chạy chậm hơn vì hầu hết các trình biên dịch cho nền Java 2 được cải tiến rất đáng kể so với các trình biên dịch từ JDK 1.1 trở xuống.
Hơn thế nữa, các phiên bản của các trình duyệt có một số mâu thuẫn trong cách thức mà chúng hổ trợ AWT component khác nhau, làm cho việc thử nghiệm và điều phối các giao tiếp người dùng trở nên phức tạp và nặng nề hơn. Để giải quyết các vấn đề này, Sun đã phát triển Java Plug-In cho Netscape và Internet Explorer mà cho phép chúng ta sử dụng Java 2 platform cho các applet trong nhiều trình duyệt khác nhau.
Tuy nhiên, lại thật không may mắn là APPLET tag bình thường sẽ không làm việc với Plug-In vì các trình duyệt được thiết kế riêng chỉ sử dụng máy ảo (Virtual Machine) có sẳn của chúng khi chúng gặp APPLET. Thay vì thế, chúng ta phải sử dụng OBJECT tag đối với IE và EMBED tag đối với Netscape. Hơn nữa vì chúng ta không biết loại trình duyệt nào sẽ truy cập vào trang chúng ta nên chúng ta phải hoặc là include cả OBJECT lẫn EMBED (đặt EMBED trong phần COMMENT của OBJECT) hoặc là xác định loại trình duyệt vào thời gian yêu cầu để dùng tag đúng cho loại trình duyệt đó. Quá trình này thì hiển nhiên nhưng nhàm chán và mất thời gian.
Action jsp:plugin chỉ dẫn server xây dựng một tag thích hợp cho các applet mà sử dụng Plug-In.
jsp:plugin action.
Phương cách đơn giản nhất để sử dụng jsp:plugin là cung cấp cho nó bốn thuộc tính: type, code, width, height. Chúng ta định giá trị “applet” cho thuộc tính type và ba thuộc tính còn lại sử dụng giống như APPLET tag bình thường. Với ngoại lệ là các action thì có cú pháp XML nên các thuộc tính trong nó cũng phải theo qui ước XML. Ví dụ với APPLET tag trong HTML
<APPLET CODE=“MyApplet.class”
WIDTH=457 HEIGHT=350>
sử dụng jsp:plugin action như sau:
<jsp:plugin type=“applet”
code=“MyApplet.class”
width=“457” height=“350” />
Ngoài bốn thuộc tính này jsp:plugin còn có các thuộc tính sau và hầu hết giống (nhưng không phải là tất cả) như các thuộc tính của APPLET tag.
codebase, align, archive, hspace, name, vspace, title
Giống như APPLET tag.
jreversion
Xác định số phiên bản của Java Runtime Environment, các giá trị có thể nhận là “1.1”, “1.2”.
nspluginurl
URL cho Netscape mà có thể download Plug-In. Giá trị mật định sẽ hướng người dùng đến web site của Sun, nhưng với intranet chúng ta có thể muốn chỉ dẫn người dùng đến một bản sao cục bộ.
iepluginurl
URL cho Internet Explorer mà có thể download Plug-In.
jsp:param và jsp:params action.
jsp:param được dùng trong các actions khác như: jsp:include, jsp:forward, jsp:plugin. Action này dùng để cung cấp cặp tên và giá trị (name/value) cho các actions trên. Cụ thể với jsp:plugin, thì action này sẽ định rõ tên và giá trị mà được truy cập từ trong applet bởi getParameter.
Tất cả jsp:param actions đều phải nằm trong jsp:params action. Ví dụ:
Code 12: Sử dụng Applet
<APPLET CODE=“MyApplet.class”
WIDTH=457 HEIGHT=350>
trong JSP sử dụng như sau:
<jsp:plugin type=“applet” code=“MyApplet.class”
width=“457” height=“350” >
jsp:fallback action.
jsp:fallback cung cấp văn bản thay thế đối với các trình duyệt không hổ trợ OBJECT hay EMDEB. Chúng ta sử dụng action này giống như là dùng văn bản thay thế được đặt trong APPLET tag. Ví dụ chúng ta có thể thay thế
Code 13: Sử dụng jspfallback
<APPLET CODE=“MyApplet.class”
WIDTH=457 HEIGHT=350>
Error: this example requires Java.
với
<jsp:plugin type=“applet”
code=“MyApplet.class”
width=“457” height=“350” >
Error: this example requires Java.
Actions dùng để forward và sử dụng Components.
Chuyển các request từ các trang JSP.
Tình huống chuyển request phổ biến nhất là request đó, đầu tiên, bắt nguốn từ servlet và servlet đó chuyển request này đến trang JSP. Lý do để servlet thường xử lý request gốc là để kiểm tra các tham số trong request và thiết lập Beans nên đòi hỏi nhiều công việc lập trình và nó thuận tiện để lập trình trong servlet hơn là trong tài liệu JSP. Nguyên nhân mà trang đích thường lại là tài liệu JSP là JSP rất đơn giản trong tiến trình tạo ra tài liệu HTML.
Tuy nhiên điều này chỉ là định hướng thường dùng chứ không có nghĩa là chỉ có một cách để thực hiện. Do đó để đơn giản và dễ sử dụng hơn trong việc nhúng mã RequestDispatcher trong một scriptlet chúng ta có thể sử dụng jsp:forward action. Ví dụ:
Code 14: Sử dụng jspforward
<% String dest;
if (Math.random() > 0.5) {
dest = “page1.jsp”;
} else {
dest = “page2.jsp”;
}
%>
” />
Action này cho phép điều phối một request hiện hành vào lúc runtime đến một tài nguyên tĩnh, trang JSP hay lớp servlet trong cùng một ứng dụng.
Sử dụng component trong JSP.
Chúng ta có thể sử dụng các actions sau để sử dụng lại các component (Beans) trong JSP: jsp:useBean, jsp:setProperty, jsp:getProperty. Các action này được trình bày trong chương II.
Chương II : JSP JAVABEANS
Khái niệm và các quy ước của Bean.
Khái niệm.
Mô hình thành phần (component) trong JSP được tập trung vào các component phần mềm của Java được gọi là Bean. Định nghĩa chính thức của JavaSoft về Bean: “JavaBean là một component phần mềm có thể dùng lại được, có thể được thực hiện trực quan bằng môi trường phát triển tích hợp IDE (Integrated Development Environment).”
JavaBean API: tuân theo các quy ước được xác định bởi JavaBean API, cho phép JSP container tương tác với Beans ở mức lập trình mặc dù JSP container thực sự chẳng hiểu Bean thực hiện những gì và hoạt động ra sao. Đối với JSP, chúng ta chỉ quan tân đến các khía cạnh API rồi ra các dấu hiệu cho những hàm tạo của Bean và các phương thức truy cập thuộc tính xử lý.
Giống như bất kỳ lớp Java nào, các thể hiện của Bean đơn thuần chỉ là các đối tượng Java. Chúng ta thường có sự lựa chọn hoặc là tham chiếu tới Beans và các phương thức của chúng trực tiếp qua mã Java trong các lớp khác hoặc là thông qua các scripting element trong trang JSP. Vì các scripting element cũng theo các quy ước của Bean nên chúng ta có thể làm việc với Beans mà không cần phải viết một đoạn mã Java nào. Bean container như JSP container, có thể cung cấp sự truy cập dễ dàng vào Beans và các thuộc tính của chúng.
Các quy ước của Bean.
Khi định nghĩa Bean chúng ta phải tuân theo các quy tắc sau:
Tên lớp của Bean phải có tiếp vĩ ngữ là Bean chẳng hạn UserBean, DataAccessBean, ...Thật sự thì quy tắc này không là yêu cầu bắt buộc nhưng nó là một định hướng thông dụng và cho phép những nhà phát triển khác hiểu ngay lập tức vai trò của lớp này.
Một Bean phải có một hàm tạo không có tham số.
Bean không nên có bất kỳ biến thể hiện (field) nào là ‘public’.
Các giá trị bền vững nên được truy cập thông qua các phương thức gọi là getXxx và setXxx.
Đối với các server-side Bean không nên dùng thư viện đồ hoạ.
JSP sử dụng Beans.
Các JSP element dùng cho Bean.
jsp:useBean element
Cho phép chúng ta tải một Bean với tên và phạm vi xác định vào trang JSP.
Cú pháp:
Nếu không có body, tức là không có tag nào trong thân của jsp:useBean thì có cú pháp là empty tag.
TypeSpec có thể hoặc (|) trong các thuộc tính sau:
TypeSpec ::= class = “className” |
class = “className” type = “typeName” |
type = “typeName” class = “className” |
beanName = “beanName” type = “typeName” |
type = “typeName” beanName = “beanName” |
type = “typeName”
Các giá trị của thuộc tính scope:
page
Đây là giá trị mặc định của scope. Bean với giá trị này sẽ có sẵn từ javax.servlet.jsp.PageContext trong trang hiện hành. Bean sẽ được loại bỏ khi một response gởi trở về client hoặc request được chuyển tới một trang mới.
request
Bean có giá trị này thì có sẵn từ đối tượng ServletRequest của trang hiện hành và bất kỳ trang được include hay forward nào bằng cách sử dụng phương thức getAttribute(name). Bean sẽ bị huỷ bỏ khi một response gởi trở về client.
session
Bean được sử dụng trong bất kỳ trang nào có tham gia vào một session của client. Có phạm vi trong cả một session của client. Bean này được lưu trữ trong đối tượng HttpSession.
application
Bean được sử dụng trong bất kỳ trang nào trong ứng dụng hiện hành (cả request hiện tại và tương lai).
jsp:setProperty element
Gán một giá trị hoặc nhiều giá trị (thuộc tính mảng) của thuộc tính vào Bean.
Cú pháp:
options có thể hoặc ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA0640.doc