Lời nói đầu
Thông thường ,một phương tiện thông tin đại chúng mới ra đời khi đạt được 50 triệu người sử dụng , phải mất một thời gian khá dài mới đạt được con số ấy:Đài phát thanh phải chờ mất 40 năm ; Truyền hình phải mất 13 năm ;Truyền hình cáp phải mất 10 năm ;còn INTERNET đã đạt được con số trên chưa đầy 5 năm và hiện nay đã có trên 200 triệu người sử dụng mạng và dự kiến trong vài năm tới số người sử dụng tiếp tục tăng gấp đôi sau mỗi năm…
Khi mới ra đời Internet đã thu hút sự quan tâm củ
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Internet và Thương Mại Điện Tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a mọi đối tượng trên hành tinh và theo thời gian nó càng liên quan chặt chẽ tới mọi lĩnh vực của cuộc sống ,cùng với Internet Thương mại điện tử ra đời ,phát triển không ngừng làm thay đổi tất cả ,cách thức làm việc ,cách thức ta mua sắm ,cách thức trao đổi với Chính Phủ ,học tập và tất cả những gì chúng ta làm ở nhà.Cuộc cách mạng Internet tạo nên sự chuyển đổi quan trọng ,trước hết nó thách thức và sau đó thay đổi về cơ bản cách thức mọi hoạt động được thực hiện trong thế giới ngày nay.
Trong tình hình đó thì Kinh tế là lĩnh vực chịu tác động trực tiếp và sâu sắc nhất .Với INTERNET , nền kinh tế nối mạng ra đời , E-business-kinh doanh điện tử đang tạo ra một cơ hội tiềm tàng cho nền kinh tế thế giớ.Dự kiến nghành công nghệ thông tin sẽ tăng trưởng bình quân 10% một năm và đạt doanh số 1600 tỷ USD vào năm 2002 .Trong tổng số đó ,thương mại điện tử chiếm 600 tỷ USD , có tốc độ tăng trưởng gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng chung của ngành.
Do việc thay đổi cơ bản về hình thức kinh doanh ,dự kiến sau 2 năm cùng với các thành tựu khoa học , internet sẽ tạo nên một sự biến đổi toàn diện đời sống kinh tế thế giới .Các doanh nghiệp và cơ quan đang thấy rằng Internet là một công cụ mạnh mẽ mà họ có thể chông đợi để tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu .
Có thể khẳng định rằng cùng với việc xuất hiện của Internet ,lợi thế cạnh tranh lớn nhất trong nghành công nghệ thông tin ngày nay không còn là công nghệ nữa ..Công nghệ thay đổi quá nhanh và không một công ty nào có thể tạo một lợi thế cạnh tranh bền vững chỉ dựa vào công nghệ .Công nghệ thay đổi hàng ngày ,hàng giờ ,mọi nơi đều tràn ngập thông tin về mọi lĩnh vực , về các lĩnh vực kinh doanh ,thông tin đại chúng .Điều này có nghĩa là tạo ra những ứng dụng tích hợp áp dụng cho hàng loạt sản phẩm và dần dần cho các dịch vụ.
Internet không chỉ tác động đến nền kinh tế toàn cầu mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề xã hội, văn hoá dân tộc ,thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá.Quá trình toàn cầu hoá chỉ mới xuất hiện gần đây thôi,nó là hậu quả tất nhiên của các thành tựu khoa học công nghệ về cách mạng thông tin đặc biệt là trong lĩnh vực viễn thông khoảng 20 năm trở lại đây.Nhờ có những thành tựu khoa học này ,đặc biệt là Internet và Thư điện tử ,mà người ta có thể ngồi ở châu á để mua một hàng hoá ở châu âu và thực hiện thanh toán tức thời thông qua ngân hàng nào đó ở new york. Hoặc cùng một lúc hàng triệu người trên trái đất thông qua mạng Internet dã cùng chứng kiến con tàu vũ trụ Pathfinder đổ bộ xuống bề mặt sao Hoả.Hoặc qua mạng Internet trong nháy mắt hàng tỷ đôla có thể thay đổi chủ ở bất cứ góc trời nào trên thế giới .Do đó người ta mới kết luận :Nhờ có Internet và Thư điện tử mà thế giới có vẻ như thu nhỏ lại ,trên một mức độ nào đó làm cho khoảng cách về địa lý và biên giới chính trị không còn quan trọng như trước nữa.
Dòng chảy thông tin cuồn cuộn mà Internet truyền tải ,đã trở thành nhịp cầu ,trở thành sợi dây vô hình nối kéo các dân tộc,các nền văn hoá xích lại gần nhau hơn .Toàn cầu hoá là một thành tựu của những năm cuối thế kỷ 20 ,là một sự phát triển khách quan khi thế giới bước vào thời đại tin học.Tất cả những điều kỳ diệu do Internet đem đến mà chúng ta ghi nhận cũng mới chỉ là bước đầu của một thời đại số hoá mà Internet đã châm ngòi.
Với những kiến hiểu biết của mình ,em đã nhận thấy rằng thế kỷ tới là thế kỷ của một nền kinh tế tri thức , một nền kinh tế số hoá,và ưu thế của Mạng Máy Tính Toàn Cầu và Thương Mại Điện Tử trong thế kỷ tới là phương tiện truyền thông chủ yếu .Với những gì được trang bị trong những năm học còn ngồi trên ghế nhà trường ĐHKTQD, với những kiến thức về các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực tin học nói riêng em hiểu rằng Mạng Máy Tính Toàn Cầu và Thương Mại Điện Tử nó có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung và đối với nền kinh tế Việt Nam chúng ta nói riêng trong thế kỷ tới ,nhưng với những kiến thức hiểu biết có hạn, em viết đề án môn học về lĩnh vực “Internet và Thương Mại Điện Tử “ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, em mong được Thầy góp ý và giúp đỡ chúng em cho bài viết này được hoàn thiện và tốt hơn.
A.sơ lược về internet
I.internet –mạng máy tính toàn cầu
1.Lịch sử ra đời và phát triển của Internet
Vào những năm 1960 ,trong thời kỳ chiến tranh lạnh ,Bộ quốc phòng Mỹ có ý định nghiên cứu xây dựng một liên mạng máy tính toàn cầu nhằm duy trì hệ thống thu thập thông tin khi chiến tranh xẩy ra .Tháng 7 năm 1968 ,Cơ quan quản lý dự án nghiên cứu phát triển của bộ này (Advanced Research Prọect Agency-ARPA) đưa ra dự kiến triển khai một liên kết đầu tiên các máy tính tại bốn điểm khác nhau.Tháng 12 năm 1968,từ đề nghị của BBN (Bolt Beranek &Newman) bốn điểm đầu tiên là Viện nghiên cứu Stamford,trường Đại học Califomia ở Los Angeles ,UC-Santa Barbara và trường Đại học Utah đã được liên kết thành một mạng gọi tên là mạng ARPANET dựa trê một giải pháp cả về phần cứng và phần mềm của BBN.
Mặc dù tốc độ truyền thông tin trên ARPANET trong thập niên 1970 còn rất chậm,chỉ khoảng 50 KB/giây đến năm 1981 đã có khoảng 200 máy tính liên kết vào ARPANET . Vì các máy tính này đều là minicomputer hay mainframe , ARPANET đã được xem như là một hệ thống mạng nối mạng đầu tiên trên thế giới và xuất hiện tên gọi host cho các máy tính kết nối vào mạng này .Cũng trong thập niên 1970 ,các nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Stamford và BBN đã phát triển các bộ giao thức truyền thông TCP (Tranmission Control Protocol) và IP (Internet Protocol) được gọi chung là giao thức truyền thông TCP/IP và năm 1983 TCP/IP chính thức được sử dụng trên ARPANET.
Thập niên 1970 còn đánh giấu sự ra đời của một công nghệ cho mạng cục bộ (LAN) là Ethernet ,được nghiên cứu từ năm 1972 bởi phòng thí nghiệm Palo Alto của Xerox Corporation .Năm 1980 chuẩn công nghệ này được thừa nhận bởi DEC , Intel và Xorex với tên gọi là DIX Ethernet .
Năm 1972 diễn ra hội nghị quốc tế về truyền thông máy tính với sự trình diễn của mạng ARPANET giữa 40 máy và Terminal Interface Processor (TIP) do Bob Kahn tổ chức. Sau đó Internetworking Working Group (INWG) ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập giao thức bắt tay (agreed-upon) với chủ tịch là Vinton Cerf. Một thời gian sau Ray Tomlinson của BBN đã phát minh ra chương trình e-mail để gửi thông điệp trên mạng phân tán .
Năm 1973 diễn ra sự kết nối quốc tế đầu tiên vào ARPANET. Đó là sự kết nối của một trường đại học của Anh : Universty College of London và của Royal Radar Establishment (Na Uy). Cũng vào thời gian đó luận văn tiến sĩ đại học Harvard của Bob Metcalfe đã phác hoạ ra ý tưởng cho Ethernet và Bob kahn đưa ra vấn đề Internet, khởi đầu chương trình nghiên cứu liên mạng tại ARPA. Vào tháng 3, Vinton Cerf phác thảo ra cấu trúc gateway. Sau đó 6 tháng, tháng 9 năm 1973 Cerf và Kahn trình bày những ý tưởng cơ bản của Internet tại INWG ở U of Sussex, Brighton, Vương quốc Anh.
Năm 1975 điều hành hoạt động của Internet được chuyển cho DCA (hiện nay là DISA) .
Vào tháng 7 năm 1977 lần đầu tiên trình diễn về ARPANET /Packet Radio Net/SATNET trên hoạt động của các giao thức Internet với những gateway do BBN cung cấp.
Năm 1979 ARPA thành lập Ban Điều khiển Cấu hình Internet (Internet Configuration Control Boad-ICCB).
Năm 1981 mạng CSNET (Computer Science NETwork ) do nhiều nhà khoa học máy tính phối hợp với các trường đại học : University of Delaware, Purdue, University of Wisconsin, công ty RAND và BBN lập nên nhờ tài trợ của NFS . CSNET cung cấp các dịch vụ về mạng cho các nhà khoa học gia ở trường đại học mà không cần truy xuất vào mạng ARPANET. CSNET sau này được xem như mạng phục vụ cho khoa học và máy tính (Computer and Science Network).
Năm 1982 DOD tuyên bố bộ giao thức TCP/IP là giao thức chuẩn cho DOD. Kết nối trực tiếp giữa các nước Hà Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển và Anh Quốc được thực hiện, tiếp theo đó sự truy nhập vào ARPANET được miễn phí.
Năm 1983 ARPANET được tách ra thành ARPANET và MILNET. MILNET tích hợp cùng với Mạng dữ liệu quốc phòng (Defense Data Network). Ban hoạt động Internet (Internet Activities Board - IAB) ra đời thay thế cho ICCB. Cũng vào năm này quỹ khoa học Quốc gia Mỹ NSF ( National Science Foundation ) tài trợ cho việc xây dựng NSFnet (khoảng 10 triệu USD một năm ) .
Năm 1984 giới thiệu Domain Name Server (DNS), số lượng máy chủ vượt quá 1000.
Năm 1986 mạng NSFnet chính thức được thiết lập (tốc độ của Backbone là 56 Kbps). NSF thành lập 5 trung tâm siêu tính toán cung cấp những khả năng tính toán cao cấp cho các nơi. Đây cũng là năm có sự bùng nổ kết nối, đặc biệt là ở trường đại học. Vào ngày 16 tháng 7 dưới sự bảo trợ của công ty SoPAC (Society for Public Access Computing) mạng Freenet đầu tiên (tại Cleveland) đã được ra mắt.
Năm 1987 Version 2 của NSFnet ra đời với hơn 100.000 máy tính, 3400 trung tâm nghiên cứu được kết nối, tốc độ truyền 45 triệu bít/giây.
Năm 1988 Virus Internet đã làm ảnh hưởng gần 6.000 trong số 60.000 máy chủ của Inernet. Một số vùng của Canađa, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, NA Uy, Thuỵ Điển nối vào NSFnet .
Năm 1989 số lượng máy chủ vượt quá 100.000, mạng EUnet(Châu Âu ) và AUSSIBnet (úc) gia nhập mạng Internet. Đức, Isarel, ý, Nhật, Mexico, Hà lan, New Zealand, Puerto, U.K nối vào NSFnet, nhưng các doanh nghiệp bị cấm vào NSFnet tuy nhiên họ có thể tham gia mạng Internet .
Năm 1990 ARPANET ngừng hoạt động, argentina, áo, bỉ, brazil, chi Lê, ấn Độ, Ireland, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Thuỵ Sĩ nối vào NSFnet.
Trong năm 1991 thương mại điện tử phát triển rực rỡ ,đến năm 1993 khái niệm Xa lộ thông tin được Tổng thống Mỹ BillClinton đưa ra tại quốc hội Mỹ nhằm chú trọng đặc biệt vào lĩnh vực công nghệ thông tin ,biến ngành này thành một ngành mũi nhọn giúp ích đáng kể vào nền kinh tế Mỹ.
* Thư điện tử(E-Mail) :
Đây là dịch vụ của Internet được sử dụng nhiều nhất .Bạn có thể trao đổi thư (E-mail) với hàng triệu người khắp thế giới .Người ta sử dụng e-mail vào bất cứ việc gì mà họ có thể làm với giấy hay điện thoại :bàn công việc , tán gẫu ,hỏi thăm ,tỏ tình …Danh sách thư điện tử (mailing list) cho phép bạn gia nhập vào những cuộc bàn luận theo nhóm ngườicó cùng mối quan tâm và gặp gỡ thông qua mạng .Dịch vụ thư tín (Mail Servers) giúp chúng ta truy cập những thông tin cần thiết .Thư điện tử rất dễ dàng sử dụng ,sửa đổi nội dung thư ngay trên máy tính của chúng ta và sau đó được gửi tới người nhận một cách nhanh chóng với một chi phí thấp nhất.
*Giao thức truyền nhận file(FTP):
Nhờ có dịch vụ này mà chúng ta có thể nhận file từ máy chủ (Server) về máy tính cá nhân của mình hoặc có thể đưa các file này lên máy chủ. Một trong những dịch vụ tiện lợi đó là:
ó World Wide Web
World Wide Web(WWW) ra đời, được trung tâm nghiên cứu nguyên tử Châu Âu (CERN) công bố, do Tim Berners-lee phát triển. NSFnet backbone được nâng cấp đạt tốc độ 44736 Mbps. NSFnet truyền một tỷ tỷ byte / tháng và 10 tỷ gói tin / tháng. Các nước Croatia, CH séc, Hongkong, Hunggary, Bồ Đào Nha, Singapore, Nam Phi, ĐàiLoan, Tunisia nối vào NSFnet .
Đây là khái niệm mà người dùng Internet quan tâm nhiều nhất hiện nay . Người ta viết tắt WWW hay còn gọi ngắn là Web. Web là một công cụ hay đúng hơn là dịch vụ của Internet .Khác với các dịch vụ trước đây của Net, Web chứa thông tin bao gồm văn bản ,hình ảnh ,âm thanh thậm trí cả video được kết hợp với nhau .Web cho phép chúng ta có thể chui vào mọi ngõ ngách trên Net, là những điểm chứa cơ sở dữ liệu gọi là Web site .Nhờ có Web ,nên dù không phải là chuyên gia ,chúng ta vẫn có thể sử dụng Internet.
óTruy xuất dữ liệu:
Nhiều máy tính (server) trên Internet chứa các tập tin mà chúng ta có thể truy xuất tự do .Đây là những thư viện Catalog, sách ,tạp chí ,hình ảnh số hoá và vô số phần mềm máy tính ,từ trò chơi đến HĐH.Nói chung Unternet là cả một kho thông tin khổng lồ mà chỉ cần ngồi một chỗ ,chúng ta có thể với tới.
Năm 1992 Internet Society bước vào hoạt động, số lượng máy chủ vượt quá con số 1.000.000. IAB tiếp tục vai trò Internet Architecture Board và trở thành một thành phần của Internet Society. Các nước Cameroon, Cyprus, Ecuador, Estonia, Kuwait, Latvia, Luxembourg, Malaysia, Slovakia, Slovenia, Thailand, Venezuela nối vào NSFnet .
Năm 1993 NSF cho ra đời InterNIC, cung cấp các dịch vụ Internet như: Dịch vụ về cở sở dữ liệu và thư mục (AT & T), dịch vụ đăng ký (Network Solution Inc.), dịch vụ thông tin (General Atomics/CERFnet), liên hiệp quốc trực tuyến ( UN). Các nước Bungary, Costa Rica ... nối vào mạng NSFnet nâng tổng số các nước tham gia mạng Internet lên hơn 59 quốc gia.
Năm 1994 đây là năm kỷ niệm lần thứ 25 của ARPANET /Internet, NIST (The National Institute for Standards and Technology) đề nghị thống nhất TCP/IP và giảm bớt yêu cầu chỉ dùng chuẩn OSI. WWW đã trở thành dịch vụ phổ biến thứ hai sau dịch vụ FTP. Những hình ảnh Video đầu tiên được truyền đi trên mạng Internet .
Năm 1995 NSF kết thúc việc tài trợ và NSFnet thu lại thành một mạng nghiên cứu.Trong 3 tháng WWW vượt trội hơn FTP và trở thành một dịc vụ có sự lưu thông lớn nhất căn cứ trên số lượng gói tin truyền, và trong tháng 4 căn cứ trên số byte truyền. Các hệ thống quay só trực tuyên truyền thống như Compurserve, AmericanOnline, Prodigy bắt đầu cung cấp khả năng tiếp cận mạng Internet. Việc đăng ký tên khu vực không còn miễn phí nữa, bắt đầu từ ngày 14 tháng 9 lệ phí hàng năm là 50 USD (trước đây được bao cấp bởi NSF). NSF vẫn tiếp tục trả chi phí cho những đăng ký thuộc lĩnh vực giáo dục. Con số các máy tính kết nối với mạng Internet là khoảng 3,2 triệu với 42 triệu người dùng từ 42.000 mạng máy tính khác nhau trên 84 nước trên toàn thế giới.
Triển lãm Internet 1996 World Exposition là triển lãm thế giới đầu tiên trên mạng Internet .
Dự báo đến năm 2000 mạng Internet sẽ có khoảng 300 triệu người dùng thường xuyên!
Internet là một ý tưởng tuyệt vời nhưng nếu chỉ bó hẹp trong các trường đại học, trung tâm nghiên cứu khoa học, các cơ quan nhà nước thì số lượng người sử dụng sẽ bị hạn chế vì cách truy cập thông tin còn khá cồng kềnh. Người dùng máy tính để truy nhập vào mạng thì thường dùng các loại thông tin khác nhau dựa trên văn bản, hình ảnh, thậm chí cả âm thanh, và người ta đưa ra khái niệm thông tin đa phương tiện(multimedia). Giao diện người và máy trong đầu thập niên này đã trở nên thân thiện rất nhiều nhờ các biểu tượng gần giống với đời thường và dùng thiết bị ngoại vi như chuột, bút quang, và thậm chí chỉ bằng ngón tay trỏ tới đối tượng là có thể có ngay thông tin trước mặt .
Tất cả những điều nói trên đã làm cho thập kỷ 1980 trở thành thập niên phát triển bùng nổ của mạng máy tính và liên kết các mạng vùng . Trong thời gian này ,Bộ quốc phòng Mỹ quyết định tách riêng phần mạng về quân sự thành một mạng gọi là Milnet.Thuật ngữ ARPANET vẫn được sử dụng cho phần mạng còn lại dành cho các trường đại học và viện nghiên cứu mặc dù thuật ngữ Internet đã xuất hiện.
Việc xây dựng mạng máy tính không chỉ diễn ra ở Mỹ ,các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu tại Canada ,Châu âu và úc cũng không tránh khỏi xu hướng này .Internet phải đối đầu với những chuẩn truyền thông khác ở Châu âu ,đặc biệt là X25.Tuy nhiên TCP/IP trên nền mạng cục bộ và Internet tỏ ra làm việc uyển chuyển và hấp dẫn hơn.
Năm 1989 mạng Eunet(châu âu) và AUSSIBnet(úc) gia nhập Internet. Năm 1992 ,Trung tâm nguyên tử Châu âu (Conseil Europeen Pour La Recherche Nucleair –CERN) đã nghiên cứu và triển khai công nghệ World Wide Web (WWW) gọi tắt là Web ,đưa Internet bước sang một giai đoạn mới .thuận lợi hơn đối với người sử dụng .
Sự phát triển ,bùng nổ của Internet diễn ra từ ngay những năm đầu của thập kỷ 1990 ,thuật ngữ ARPANET không còn được sử dụng nữa và tên gọi Internet trở thành tên gọi chính thức.
2.Những tổ chức liên quan.
Internet là một mạng của các mạng nên không có cơ quan chủ quản , không thể vẽ nên một bản đồ đơn giản của Internet ,thậm chí không còn có một danh sách chính xác hàng triệu máy tính hay người sử dụng Internet .
Internet hoạt động không cần có bất cứ sự điều hành của một trung tâm hay tổ chức được quyền quản lý nào.
Sự ổn định và trật tự trên Internet được quy định từ mỗi thành phần của nó . Mỗi mạng này đều có chính sách quản lý sử dụng riêng của mình gọi là Accptable Use Policies (AUP) .Chẳng hạn các AUP thường cấm chỉ những hành động quấy nhiễu đến người khác ,cấm sử dụng gian lận tài khoản sử dụng của người khác , không được phổ biến quảng cáo qua thư điện tử…Mỗi người sử dụng Internet đều phải nhất trí chấp hành các điều khoản quy định trong AUP của mỗi mạng thành phần . Sự vi phạm các quy tắc của AUP có thể dẫn đến sự từ chối cho phép sử dụng bởi các nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet hay bị truy tố trước pháp luật.
Tuy nhiên có nhiều tổ chức có liên quan đến Internet , phát sinh từ việc hoàn thiện ,phát triển và thực thi Internet .Một số tổ chức chủ yếu là:
ó Các trung tâm thông tin mạng (Network Information Center-NIC) như InterNIC, APNIC … thực hiện việc cung cấp một cách có tổ chức và thống nhất các địa chỉ trên mạng ,cung cấp các dịch vụ đăng ký vào cộng đồng Internet.
ó Hiệp hội Internet (The Internet Society) là một tổ chức phi lợi nhuận hướng vào các hoạt động hoàn thiện Internet và những kỹ thuật của nó .
ó Liên hiệp thông tin (The Coalition for Networked Information-CNI) liên kết các thư viện nghiên cứu . EDUCOM và CAUSE,CNI định hướng các hoạt động vào hoàn thiện liên kết mạng trong lĩnh vực giáo dục nhằm làm giàu thêm học vấn và nâng cao năng suất hoạt động trí tuệ.
3.Những dịch vụ phổ biến nhất
Internet có nhiều dịch vụ hữu ích ,tuy nhiên hiện nay các dịch vụ phổ biến nhất là các dịch vụ thư điện tử (Electronic Mail –Email) , File Transfer Protocol(FTP) và WWW.
ó Email là một dịch vụ cho phép người sử dụng có thể gửi và nhận thư tín trên Internet .Với dịch vụ này mọi người dùng Internet từ bất cứ nơi nào trên thế giới đều có thể trao đổi thông tin dạng văn bản với nhau một cách nhanh chóng và rẻ tiền .Những tiến bộ mới nhất trong dịch vụ này cho phép các thông tin Multimedia cũng có thể đính kèm vào thư gửi đi.
ó FTP là dịch vụ được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản phát triển trong thời kỳ đầu của Internet :sao chép ,di chuyển một tệp từ máy tính này sang máy tính khác.
ó WWW (Web) là dịch vụ ra đời trong thời kỳ sau của Internet .Nó cung cấp các siêu văn bản (Hyper Text) là các văn bản chứa các liên kết trỏ tới một siêu văn bản khác hay một dữ liệu Multimedia nào đó ,tại vị trí bất kỳ trên Internet xác định bởi một kiểu địa chỉ gọi là Uniform Resource Locator(URL) .Người đọc siêu văn bản bằng trình duyệt (Web browser) có thể thông qua các liên kết này mà lựa chọn chủ đề tham khảo ,theo sự quan tâm của mình , xuyên qua các văn bản khác là mắt xích của các xâu liên kết. Vì tính dễ sử dụng đối với người dùng ,WWW đã trở thành một dịch vụ quen thuộc hàng đầu và không thể thiếu , đến mức ngày nay cả các dịch vụ Email và FTP đã được tích hợp hầu hết các Web Browser . WWW cũng trở thành công cụ để khai thác các hoạt động tìm kiếm thông tin trên Internet (Search Engine) .Với khả năng chứa đựng các thông tin về các dữ liệu Multimedia ,WWW đã làm cho Internet trở nên sinh động và hấp dẫn hơn rất nhiều.
Những dịch vụ thú vị khác cũng đang từng bước trở nên phổ biến trên Internet là các dịch vụ như nói chuyện (Chatting) hội nghị trên mạng (Net Meeting) ,Internet Phone và Internet Fax-dịch vụ điện thoại và Fax thông qua hệ thống truyền dẫn thông tin của Internet với giá sử dụng rất rẻ , tính theo đơn giá truy nhập Internet/phút và số phút truy nhập Internet.
II. internet –kho tài nguyên thông tin toàn cầu
Đối với nhiều người dùng , Internet được hiểu đơn giản là một kho tài nguyên thông tin khổng lồ , là một xã hội rộng lớn cũng rất sinh động và lý thú, là một cộng đồng những người có cùng quan tâm , sở thích, vượt qua biên giới của cacc quốc gia . Với ý nghĩa này Internet còn lớn hơn, đẹp hơn chính bản thân nó như là một liên mạng máy tính .
1.Kho tài nguyên thông tin khổng lồ
Vì Internet liên kết hàng trục triệu mạng máy tính trên phạm vi toàn thế giới , nên nó cũng liên kết các hàng chục triệu kho tài nguyên thông tin của các mạng này , thông qua các dịch vụ của nó thành một kho tài nguyên khổng lồ , hết sức đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung .Ngày nay người ta thường nói với nhau rằng thông tin này đã được lấy từ Internet, rằng hãy vào Internet mà tìm kiếm thông tin cần thiết , mới nhất …Kho tài nguyên thông tin Internet đa dạng từ chính sự đa dạng của các mạng thành viên của nó.
Những mạng từ các trường đại học ,các trung tâm hay viện nghiên cứu góp vào Internet , những thông tin khoa , giáo dục và công nghệ mới từ đủ mọi lĩnh vực .
Những mạng từ các thư viện ,bảo tàng cung cấp các thông tin khoa học ,văn hóa ,nghệ thuật của các miền đất nước khác nhau , của các nền văn hóa , nền văn khắp nơi trên toàn thế giới.
2.Internet-Siêu Sa Lộ Thông Tin
Lần đầu tiên, cụm từ “ Siêu xa lộ thông tin ” được đưa ra công luận ở Mỹ năm 1993, và đã được xếp là một trong mười sự kiện hàng đầu của tin học thế giới năm đó, đã được quan tâm đặc biệt của nhiều giới chức trên toàn cầu.
ý tưởng về siêu xa lộ thông tin (SXLTT) được đưa ra công luận vào tháng 3/1993 tại Mỹ, sau khi Tổng thống Bill Clinton và phó Tổng thống Albert Gore bước vào nhà trắng. Ngày 22/2/1994 Tổng thống Bill Clinton đọc một bản tuyên bố quan trọng tại quốc hội Mỹ với tên gọi: “Công nghệ vì sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ -Một hướng mới để xây dựng sức mạnh kinh tế ”. Bản báo cáo đã kêu gọi Nhà nước Mỹ đầu tư phát triển SXLTT và coi đó cũng giống như việc nước Mỹ đầu tư phát triển hệ thống đường xe lửa và hệ thống điện tín ở Mỹ thế kỷ 19. Tổng thống Bill Clinton nêu rõ:”Nước Mỹ sẽ xây dựng xong SXLTT trong vòng từ 10 đến 15 năm tới” và đã quyết định đầu tư 200 tỷ USD để triển khai siêu xa lộ thông tin ở Mỹ. Còn phó tổng thống Al Gore thì cho rằng siêu lộ cao tốc thông tin là thị trường quan trọng bậc nhất của thế kỷ 21 bằng mọi cách phải xây dựng
ý đồ xây dựng các SXLTT cũng đang được một loạt nước và khu vực trên thế giới hưởng ứng. Về thực chất “ Siêu xa lộ thông tin” bao gồm các hệ thống khác nhau:
Các ” siêu xa lộ có hình ảnh” chủ yếu nhằm truyền đi các dịch vụ truyền thông đa phương tiện (Multimedia) tương tác. Các xa lộ này đảm bảo truyền tới từng hộ gia đình nhằm các ứng dụng cho loại vô tuyến số hoá, mua bán điện tử, các dịch vụ văn hoá có khoảng cách xa. Các xa lộ này cần có tốc độ truyền rất cao và hiện còn nhiều vấn đề kỹ thuật chưa giải quyết được.
Các xa lộ chủ yếu truyền các văn bản với thông lượng thấp, đã có từ 20 năm nay và được phát triển mạnh dựa trên mạng nòng cốt chủ yếu là Internet đã có sẵn từ trước ở Mỹ.
Thực ra, sử dụng cụm từ “Siêu xa lộ thông tin” là để nhằm mục đích diễn giải cho ý tưởng của những con đường chính công cộng mà theo chúng thông tin được chuyển giao với tốc độ cao.
Các chuyên gia tin học thì khẳng định rằng, SXLTT sẽ là cầu nối để nhân loại chuyển từ xã hội hậu công nghiệp sang xã hội thông tin.
Các nhà xã hội học thì cho rằng, đấy chính là tiền đề cho sự hình thành một nền văn minh toàn cầu.
Siêu Xa Lộ Thông Tin là một sản phẩm tiêu biểu nhất của khoa học và công nghệ thế giới trong những năm cuối của thế kỷ 20.
Đây là công trình chiến lược để các nước phương Tây bước vào thế kỷ 21 . Theo kế hoạch của Craig McCaw (công ty McCaw Celluar - tổ chức khai
thác các máy điện thoại di động lớn ở Mỹ) và Bill Gate (ông chủ của công ty phần mềm máy tính Microsoft ở Mỹ) thì SXLTT bao gồm một mạng lưới các vệ tinh có công suất tương đương mạng cáp quang hiện đại bao gồm khoảng 840 vệ tinh được đặt trên 21 quỹ đạo khác nhau qua hai địa cực và phủ kín được khoảng 95% bề mặt trái đất. Vì các vệ tinh bay trên quỹ đạo thấp (cao độ khoảng 700 km) nên hàng năm có khoảng 10% vệ tinh bị rơi trở lại trái đất, để đối phó với nguy cơ này một hệ thống theo dõi và kiểm soát liên tục hoạt động và chỉ đạo việc phóng các vệ tinh bổ sung.Như vậy mỗi năm phải phóng thêm khoảng 84 vệ tinh mới.
Việc hiệu chỉnh hệ thống chỉnh lưu của các vệ tinh cũng khá phức tạp, mỗi vệ tinh bay một vòng quanh trái đất hết khoảng 90 phút và trong tầm bắt
sóng của ngưới sử dụng tối đa là 30 phút trước khi nó mất hút ở cuối đường chân trời, như vậy hệ thống các đài tiếp phát phải được thiết lập đủ để đảm bảo cho liên lạc không được gián đoạn.
Các nhà thiết kế “Siêu Xa Lộ Thông Tin Mỹ” dự kiến đến năm 2001 SXLTT sẽ được đưa vào hoạt động, khai thác ở giải tần số siêu cao (28 Giga Hetz) với kỹ thuật Digital và video có độ phân giải cao.
Siêu Xa Lộ Thông Tin ra đời sẽ làm thay đổi nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội của loài người, ta hãy xét một số mặt sau:
ó Mọi người trên thế giới đều có thể liên lạc với nhau bằng âm thanh, tiếng nói và hình ảnh. Đường biên giới quốc gia không còn ý nghĩa gì nữa .
ó Khả năng truyền thông tin là rất lớn (coi như không có sự hạn chế).
ó Hình thành một khái niệm mới về làm việc đó là làm việc từ xa (teleworking), đa số cán bộ viên chức có thể làm việc tại nhà nên số người đến công sở làm việc giảm đi rõ rệt, từ đó giảm được mật độ đi lại trên đường, tiết kiệm được nhiên liệu và phương tiện giao thông, tiết kiệm được diện tích công sở, giảm được tai nạn giao thông, bảo vệ được môi trường và sức khỏe... Tổ chức các hội nghị hội thảo quốc tế rất thuận lợi, các thành viên tham dự không còn lo đi muộn nữa (vì ở mọi nơi đều có thể tham luận và nghe nhìn người khác phát biểu).
ó Có thể coi Internet là khuôn mẫu đầu tiên về “Siêu Xa Lộ Thông Tin”.
3.Internet-Một Xã Hội Sôi Động
Với số lượng người dùng đông đảo ,Internet cùng với các dịch vụ của nó đã trở thành một xã hội nhộn nhịp và sôi động.
Ngay từ những ngày đầu của mình Internet đã phục vụ cho mục đích nghiên cứu giáo dục tại các trường đại học và trung tâm nghiên cứu .Ngày nay ,người dùng Internet vẫn còn có thể hàng ngày học tập trên Internet, tham gia các khoá học huấn luyện ,các cuộc hội thảo và diễn đàn khoa học.
Đến với các mạng của các trung tâm thư viện khắp nơi trên Internet người dùng có thể mặc sức tra cứu các thông tin tư liệu ,sách vở và tạp trí cần thiết .
Đến với các mạng của các tổ chức thông tin ,xuất bản ,người dùng có thể đọc báo hàng ngày ,nghe đài , xem tivi , nghe hay xem các chương trình ca múa nhạc …
Đến với các mạng máy tính của các tổ chức thương mại ,người dùng có thể theo dõi các thông tin thương mại hàng ngày trên phạm vi toàn cầu, từ vĩ mô đến vi mô .Có thể vào các cửa hàng xem xét kỹ lưỡng các mặt hàng và quyết định mua hàng…
Vẫn ngồi ở nhà , người dùng có thể tham gia nói chuyện với những người bạn từ bên kia đại dương , tham dự các câu lạc bộ , du lịch tới những miền đất xa xôi , tham quan các viện bảo tàng …
Với Internet , hàng triệu người dùng trên toàn thế giới có thể ngồi ở nhà, trước một máy tính để thực hiện tất cả các hoạt động nói trên :học tập , nghiên cứu, làm việc, thăm quan, vui chơi, giải trí và mua bán .Internet đã thực sự trở thành một xã hội rộng lớn , vượt qua khoảng cách không gian, vượt qua biên giới của các quốc gia. Nó giúp thực hiện việc giao lưu giữa các nền văn hoá, các nền văn minh khác nhau.Đưa con người xích lại gần nhau hơn .
Tuy nhiên,giống như trong một xã hội , trên Internet cũng có những hoạt động tiêu cực và cùng với chúng là những thông tin tiêu cực . Những hoạt động tiêu cực điển hình là những thâm nhập trái phép ,có tính phá hoại, gieo rắc virus máy tính, tuyên truyền tư tưởng không lành mạnh ,bóp méo sự thật hay xuyên tạc thông tin … Sự tham gia nhanh chóng và tích cực của các cộng đồng người từ mọi miền đất nước trên khắp hành tinh sẽ góp phần làm lộ mặt các thông tin tiêu cực và làm trong sáng thông tin trên Internet.Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên môn nắm vững công nghệ Internet và triển khai các công nghệ lọc thông tin như filewall cũng là một biện pháp tích cực chủ động phòng chỗng các hoạt động tiêu cực trên Internet
4.Một số giải pháp an toàn mạng
Mạng Internet là xu hướng phát triển của thế giới hiện đại, là phương thức thông tin cực nhanh với dung lượng truyền tải rất lớn. Thông qua mạng Internet các nhà nghiên cứu khoa học kỹ thuật, các nhà giáo dục đào tạo, các nhà doanh nghiệp,... có thể trao đổi thông tin với nhau hoặc truy nhập thông tin của nhau về các công trình, lĩnh vực nghiên cứu mới nhất, về các phương pháp, hình thức giáo dục và đào tạo,về các thông tin kinh tế, thị trường giá cả,... một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng.
Trong lĩnh vực kinh doanh, Internet thực sự đã trở thành một trong những nơi hứng thú nhất từ trước tới nay để thực hiện công việc kinh doanh.Với mạng Internet ta có thể thu nhận được nhiều thông tin nhất, ở mọi nơi, cho mọi đối tượng và vào bất kỳ lúc nào trên một khoảng cách xa hầu như không hạn chế.
Tuy nhiên đăng nhập vào Internet cũng có nhiều nỗi lo lắng . Nhìn chung, nỗi lo của nhiều người là vấn đề an toàn trên mạng Internet, rằng có những kẻ có thể sử dụng mạng Internet để thực hiện ý đồ xấu của mình trong những lĩnh vực sau:
ó Tung tin giả, số liệu giả, bôi nhọ uy tín của các cá nhân nổi tiếng bằng cách gửi thư điện tử giả mạo dưới tên thật của họ, thay đổi, sửa chữa và ăn cắp số liệu, tài khoản ngân hàng, mã số điện thoại, các mật khẩu truy nhập mạng INTERNET, cài các loại Virus vào mạng này để pháp huỷ các cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia,....
ó Lưu hành các tài liệu độc hại, đồi truỵ về văn hoá như tranh ảnh sách báo khiêu dâm và các loại tài liệu phản động trên mạng INTERNET nhằm gây bạo loạn hoặc mưu đồ lật đổ chính trị ở nước sở tại v.v....
Một số nhà khoa học đã cảnh báo về những tác hại không lường này, một biện pháp ngăn ngừa là dựng bức tường lửa -Fire wall.
a. Bức tường lửa –FireWAll
Các chuyên gia an ninh máy tính của trường đại học Texas A&M ở College Station đã xây dựng một Fire Wall, về hình tượng giống như một chiếc hào bao quanh một lâu đài mà bất kỳ cái gì muốn vào cũng đều bị kiểm soát trước khi được phép đi vào trong. Bức tường lửa là một phương tiện để quét và phát hiện mọi nỗ lực ở phía bên ngoài muốn đột nhập vào các máy tính của trường đại học. Hàng rào này gồm một chương trình lọc gói -packet filtering cho phép thế giới bên ngoài gửi được thư điện tử tới tất cả các máy tính trong trường nhưng lại phong toả các dịch vụ khác._. được coi là nguy hiểm như TELNET, FTP,.... Hiện nay trung tâm máy tính của trường này có thể đảm bảo truy nhập nhất thời tới các trạm công tác ở bên ngoài bức tường lửa sau khi nhận được yêu cầu. Trong lúc đó thì tường lửa được biến đổi để trở nên thông suốt cho các dịch vụ INTERNET đi ra nước ngoài.
Kể từ mùa hè 1992 những cuộc đột nhập trái phép đã giảm xuống mức coi như không đáng kể, thường là do mật khẩu của ai đó bị hỏng. Như vậy về nguyên tắc bức tường lửa chỉ cho phép thực hiện việc trao đổi bằng máy tính được thông qua những cổng -gateway hạn chế, cấu tạo từ các máy tính và các chương trình lọc - filtering programs.
Nói chung, những người sử dụng thông tin ở bên trong bức tường có thể truy nhập tới thế giới bên ngoài một cách dễ dàng, nhưng những người ở bên ngoài nếu cố truy nhập tới mạng lưới của cơ quan thì họ phải đương đầu với nhiều sự kiểm tra nghiêm ngặt, chẳng hạn bằng cách yêu cầu các mật khẩu hoặc chỉ cho phép các thông báo bên ngoài đi qua nếu chúng đi từ những máy nào đó đã được chấp thuận từ trước v.v ...
b.Quét Internet:
Đánh giá độn an toàn của cấu hình Internet trên mạng.
c.Realsecure:
Phân tích các bó của mạng khi chúng chạy qua mạng này ,tạo ra sự giám sát liên tục ở mức tối đa.
d.Quét hệ thống:
Khoá cấu hình của hệ thống làm cho nó phát hiện sự can thiệp trái phép dễ dàng hơn.
e.Quét cơ sở dữ liệu:
Tự động xác định các khả năng dễ bị tấn công tiềm ẩn trong các hệ thống của cơ sở dữ liệu ,từ các mật khẩu yếu kém đến các khung Trojan.
III.lợi ích của internet
Là những người sử dụng Internet ,chúng ta có thể hiểu rõ những lợi ích mà Internet mang lại .Internet là một kho tàng thông tin vô tận mà chúng ta có thể khai thác không kể ngày đêm .Tuy nhiên hiện nay ,đối với các doanh nghiệp của các nước trên thế giới thì sự nhận thức về những thế mạnh của Internet đã rõ ràng còn đối với các doanh nghiệp của Việt Nam thì sự nhận thức về những thế mạnh của Internet còn chưa rõ ràng .Thực trạng này đã đã hạn chế việc ứng dụng Internet vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.Chi Phí Thu Mua Giảm
Việc mua hàng hoá và dịch vụ là một quá trình rất phức tạp và có rất nhiều công đoạn .Đầu tiên người mua phải tìm kiếm nhà cung cấp ,đánh giá xem nhà cung cấp có khả năng đáp ứng được các yêu cầu về số lượng và chất lượng và giá cả về hàng hoá hay không .Sau khi đã chọn được nhà cung cấp , người mua sẽ chuyển đến cho anh ta những thông tin cụ thể về hàng hoá nhằm giúp nhà cung cấp có thể sản xuất ra chính xác loại hàng theo yêu cầu.Giả sử rằng người mua đã chấp nhận hàng mẫu và người cung cấp đã sẵn sàng tiến hành sản xuất hàng hoá ,người mua khi đó sẽ chuyển đến cho nhà cung cấp một đơn đặt hàng nêu rõ số lượng hàng hóa cụ thể cần mua .Sau khi nhận được đơn đặt hàng ,người cung cấp sẽ thông báo lại cho người mua biết anh ta đã nhận được đơn đặt hàng và chấp nhận giao dịch .Khi người cung cấp vận chuyển hàng đến nơi người mua ,người mua sẽ nhận được thông báo về việc chuyển hàng và hóa đơn đề nghị thanh toán ….Nếu có bất cứ thay đổi nào xẩy ra trong quá trình vừa nêu thì việc mua bán trở nên phức tạp hơn rất nhiều .
Để tiết kiệm chi phí mua hàng ,các công ty thường chọn giải pháp là sử dụng một số nhà cung cấp cố định có quan hệ lâu năm nhằm tranh thủ các khoản triết khấu ưu đãi và cung cấp hàng nhanh .Tuy nhiên làm như vậy cũng đồng nghĩa với việc thu hẹp mạng lưới nguồn cung cấp lại.
Các công ty lớn hiện nay đang sử dụng hệ thống EDI nhằm giảm chi phí lao động ,in ấn và thư tín trong quá trình mua hàng.Tự động hoá quá trình mua hàng có nghĩa là bộ phận thu mua có thể dành nhiều thời gian hơn vào việc thương lượng về một mức giá ưu đãi hơn và xây dựng các mối quan hệ bạn hàng thân thiện hơn. Các nhà phân tích ước tính rằng đã có một khối lượng hàng hoá và dịch vụ trị giá 150 tỷ USD đã được mua bán qua hệ thống EDI giữa các doanh nghiệp .Các công ty sử dụng hệ thống EDI thường tiết kiệm được từ 5-10% chi phí thu mua hàng hoá.
Internet còn có thể giúp làm giảm chi phí mua hàng nhiều hơn thế . Internet mở ra cơ hội làm ăn điện tử với các nhà cung cấp mới và nhà cung cấp vừa và nhỏ trước đây thường chỉ liên lạc với bạn hàng qua Fax hoặc điện thoại .Internet giúp làm giảm chi phí vận hành và tạo nên các cơ hội tiêu thụ hàng hoá từ những lời đề nghị đấu thầu được công bố rộng rãi trên Internet.
2.Giảm Hàng Tồn Kho
Hàng tồn kho của một công ty càng lớn ,chi phí vận hành của công ty đó càng tăng và lợi nhuận vì vậy sẽ giảm xuống.Thậm chí có nhiều hàng tồn kho cũng không đảm bảo việc có thể cải thiện dịch vụ khách hàng tốt hơn .
Quản lý hàng tồn kho khôn ngoan sẽ giúp cải thiện được hoạt động dịch vụ khách hàng và làm giảm chi phí vận hành cho công ty .Giảm hàng tồn kho cũng đồng nghĩa với việc năng suất được tận dụng hiệu quả hơn. Điều này lại giúp làm giảm sức ép phải đầu tư bổ sung vào trang thiết bị sản xuất.
Việc trao đổi thông tin thông qua hệ thống mạng điện tử giữa các nhà máy, bộ phận Marketing và bộ phận thu mua đã giúp đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá trong kho và phòng kế hoạch sản xuất sẽ xác định được năng lực sản xuất và nguyên vật liệu của từng nhà máy .Khi có vấn đề phát sinh ,toàn bộ các bộ phận trong tổ chức ngay lập tức nắm rõ và có những điều chỉnh phù hợp .Nếu như mức cầu trên thị trường bất ngờ tăng hoặc một nhà máy không thể hoàn thành kế hoạch sản xuất thì tổ chức có thể kịp thời nhận biết được tình hình và tăng cường hoạt động sản xuất tại một nhà máy khác.
Chính vì vậy mà vấn đề hàng tồn kho của các công ty,các doanh nghiệp luôn được giải quyết tốt và đã giúp các công ty và tổ chức của mình tiết kiệm được nhiều triệu USD trong một năm sản xuất kinh doanh.
3.Giảm Thời Gian Sản Xuất
Trong quá trình sản xuất ,có những chi phí cố định không thay đổi theo số lượng sản phẩm nhưng lại phụ thuộc vào thời gian sản xuất .Những chi phí “ cố định “ này bao gồm chi phí hao mòn máy móc nhà xưởng và chi phí quản lý .Tuy nhiên ,nếu thời gian sản xuất một đơn vị sản phẩm giảm từ 10 ngày xuống 7 ngày ,thì chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống .Thương mại điện tử cho phép rút ngắn “thời gian sản xuất “ và với cùng một mức chi phí thậm chí thấp hơn ,có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn.
Trong thập niên 80 ,việc các công ty Nhật Bản rút ngắn được thời gian sản xuất xuống đẩy các công ty của Mỹ phải đứng trước những thách thức cạnh tranh gay gắt .Người Mỹ đã phản ứng lại bằng việc phá vỡ sự cách biệt giữa các bộ phận thiết kế ,sản xuất và kinh doanh ,cũng như cải thiện mối quan hệ với các bạn hàng.
Việc xây dựng các mối liên lạc điện tử với các nhà cung cấp và khách hàng đã giúp các công ty Mỹ tiết kiệm được rất nhiều thời gian trong việc giửi nhận các đơn đặt hàng ,hoá đơn và thông báo chuyển hàng .Một số công ty cũng bắt đầu chia sẻ các bản thiết kế sản phẩm trên các mạng VAN nhằm thúc đẩy quá trình thiết kế và phát triển sản phẩm.
Đầu những năm 80 ,ngành công nghiệp sản xuất ô tô của Mỹ phải chịu sức cạnh tranh rất mạnh của các hãng xe hơi Nhật Bản. Một trong những nguyên nhân là người Nhật có thể biến ý tưởng về một mẫu xe hơi ra sản phẩm để sản xuất hàng loạt chỉ trong vòng 3 năm ,trong khi đó người Mỹ thường phải mất 6 năm.
Ngày nay ,tất cả các bên có liên quan tới việc thiết kế những mẫu sản phẩm các nhà thiết kế ,các kỹ sư ,các nhà cung cấp và các nhà sản xuất thường cộng tác với nhau trong suốt quá trình sản xuất từ đầu đến cuối.Nhờ sự vi tính hoá ,các công đoạn trước đây khiến người ta mất hàng tuần lễ hoặc hàng tháng trời để làm giời đây có thể được hoàn thành trong vài ngày .Việc chia sẻ thông tin điện tử cho phép các thành viên có những trách nhiệm khác nhau trong nhóm có thể cùng tiến hành công việc ,chứ không phải đợi chờ người khác làm xong việc rồi mới làm thực hiện công việc của mình . Nhờ vào việc sử dụng hệ thống thiết kế và sản xuất có sự trợ giúp của máy tính , cả nhóm có thể chia xẻ với nhau các dữ liệu trên máy tính và sử dụng kỹ thuật mô phỏng 3 chiều để thiết kế ra các sản phẩm và có thể xác định được ngay các bộ phận có ăn khớp với nhau không mà không cần phải tạo ra bằng tay như trước.
Như vậy việc liên kết thông qua hệ thống EDI như vậy đã giúp các công ty ,các doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều chi phí trong sản xuất và kinh doanh của mình.
4.Dịch Vụ Khách Hàng Hoàn Hảo Và Hiệu Quả Hơn.
Hiện nay ,nhiều công ty đang bắt đầu sử dụng Internet như một công cụ hữu hiệu trong hoạt động dịch vụ khách hàng .Với các thông tin miêu tả về hàng hoá ,các tài liệu hỗ trợ kỹ thuật và các thông tin về tình trạng đặt hàng của từng khách hàng được đăng tải trực tiếp trên Internet,nhiều công ty không những tiết kiệm được chi phí do có thể giảm số nhân viên trong bộ phận dịch vụ khách hàng mà còn đem lại cho khách hàng sự thoả mãn cao hơn.
Trong nhiều năm qua ,các công ty phải tập hợp và lưu trữ thông tin về khách hàng và sản phẩm thành những cơ sở dữ liệu mà chỉ còn một số lượng nhất định các nhân viên trong công ty được cấp quyên truy cập.Tuy nhiên , ngày nay các doanh nghiệp có kế hoạch phát triển kinh doanh trên Internet đang cố gắng biến các nguồn thông tin này trở nên phổ biến trên ” Không gian điều khiển” để tất cả những người quan tâm đều có thể tra cứu.
Một trong những vấn đề thường làm khách hàng lo ngại là tính không chắc chắn của một đơn đặt hàng lớn.Khách hàng thường tìm cách liên lạc với nhà cung cấp để nắm tình hình .Do vậy giữa các bộ phận trong công ty của nhà cung cấp sẽ có một khối lượng lớn thông tin được trao đổi qua lại và nhà cung cấp cuối cùng sẽ hứa hẹn kiểm tra lại tình trạng của đơn đặt hàng và liên lạc với khách hàng sau.Mô hình này làm mất rất nhiều thời gian và tiền bạc cuả khách hàng và người bán trong khi vẫn không làm khách hàng cảm thấy hài lòng hoàn toàn.
Các công ty hiện nay có thể giải quyết vấn đề này thông qua mạng Internet .Một khách hàng có thể sử dụng máy tính của mình để truy cập vào địa chỉ trang Web của nhà cung cấp ,điền mã số đơn đặt hàng của anh ta vào và có thể lô hàng đã được một hãng vận tải có tín nhiệm vận chuyển đến.
Bên cạnh việc có thể làm tăng sự thoả mãn cho khách hàng ,các công ty hiện nay đang sử dụng Internet nhằm làm giảm chi phí dành cho hoạt động dịch vụ khách hàng bằng cách đăng tải trực tiếp trên Internet những thông tin về tình trạng đơn đặt hàng của khách hàng nhằm làm vừa lòng tất cả các khách hàng dù khó tính nhất.
5.Giảm Chi Phí Bán Hàng Và Marketing.
Một người bán hàng chỉ có thể hỗ trợ một số lượng nhất định khách hàng mà anh ta liên lạc trực tiếp hoặc qua điện thoại.Vì vậy ,khi số lượng khách hàng tăng lên ,lực lượng bán hàng cũng phải tăng lên theo .Thậm chí các công ty tiến hành marketing trực tiếp cũng phải tăng số lượng nhân viên nếu như số lượng đơn đặt hàng bằng điện thoại tăng lên .Hoàn toàn trái ngược với bức tranh đó ,một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh nhờ việc ứng dụng công nghệ Web có thể chỉ mất rất ít chi phí hoặc không mất thêm bất cứ chi phí nào khi số lượng khách hàng tăng lên .Lý do là chức năng bán hàng của doanh nghiệp đã được thực hiện bằng máy tính chứ không phải được tiến hành tại những cửa hàng hữu hình với những người bán hữu hình . Năng lực bán hàng của doanh nghiệp chỉ bị giới hạn do tốc độ xử lý các lệnh hỏi hàng và đơn đặt hàng của máy tính.
Internet cũng có thể làm tăng hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh doanh theo kiểu truyền thống ,các kênh phân phối và các hoạt động quảng cáo khác.Sự tự động hoá việc xử lý các đơn đặt hàng đã giúp bộ phận tiêu thụ sản phẩm không còn phải mất thời gian giải quyết bằng tay các đơn đặt hàng như trước đây.
Thay vào đó ,họ có thể dành nhiều thời gian để xây dựng và duy trì các mối quan hệ mật thiết với các khách hàng .Các catalogđiện tử cũng cung cấp cho khách hàng nhiều thông tin về hàng hoá hơn bất cứ loại catalog ấn phẩm nào .Biện pháp marketing trực tiếp trên Internet có thể rút ngắn được thời gian tái thu mua và mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hóa.
6.Mở Ra Các Cơ Hội Tiêu Thụ Sản Phẩm Mới.
Một đặc điểm của Internet là hoạt động bất kể ngày đêm với quy mô trên khắp thế giới .Vì vậy các doanh nghiệp có xây dựng trang Web trên Internet sẽ có khả năng vươn tới các thị trường mới mà bằng lực lượng bán hàng và chính sách quảng cáo thông thường họ khó có thể vươn tới được.
Lấy một ví dụ ,một chuyên gia của một công ty sản xuất hàng làm bằng chất dẻo có thể ngồi bên chiếc máy tính của anh ta ,sử dụng một trình duyệt Web(Web browser) để tìm kiếm nhà cung cấp nguyên vật liệu trên Internet .Bằng cách này ,một nhà cung cấp nhỏ với lực lượng bán hàng hạn chế vẫn có thể tiếp cận được vị khách hàng đó và có thể tiến hành giới thiệu sản phẩm của mình bán ra trên phạm vi toàn quốc ,nhưng bằng cách giới thiệu hàng hoá trên Internet và tạo ra các dịch vụ tuỳ chọn cho thị trường nhỏ bé của mình ,cửa hàng đó vẫn có thể xây dựng một thị trường mới , nhiều lợi nhuận không chỉ ở trong nước và trên toàn thế giới.
B.sơ lược về thương mại điện tử
I.thương mại điện tử –một hình thức kinh doanh mới
1.Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử
Ngay tử những năm 60 ,khi máy tính điện tử bắt đầu được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực kinh tế , việc tin học hoá được tiến hành đầu tiên trong các lĩnh vực ngân hàng ,tài chính ,kinh doanh và thương mại.Thương mại điện tử gắn liền với việc phát triển vượt bậc của liên mạng truyền thông –máy tính toàn cầu Internet trong những năm giữa thập niên 90 này.Như chúng ta đã biết ,Internet cùng các dịch vụ phong phú của nó có khả năng cung cấp cho con người các phương tiện hết sức thuận tiện để trao đổi ,tổ chức ,tìm kiếm và cung cấp các thông tin do đó hình thành các hình thức tổ chức hoàn toàn mới mà người ta thường gọi là các tổ chức “ảo”(Virtual),tức là các tổ chức có thể thực hiện các chức năng và tiến hành giao dịch của mình thông qua Internet.
Hoạt động thương mại ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển kinh tế đồng thời cũng là một loại hoạt động mà nội dung thông tin ngày càng đóng vai trò quan trong có ý nghĩa quyết đinhj ,do đó lẽ tự nhiên là lĩnh vực rộng lớn nhất tìm thấy được ở sự phát triển Internet những khả năng tuyệt vời để hiện đại hoá và toàn cầu hoá hoạt động của mình .
Những tiến bộ ,đổi thay và biến động dồn dập trong thập niên cuối cùng của thế kỷ này như đang cố sức làm bộc lộ hết những thách thức cũng như khả năng to lớn để xã hội loài người toan tính những bước phát triển mới cho thế kỷ sắp tới.Sự chuyển biến mạnh mẽ sang một nền kinh tế thông tin trên phạm vi toàn cầu đã được những cơ sở bước đầu vững chắc với việc tạo lập trên thực tế những hình mẫu “ nhìn thấy được” của kết cấu hạ tầng thông tin của xã hội ở tầm quốc gia cũng như ở phạm vi toàn cầu.
Sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet một hình mẫu đầy thuyết phục của khái niệm “Siêu xa lộ thông tin” vừa mới được đưa ra từ đầu thập niên này -đã tạo điều kiện cho hàng loạt những biến chuyển “hiện đại hoá “ trong các lĩnh vực kinh tế , xã hội,trong đó quá trình toàn cầu hoá các hoạt động thương mại là điểm nổi bật.
Thương mại điện tử trên mạng Internet là một phương thức mới hỗ trợ đắc lực cho quá trình hiện đại hóa và toàn cầu hoá đó.Mạng Internet cung cấp mọi dịch vụ ,kể cả việc trao đổi tiền bạc và một bộ phận hàng hoá trong mua bán ,nếu ta hiểu rằng tiền bạc và một bộ phận ngày càng lớn hàng hoá hiện nay cũng là một thông tin .Nhưng hoạt động thương mại đòi hỏi các quá trình trao đổi thông tin (và tiền bạc ) phải được an toàn .Và vì vậy,để có thương mại điện tử ,cùng với sự phát triển của mạng Internet ,ta còn phải có các giải pháp an toàn thông tin khi dùng Internet cho các hoạt động thương mại.
2.Viễn cảnh của thương mại điện tử.
Theo số liệu điều tra mới nhất của công ty Rrester Research Inc-một công ty về các thống kê thị trường thông tin,sẽ có 40 triệu người Mỹ mua sắm qua ,mạng vào năm 2003 so với 8,7 triệu người trong năm 1998.Doanh số bán hàng qua mạng tại Mỹ trong 4 năm tơi sẽ tăng lên 108 tỷ USD.Tới đây ,khi bình thường thương mại Việt –Mỹ ,cơ hội để cho sản phẩm Việt Nam trên thị trường thương mại điện tử sẽ gia tăng nhanh chóng và các công ty Việt Nam sẽ chia sẻ một phần doanh thu khổng lồ 600 tỷ USD từ mạng toàn cầu vào năm 2002.
Nhiều chuyên gia thương mại cho rằng kinh doanh điện tử không chỉ đơn giản là vấn đề thay đổi phương thức, mà đích cuối cùng là thương mại điện tử là phát triển hình thức kinh doanh thưo một hướng mới,công nghệ mới có khả năng cạnh tranh cao hơn và tiết kiệm hơn .
3.Vai trò của các công cụ thương mại điện tử
Phần lớn sự kích thích phát triển thương mại đang xảy ra trên từng phần nào đó của Internet đã được biết đến ,chẳng hạn như là www(World Wide Web) .WWW là một siêu phương tiện thông tin đã được phân chia bên trong Internet và nó bắt đầu được phát triển bởi CERN(trung tâm năng lượng hạt nhân châu Âu) .
Các siêu phương tiện thông tin cho phép các phương tiện thông tin ở một nơi nào đó trên mạng máy chủ toàn cầu được liên hệ với nhau hoặc cho phép một người nào đó truyền đi những thông tin từ nơi này đến nơi khác bằng cách nhấn vào các siêu liên kết .Một vài hình thức siêu liên kết có thể trỏ tới một vài tệp dữ liệu ở bất kì chỗ nào trên Internet. Người sử dụng – những khách hàng quen - có thể xây dựng cho mình một trang chủ của WWW ở nhà để tận dụng hệ thống siêu liên kết nhằm đơn giản hoá công việc hướng dẫn ,kể cả những đề nghị trên Internet.
Việc hiện nay WWW đang dược sử dụng một cách phổ biến như là một công cụ thương mại, là nhờ nó có khả năng phân phối các nguồn tài nguyên và thông tin một cách thuận lợi và tiềm năng của nó đối với việc cung cấp một kênh thông tin có hiệu quả cao cho việc quảng cáo ,tiếp thị và hướng dẫn phân phối một cách công bằng những dịch vụ thông tin và hàng hoá nào đó.
a.Word wide web với vai trò là một công cụ thương mại
Như một trung gian thương mại ,Web tạo ra nhiều lợi ích quan trọng đối với khách hàng và các hãng .Như vậy ta có thể đề cập đến cả cung và cầu.Trước hết ta đề cập đến lợi ích từ phái khách hàng và sau đó là các hãng . Lợi ích của người mua có được chủ yếu do các đặc tính về kết cấu của trang Web đó là:cung cấp đầy đủ thông tin,công cụ tìm kiếm và thử sản phẩm trên mạng điều đó làm giảm sự không chắc chắn khi quyết định mua hàng.Về phía hãng nhận được lợi ích từ tiềm năng của Web đó là :
+ kênh phân phối
+ truyền thông Maketing
+ thị trường ảo
Những thuận lợi đó được kết hợp với công nghệ Web và quan hệ hữu cơ với các công cụ thương mại.
b. World wide web như là một kênh có hiệu quả
Những cố gắng về thương mại dựa trên Internet đem lại hiệu quả nhiều hơn và đều đặn hơn đối với những nỗ lực đã có của những phương tiện thông tin truyền thống trước đó.Ban đầu , dựa vào sự ước đoán về hiệu quả được sinh ra bởi hệ thống mạng thương mại trực tiếp, họ quyết tâm đưa ra đề xuất việc tiếp thị trên các trang web ,và kết quả là "chỉ bằng 1/10 ngân quỹ quảng cáo họ đã bán được một số lượng sản phẩm gấp 10 lần "(Potter 1994).Như vậy ,chi phí cho việc thực hiện tiếp thị trực tiếp thông qua mạng Internet rẻ hơn 1/4 lần so với việc tiếp thị trên các phương tiện thông tin đại chúng bình thường khác (Verity & Hof,1994).Sự kiện này trở thành một hiện tượng đặc biệt trong bộ mặt của quá trình rút ngắn công nghệ và chu kỳ sống của sản phẩm và tạo ra sự phát triển của những công nghệ phức tạp .Xem như ví dụ về SunSolve Online , hệ thống Sun Microystems đã từng tiết kiệm được trên 4 triệu đô la chỉ riêng ở trong FAQS kể từ khi họ "thực hiện việc tái điều khiển thông tin xung quanh WWW".
c.Web như một mô hình hoạt động của hệ thống thông tin maketing
Các hãng sử dụng các phương tiện khác nhau để truyền đạt về luồng khách hàng hiên tại và tiềm năng của họ .Hệ thống thông tin maketing thực hiện ba chức năng :cung cấp dữ liệu,nhắc nhở và thuyết phục (Anderson và Rubin,1986).Mô hình thông tin Maketing one - to - many cổ điển dành cho các phương tiện thông tin đại ,các hãng (denoted by F) cung cấp những nội dung thông qua một phương tiện thông tin đại chúng đến một thị trường chung của người tiêu dùng (denoted by C).Hai chức năng đầu tiên của hệ thống thông tin maketing có lẽ được thực hiện bởi một mô hình hệ thống thông tin cổ điển .Tuy nhiên ,những chức năng đáng tin cần thiết cho việc phân biệt một sản phẩm hay hàng hoá được giới hạn bởi sự quản lý duy nhất của phương tiện thông tin đại chúng cổ điển.
d. Thu hút khách hàng đến với các địa chỉ web
@ Online storefront(Cửa hàng bán hàng trực tiếp trên mạng)
Những địa chỉ web này đưa ra các cuộc bán hàng trực tiếp thông qua một kênh điện tử , một catalô điện tử hoặc những cái khác đã được định dạng mới hơn .Số lượng sản phẩm bán hiện nay trên một địa chỉ có thể là một hoặc rất nhiều .Khách hàng đặt hàng thông qua các phiếu điền ,thư điện tử hoặc đăng kí .Thương điếm điện tử bao gồm nhiều dạng cung cấp khác nhau như:Absolutely Fresh Flowers,Aventurous Travelers Bookstore ,Alaska River Adventures, Ann Hemyng Candy,CDNow,Freeway Enterprises Person - to - Person Web Site & Greetino Cards,HeadFirst,Internet Shopping Network ,San Francisco Music Box Company, and Shrink - Ling.Một nhà cải cách gần đây trong catalô này là Security First Network Bank FSB ,ngân hàng Internet đầu tiên trên thế giới .Danh mục này mời chào những khách hàng có khả năng mở các tài khoản ,trả bằng hoá đơn,và quản lý tài chính của họ qua WWW(word wide web).
Sự ra đời của mô hình Online Storefront(Cửa hàng bán hàng trực tiếp trên mạng) đã đưa ra nhiều cơ hội mới.Nó đóng vai trò giới thiệu trực tiếp với thị trường về những sản phẩm hàng hoá dịch vụ ngay khi chúng còn đang được dự trữ tại cửa hàng.Nó hứa hẹn một hình thức hoạt động hiệu quả hơn những hình thức bán hàng khác.Đồng thời với cách tiếp cận này, thì vấn đề làm thân thiện hơn các đặc tính của hàng hoá cũng như quảng cáo với người tiêu dùng đang có cơ hội phát triển ghê gớm.Và khả năng Online Storefront sẽ chấp nhận một phạm vi lớn hơn về hàng hoá và dịch vụ mà nó phục vụ là có thể xảy ra. Vậy mục đích cuối cùng cho sự ra hoàn thiện của mô hình này là những cửa hàng loại này có thể tồn tại phát triển được hoặc được chấp nhận dù chỉ dưới dạng các trang Web.(Bạn có thể tham khảo thêm vấn đề dùng thẻ điện tử để nhận dạng người truy nhập vào các trang Web của Freeway Enterprises Corp).
Tuy nhiên,Mô hình bán hàng trực tuyến trên mạng còn nảy sinh một số trở ngại. Vấn đề tốc độ truy nhập có thể làm cho việc mua sắm trực tiếp trên mạng trở nên mất thời gian, thiếu hấp dẫn.Ngoài ra,cách thức mua sắm cũng đòi hỏi phải đặt ra những chuẩn cần thiết cho các yêu cầu qua mạng.Trong nhiều trường hợp ,các giải pháp về mua sắm trên mạng trở nên kém hiệu quả hơn so với việc mua sắm thực tế tại các cửa hàng tổng hợp hay thông qua các catalô để yêu cầu.Bởi vì vấn đề công nghệ cho việc bảo đảm cho các giao dich ( ví dụ như chi trả ngay trên mạng) chưa thật sự an toàn.
Nên việc bảo mật và an ninh phải được thực hiện một cách thoả đáng trên các phương tiện truyền thông.Và cuối cùng là những hành vi của người tiêu dùng chưa được nắm bắt đầy đủ.Ví dụ như chúng ta hầu như không dự đoán được những trường hợp thử hàng hay mua nhiều lần một loại hàng,không biết được cách tổ chức hiệu quả nhất cho các hàng hoá sẽ được bán trên mạng và hiểu được rất ít về tác động của các công cụ quảng cáo như hình thức khuyến mại thân thiện nhất được thiết kế.
@ Internet Presence Site - Flat Ads,Image,Information
Internet Presence Site giúp cho các công ty và yêu cầu của họ xuất hiện thật sự trên mạng.Nó phục vụ việc cung cấp thông tin về khách hàng hiện tại và tiềm năng cũng như các nhà cạnh tranh mà công ty đang phải đối đầu và được điều khiển bỡi kỹ thuật “mimetic isomorphin”(Một kỹ thuật “điền vào chỗ trống làm biến đổi hình ảnh ra đời nằm 1983 do Dimaggio và Powell thiết kế).Chúng ta có thể chia ra làm ba loại Internet Prerence Site chính là Flat Ads, Image và Information.
Còn về khía cạnh hình ảnh trên Internet, người dùng đòi hỏi nó mang tính chất tình cảm hơn là lý trí.Còn thông tin về sản phẩm loại này, nếu có,thì được cung cấp trong bối cảnh mà nó được sử dụng hoặc người dùng có thể hiểu được.Những vấn đề như vậy xuất hiện đặc biệt phù hợp với loại sản phẩm chứa ít thông tin ma phức tạp .Ví dụ như:Late Show với David Letterman cuar CBS Eye trên mạng, Miller Genuine Draft,Paramount’s USS Voyage ,Sickbay,Planet Reebok, vf Zima.com
Khía cạnh thông tin cung cấp chi tiết, lôgic thông tin về các công ty và hoặc cả yêu cầu của họ.Internet Presence Information site có thể đảm nhiệm các biểu mẫu mới và tinh vi( ví dụ như Sun MicroSystem) và phù hợp nhất với yêu cầu có nội dung thông tin phức tạp, cấp độ cao.Những trợ giúp quyết định ( kiểu Step Search _dò từng bước)có thể được sủ dụng để hỗ trợ làm dễ dàng điều hướng.
Cơ hội cho Internet Prerence Site là khả năng vươn tới những khách hàng khởi đầu với mỗi thông báo đươc truyền đi giàu hình ảnh,thông tin.Vì những cản trở đầu vào là kém nên các công ty nhỏ hơn cũng có thể thiết lập cho mình một Internet Prerence Site ( thậm chí có thể tốt hơn các công ty lớn).Chúng ta hãy tin rằng Internet Prerence Site sẽ là thế hệ tương lai cho quảng cáo và tiếp thị trên Web.
Vấn đề thách thức ở đây là phải tìm ra một biện pháp thực thi thật sự, cụ thể đó là phải tìm ra cách tốt nhất để đưa ra các khái niệm.Chính thách thức mang tính thực tế này còn quan trong hơn là những ý tưởng về hình ánh và như vậy chính nó cũng mang lại nhiều thuận lợi hơn và chính như vậy hình ảnh sẽ hấp dẫn hơn nên có tác dụng lôi kéo khách hàng.Và một vấn đề cuối cùng là làm thế nào để các nhà quản lý có thể đánh giá được hiệu quả của những khía cạnh này.
@ Nội dung- mức phí-và dữ liệu cơ sở với sự bảo đảm và khả năng tìm kiếm.
Xét ở những góc độ nội dung cơ sở và mức phí,các nhà cung cấp sẽ cung cấp hoặc đáp ứng những gì mà khách hàng sẵn sàng chi trả để truy nhập.Khi những vấn đề này ngày càng nảy sinh thì các cơ chế chi trả an toàn cần phải được áp dụng.Ngày nay,tuy các mô hình mới còn đối diện với những thành công có mức độ có lẽ vì chính khách hàng không sẵn lòng chi trả cho những gì họ nhận được một cách sòng phẳng hợp lý như các nhà cung cấp yêu cầu.Điều này tạo nên xu hướng gân đây nhất là sự ra đời của các hoạt động môi giới thông tin ,các hình thức chia sẽ thông tin và sử dụng chúng ,chẳng hạn như với Newshare,và cách sử dụng -giá cơ bản như với NewPage ,nơi mà các khách hàng có thể lấy được những bài tóm tắt tin tức miễn phí nhưng nếu họ muốn có thông tin một cách đầy đủ thì cần phải trả một khoản chi phí nhỏ .Những ví dụ khác nữa bao gồm Dowvision,Quatecom,và Washington Weekly.Những có nội dung được tài trợ do các hoạt động quảng cáo và có thu tiền quảng cáo nhằm giảm hay bỏ đi sự cần thiết phải trả lệ phí đối với các khách hàng (Donation,1995).Do vậy không chỉ xuất hiện trên các cuốn tạp chí trên thế giới ,quảng cáo còn xuất hiện trên nhiều nguồn và cam kết tại trợ cho các nội dung mang tính xã luận.
Một xu hướng gần đây của quảng cáo là hướng vào tài trợ cho những nội dung "giải trí "(ví dụ như:The World Wide Web Dating Game)và những địa chỉ hướng dẫn tìm kiếm .Những ví dụ điển hình hiện nay về các địa chỉ có nội dung được tài trợ gồm có (error ! hyperlink reference not valid) ,Mother Jones,PowerPC News ,Triangle online và Washingtonian Online.
Một vài địa chỉ có nội dung được tài trợ kết hợp với các yếu tố của mô hình Internet Presence và the Mall.Các ví dụ về sự kết hợp này là GNN,MecklerWeb ,và Pathfinder.Kết cấu tỉ lệ giữa quảng cáo và thông tin tại các địa chỉ được bảo trợ về nội dung hiện nay có sẵn trong Interactive Publishing Alert.Trong loại mô hình ở nội dung thứ 3,các nhà kinh doanh hay những người quảng cáo trả tiền cho nhà cung cấp để có chỗ trong danh mục thông tin đã được sắp xếp ở Searchable Database.Đối tượng phân tích là con người ,dịch vụ hay nguồn thông tin tất cả đều cùng một dạng .Mô hình loại này hoàn toàn ngược với mô hình phải trả lệ phí cho nội dung.
Các content site(địa chỉ lưu giữ thông tin) giành được nhiều cơ hội khi chúng phát gần như song song với các loại hình thông tin truyền thống .Hiện nay ,nhìn chung khách hàng không phải trả hay cùng lắm chỉ phải trả một khoản chi phí nhỏ cho việc sử dụng thông tin .Đối với một số hãng như Wired và Time|Warner ,họ mở rộng phạm vi bằng cách cung cấp thêm một kênh mới .Các hãng chọn lựa loại hình này có cơ hội tiếp cận đến những khách hàng thích quảng cáo .Thêm vào đó những content site như vậy có thể cung cấp những nội dung có ý nghĩa mà có thể sẽ bị mất đi trong mớ thông tin hỗn độn hiện đang điển hình cho Web ở các content site khác .Các content site có thể quảng cáo cho sự đổi mới ,,tính hiệu quả so với các content site trên thế giới và về mặt lý thuyết việc này là dễ thực hiện. Tuy nhiên,những thách thức đối với các content site nảy sinh do việc người ta nhận thức về việc dễ thực hiện trên .Việc phát gần như song song với các phương tiện thông tin truyền thống gây nên những khó khăn lớn cần phải vượt qua cho các content site ,ở các content site được bảo trợ nội dung việc làm thế nào để đánh giá đúng nhất phản ứng của khách hàng và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ thì vẫn chưa biết .
@ Mall - Khu thị tứ
Khu vực mua bán điển hình là một tập hợp các thương điếm điện tử mỗi thương điếm điện tử có thể chứa rất nhiều loại hàng hoá để bán .Nhà cung cấp tính giá thuê bằng cách trao đổi lấy bất động sản thực và có thể mở nhiều loại dịch vụ ở các thương điếm điện tử .Một số khu vực mua bán cũng chấp thuận việc quảng cáo ,Ví dụ như :Internet Mall>Các ví dụ khác về loại khu vực này gồm :Branch Mall,Cyber Mart,eMall và Shopping2000.
@ Incentive Site - Địa chỉ tập trung
Incentive Site tiêu biểu cho dạng quảng cáo duy nhất thu hút lượng khách hàng lớn tới các content site .Mục đích của quảng cáo là thu hút khách hàng tới các địa chỉ thương mại đằng sau quảng cáo đó và do đó giúp các nhà nghiên cứu thị trường tạo ra đường dẫn tới các địa chỉ Web của họ >.Nội dung quảng cáo thường có thể ngắn và có thể phục vụ như một phương tiện thông báo dịch vụ công cộng hay để khuyến khích tiêu dùng .Trong hoàn cảnh việc vào ra các địa chỉ Web bị giám sát Incentive Site có chức năng giống như một khu vực mua bán .Có thể chú ý tới một số thành công như trong các dịch vụ hướng dẫn Open market.
@ Search Agents - Hướng dẫn tìm kiếm
Mục đích của Search Agents._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35037.doc