Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------
NÔNG QUỐC HUY
HUYỆN NGÂN SƠN
TỈNH BẮC KẠN THẾ KỶ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------
NÔNG QUỐC HUY
HUYỆN NGÂN SƠN
TỈNH BẮC KẠN THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướ
126 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2376 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin, tài liệu trình bày trong
luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả
Nông Quốc Huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSPHN : Đại học Sư phạm Hà Nội
H : Hà Nội
KHXH : Khoa học xã hội
M.s.th.t.p : Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Thí dụ: 15 mẫu 6 sào 14 thước 5 tấc 2 phân sẽ được viết tắt là 15.6.14.5.2
Nxb : Nhà xuất bản
PGS : Phó giáo sư
TS : Tiến sĩ
TCN : Trước công nguyên
TTLTQGI : Trung tâm lưu trữ Quốc gia I
T : Tổng
Tr : Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN NGÂN SƠN TỈNH BẮC KẠN ...... 7
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .......................................................... 7
1.2. Lịch sử hành chính huyện Ngân Sơn ................................................... 11
1.3. Các thành phần dân tộc trong huyện. ................................................... 13
Chƣơng 2. KINH TẾ HUYỆN NGÂN SƠN THẾ KỶ XIX ...................... 21
2.1. Chế độ sở hữu ruộng đất ...................................................................... 21
2.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất huyện Ngân Sơn đầu thế kỷ XIX theo
địa bạ Gia Long 4 (1805)............................................................. 21
2.1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất huyện Ngân Sơn giữa thế kỷ XIX theo
địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ....................................................... 34
2.1.3. So sánh tình hình sở hữu ruộng đất Ngân Sơn nửa đầu thế kỷ XIX
theo địa bạ Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) ........... 41
2.2. Nông nghiệp ......................................................................................... 51
2.3. Công thương nghiệp ............................................................................. 60
2.3.1.Thủ công nghiệp ............................................................................. 60
2.3.2. Thƣơng nghiệp .............................................................................. 63
Chƣơng 3. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
HUYỆN NGÂN SƠN THẾ KỶ XIX ....................................... 66
3.1. Chính trị - xã hội .................................................................................. 66
3.2. Tình hình văn hoá................................................................................. 68
3.2.1 Văn hoá vật chất............................................................................. 68
3.2.2. Văn hóa tinh thần .......................................................................... 75
3.3. Truyền thống đấu tranh của các dân tộc huyện Ngân Sơn .................. 98
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Các dân tộc ở Ngân Sơn ................................................................... 20
Bảng 2: Thống kê địa bạ Gia Long 4 (1805) ................................................. 22
Bảng 3: Bảng thống kê quy mô sở hữu ruộng đất của 39 xã thôn có địa
bạ Gia Long 4 (1805) ...................................................................... 24
Bảng 4: Tổng diện tích các loại ruộng đất của huyện Ngân Sơn theo địa
bạ Gia Long 4 (1805) ...................................................................... 24
Bảng 5: Sự phân hoá ruộng tư ở Ngân Sơn (1805) ........................................ 26
Bảng 6: Bình quân sở hữu một chủ ................................................................ 26
Bảng 7: Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ ............................................ 29
Bảng 8: Tình hình giới tính trong sở hữu tư nhân ......................................... 31
Bảng 9: Diện tích tư thổ ................................................................................. 32
Bảng 10: Tình hình sở sữu ruộng tư của các chức dịch (1805) ..................... 33
Bảng 11: Tổng diện tích các loại ruộng đất của Ngân Sơn ........................... 35
Bảng 12: Thống kê quy mô sở hữu ruộng đất của 14 xã thôn có địa bạ
Minh Mệnh 21 (1840) ..................................................................... 35
Bảng 13: Sự phân hoá ruộng tư của Ngân Sơn .............................................. 36
Bảng 14: Bình quân sở hữu một chủ theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) .......... 37
Bảng 15: Tình hình giới tính trong sở hữu tư nhân ....................................... 38
Bảng 16: Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ .......................................... 38
Bảng 17: Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức dịch ................................ 41
Bảng 18: So sánh sự phân bố các loại ruộng đất của Ngân Sơn .................... 42
Bảng 19: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất tư .............................................. 42
Bảng 20: So sánh quy mô sở hữu của các nhóm họ của 13 xã có địa bạ 2
thời điểm lịch sử Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh (1840) ........... 46
Bảng 21: Tình hình sở hữu của các chức dịch 1805, 1840 ............................ 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” (Hồ Chí Minh).
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta từ bao đời nay đã minh chứng
cho tính thống nhất ấy. Trên mảnh đất hình chữ S giàu truyền thống - Việt
Nam, 54 dân tộc anh em trên 63 tỉnh, thành phố đã chung sống, đoàn kết cùng
nhau đấu tranh giữ vững chủ quyền dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.
Do đó, thật là thiếu sót khi tìm hiểu lịch sử dân tộc mà không thông qua lịch
sử cụ thể của từng địa phương với những nét riêng, độc đáo, góp phần cụ thể
hóa, sinh động hóa bức tranh lịch sử chung của toàn dân tộc.
Khu vực miền núi và trung du giữ một vị trí hết sức quan trọng trong
tiến trình lịch sử dân tộc cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Không chỉ là
nơi giàu tài nguyên khoáng sản, với nền văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc,
miền núi và trung du còn là địa bàn có vị trí chiến lược trọng yếu trong việc
giữ gìn và bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc. Đặc biệt là vùng biên ải phía
Bắc, nhất là các tỉnh vùng Đông Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang…) vừa là cửa ngõ vào Việt Nam, vừa có địa hình
hiểm yếu về quân sự.
Ngân Sơn là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bắc
Kạn, có vị trí và vai trò quan trọng cả về kinh tế, chính trị và an ninh quốc
phòng không chỉ đối với địa phương mà còn đối với cả nước. Đất đai màu
mỡ, thiên nhiên phong phú là những điều kiện cơ bản cho nền kinh tế phát
triển. Đó cũng là điểm thu hút nhiều tộc người sớm đến Ngân Sơn sinh cơ lập
nghiệp, phát triển lâu dài tạo nên tính đa dạng về thành phần dân tộc cũng như
đời sống văn hóa nơi đây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Bước sang thế kỷ XIX, tình hình đất nước có những chuyển biến mạnh
mẽ: Nhà Nguyễn được thành lập (1802). Trong những bước thăng trầm của
lịch sử dân tộc nói chung cũng như lịch sử của huyện Ngân Sơn (Bắc Kạn)
nói riêng có những thay đổi trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Nơi đây đã được những nhà khoa học về: quản lý nhà nước, địa lý, lịch sử,
văn hóa, xã hội tìm hiểu. Qua quá trình nghiên cứu bước đầu chúng tôi nhận
thấy rằng, những vấn đề như: Địa chính, địa bạ, kinh tế, phong tục tập quán...
chưa được nghiên cứu có hệ thống, toàn diện.
Xuất phát từ những nhận định trên, với mong muốn tìm hiểu về quê
hương góp phần cụ thể hóa bức tranh lịch sử dân tộc, đóng góp sức mình vào
việc “đánh thức quá khứ dậy” để phục vụ cho công cuộc xây dựng địa
phương hiện nay, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Huyện Ngân Sơn tỉnh
Bắc Kạn thế kỷ XIX” làm luận văn.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Từ trước đến nay , đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử dân tộc
với các chủ đề khác nhau từ việc tìm hiểu tiến trình lịch sử từ nguồn gốc đến
nay, tình hình phát triển kinh tế , phân bố dân cư cho đến những biến đổi về
văn hoá dân tộc ở các địa phương . Các công trình nghiên cứu đó đã đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp đến từng lĩnh vực hoặc k hía cạnh nào đó của lịch sử
địa phương.
Trong quá trình thực hiện đề tài , chúng tôi được thừa hưởng rất ít các
kết quả nghiên cứu của người đi trước . Đặc biệt, công trình nghiên cứu có đối
tượng là một huyện nằm ở vùng miền núi phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Kạn
như Ngân Sơn vào thế kỷ XIX chưa được thực hiện . Tuy nhiên, các nguồn tài
liệu ở những lĩnh vực và khía cạnh nào đó cũng đã ít nhiều nhắc đến địa danh
của huyện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Ngay từ thời phong kiến, các nhà sử học đã nói tới xã hội, phong tục
tập quán của các dân tộc thiểu số, trong đó có các dân tộc đang sinh sống tại
địa phương. Trước hết phải kể đến cuốn “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc
Sử Quán triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa - Huế, xuất bản năm 1992, đề cập
một vài nét đến vị trí địa lý, hình thế núi sông, phong tục tập quán của huyện
Ngân Sơn.
Tác phẩm “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn, Nxb Khoa học xã hội,
xuất bản năm 1977. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến văn hóa của người
Tày, Nùng…
Cuốn “Bản sắc và truyền thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn”
của các tác giả Hà Văn Viễn, Lương Văn Bảo, Lâm Xuân Đình, Triệu Kim
Văn, Bàn Tuấn Năng, TS. Đàm Thị Uyên, Hoàng Thị Lan do Nxb Văn hóa
dân tộc xuất bản năm 2004, phản ánh khá chi tiết về những kinh nghiệm trong
sản xuất nông nghiệp của đồng bào, về đời sống văn hóa vật chất và tinh thần,
với những nghi lễ trong tang ma, cưới gả cũng như các phong tục tập quán từ
xa xưa của các dân tộc trong tỉnh. Qua đó giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể về
văn hóa ở Bắc Kạn nói chung và huyện Ngân Sơn nói riêng.
Từ năm 1990, Huyện ủy Ngân Sơn đã biên soạn và xuất bản cuốn
“Lịch sử đấu tranh cách mạng Ngân Sơn 1939-1954”. Cuốn sách đề cập đến
phong trào đấu tranh cách mạng của huyện từ khi có Đảng lãnh đạo. Mặc dù
cuốn sách không đề cập đến các vấn đề lịch sử của huyện ở thế kỷ XIX, song
cũng đã cung cấp một số nguồn tư liệu liên quan tới đề tài.
Như vậy, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện về huyện Ngân Sơn thế kỷ XIX. Chính vì thế, chúng tôi quyết định
chọn đề tài “Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX” với mong muốn góp
phần thiết thực khôi phục diện mạo lịch sử của địa phương , phát huy những
giá trị vốn có của lịch sử văn hoá các dân tộc ở Ngân Sơn nói riêng và của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : gồm các vấn đề về lịch sử hành chính , thành
phần dân tộc, chế độ sở hữu ruộng đất, các hình thái kinh tế, chính trị - xã hội,
đời sống văn hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu: Huyện Ngân Sơn dưới triều Nguyễn gọi là Cảm
Hóa thuộc tỉnh Thái Nguyên. Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung theo
địa giới hành chính trong thế kỷ XIX.
- Giới hạn thời gian: Tên đề tài “Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ
XIX”. Trong luận văn này, xuất phát từ nguồn tư liệu chúng tôi chỉ tập trung
vào các vấn đề kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa ở nửa đầu thế kỷ XIX.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Chọn đề tài “Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX” để nghiên cứu,
tác giả mong muốn góp phần phản ánh một cách khoa học , chân thực về bức
tranh lịch sử huyện Ngân Sơn thế kỷ XIX , bổ sung nguồn tư liệu mới nhằm
phục vụ cho công tác giáo dục (trong các trường phổ thông), địa chính, quản lý
hành chính, nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu lịch sử địa phương, đặc điểm các
thành phần dân tộc góp phần lý giải một số vấn đề về lịch sử phát triển của địa
phương với những bước chuyển biến theo dòng chảy của lịch sử dân tộc.
5. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nguồn tư liệu chung : Bao gồm một số sử sách và địa chí cổ : Khâm
định Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại nam
nhất thống chí, Đồng khánh dư địa chí . Các sách chuyên khảo và các bài viết
đề cập đến lịch sử, văn hóa người Tày, Nùng, Dao…của các cơ quan nghiên
cứu và các nhà khoa học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
- Nguồn tư liệu địa bạ: Tổng số 53 đơn vị địa bạ. Trong đó có 39 đơn vị
địa bạ có niên đại Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), 14 đơn vị địa bạ
có niên đại Minh Mệnh 21 (1840). Trong số 40 xã của huyện có 13 xã có địa bạ
ở hai thời điểm 1805 và 1840. Các bản địa ba hiện đang lưu trữ tại Trung tâm
lưu trữ Quốc gia I Hà Nộ i có ký hiệu từ Q .8311 đến Q .8366. Tất cả các xã
trong huyện đều có địa bạ , đó là cơ sở để cho chúng tôi khôi phục lại tổ chức
làng xã, kết cấu kinh tế - xã hội của huyện Ngân Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.
- Nguồn tư liệu điề n dã: Đây là nguồn tư liệu được chúng tôi đặc biệt
quan tâm. Là người dân địa phương thường xuyên có điều kiện đi lại quan sát
địa hình, tôi đã thấy được sự thay đổi về lịch sử hành chính, đời sống kinh tế -
xã hội và văn hoá nơi đây . Cùng với việc thu thập tài liệu do chính quyền địa
phương cung cấp , thông qua nhiều đợt điền dã tại các xã, bản nơi cư trú các
dân tộc Tày, Nùng…đang sinh sống, chúng tôi đã có được những tư liệu cần
thiết để hoàn thành tốt đề tài này.
- Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã vận dụng
phương pháp lịch sử kết hợp phương pháp lôgíc, phương pháp khảo sát điền
dã. Bên cạnh đó, trong luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như
phương pháp phân tích định lượng và định tính, phương pháp thống kê , tổng
hợp, hệ thống hóa . Đặc biệt chú ý đến khâu giám định tư liệu nhất là việc
khảo sát cụ thể địa bạ viết bằng chữ Hán ở hai thời điểm 1805 và 1840, khai
thác hầu hết các thông tin của các cặp địa bạ.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Luận văn là công trình nghiên cứu lịch sử đầu tiên của huyện Ngân
Sơn trong giai đoạn lich sử trung đại của Việt Nam.
- Dựa vào những nguồn tài liệu khai thác được, luận văn bước đầu khôi
phục một cách có hệ thống bộ mặt huyện Ngân Sơn qua các giai đoạn lịch sử,
lịch sử hành chính qua các triều đại, mối quan hệ tộc người, thiết chế chính trị
- xã hội, các hoạt động kinh tế của địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
- Lần đầu tiên công bố 53 tập địa bạ của huyện Ngân Sơn được khai
thác tại Trung tâ m lưu trữ Quốc gia I Hà Nội . Trên cơ sở khai thác hầu hết
thông tin trên các đơn vị đia bạ đó , so sánh, đối chiếu những số liệu về ruộng
đất công, tư qua hai thời điểm 1805, 1840 rút ra một số nhận xét bước đầu về
biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội và ruộng đất ở huyện Ngân Sơn hồi nửa đầu
thế kỷ XIX.
- Tìm hiểu và khôi phục lại những nét văn hoá tiêu biểu gắn với môi
trường sinh thái, vùng, miền, góp phần vào việc duy trì và phát triển nền văn
hoá đã và đang tồn tại ở địa phương , mở rộng sự hiểu biết thêm về đất nước
và con người Việt Nam thời phong kiến.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
- Đề tài gồm 105 trang, được chia làm 3 phần : phần mở đầu (6
trang), phần nội dung (96 trang), phần kết luận (3 trang). Phần nội dung
được chia làm 3 chương.
Chương 1: Khái quát về huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn
Chương 2: Kinh tế huyện Ngân Sơn nửa đầu thế kỷ XIX
Chương 3: Tình hình chính trị - xã hội và văn hoá huyện Ngân Sơn
Ngoài ra, đề tài còn có các mục: tài liệu tham khảo và phụ lục minh họa
cho đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN NGÂN SƠN TỈNH BẮC KẠN
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tƣ̣ nhiên
- Vị trí địa lý : Ngân Sơn là huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của
tỉnh Bắc Kạn. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng và
tỉnh Lạng Sơn , phía Nam giáp hai huyện Bạch Thông và huyện Na Rì , phía
Tây giáp huyện Ba Bể.
Xã Vân Tùng là trung tâm kinh tế , văn hoá , chính trị của cả huyện ,
cách thị xã Cao Bằng 58 km theo quốc lộ 3 về phía Bắc , cách trung tâm thị
xã Bắc Kạn khoảng 60 km theo Quốc lộ 3, cách thành phố Thái Nguyên 145
km. Quốc lộ 3 là tuyến giao thông chính chạy xuyên suốt qua địa bàn huyện
theo chiều Tây Nam - Đông Bắc , nối liền Cao Bằng với Thái Nguyên và
miền xuôi.
Sách “Đại nam nhất thống chí” có ghi: “đông tây cách nhau 153 dặm,
nam bắc cách nhau 112 dặm, phía đông đến địa giới huyện Vũ Nhai và địa
giới châu Thất Khê tỉnh Lạng Sơn 123 dặm, phía tây đến địa giới huyện Vĩnh
Điện tỉnh Tuyên Quang 130 dặm, phía nam đến địa giới châu Bạch Thông 66
dặm, phía bắc đến địa giới châu Thạch Lâm tỉnh Cao Bằng 46 dặm”[23,
tr.185]. Tương đương với vùng đất huyện Ngân Sơn, Na Rì và một số xã
phía bắc huyện Bạch Thông (xã Vi Hương, Phương Linh), xã Mỹ Phương,
Chu Hương, Yến Dương của huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn ngày nay.
- Điều kiện tự nhiên
Địa hình: Ngân Sơn có độ cao trung bình so với mặt nước biển là
556 m. Là nơi hội tụ của hệ thống nếp lồi dạng cánh cung , bị chia cắt mạnh
bởi hệ thống sông suối , núi đồi trùng điệp và thung lũng sâu tạo thành các
kiểu địa hình khác nhau : Địa hình núi cao trung bình , địa hình núi t hấp và
đồi thoải lượn sóng xen kẽ với các thung lũng , địa hình đồi bát úp và các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
cánh đồng nhỏ hẹp . Độ dốc bình quân 26 - 300, diện tích đồi núi chiếm
khoảng 90% tổng diện tích tự nhiên , diện tích tương đối bằng phẳng chiếm
khoảng 10%, đất nông nghiệp chủ yếu là ruộng bậc thang và các bãi bồi
dọc theo hệ thống sông suối .
Địa hình phức tạp gây khó khăn cho hoạt động sả n xuất nông nghiệp
nhất là nguồn nước phục vụ cho sản xuất nông ngh iệp, mùa khô gây ra hạn
hán, mùa mưa gây ra ngập úng cục bộ [41, tr.4].
Địa hình phía đông là cánh cung Ngân Sơn có độ cao trung bình gần
1000 mét, độ dài khoảng 140 km từ Nặm Kép, phja Uắc - Nguyên Bình - Cao
Bằng xuống Ngân Sơn - Na Rì, đến tận Lang Hít (Thái Nguyên). Cấu tạo địa
chất khá phức tạp: có đá phiến, đá thạch anh, xen kẽ các nếp đá vôi, đất sét có
màu đen hoặc xám.
Rừng núi huyện Ngân Sơn có hình dáng khác nhau, nhiều ngọn núi đã
được ghi vào sử sách:
+ Núi Khâu Hoắc ở xã Vụ Nông, cách huyện lỵ Cảm Hóa 49 dặm về
phía tây bắc, ngọn núi nằm ngang, cao vót lên trời, thường có mây mù dày đặc.
+ Núi Linh Quang ở cách huyện Cảm Hóa 63 dặm về phía bắc, hình thế
quanh co chỗ cao, chỗ thấp như bức tranh thành, trên có lỗ thông thiên, dưới
núi có suối nước, trông núi có 2 cái hang, 1 là hang Đầu Nam, 1 là hang Đầu
Bắc, trong hang có thạch nhũ, phong cảnh rất đẹp.
+ Núi Bầu ở cách huyện lỵ Cảm Hóa 53 dặm về phía nam, thế núi tròn
và thẳng như cái bầu nên gọi tên thế, phía tây có khe nhỏ, phía đông có đềo
Đồn, phía bắc có đèo Gian.
+ Núi Cổ Lân Đầu ở cách huyện lỵ Cảm Hóa 29 dặm về phía bắc, phía
bắc giáp huyện Cao Bằng, trên núi có một con đường, đi lại rất khó khăn,
cạnh núi có hàng quán buôn bán của người nước Thanh. Hành khách đi qua
có thể đỗ trọ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Khí hậu : Bắc Kạn nói chung và huyện Ngân Sơn nói riêng mang đặc
điểm chung của khí hậu là nhiệt đới gió mùa. Trong sách “Đồng Khánh địa
dư chí” có nhắc đến như sau: “Quanh năm nhiều gió tây bắc lạnh lẽo, mưa
dầm ẩm ướt nhiều ngày, khoảng mùa đông đến mùa xuân là ẩm nhất. Sương
dày nước độc, người địa phương phần nhiều mắc bệnh sốt rét, ngày đêm đều
phải đốt than củi để xua khí lạnh. Cuối xuân còn rét, đến mùa hè mới hơi
nóng, đầu thu đã lạnh, đến mùa đông thì rét như cắt” [32, tr.817].
Toàn huyện một năm có hai mùa rõ rệt , mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau . Nhiệt độ trung bình hàng
năm cao nhất là 20,8 độ C (tháng 6, 7), thấp nhất là 11,7 độ C (tháng 1) gây
giá buốt ảnh hưởng rất lớn đế n cây trồng vật nuôi . Như vậy , sự chênh lệch
nhiệt độ trung bình các tháng trong năm tương đối cao. Lượng mưa trung bình
năm là 1674,5mm, phân bố không đều giữa các tháng trong năm , mưa tập
trung từ tháng 4 cho đến tháng 9, vào tháng 11 lượng mưa không đáng kể ,
tháng mưa ít nhất là tháng 1 là 8,1mm. Nếu so với các vùng khác trong tỉnh,
thì Ngân Sơn là huyện thường xuất hiện những trận mưa đá lớn gây thiệt hại
cho mùa màng, tài sản và con người.
Độ ẩm không khí khá cao 84%, cao nhất là 89% vào tháng 3 và tháng
8, thấp nhất là 78% tháng 11 và tháng 1 năm sau. Các xã trong huyện có
nhiều mây mù che phủ [19, tr.1-3]. Do đặc điểm khí hậu của địa phương,
hàng năm tại vùng trung tâm huyện chỉ cấy được một vụ mùa không có vụ
chiêm vì thời tiết khá khắc nghiệt.
Hệ thống thuỷ văn trên địa bàn huyện được phân bố khá dày đặc , song
hầu hết đều ngắn , lưu vực nhỏ, độ dốc dòng chảy lớn và có nhiều thác ghềnh .
Do cấu tạo địa hình cánh cung , dãy núi cao nên Ngân Sơn được coi là ngôi
nhà phân chia nước về các huyện trên địa bàn tỉnh nói riêng và các tỉnh lân
cận nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Sông Bằng Giang (nhân dân địa phương gọi là tà Lương Thượng ) đây
là con sông lớn thứ ba ở Bắc Kạn , bắt nguồn từ Vân Tùng (Ngân Sơn), qua
Thượng Quan xuống Lương Thượng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, gặp
sông Na Rì từ Liêm Thủy, Xuân Dương chảy ra Pác Cáp, rồi ra Bình Gia -
Lạng Sơn sang Trung Quốc. Sông Hiến (Tả Thán) bắt nguồn từ xã Cốc Đán
huyện Ngân Sơn chảy về phía đông đổ vào sông Bằng Giang (Cao Bằng)
[44, tr.29].
Nhìn chung hệ thống sông ngòi trên địa bàn được chi phối trực tiếp bởi
cấu tạo địa hình trên địa bàn huyện , về mùa mưa địa hình dốc lớn gây ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất và sinh hoạt, gây xói mòn rửa trôi.
- Các nguồn tài nguyên
Tài nguyên đất: Theo kết quả nghiên cứu của Tổng Cục địa chất thì
Ngân Sơn nằm trong vùng địa chất có địa hình phức tạp của tỉnh Bắc Kạn. Trên
địa hình của tỉnh có bao nhiêu kiểu địa mạo thì có bấy nhiêu kiểu kiến trúc địa
chất, trong đó có cánh cung Ngân Sơn có các loại Granít , Rhyonít, phiến sét,
thạch anh, đá vôi...Sự phân bố các loại đất chính trên đại bàn huyện như sau:
Đất Feralít màu vàng nhạt trên núi trung bình (FH): Được phân bố trên
các đỉnh núi cao trên 700m, trên nền đá mắcma axit kết tinh chua, đá trầm tích
và biến chất , hạt mịn , hạt thô ....Tầng đất mỏng , đá nổi nhiều , đất ẩm và có
tầng thảm mục khá dày , ẩm, đá nổi dày . Đất Feralít hình thành trên vùng đồi
núi thấp (phát triển trên đá sa thạch ), đặc điểm là tầng mỏng đến trung bình .
Thành phần cơ giới nhẹ , màu vàng đỏ thích hợp với cây trồng nông - lâm
nghiệp [41, tr.5-6].
Đất đai và khí hậu huyện Ngân Sơn rất thích hợp cho việc trồng lúa,
ngô, mía và đậu tương và các loại hoa màu khác. Về mặt nguồn lợi tự nhiên,
Ngân Sơn là huyện có điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển toàn diện:
nông lâm nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Khoáng sản và lâm thổ sản: Nếu so sánh với các tỉnh khác thì Bắc Kạn
nói chung và Ngân Sơn nói riêng, trữ lượng khoáng sản không lớn lắm
nhưng lại phong phú về chủng loại. Từ lâu, vùng đất Ngân Sơn nổi tiếng là
giàu về tài nguyên khoáng sản và các sản vật quý, sách “Đại nam nhất thống
chí” có ghi lại như sau: “Vàng; mỏ Thuần Mang mỗi năm nộp thuế 13 lạng.
Bạc; huyện Cảm Hóa có mỏ Ngân Sơn, mỗi năm nộp thuế 370 lạng. Thiếc
trắng; huyện Cảm Hóa có mỏ Vụ Nông, mỗi năm nộp thuế 100 cân”. Các
sản vật như lúa nếp, lúa tẻ, ngô, củ mài, củ đậu, khoai lang, khoai ruộng, đậu
xanh, đậu ván, sa lê, thuốc lào, củ nâu, nhung hươu, mật gấu, sáp ong, gà gô,
gà lôi đều có [23, tr.208-209].
1.2. Lịch sử hành chính huyện Ngân Sơn
1.2.1. Thời điểm thành lập
Huyện Ngân Sơn được thành lập cụ thể vào ngày tháng năm nào,
không thấy có tư liệu khẳng định. Theo sách Đại nam nhất thống chí, Cảm
Hóa (địa danh cũ của Ngân Sơn và Na Rì) “huyện này đặt từ đời Trần về
trước, thời thuộc Minh vẫn theo như thế, lệ phủ Thái Nguyên. Đời Lê đổi lệ
Thông Hóa, do phiên thần họ Ma nối đời quản trị. Bản triều đầu đời Gia Long
vẫn theo như thế. Năm Minh Mệnh thứ 16 đổi đặt lưu quan, do phủ kiêm lý,
lãnh 6 tổng, 40 xã” [23, tr.185].
1.2.2. Sự thay đổi địa danh hành chính qua các triều đại
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì từ thời Hùng Vương với hai
vương quốc là Văn Lang và Âu Lạc (thế kỷ VII - II TCN), vùng đất Bắc Kạn
thuộc bộ Vũ Định, một trong 15 bộ hợp thành nước Văn Lang1. Đây vốn là
địa bàn sinh sống lâu đời của các bộ lạc người Tày cổ. Các bộ lạc này đã từng
một thời cùng vị thủ lĩnh của mình là Thục Phán đánh bại quân xâm lược Tần,
lập ra nước Âu Lạc (năm 208 - 179 TCN).
1
Nguyễn Trãi: Dƣ địa chí - Sử học 1960
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Từ thế kỷ thứ II TCN đến thế kỷ thứ X, nước ta bị phong kiến phương
Bắc đô hộ. Chúng chia nước ta thành các quận, huyện. Địa bàn miền núi,
trong đó có vùng đất Bắc Kạn bị lập thành các châu “ki mi” để ràng buộc,
khai thác và bóc lột một cách tàn bạo. Vùng đất Ngân Sơn cũng nằm trong
điều kiện đó.
Từ thế kỷ thứ X trở đi, đặc biệt từ thời Lý - Trần (1009 - 1400), lần đầu
tiên trên đất nước ta, hệ thống hành chính - quan chức từng bước được xác
lập, củng cố và mở rộng một cách có hệ thống. Nhà Lý chia cả nước thành
các đơn vị: Lộ, Phủ, Châu. Vùng đất từ Thái Nguyên lên Bắc Kạn, Cao Bằng
gọi là phủ Phú Lương, một thời do phò mã Dương Tự Minh cai quản. Dưới
phủ là châu, địa phận huyện Ngân Sơn ngày nay nằm trong châu Cảm Hóa1.
Từ thời Lê thế kỷ XV, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), Vùng đất
Bắc Kạn được gọi là phủ Thông Hóa (gồm huyện Cảm Hoá và châu Bạch
Thông), thuộc xứ Thái Nguyên2.
Đến thời Nguyễn (1802 - 1884) năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đã thực
hiện cuộc cải cách hành chính thống nhất trong cả nước: chia đơn vị hành
chính thành các cấp tỉnh, châu, huyện, tổng, xã. Xứ Thái Nguyên đổi thành
tỉnh, Bắc Kạn vẫn là phủ Thông Hoá thuộc Thái Nguyên. Huyện Cảm Hóa3
thuộc đất Bắc Kạn.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đẩy mạnh chính sách xâm lược và đô
hộ nước ta. Triều Nguyễn từng bước đầu hàng. Từ năm 1884 trở đi, chúng
đánh mạnh lên các tỉnh biên giới phía Bắc trong đó có Bắc Kạn. Chiếm được
Bắc Kạn bằng vũ lực, chúng chuyển sang cai trị và bóc lột bằng việc thiết lập
bộ máy chính quyền thực dân. Ngày 11 tháng 4 năm 1900, toàn quyền Pháp
1
Bao gồm Ngân Sơn Và Na Rì. Tên Ngân Sơn có gốc từ Nà Ngần- tức ruộng bạc; tên Na Rì có gốc từ Nà Lì
- tức ruộng dài.
2
Đầu đời Hồng Đức gọi là thừa tuyên Thái Nguyên, sau đổi là xứ.
3Huyện Cảm Hóa lúc bấy giờ là đất các huyện Ngân Sơn, một số xã của huyện Na Rì và một phần nhỏ phía
bắc huyện Bạch Thông (vùng xã Phƣơng Linh, Vi Hƣơng…) tỉnh Bắc Kạn ngày nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
P.Đume ra nghị định tách khu quân sự Bắc Kạn ra khỏi đạo quan binh II, lập
thành đơn vị hành chính tỉnh Bắc Kạn. Đến khi hoàn chỉnh Bắc Kạn gồm 5
châu1 (đầu là châu, sau đổi làm huyện).
Ngày 21/4/1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra quyết định thành
lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Huyện Ngân Sơn cũng nằm trong sự thay đổi đó.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, do nhu cầu tăng cường lực lượng bảo vệ
vùng lãnh thổ biên giới phía Bắc, theo quyết định của Quốc hội, huyện Ngân
Sơn sáp nhập vào tỉnh Cao Bằng.
Trong thời kỳ đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, để đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân các dân tộc và yêu
cầu sự nghiệp cách mạng, ngày 6/11/1996, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 10 đã phê chuẩn chia tỉnh Bắc Thái
thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Ngày 1 tháng 1 năm 1997 tỉnh Bắc
Kạn chính thức thành lập, huyện Ngân Sơn được tái lập .
1.3. Các thành phần dân tộc trong huyện.
Trong tổng số 17 dân tộc thiểu số sinh sống ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc
của Việt Nam, tại Bắc Kạn có 7 tộc người sinh sống, cư trú từ lâu đời, thuộc 4
nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, nhóm ngôn ngữ
Việt - Mường, nhóm ngôn ngữ Hán - Hoa.
Ngân Sơn là huyện miền núi vùng cao nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh
Bắc Kạn. Bao gồm các dân tộc : Tày, Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái;
Kinh thuộc nhóm ngôn ngữ._. Việt - Mường; Mông, Dao thuộc nhóm ngôn ngữ
Mông - Dao; Hoa thuộc nhóm ngôn ngữ Hán - Hoa. Các dân tộc ở đây cư trú
thành từng nhóm khá rõ rệt: đồng bào Tày, Nùng cư trú ở những thung lũng
1
Châu Chợ Đồn, châu Chợ Rã, châu Bạch Thông, châu Ngân Sơn và châu Na Rì. Châu Ngân Sơn và châu
Na Rì đƣợc tách ra từ châu Cảm Hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
thấp, tương đối bằng phẳng, đồng bào Dao sống trên triền núi cao, đồng bào
Kinh, Hoa chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn như Bằng Khẩu, Nà
Phặc, Ngân Sơn. Mật độ dân cư rất thưa thớt. Mỗi dân tộc đều có một tên gọi
quen thuộc, tiêu biểu cho cộng đồng dân tộc chung.
1.3.1. Dân tộc Tày
Tộc danh của người Tày xuất hiện có lẽ bắt nguồn từ dụng ý chỉ cư dân
chuyên nghề cày ruộng mà nông cụ chủ yếu là cái cày.Tên gọi Tày có thể là
biến âm của chữ “Thay” hay “Thây” nghĩa là cái Cày dùng để cày ruộng, chỉ
cư dân đã biết canh tác ruộng nước từ rất lâu đời [43, tr.184].
Người Tày ở Ngân Sơn sống xen kẽ với các dân tộc khác trong huyện, tập
trung ở các xã Cốc Đán, Thượng Quan, Thuần Mang, Vân Tùng, Bằng Khấu…
Người Tày hiện nay ở Bắc Kạn có ba bộ phận hợp thành trong quá
trình lịch sử.
- Bộ phận người Tày bản địa từ thời nguyên thủy còn gọi là “cần Tày
cốc đin mác nhả” nghĩa là “người Tày gốc đất hạt cỏ” từ thời nguyên thủy. Từ
thời đại đồ đá chuyển dần sang thời đại kim khí đồ đồng thau cách đây
khoảng 3 - 4 nghìn năm, họ là chủ nhân của nghề nông trồng lúa nước. Các
nhà khoa học cho rằng: “Nghề nông trồng lúa nước đã ra đời ở vùng thung
lũng từ Vân Nam - Quý Châu đến Tây Bắc, Việt Bắc, vùng “cái nôi” của các
dân tộc nói tiếng Tày - Thái”[45, tr.55]. Khối nguyên Tày - Thái bị phân chia
thành hai ngành là ngành phía Tây và ngành phía Đông. Ngành phía Đông bị
Hán đô hộ, sử sách chúng gọi là Man Di, Lý, Lạo hay Sinh Lão (đó là tên gọi
khác nhau của người Tày cổ). Thời kỳ này các dòng họ cũng được hình thành
từ rất sớm như họ Nông, Hoàng, Lý, Chu…Bộ phận người Tày bản địa sinh
sống ở hầu khắp các xã trong huyện, riêng xã Hương Nê (Ngân Sơn) là không
có người Tày sinh sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
- Bộ phận người Tày gốc Kinh từ miền xuôi lên: Chế độ lưu quan khởi
đầu nhà Lý - Trần và phát triển mạnh từ thế kỷ XV trở đi. Các triều đình
phong kiến Việt Nam đã phái nhiều quan chức lên trực tiếp cai trị vùng Tày.
Nhiều viên quan đã đem cả gia đình và họ hàng lên chiêu dân lập ấp ở miền
ngược, đã trở thành một thứ quý tộc địa phương, con cháu dần dần hóa thành
người Tày. Ngoài ra cũng thấy phổ biến trường hợp người Kinh là do những
đoàn quan quân người Kinh lên đồn trú, đánh giặc ngoại xâm, các thầy đồ
người kinh mang theo cả gia đình họ hàng, người dân bị nạn đói kém, loạn lạc
đã chạy lên miền núi làm ăn lâu đời. Họ ở lại xen kẽ với người Tày, hiện
tượng đó còn gọi là “Kinh già hóa Thổ”. Nói chung người Tày thuộc các dòng
họ Nguyễn, Đinh, Cao…đều là gốc người Kinh. Đặc biệt là ở xã Kim Hỷ, Na
Rì người Tày họ Nguyễn gốc Kinh chiếm tới 80% số hộ Tày.
- Bộ phận Tày, Nùng từ Quảng Tây (Trung Quốc) sang: Từ cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, dưới ách nhà Thanh hà khắc việc làm ăn gặp nhiều
khó khăn, phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc (1851 - 1864) bị đàn áp
nặng nề, nhiều người đã rời bỏ quê hương sang Việt Nam tìm đất mới sinh cơ
lập nghiệp họ đã hòa nhập vào với cư dân bản địa [44, tr.49-50].
Trong quá trình lịch sử của mình, người Tày dù là bộ phận “cốc đin
mác nhả” hay nguồn gốc Kinh ở miền xuôi lên hoặc gốc Tày, Nùng ở Trung
Quốc sang, đều đã sớm tự nguyện hòa hợp, cố kết lại với nhau thành một khối
Tày thống nhất vì lợi ích chung.
1.3.2. Dân tộc Nùng
Dân tộc Nùng tự gọi mình là người Nùng hay người Nồng. Tộc danh
lúc đầu là tên chỉ dòng họ Nông, một trong bốn dòng họ bốn dòng họ đông
người, có thế lực lớn là Nùng, Hoàng, Chu, Vi thống trị tả, hữu giang tỉnh
Quảng Tây dưới đời Đường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Theo Lê Quý Đôn “người Nùng ở Quy Thuận, Long Châu, Điền Châu,
Thái Bình. thuộc Trung Quốc. Họ phiêu tán đến nước ta, làm nghề cày cấy,
trồng trọt cùng chịu thuế khóa lao dịch, mặc áo ngắn vải xanh, cắt tóc ngắn,
trắng răng có người đã trú ngụ vài ba đời, đổi theo tục người Nam, quan bản
thổ thường cấp cho họ một số ruộng khẩu phần và thực hiện nghĩa vụ binh
lính” [7, tr.334]. Một số nhóm Nùng còn mang tộc danh gắn liền với tên lãnh
thổ (Trung Quốc) trước khi đến Việt Nam như các nhóm sau:
Nùng An gốc ở An Kết Châu, Long An huyện.
Nùng Phản Sình quê ở Vạn Thành Châu.
Nùng Cháo quê ở Long Châu.
Nùng Inh quê ở Long Anh.
Nùng Lòi quê ở Hạ Lôi.
Nùng Quý Rịn quê ở Quy Thuận (Quảng Tây)…
Trên cơ sở nguồn tư liệu thực tế ở địa phương, cho phép chúng tôi có
căn cứ tìm hiểu về nguyên nhân di cư của các nhóm Nùng trong lịch sử.
Trước hết, các nhóm Nùng chủ yếu là từ Quảng Tây (Trung Quốc) sang
họ di cư theo từng nhóm hoặc di cư lẻ tẻ từng gia đình dòng họ. Nguyên nhân
nữa là do đói kém, nghèo khổ, thiếu ruộng đất bị áp bức bóc lột hoặc sau các
cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền bị thất bại, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
nông dân Thái Bình Thiên Quốc.
Người Nùng đến Bắc Kạn cách đây 6 đến 7 đời. Tại Ngân Sơn, dòng
họ Lô dân tộc Quý Rịn gốc từ Thái Bình phủ, Quy Thuận châu đến thôn Pù
Mò xã Bằng Vân, xã Thượng Ân huyện Ngân Sơn cách đây khoảng 8 đời [44,
tr.279]. Còn nhóm Nùng Phàn Sình ở Nà Trang, xã Xuân Dương (Na Rì), tổ
tiên của họ gốc gác ở châu Vạn Thành (Trung Quốc). "Người đến đây khai
phá vùng này là họ Mã, sau bị tuyệt tự. Tiếp đến là các dòng họ Lô, họ Triệu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
họ Nông, họ Hứa, họ Phùng và sau cùng là họ Hoàng. Cụ tổ của họ đến Xuân
Dương (Na Rì), nơi đây còn là một khu rừng già nhiều muông thú"1.
Đến Bắc Kạn, dân tộc Nùng đã hợp sức với cư dân địa phương, vừa
đấu tranh hòa hợp với thiên nhiên, vừa đấu tranh để hòa hợp trong nội bộ
cộng đồng, vừa đấu tranh không khoan nhượng với giặc ngoại xâm.
1.3.3. Dân tộc Dao
Ở Việt Nam, khắp ba miền đều có người Dao sinh sống. Tập trung
đông nhất vẫn là ở tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà
Giang, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Tuyên Quang…Người Dao vốn
không phải là cư dân bản địa, nhìn chung họ đều nhớ và ý thức được nguồn
gốc tộc người là cư dân di cư từ Trung Quốc sang. Người Dao có nhiều tên
gọi khác nhau. Họ tự gọi và tự nhận mình với các tên: Dao Nhân, Kềm Miền,
Dụ Tsiăng, Dụ Lẩy miền (Quầy liềm miền), Ồ gang miền, Dụ Kùn miền…
Người Tày gọi họ là Cần Đông, Cần Khau, Cần Coóc Ngáng, Cần
Coóc Mần, Cần Téo Chèn. Người Kinh gọi là Người Mán, người Mán Đỏ,
Người Mán Tiền. Từ thời thuộc Pháp trở về trước gọi họ là người Trại, người
Xá, người Động. Người Dao thuộc thế hệ sau cũng có sự ngộ nhận, không
hiểu rõ gốc tích của tộc người mình nên thường tự nhận tên phiếm xưng là
Kềm Miền hoặc Kìm Mùn. Người Dao đến cư trú ở Bắc Kạn có: nhóm Đại
Bản (Tồm pến miền - Tồm mả miền) và nhóm Tiểu Bản (Mà pháy miền). Dụ
Ton là tên tự gọi, người Tày gọi là cần Téo Chèn, người Kinh gọi Dao Tiền.
Nhóm này có hai chi: Váy dài và Váy ngắn.
Chi Váy dài cư trú chủ yếu tại Ngân Sơn. Địa vực cư trú của nhóm
thường sát với vùng người Tày hoặc các thung lũng dưới chân núi, tỷ lệ làm
ruộng nước nhiều hơn các nhóm khác. Điều dễ nhận biết qua hệ thống trang
phục của nhóm Dao là phụ nữ mặc váy [44, tr.165].
1
Ông Hoàng Cao Báng cƣ trú tại xã Xuân Dƣơng huyện Na Rì.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
1.3.4. Dân tộc Mông
Về người Mông được phân loại theo trang phục gồm hai nhóm chính là
Mông Trắng và Mông Đen. Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, người Mông được phân
làm ba nhóm: nhóm Mông Trắng (Mống Đấư), nhóm Mông Hoa (Mống Lềnh)
và một nhóm nữa ít có tài liệu nghiên cứu đến tạm gọi là Mông Na Miẻo. Người
Mông có nguồn gốc từ bộ lạc Tam Miêu thời cổ xưa ở bên Trung Quốc.
Từ khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX trở đi, những nhóm người
Mông từ Quảng Tây sang phía Bắc Việt Nam ngày càng đông. Vì nguồn tài
nguyên thiên nhiên vùng núi phía Bắc Việt Nam còn rất dồi dào: đất đai tốt,
sông suối nhiều, động thực vật phong phú. Cũng trong thời gian này, một số
nhóm người Mông vào các huyện Bảo lạc, Thông Nông, Hà Quảng tỉnh Cao
Bằng rồi sang địa phận tỉnh Bắc Kạn. Một số nhóm người Mông Trắng đã
chuyển đến cư trú tại Nà Phặc huyện Ngân Sơn và xã Lương Thượng (nay
thuộc huyện Na Rì).
Đặc điểm cư trú của người Mông là “họ thường chọn những chỗ núi cao,
rừng rậm mà ở”. Đó là những nơi địa thế hiểm trở, vách núi dựng đứng trong các
hẻm núi sâu tựa như ốc đảo của vùng sơn cước làm nương rẫy, với phương thức
canh tác chủ yếu là “Đao canh hỏa chủng” các loại cây trông gồm có: Ngô, đậu,
lúa mạch, rau làm thức ăn. Khi đất xấu thì họ dời đi chỗ khác” [7, tr.4]
1.3.5. Dân tộc Kinh
Dân tộc Việt tự gọi mình là người Kinh. Các dân tộc anh em ở phía Bắc
gọi người Kinh là (cần Keo). Hiện nay người Kinh ở Ngân Sơn xếp vào hàng
thứ năm sau các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông về dân số ở địa phương.
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, ngay từ buổi đầu
xây dựng nhà nước trung ương tập quyền, các vị vua triều Lý - Trần đã thể hiện
sự đoàn kết giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân Việt Nam bằng việc phong
tước, chọn phò mã là các vị tộc trưởng có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Thời Lê thế kỷ XV, sau khi đã đánh thắng giặc Minh, bờ cõi lãnh thổ
toàn vẹn, vua Lê Thái Tổ vẫn lo củng cố vùng biên thùy miền núi:
Phƣơng lƣợc biên cƣơng trù liệu trƣớc
Nƣớc yên dân định kế lâu dài.
Với tinh thần như vậy, riêng vùng Bắc Kạn, vua Lê đã cử Quận công Nông
Đại Bảo, vốn họ Nguyễn quê Nghệ An lên trấn giữ vùng Na Rì, Thượng Quan
(Ngân Sơn). Ông hòa vào dân bản địa rồi đổi sang họ Nông người Tày.
1.3.6. Dân tộc Hoa
Từ thời nhà Tần (221-208TCN) với cuộc Nam chinh của Tần Thủy
Hoàng, các lực lượng người Hán (Hoa) lần đầu tiên mở rộng quy mô lãnh thổ
xuống vùng Bách Việt (từ lưu vực sông Trường Giang). Đến thời Triệu - Hán
(179
TCN
- 220), một số lực lượng người Hán (Hoa) lần lượt đến Việt Nam với
nhiều mục đích khác nhau, trong đó có bộ phận lập nghiệp lâu đời đã bị Việt
hóa trở thành người địa phương.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, người Hoa đến Việt Nam vào nhiều
thời điểm. Họ đến chủ yếu để tìm công việc làm ăn buôn bán, đặc biệt là tìm kiếm
thăm dò khai thác các mỏ kim loại quý như vàng bạc. Không có núi non hang
động nào ở Bắc Kạn là không có dấu tích thăm dò khai thác của người Hoa, tiêu
biểu là mỏ bạc của ông Lài ở Nà Ngần (Thượng Quan - Ngân Sơn). Những lúc
công việc thận lợi thì họ ở, khi gặp khó khăn thì đi nơi khác hay về Bắc, chứ
không ổn định lâu dài như một thành phần trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Hầu hết người Hoa ở đây đều nói thạo tiếng Việt, tiếng Tày và một số
tiếng nói của các dân tộc anh em khác. Người Hoa sống tập trung ở các xã
Bằng Vân (Bằng Khẩu), thị trấn Nà Phặc và trung tâm huyện Ngân Sơn [44,
tr.357-358]. Đặc điểm của người Hoa sống tập trung tại các khu vực có điều
kiện buôn bán, họ vừa làm ruộng vừa buôn bán, làm thêm nghề chế biến quà
bánh, thức ăn phục vụ người đi chợ như bánh cuốn, bánh bò, phở, làm lợn
quay, vịt quay… điều kiện kinh tế có phát triển hơn so với trước đây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
- Theo số liệu thống kê dân số của huyện Ngân Sơn tính đến tháng
10/2007 có 27.270 nhân khẩu được phân bố theo các dân tộc sau:
Bảng 1: Các dân tộc ở Ngân Sơn
STT Dân tộc Số dân Tỷ lệ % Ghi chú
1 Tày 12181 44,67
2 Nùng 4162 15,26
3 Dao 7357 26,98
4 Mông 1971 7,23
5 Kinh 1127 4,13
6 Hoa 456 1,67
7 Mường 11 0,04
8 Sán dìu 3 0,01
9 Thái 1 0,004
10 Sán Chí 1 0,004
Tổng cộng 27.270 100%
Nguồn: Văn phòng HĐND-UBND huyện Ngân Sơn, tháng 10/2007
Tiểu kết: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tài nguyên
khoáng sản phong phú, Ngân Sơn sớm là vùng đất thu hút nhiều tộc người
đến sinh cơ lập nghiệp. Dù là người bản địa hay di cư từ nơi khác đến, có
nguồn gốc và phong tục, ngôn ngữ khác nhau nhưng khi tới địa phương sinh
sống đều thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đồng bào các dân tộc luôn luôn đoàn
kết gắn bó, cùng đấu tranh chống thiên tai, xây dựng quê hương mới ngày
càng tốt đẹp hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Chương 2
KINH TẾ HUYỆN NGÂN SƠN THẾ KỶ XIX
2.1. Chế độ sở hữu ruộng đất
Qua tư liệu địa bạ thời Gia Long và Minh Mệnh tôi có thể khái quát về
đặc điểm của chế độ sở hữu ruộng đất như sau.
2.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất huyện Ngân Sơn đầu thế kỷ XIX theo
địa bạ Gia Long 4 (1805)
- Những số liệu tổng quát và đặc điểm của chế độ sở hữu ruộng đất ở
Ngân Sơn.
Năm 1805 là niên đại đầu tiên triều Nguyễn tiến hành lâp địa bạ quy
mô lớn nhất ở Đàng Ngoài. Trên cơ sở nguồn tư liệu địa bạ khai thác tại
Trung tâm lưu trữ Quốc gia I Hà Nội cho phép khôi phục lại toàn cảnh tình
hình ruộng đất huyện Ngân Sơn hồi nửa đầu thế kỷ XIX là các tài liệu địa bạ
có niên đại Gia Long 4 (1805), Minh Mệnh 21 (1840).
Trong quá trình tiếp cận nguồn tài liệu, chúng tôi cố gắng khai thác,
tiến hành so sánh nhằm dựng lại diện mạo của tình hình ruộng đất của
huyện Ngân Sơn hồi nửa đầu thế kỷ XIX.
Theo số liệu địa bạ có niên đại Gia Long 4 (1805) các loại ruộng đất
được phân bố như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Bảng 2: Thống kê địa bạ Gia Long 4 (1805)
STT Tên xã, thôn
Tổng diện tích
ruộng đất
Diện tích
ruộng tƣ
Diện tích
đất tƣ
Đất
công
Tổng Thượng Quan
1 Thượng Quan 152.8.12.0.0 146.0.12.0.0 6.8.0.0.0
2 Hoa Nê 100.1.13.7.0 97.7.13.7.0 2.4.0.0.0
3 Trang Bình Lãng 86.0.3.3.0 86.0.3.3.0 0.0.0.0.0
4 Bằng Khấu 103.0.9.2.0 98.8.9.2.0 4.2.0.0.0
5 Cốc Đán 105.7.8.1.0 102.5.8.9.0 3.1.14.2.0
6 Thượng Ân 248.3.5.3.0 243.1.5.3.0 5.2.0.0.0
7 Thuần Mang 90.5.3.3.0 86.0.3.3.0 4.5.0.0.0
8 Vân Tòng 131.9.7.3.0 128.6.1.4.0 3.3.5.9.0
Tổng Hạ Quan
9 Hạ Quan 199.1.7.5.0 194.9.4.5.0 4.2.3.0.0
10 Trung Quan 26.9.13.4.0 24.7.13.4.0 2.2.0.0.0
11 Đinh Phương 98.9.10.6.0 94.9.10.6.0 4.0.0.0.0
12 Trâu Khê 35.4.0.7.0 33.2.0.7.0 2.2.0.0.0
13 Yến Dương 55.7.9.1.0 51.7.9.1.0 4.0.0.0.0
14 Thiều Quang 57.2.8.0.0 54.7.8.0.0 2.5.0.0.0
15 Nam Tri 168.7.10.0.0 164.7.10.0.0 4.0.0.0.0
Tổng Kim Mã
16 Kim Mã 120.1.2.9.0 101.7.12.0.0 18.3.5.9.0
17 Linh Quang 151.6.13.5.0 146.1.6.6.0 5.5.6.9.0
18 Tam Lộng 142.5.9.5.0 119.8.10.6.0 22.6.13.9.0
19 Vụ Nông 70.6.4.6.0 67.3.2.2.0 3.3.2.4.0
20 Linh Mai 121.9.8.5.0 115.1.8.5.0 6.8.0.0.0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
STT Tên xã, thôn
Tổng diện tích
ruộng đất
Diện tích
ruộng tƣ
Diện tích
đất tƣ
Đất
công
Tổng Thơm Linh
21 Thơm Linh 308.1.4.9.0 288.1.4.9.0 20.0.0.0.0
22 Vi Hoa 420.0.12.1.0 385.0.12.1.0 35.0.0.0.0
23 Tòng Lệnh 157.1.10.8.0 155.3.10.8.0 1.8.0.0.0
24 Trang Cẩm Giàng 206.9.11.9.0 204.7.11.9.0 2.2.0.0.0
25 Tú Trĩ 189.3.5.5.0 188.3.5.5.0 1.0.0.0.0
Tổng Lương Thượng
26 Lương Thượng 74.9.5.1.0 69.2.14.6.0 5.6.5.5.0
27 Kim Hỷ 85.6.4.2.0 80.2.13.2.0 5.3.6.0.0
28 Vô Muộn 151.4.3.9.0 144.4.3.9.0 7.0.0.0.0
29 Trang Văn Học 81.4.2.6.0 80.2.12.6.0 1.1.5.0.0
30 Vũ Luân 74.6.6.6.0 71.3.6.6.0 3.3.0.0.0
31 Lãng Sơn 97.9.9.4.0 95.5.9.4.0 2.4.0.0.0
32 Trang Bình 181.1.13.4.0 178.1.13.4.0 3.0.0.0.0
33 Ân Tình 151.7.2.4.0 144.6.14.2.0 7.0.3.2.0
Tổng Lương Hạ
34 Lương Hạ 169.4.5.5.0 166.2.5.5.0 3.2.0.0.0
35 Xuân Dương 104.9.9.0.0 94.9.9.0.0 10.0.0.0.0
36 Đổng Xá 113.5.12.4.0 107.5.12.4.0 6.0.0.0.0
37 Liêm Tuyền 93.9.5.1.0 86.9.5.1.0 7.0.0.0.0
38 Kim Lô 87.7.8.3.0 86.4.6.8.0 1.3.1.5.0
39 Cư lễ 34.7.7.3.0 31.5.12.3.0 3.1.10.0.0
Tổng cộng 5053.0.0.9.0 4818.0.7.5.0 234.9.8.4.0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Bảng 3: Bảng thống kê quy mô sở hữu ruộng đất của 39 xã thôn
có địa bạ Gia Long 4 (1805)
Xã, thôn
Quy mô
Ghi
chú
Dưới 50
mẫu
50→
100 mẫu
100→
200 mẫu
200→
300 mẫu
300→
500 mẫu
500 mẫu
→
Tổng Thượng quan (8) 2 5 1
Tổng Hạ Quan (7) 2 3 2
Tổng Kim Mã (5) 1 4
Tổng Thơm Linh (5) 2 1 2
Tổng Lương Thượng (8) 5 3
Tổng Lương Hạ (6) 1 2 3
Tổng cộng 39 xã = 100%
3
7,69 %
13
3,33%
19
48,72%
2
5,13%
2
5,13%
Ở nửa đầu thế kỷ XIX, các hình thức tư hữu ở nước ta vẫn tiếp tục tồn tại,
Ngân Sơn là huyện cũng nằm trong bối cảnh đó. Qua bảng số liệu thống kê trên
cho thấy có 19 xã trên tổng số 39 xã có quy mô sở hữu ruộng tư từ 100 đến 200
mẫu, chiếm 48.72% tổng diện tích của cả huyện. Tiếp theo đó là các xã có mức
sở hữu từ 50 đến 100 mẫu chiếm 13 xã, số xã chiếm diện tích từ 300 mẫu trở lên
không nhiều chỉ có 2 xã, chiếm 5.13% diện tích của toàn huyện.
Về chất lượng đất đai: Theo tư liệu địa bạ, ở Ngân Sơn chỉ có ruộng
loại 3 và ruộng vụ thu. Địa bạ niên đại Gia Long 4 (1805) cho thấy tổng số
4303.6.11.9.0 tư điền đều là ruộng loại 3.
Bảng 4: Tổng diện tích các loại ruộng đất của huyện Ngân Sơn
theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
STT Loại ruộng Diện tích (m.s.th.t.p) Tỷ lệ %
Thực trƣng: 4686.4.0.3.0 92,74%
- Tƣ điền 4468.4.6.9.0 88,43%
- Tƣ thổ 217.9.8.4.0 4,31%
Lƣu hoang: 366.6.0.6.0 7,26%
- Tƣ điền 349.6.0.6.0 6,92%
- Tƣ thổ 17.0.0.0.0 0,34%
Tổng cộng 5053.0.0.9.0 100%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Về tổng diện tích các loại ruộng đất của cả huyện chỉ có tư điền, chứ
không có ruộng đất công thuộc sở hữu của nhà nước hoặc sở hữu của làng xã.
Từ các thế kỷ trước, do tình trạng chiến tranh loạn lạc kéo dài, dân phiêu tán
khắp nơi dẫn đến tình trạng ruộng đất bỏ hoang hóa khá nhiều: 349.6.0.6.0,
chiếm 6,92% diện tích tư điền.
- Tình hình sở hƣ̃u ruộng đất tƣ
Nhìn vào bảng 5 dưới đây, chúng ta có thể đi vào xem xét cụ thể mức
độ sở hữu tư điền. Điều đáng lưu ý, trong tổng số diện tích các chủ sở hữu
hoàn toàn chỉ có điền chứ không có thổ.
Nhưng chỉ số cho thấy trên bình diện chung, Ngân sơn là huyện có mức
độ tập trung ruộng đất không cao lắm. Nhìn vào sự phân bố chủ ruộng, mức
độ sở hữu thể hiện rõ nét: Ở niên đại Gia long 4 (1805) có 618 chủ, số chủ sở
hữu ở mức 5 đến 10 mẫu gần tương đương với số chủ sở hữu mức từ 1 đến 5
mẫu nhưng diện tích tư điền họ sở hữu lại gấp đôi, tới 1672.6.7.4.0 chiếm
38,87% tổng diện tích của cả huyện.
Có 109 chủ mức sở hữu tương đối cao từ 10 đến 20 mẫu với tổng diện
tích 1417.0.10.0.0, chiếm 17,64% tổng số chủ. Mức sở hữu thấp dưới 1 mẫu
có 4 chủ. Như thế để thấy, tình trạng sở hữu ruộng đất nhỏ, manh mún và dàn
trải trên một số đông chủ sở hữu là đặc điểm nổi bật của chế độ ruộng đất ở
huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn.
Số chủ có mức sở hữu cao nhất có 2 người với tổng diện tích là
90.4.10.8.0 và người có mức sở hữu cao nhất huyện là 46.0.7.0.0 và thấp nhất
là 0.2.7.3.0.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Bảng 5: Sự phân hoá ruộng tƣ ở Ngân Sơn (1805)
Quy mô sở hữu Số chủ
Diện tích sở hữu
(m.s.th.t.p)
Tỷ lệ %
< 1 mẫu 4 = 0,65% 2.5.5.5.0 0.06%
1→5 mẫu 240 = 38,83% 761.8.10.1.0 17.70%
5→10 mẫu 249 = 40,29% 1672.6.7.4.0 38.87%
10→20 mẫu 109 = 17,64% 1417.0.10.0.0 32.93%
20→40 mẫu 14 = 2,27% 359.0.13.1.0 8.34%
40→70 mẫu 2 = 0,32% 90.4.10.8.0 2.10%
Tổng cộng 618 = 100% 4303.6.11.9.0 100%
Bình quân sở hữu một chủ ở huyện Ngân Sơn: 6.9.9.5.8.0. Qua bảng
thống kê cho thấy, xã có mức sở hữu bình quân cao nhất là trang Bình Lãng
(21.5.0.8.2), thấp nhất là xã Cư Lễ (2.6.4.7.7) và đây cũng là xã có diện tích
tư điền ít nhất trong toàn huyện.
Bảng 6: Bình quân sở hữu một chủ
STT Xã, thôn
Ruộng tƣ ghi
trong địa bạ
Diện tích có thể
tính sở hữu
Số
chủ
Bình quân sở
hữu một chủ
Tổng Thượng Quan
1 Thượng Quan 146.0.12.0.0 146.0.12.0.0 26 5.6.2.7.6
2 Hoa Nê 97.7.13.7.0 97.7.13.7.0 12 8.1.7.3.9
3 Trang Bình Lãng 86.0.3.3.0 86.0.3.3.0 4 21.5.0.8.2
4 Bằng Khấu 98.8.9.2.0 98.8.9.2.0 18 5.4.13.8.4
5 Cốc Đán 102.5.8.9.0 102.5.8.9.0 14 7.3.3.8.5
6 Thượng Ân 243.1.5.3.0 243.1.5.3.0 26 9.3.7.7.0
7 Thuần Mang 86.0.3.3.0 86.0.3.3.0 16 5.3.11.4.5
8 Vân Tòng 128.6.1.4.0 71.9.3.9.0 9 7.9.13.7.6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
STT Xã, thôn
Ruộng tƣ ghi
trong địa bạ
Diện tích có thể
tính sở hữu
Số
chủ
Bình quân sở
hữu một chủ
Tổng Hạ Quan*
9 Hạ Quan 194.9.4.5.0 194.9.4.5.0 42 4.6.6.1.7
10 Trung Quan 24.7.13.4.0 24.7.13.4.0 8 3.0.14.8.0
11 Đinh Phương 94.9.10.6.0 94.9.10.6.0 34 2.7.13.9.8
12 Trâu Khê 33.2.0.7.0 33.2.0.7.0 5 6.6.6.1.4
13 Yến Dương 51.7.9.1.0 51.7.9.1.0 12 4.3.2.0.0
14 Thiều Quang 54.7.8.0.0 54.7.8.0.0 14 3.9.1.6.4
Tổng Kim Mã
15 Kim Mã 101.7.12.0.0 101.7.12.0.0 16 6.3.9.1.8
16 Linh Quang 146.1.6.6.0 43.9.6.2.0 5 8.7.13.2.4
17 Tam Lộng 119.8.10.6.0 119.8.10.6.0 13 9.2.3.1.2
18 Vụ Nông 67.3.2.2.0 25.2.10.3.0 5 5.0.8.0.6
19 Linh Mai 115.1.8.5.0 115.1.8.5.0 15 7.6.11.5.6
Tổng Thơm Linh
20 Thơm Linh 288.1.4.9.0 288.1.4.9.0 33 8.7.4.6.9
21 Vi Hoa 385.0.12.1.0 385.0.12.1.0 33 11.6.10.3.6
22 Tòng Lệnh 155.3.10.8.0 155.3.10.8.0 14 11.0.14.7.0
23 Trang Cẩm Giàng 204.7.11.9.0 56.1.1.1.0 8 7.0.2.0.1
24 Tú Trĩ 188.3.5.5.0 188.3.5.5.0 27 6.9.11.3.1
Tổng Lương Thượng
25 Lương Thượng 69.2.14.6.0 69.2.14.6.0 13 5.3.4.5.8
26 Kim Hỷ 80.2.13.2.0 80.2.13.2.0 16 5.0.2.7.0
27 Vô Muộn 144.4.3.9.0 144.4.3.9.0 27 5.3.7.3.6
28 Trang Văn Học 80.2.12.6.0 80.2.12.6.0 16 5.0.2.6.6
29 Vũ Luân 71.3.6.6.0 71.3.6.6.0 12 5.9.6.8.0
30 Lãng Sơn 95.5.9.4.0 95.5.9.4.0 27 3.5.5.9.0
31 Trang Bình 178.1.13.4.0 178.1.13.4.0 24 7.4.3.6.8
32 Ân Tình 144.6.14.2.0 144.6.14.2.0 16 9.0.6.5.1.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
STT Xã, thôn
Ruộng tƣ ghi
trong địa bạ
Diện tích có thể
tính sở hữu
Số
chủ
Bình quân sở
hữu một chủ
Tổng Lương Hạ
33 Lương Hạ 166.2.5.5.0 166.2.5.5.0 16 10.3.13.4.6
34 Xuân Dương 94.9.9.0.0 94.9.9.0.0 7 13.5.9.8.5
35 Đổng Xá 107.5.12.4.0 107.5.12.4.0 14 7.6.12.6.7
36 Liêm Tuyền 86.9.5.1.0 86.9.5.1.0 5 17.3.13.0.2
37 Kim Lô 86.4.6.8.0 86.4.6.8.0 4 21.6.1.7.0
38 Cư lễ 31.5.12.3.0 31.5.12.3.0 12 2.6.4.7.7
Tổng cộng 4818.0.7.5.0 4303.6.11.9.0 618 6.9.9.5.8
* Riêng xã Nam Tri có địa bạ nhƣng không có bảng kê sở hữu theo
chủ, do vậy diện tích của xã chƣa kê vào bảng trên.
- Quy mô sở hƣ̃u ruộng đất theo nhóm họ
Tên họ và diện tích ruộng đất của từng chủ sở hữu trong địa bạ là
những thông tin rất quan trọng để nghiên cứu về vấn đề nhóm họ. Trong tổng
số 38/39 địa bạ, từ những số liệu riêng lẻ về sở hữu ruộng tư của từng chủ sở
hữu, chúng tôi tổng hợp lại thành sở hữu theo nhóm họ. Tuy nhiên, thống kê
này vẫn mang tính chất tương đối vì chỉ dựa vào danh sách chủ sở hữu ruộng
tư và tên đầu của nhóm họ mà chưa xác định được dòng họ đích thực cũng
như nguồn gốc của dòng họ.
Ở đây, chúng tôi đưa ra khái niệm “nhóm họ” để chỉ tập hợp những
dòng họ có chung tên gọi đầu tiên, ví dụ nhóm họ Nông, nhóm họ Bế, nhóm
họ Đinh…Trên cơ sở thống kê, tổng số chủ sở hữu là 618 phân bố trong 48
nhóm họ, nếu tính trung bình thì mỗi nhóm họ có 12 người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Bảng 7: Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ
STT Họ Tổng số chủ Diện tích sở hữu
1 Bế 10 = 1.62% 53.2.10.4.0 = 1.24%
2 Cao 2 = 0.32% 8.0.0.0.0 = 0.19%
3 Cam 1 = 0.16% 12.0.0.0.0 = 0.28%
4 Chu 1 = 2.27% 89.3.6.3.0 = 2.08%
5 Dị 1 = 0.16% 1.2.0.0.0 = 0.03%
6 Dịch 1 = 0.16% 3.6.0.0.0 = 0.08%
7 Dương 37 = 5.99% 313.0.10.0 = 7.27%
8 Đàm 11 = 1.78% 53.1.12.3.0 = 1.24%
9 Đinh 82 = 13.27% 488.1.14.4.0 = 11.34%
10 Đoàn 2 = 0.32% 14.0.0.0.0 = 0.32%
11 Đồng 8 = 1.29% 79.9.0.0.0 = 1.86%
12 Đỗ 1 = 0.16% 10.0.0.0.0 = 0.23%
13 Hoàng 108 = 17.48% 757.8.12.3.0 = 17.61%
14 Hà 20 = 3.24% 194.6.12.4.0 = 4.52%
15 Hoa 4 = 0.65% 47.7.0.0.0 = 1.11%
16 Hứa 11 = 1.78% 56.5.0.0.0 = 1.31%
17 Khai 1 = 0.16% 6.0.0.0.0 = 0.14%
18 La 1 = 0.16% 4.5.0.0.0 = 0.10%
19 Lâm 4 = 0.65% 22.7.5.7.0 = 0.53%
20 Lê 2 = 0.32% 16.8.14.0.0 = 0.39%
21 Linh 7 = 1.13% 33.9.0.0.0 = 0.79%
22 Long 1 = 0.16% 13.5.3.0.0 = 0.31%
23 Lô 1 = 0.16% 1.4.0.0.0 = 0.03%
24 Lộc 1 = 0.16% 8.8.0.0.0 = 0.21%
25 Luân 4 = 0.65% 31.6.7.3.0 = 0.74%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
STT Họ Tổng số chủ Diện tích sở hữu
26 Lục 4 = 0.65% 18.4.0.0.0 = 0.43%
27 Lưu 7 = 1.13% 38.7.3.0.0 = 0.90%
28 Lương 10 = 1.62% 82.8.6.9.0 = 1.93%
29 Lý 24 = 3.88% 165.3.9.6.0 = 3.84%
30 Ma 16 = 2.59% 99.3.14.8.0 = 2.31%
31 Mã 15 = 2.43% 59.1.1.4.0 = 1.37%
32 Mạc 1= 0.16% 12.5.7.0.0 = 0.29%
33 Mông 1 = 0.16% 2.5.0.0.0 = 0.06%
34 Nông 124 = 20.06% 883.3.1.0.0 = 20.52%
35 Nguyễn 39 = 6.31% 324.2.2.0.0 = 7.53%
36 Ngân 1 = 0.16% 7.5.5.0.0 = 0.18%
37 Phan 4 = 0.65% 28.7.4.0.0 = 0.67%
38 Phùng 3 = 0.49% 18.2.2.0.0 = 0.42%
39 Quan 1 = 0.16% 6.0.0.0.0 = 0.14%
40 Thịnh 2 = 0.32% 13.8.6.8.0 = 0.32%
41 Thâm 1 = 0.16% 15.0.0.0.0 = 0.35%
42 Tô 1 = 0.16% 10.8.4.0.0 = 0.25%
43 Trần 8 = 1.29% 78.6.14.9.0 = 1.83%
44 Trịnh 1 = 0.16% 13.3.12.0.0 = 0.31%
45 Trương 2 = 0.32% 12.7.0.0.0 = 0.30%
46 Triệu 15 = 2.43% 78.3.11.4.0 = 1.82%
47 Vi 2 = 0.32% 8.8.9.0.0 = 0.21%
48 Vương 1 = 0.16% 3.2.0.0.0 = 0.07%
Tổng cộng 618 = 100% 4303.6.11.9.0 = 100%
Sự phân bố chủ sở hữu giữa các nhóm họ là không đều, tuy nhiên số
người trong nhóm họ đông nhất thấy ở nhóm họ Nông (124 = 20,06%), nhóm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
họ Hoàng (108 = 17,48%) và là những nhóm họ có diện tích sở hữu lớn nhất.
Bên cạnh đó lại có một số nhóm họ chỉ có một người như họ Cam, Di, Dịch,
Khai, La…Bên cạnh sự phân bố không đồng đều về số chủ mức sở hữu trung
bình lớn nhất giữa các nhóm họ cũng không giống nhau.
- Mƣ́c độ sở hƣ̃u ruộng đất của chủ nƣ̃, phụ canh.
Ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, việc phụ nữ đứng tên chủ sở hữu ruộng
đất là hiện tượng khá phổ biến, là nét độc đáo của xã hội Việt nam thời trung
đại. Xét về tổng số 618 chủ sở hữu ở Ngân Sơn có tổng diện tích là 4303 mẫu 6
sào 11 thước 9 tấc. Trong đó, 615 chủ là nam chiếm 99,51% với tổng diện tích
là 4272 mẫu 7 sào 5 thước 9 tấc. Tỷ lệ chủ sở hữu là nữ rất ít chỉ có 3 người
chiếm 0,49% tổng số chủ với tổng diện tích 30 mẫu 9 sào 6 thước. Tuy nhiên
mức sở hữu bình quân của một chủ nữ 10 mẫu 3 sào 2 thước, trong khi sở hữu
bình quân của nam là 6 mẫu 9 sào 7 thước 1 tấc 3 phân.
Bảng 8: Tình hình giới tính trong sở hữu tƣ nhân
Giới tính
Quy mô
Ghi
chú < 1 mẫu
1→ 5
mẫu
5→ 10
mẫu
10→ 20
mẫu
20→ 40
mẫu
40→ 70
mẫu
Nam 615
%
4
0.65%
240
39.02%
248
40.32%
107
17.40%
14
2.28%
2
0.33%
Nữ 3
%
1
33.33%
2
66.67%
Tỉ số nữ trong từng lớp sở hữu
0.49% 0.40% 1.83%
Tổng cộng :
618
Chủ sở hữu lớn nhất là Nguyễn Thị Trương ở xã Xuân Dương (T.
Lương Hạ) sở hữu 14 mẫu 5 sào và chủ sở hữu thấp nhất của nữ chỉ có 5 mẫu
1 sào 5 thước như trường hợp của bà Nguyễn Thị Thiện ở xã Ân Tình (T.
Lương Thượng).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Sau khi thống kê được 618 chủ đứng tên sở hữu của 38/39 xã có danh
sách sở hữu tư điền, chúng tôi phát hiện thấy số chủ phụ canh là 39 người
(chiếm 6,31%), không có chủ nữ. Mức sở hữu bình quân của chủ phụ canh là
5 mẫu 8 sào 8 thước 9 tấc 6 phân. Hiện tượng “xen canh xen cư” là một hiện
tượng khá phổ biến ở nông thôn Việt Nam, “Nguyên tắc đất làng nào do làng
ấy cày cấy sang thế kỷ XIX đã bị phá vỡ không phải ở một vài làng xã mà có
thể nói đã lan tràn trên quy mô hầu khắp cả nước”[7, tr.56]. Ở Ngân sơn, tính
chất xen kẽ đó xuất hiện ở các cá thể sở hữu.
Trong tổng số chủ phụ canh ở 6 xã, trang có 3 người ở ngoài huyện sở
hữu 11 mẫu 4 sào chiếm 0,26% diện tích của cả huyện. Cụ thể là Hà Hiếu Vĩ,
Hà Hiếu Đạt đều ở xã Quân Bình thuộc châu Bạch Thông và Hà Đình Trạng
người xã Dương Quang (tổng Lương Thượng, châu Bạch Thông).
Trong tổng số người có diện tích phụ canh, người sở hữu cao nhất là
Nông Thiêm Hai có 20 mẫu, người có mức sở hữu thấp nhất là Bế Văn Thông
0 mẫu 8 sào.
Ở Ngân Sơn không chia ruộng đất cho từng hộ gia đình mà tổng diện
tích của các xứ đồng đều do bản xã đồng canh. Diện tích tư thổ của từng tổng
được liệt kê ở bảng số liệu sau:
Bảng 9: Diện tích tƣ thổ
STT Tổng Số xã
Diện tích thổ trạch
(m.s.th.t.p)
Ghi chú
1 Thượng Quan* 8 29.6.5.1.0
2 Hạ Quan 7 23.1.3.0.0
3 Kim Mã 5 56.6.14.1.0
4 Thơm Linh 5 60.0.0.0.0
5 Lương Thượng 8 34.8.4.7.0
6 Lương Hạ 6 30.6.11.5.0
Tổng cộng 39 234.9.8.4.0
* Trang Bình Lãng (Tổng Thƣợng Quan) không có diện tích thổ trạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
- Sở hƣ̃u ruộng đất của chƣ́c dịch
Đội ngũ chức sắc làng người có quyền thế ở làng xã. Căn cứ vào tên
của các chức sắc ghi trong địa bạ chúng tôi thống kê được 144 vị. Qua bảng
thống kê cho thấy, không phải tất cả các chức sắc đều có thế lực về kinh tế.
Bằng chứng cho thấy có 33/144 vị chức sắc không có tên trong danh sách các
chủ ruộng, nghĩa là không có ruộng đất tư hữu, chiếm 22.92%. Đây là hiện
tượng phổ biến trong nông thôn Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Qua bảng số liệu
cho thấy số chức sắc không ruộng đều có nhiều ở các tổng Thượng Quan và
tổng Hạ Quan.
Bảng 10: Tình hình sở sữu ruộng tƣ của các chức dịch (1805)
STT Chức vị
Khô._.ững bài văn
than, mại xe trong đám tang…
+ Dân ca nghi lễ
Hát quan làng: người Tày gọi là “xướng quan làng” hay còn gọi với tên
khác là “thơ lẩu” tức thơ đám cưới. Mỗi khi có đám cưới, những người được
chọn làm “quan làng” thường là những người có tài ăn nói, biết chữ, biết làm
thơ nhất là phải thuộc một số bài thơ cưới cổ truyền. Trong đám cưới diễn ra
những cuộc đối xướng giữa đại diện nhà trai và nhà gái [15, tr.132]. Một đặc
điểm dễ nhận biết của “xướng quan làng” là hát để thay cho lời mời chào xã
giao, vừa lịch sự, vừa trân trọng [44, tr.141].
Hát Then, Pụt: là loại nhạc dùng để cúng quỷ, trừ tà ma. Chức năng của
then, pụt chủ yếu là cầu cúng, giúp gia chủ đưa lễ lên tổ tiên, lên cửa mụ, cửa
ham, cửa tướng, lên “thượng phương” để cầu cho tai qua nạn khỏi [43,
tr.143]. Mặc dù nội dung chủ yếu phục vụ việc cúng bái, tuyên truyền những
tư tưởng mê tín dị đoan nhưng một số bài cúng cũng ít nhiều có giá trị văn
học, nội dung phản ánh được những nét sinh hoạt quá khứ của dân tộc, những
khái niệm về tôn giáo trước đây. Do đó có thể giúp ích cho việc nghiên cứu
dân tộc [15, tr.133].
+ Dân ca trữ tình
Các hình thức sli lượn ở Ngân Sơn rất phong phú về làn điệu. Tình ca,
người Tày ở địa phương gọi là sli, người Nùng gọi là lượn. Đây là tục hát đối
đáp giữa thanh niên nam nữ na ná tục hát quan họ Bắc Ninh. Hát Sli lượn
thường được sử dụng mỗi khi đến hỏi thăm nhau, trong những ngày hội, ngày
tết, ngày cưới, kể cả ngày chợ kể cho nhau nghe chuyện làm ăn, tình hình mọi
mặt, để bày tỏ tình yêu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
Lượn là danh từ chỉ chung nhiều làn điệu hát mang tính trữ tình như
lượn slương, lượn cọi, lượn loàn, lượn nàng hai, lượn phong slư, lượn nàng
ới… trong đó lượn cọi và lượn slương là hai điệu hát giao duyên. Ở Ngân Sơn
lượn cọi phổ biến ở phía Tây, còn lượn Slương (lượn thương) phổ biến ở
vùng phía Nam của huyện. Theo lời ông Hoàng Văn Đáng “Ở xã Thương
Quan cũng có nhiều cung đoạn như lượn cọi, có tới vài ngàn câu hát, hát mấy
đêm không hết, vả lại không ai có đủ thời gian hát hết các đoạn”1
Câu lượn nài (lượn mời) ở xã Thượng Quan (Ngân Sơn):
Cú tin mà tới giựa tin đuây
Khách lạ mà rƣờn rụ quá pây
Chúa lƣờn mí thƣơng hạy dá hám
Hẩƣ rà vọng cánh đuối tàng quây
Tiếng lƣợn khan mà rặp tiếng thƣơng
Ngon ngọt đều hay tiếng đạ đƣờng
Câu ví thƣơng mèng nhằng van nọi
Thiên hạ mơ màng đuối tiếng thƣơng [44, tr.139]
Tạm dịch: (Bƣớc tới chân cầu thang, khách lạ về nhà hay đi qua, chủ
nhà có thƣơng đừng ngăn cản, cho mình vọng cảnh với đƣờng xa, tiếng lƣợn
lên đáp tiếng thƣơng, ngon ngọt đều hay tiếng bạn đƣờng, câu ví mật ong còn
kém ngọt, thiên hạ mơ màng với tiếng thƣơng).
Nội dung lượn cọi và lượn slương gần giống nhau, đề tài chủ yếu là
phản ánh hình ảnh con người, ca ngợi con người với tình yêu nam nữ, ca ngợi
về thiên nhiên và cuộc sống lao động. Lượn cọi và lượn slương đều dùng thể
thơ thất ngôn, nhưng lượn slương dùng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, gần với lối
thơ Đường. Lượn cọi sử dụng lối thơ bảy chữ liên tục. Lượn slương có âm
1
Ông Hoàng Văn Đáng, xã Thƣợng Quan huyện Ngân Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
điệu trầm lắng dễ hát, lượn cọi với làn điệu trầm bổng vút cao, mượt mà, tha
thiết đã từng được đồng bào ở Ngân Sơn sáng tác, lưu truyền, tồn tại trong
cuộc sống sinh hoạt [44, tr.140]. Hình thức diễn xướng giữa sli và lượn có
khác nhau ở chỗ: Khi hát sli, đôi nam hát đối đáp với đôi nữ, hát theo hai giai
điệu khác nhau, một bè cao, một bè thấp, âm thanh hai bè hòa hợp hấp dẫn.
Còn hát lượn là hát đối đáp giữa nam và nữ. “Những đoạn lượn ở đây có thể
xếp vào hàng những văn chương bác học của tộc người Tày và các tỉnh Việt
Bắc” [20, tr.13].
+ Phong Slư (phong thư): được viết trên giấy hoặc trên nền vải đỏ rất
công phu, khung bức thư vẽ trang trí ong bướm hoa lá, chim én ngậm phong
thư, rồng trầu mặt nguyệt. Đây là một thể loại, có kết cấu nhất định và bằng
thơ thất ngôn gieo vần nhưng triệt để với phong cách ngầm định riêng. Khi có
chữ Nôm Tày, thanh niên nam nữ Tày sử dụng để viết thư, gửi tới người mình
thương, mình nhớ. Trong một bức thư nam gửi cho nữ: “Lập khuyết khảu
mùa xuân đang thí, Các thức bjoóc lặp lỉ đang phông, Một mèng dú táng
không vén vẹn, Ƣớc xuân mà nhạn én chập căn” (Lập tuyết vào mùa xuân
đang thì, mọi thứ hoa đến kỳ nở rộ, ong bướm ở mỗi chỗ mỗi phương, ước
xuân về uyên ương hội ngộ). Từ khi ngưòi Tày có chữ quốc ngữ thì thì làn
điệu phong thư chỉ còn trong ký ức của những người cao tuổi.
3.3. Truyền thống đấu tranh của các dân tộc huyện Ngân Sơn
Ngân Sơn là một mảnh đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Mỗi
dân tộc đều có phong tục, tập quán, tiếng nói, trang phục, những món ăn đặc
thù với bản sắc và truyền thống văn hóa khác nhau. Nhưng các dân tộc luôn
đoàn kết, sát cánh bên nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Nhân dân các dân tộc Ngân Sơn rất tự hào với truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương đất nước. Ngay từ đầu công nguyên, dưới
lá cờ đại nghĩa của hai vị nữ tướng anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
Nhị, dân chúng Giao Chỉ và Cửu Chân nổi dậy khởi nghĩa, đánh đổ ách thống
trị của nhà Hán, giành lại nền độc lập. Trải qua nhiều thế kỷ đấu tranh chống
sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, ý thức về một quốc gia thống nhất và
đoàn kết các dân tộc trên một lãnh thổ quốc gia ngày càng được tăng cường.
Các nhà nước phong kiến Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử còn
đại diện cho dân tộc, đối với vùng miền núi phía Bắc là vùng biên cương có vị
trí chiến lược trọng yếu "Biên phòng cần có phương lược tốt, đất nước nên lo
kế lâu dài" (Lê Lợi) và đã đề ra những chính sách biện pháp tích cực để giải
quyết vấn đề miền núi, vấn đề dân tộc tăng cường quốc gia thống nhất.
Một minh chứng đầy sức thuyết phục là trong cuộc kháng chiến chống
Tống dưới sự lãnh đạo của Lý Thường Kiệt, nhân dân các dân tộc vùng Đông
Bắc đã giữ được một vai trò quan trọng trong cuộc tập kích chiến lược sang
đất Tống vào năm 1075. Bằng cuộc tiến quân táo bạo này, ta đã đẩy kẻ thù
vào thế bị động và tạo điều kiện thuận lợi để đánh bại kẻ thù khi chúng kéo
sang xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Minh, các dân tộc huyện Ngân Sơn đã
tham gia cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi lãnh đạo. Sau khi
chiến tranh kết thúc đã được vua Lê phong làm dòng họ phiên thần ở địa
phương và cho bãi miễn binh dịch, tiêu biểu như dòng họ Ma.
Trong thời Lê Sơ, miền biên giới phía Bắc được quản lý chặt chẽ hơn.
Trong "Luật Hồng Đức" có quy định cụ thể rõ ràng về trách nhiệm của quan
trấn thủ vùng biên giới, nhiều quan lại từ miền xuôi lên miền núi lâu đời đã
được phân phong, quản lý đất đai, binh lính, dân cư ở Ngân Sơn. Trong cuộc
kháng chiến chống Thanh các dân tộc Ngân Sơn đã ủng hộ Quang Trung
chống lại hành động phản bội lại lợi ích dân tộc của Lê Chiêu Thống .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn rất quan tâm đến hoạt động của trận tuyến
bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh biên giới thể hiện qua việc thiết lập hệ
thống đồn bảo ở Ngân Sơn (có Bảo La Hiên và Bảo Xuân Dương cách huyện
Cảm Hoá 270 dặm về phía Đông, giáp địa phận huyện Thất Khê (Lạng Sơn)
[23, tr.174]. Các đồn, bảo chủ yếu là cửa ải sát biên giới được sử dụng để
nhân dân qua lại buôn bán, trao đổi.
Xét về điều kiện địa hình, Ngân Sơn có núi non trùng điệp, hiểm trở rất
thuận lợi cho hoạt động cách mạng. Đặc biệt, là huyện nằm trên trục đường
quốc lộ 3 tuyến giao thông quan trọng của cả tỉnh Bắc Kạn. Đến thế kỷ XIX,
việc đi lại trong huyện chủ yếu vẫn đi bằng đường bộ, đường mòn. Từ Ngân
Sơn có thể lên các huyện giáp giới của Cao Bằng, qua vùng Chợ Rã, Chợ Đồn
sang Tuyên Quang, xuống Na Rì, Bạch Thông và sang Lạng Sơn.
Ngân Sơn có nguồn tài nguyên phong phú. Dưới lòng đất có chứa
nhiều loại khoáng sản quý: “Vàng (mỏ Thuần Mang) mỗi năm nộp thuế 13
lạng, Bạc: huyện Cảm Hóa có mỏ Ngân Sơn mỗi năm nộp thuế 370
lạng…” [23, tr.208]. Ngoài ra, rừng Ngân Sơn có nhiều lâm thổ sản gồm
các loại gỗ, tre, nứa, song, mây, và các loại dược liệu quý. Đây chính là
điểm ngắm mà Pháp luôn chú ý tới.
Từ năm 1858, quân đội Pháp chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam.
Sau mấy chục năm đô hộ nước ta, mãi tới “năm 1888, thực dân Pháp bắt đầu
đặt chân xâm lược lên mảnh đất Ngân Sơn, trùm bóng đen nô dịch lên đầu
nhân dân Ngân Sơn. Chúng dựa vào bọn phong kiến phản động, dựng lên bộ
máy chính quyền tay sai làm công cụ đắc lực trong việc bóc lột và đàn áp
nhân dân dân ta, biến xã hội Ngân Sơn, cũng như xã hội của cả nước thành
xã hội thuộc địa nửa phong kiến, xây dựng một bộ máy đàn áp để bảo vệ và
duy trì sự thống trị của chúng. Đồn Ngân Sơn với một trung đội lính khố
xanh thường trú, được xây dựng kiên cố nhằm án ngữ con đường quốc lộ 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
để khống chế toàn huyện, ngoài ra còn có cả một đội lính dóng và tuần đinh
dải khắp các bản làng, thôn xã. Bọn quan tay sai: tri châu, chánh tổng, lý
trưởng, châu đoàn, tổng đoàn, xã đoàn...ra sức hoành hành. Các quyền tự do
dân chủ, quyền tự do học hành, quyền bầu cử, quyền tự do hội họp... đều bị
tước bỏ, mọi quyền sống của người dân Ngân Sơn bị bóp nghẹt, mọi tư
tưởng và hành động yêu nước đều bị chúng coi là “làm loạn” và bị đàn áp dã
man [3, tr.10-11].
Thủ đoạn thực dân Pháp áp dụng trong việc cai trị nhân dân ta rất thâm
độc và xảo quyệt. Về mặt Chính trị chúng thực hiện chính sách “chia để trị”
khơi sâu mối thù hằn dân tộc như đem dân tộc này đi đàn áp dân tộc khác,
chia rẽ người miền xuôi với người miền ngược. Về Kinh tế, đời sống nhân
dân không được ấm no hạnh phúc mà luẩn quẩn trong vòng nghèo nàn, lạc
hậu. Nền kinh tế chưa thoát khỏi tính chất tự cung tự cấp. Đồng bào Tày,
Nùng chủ yếu sống bằng nghề làm ruộng, đồng bào Dao sống du canh du cư,
công cụ lao động hết sức thô sơ chỉ là cái cày, con dao, phương thức canh tác
lạc hậu. Thực dân Pháp còn bắt nhân dân ta đóng nhiều thứ thuế. Chúng lập
sổ địa bạ một cách tùy tiện, lập công ty rượu và thuốc phiện ở Bằng Khẩu và
thị trấn Ngân Sơn để bắt nhân dân ta phải mua. Chúng quản lý muối rất chặt
chẽ vì thế nạn thiếu muối thường xuyên xảy ra. Đồng thời, chúng còn tập
trung khai thác vàng, độc quyền khai thác lâm thổ sản. Về Văn hóa, chúng thi
hành chính sách ngu dân. Toàn huyện chỉ có 3 trường cấp I không toàn cấp ở
Nà Phặc, Hoàng Phài và thị trấn ngân Sơn, hầu hết người dân số lao động ở
đây bị mù chữ. Ngoài ra, chúng còn duy trì và phát triển các tệ nạn xã hội để
đầu độc nhân dân ta, đẩy người dân Ngân Sơn vào cuộc sống khổ cực, đói
cơm, rách áo, ốm đau, bệnh tật. Các dân tộc ít người vùng cao phải dùng vỏ
cây sui để đắp thay chăn chống rét. Trước sự bóc lột tàn nhẫn của kẻ thù càng
làm cho người dân căm thù chúng sâu sắc hơn. Không chịu làm nô lệ, các dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
tộc Ngân Sơn vốn có truyền thống yêu nước bất khuất đã liên tiếp nổi dậy đấu
tranh chống lại ách áp bức bóc lột của thực dân và bọn tay sai của chúng.
Tiểu kết: Các vương triều phong kiến Việt Nam rất chú ý đến vị trí
chiến lược trọng yếu ở vùng biên giới phía Bắc. Chính sách “nhu viễn” đã
được thực hiện có hiệu quả, việc cử quan lại miền xuôi lên trấn giữ miền núi
bắt đầu kéo dài từ thời Lý - Trần đến thời Nguyễn. Đầu thế kỷ XIX, việc thực
hiện chính sách “cải thổ quy lưu” thì trên pháp lý đã chấm dứt sự tồn tại của
thổ ty ở miền núi trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Trong văn hóa truyền thống của các tộc người ở Ngân Sơn, bên cạnh
yếu tố văn hóa vật chất (ăn, ở, mặc), nền văn hóa dân gian cũng có nét nổi bật
mang đậm những yếu tố sinh thái vùng miền cũng như những yếu tố ảnh
hưởng được du nhập từ miền xuôi và Nam Trung Quốc, ta thường bắt gặp
trong nghi lễ ma chay, cưới xin, tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội…phản ánh được
đời sống lâu dài của cư dân địa phương đã góp phần làm cho văn hóa bản địa
thêm phong phú.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
KẾT LUẬN
Lịch sử dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm xây dựng và trưởng thành.
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta đã đoàn kết với dân tộc Kinh đấu
tranh bảo vệ và xây dựng và thống nhất đất nước, sáng tạo nên những trang sử
oanh liệt đáng tự hào, có được những truyền thống văn hóa phong phú và độc
đáo đậm đà bản sắc dân tộc. Sự tồn tại và phát triển đi lên của huyện Ngân
Sơn là kết quả của sự gắn kết cộng đồng các dân tộc, vừa đấu tranh hòa hợp
với thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, cùng nhau xây dựng quê hương mới.
1. Trên địa bàn huyện một bộ phận người Tày bản địa đã sinh sống lâu
đời. Trải qua nhiều biến động lịch sử, đã tiếp nhận làn sóng di cư của một số
bộ phận tộc người thiên di đến cùng an cư lạc nghiệp. Bảy dân tộc sinh sống ở
địa phương dù là cư dân bản địa hay là bộ phận dân tộc từ bên kia biên giới di
cư sang bằng nhiều con đường khác nhau, thời gian khác nhau nhưng về cơ
bản mối quan hệ của các dân tộc ở đây đều thuận hòa, đoàn kết, gắn bó. Có
thể nói, trong qúa trình tộc người cộng cư sinh sống giữa bộ phận người Tày
bản địa và cả một bộ phận người Nùng, Mông, Dao, Hoa di cư từ bên kia biên
giới sang đã hợp nhất lại thành cộng đồng thống nhất. Đặc biệt trong quá trình
đồng hóa tự nhiên giữa tộc người Kinh và tộc người Tày cũng là nét nổi bật
trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Nhiều dòng họ có gốc gác từ
miền xuôi đã ở lại sinh cơ lập nghiệp tại vùng đất mới. Ở Ngân Sơn, từ thế kỷ
XV vua Lê đã cử Quận công Nông Đại Bảo, vốn họ Nguyễn, người Kinh, quê
Nghệ An lên trấn giữ vùng Thượng Quan, Hạ Quan, Na Rì. Ông đã hòa vào
dân bản địa và đổi sang họ Nông người Tày, hiện tượng đó gọi là “Kinh già
hóa Thổ”. Đó là sự phản ánh thực tế khách quan trong quá trình hòa hợp gắn
kết cộng đồng thống nhất. Họ đã đồng cam cộng khổ với cư dân bản địa, đã tự
nguyện hòa nhập với cộng đồng người Tày ở địa phương. Có lẽ đây là điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
nhân lõi trong truyền thống đoàn kết của cộng đồng các dân tộc, tạo nên sức
mạnh trường tồn cho dân tộc Việt Nam bất tử.
2. Tìm hiểu chế độ ruộng đất ở Việt Nam nói chung, giai đoạn đầu thế
kỷ XIX nói riêng. Nhà nghiên cứu luôn quan tâm đến tình hình sở hữu ruộng
đất và việc phân chia ruộng đất qua các thời kỳ. Qua đây ta thấy được nguồn
tài nguyên thiên nhiên được khai thác, loại hình kinh tế chủ yếu của thời kỳ
trước Tư bản chủ nghĩa, sự phân hóa xã hội, chế độ thuế khóa nguồn thu nhập
chủ yếu của kinh tế quốc dân…Nguồn tư liệu gồm 53 tập địa bạ được khai
thác tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I Hà Nội là cơ sở cho việc phân tích chế
độ ruộng đất ở Ngân Sơn. Công cuộc khai hoang ở miền núi được đẩy mạnh
tác động đến cơ cấu kinh tế - xã hội miền núi góp phần làm cho chế độ ruộng
đất ở Ngân Sơn phát triển mạnh. Mặc dù không có số liệu thống kê của cả
tỉnh để so sánh nhưng qua số liệu đã trình bày ở chương 2 cho thấy: đến thời
điểm 1805 ở Ngân Sơn diện tích công điền không có mà chủ yếu là ruộng tư
với tổng diện tích 4818 mẫu 0 sào 7 thước 5 tấc. Rõ ràng tư hữu ruộng đất đã
hoàn toàn thắng thế ở vào thời điểm này.
3. Về mặt văn hóa thì ở Bắc Kạn nói chung và Ngân Sơn nói riêng là
khu vực vẫn còn mang đậm bản sắc đa văn hóa dân tộc. Mỗi dân tộc sinh
sống ở địa phương đều có những nét văn hóa riêng biệt dù họ có nguồn gốc
khác nhau. Trong quá trình tụ cư tại địa phương các dân tộc luôn gắn bó, giúp
đỡ lẫn nhau trong sản xuất, sinh hoạt cũng như trong cuộc đấu tranh bảo vệ
quê hương đất nước. Chính nhờ lẽ đó mà đồng bào đã tạo nên truyền thống
đoàn kết gắn bó dân tộc vô cùng quý báu. Trong nét văn hóa đó có nhiều yếu
tố địa phương chung được thể hiện rõ rệt là kết quả của quá trình giao thoa,
hội nhập giữa bản địa và ngoại lai nhất là giữa miền xuôi và miền ngược.
Có thể nói, nét độc đáo trong lịch sử văn hóa người Tày là sự xuất hiện
chữ Nôm Tày dựa trên cơ sở chữ Hán để sáng tạo ra chữ viết của dân tộc
mình. Chủ yếu là để ghi chép, thơ ca, truyện. Theo các nhà nghiên cứu thì chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Nôm Tày có thể xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV [12, tr.193]. Cấu tạo chữ
Nôm Tày có rất nhiều kiểu cách, thể hiện trình độ sáng tạo của người tri thức
Tày thời bấy giờ. Chữ Nôm Tày còn thấy xuất hiện trong một số tập địa bạ
trong quá trình xử lý tài liệu, chúng tôi phải nhờ đến các thầy tào ở địa
phương mới có thể hoàn thành công việc cho luận văn.
Đại bộ phận thơ ca cổ truyền của người Tày, Nùng thuộc loại “tam sao
thất bản”, do tập thể sáng tác được sửa đi sửa lại qua nhiều lần hát xướng sau
đó có bài được chép lại bằng chữ Nôm Tày, Nùng. Thơ ca truyền miệng gồm
có ca dao, tục ngữ, tình ca, ca đám cưới, ca cúng bái…Bên cạnh thơ cổ truyền
còn có truyện khuyết danh bằng chữ Nôm Tày, Nùng. Về hình thức thể hiện,
tùy theo từng đề tài, đồng bào dùng nhiều thể thơ: tự do, “phong slư”, tứ
nguyệt, cổ phong, ngụ ngôn…
4. Trong lich sử các dân tộc Ngân Sơn đã hình thành nên truyền thống
yêu quê hương đất nước, tinh thần dũng cảm trong đấu tranh chống ngoại xâm
và tinh thần cần cù lao động là nền tảng vững chắc cho nhân dân huyện Ngân
Sơn thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngân Sơn là vùng đất
giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng hiện tại vẫn là một huyện nghèo của tỉnh
Bắc Kạn. Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương xóa đói giảm
nghèo, “giao đất giao rừng” của Đảng và Nhà nước đời sống của nhân dân các
dân tộc trong huyện ngày một no ấm. Trên con đường công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước được sự quan tâm của các cấp chính quyền, trong tương lai
Ngân Sơn sẽ là huyện giàu và mạnh về mọi mặt, xây dựng một nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2005), Đất nƣớc Việt Nam qua các đời , Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn, tập I, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Ngân Sơn (1990), Lịch sử đấu tranh cách
mạng Ngân Sơn 1939 - 1954, tập I.
4. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Ngân Sơn (2002), Lịch sử Đảng bộ huyện
Ngân Sơn (1954 - 1975), tập II.
5. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chƣơng loại chí, tập I, Nxb Sử học,
Hà Nội.
6. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến
(1971), Ngƣời Dao ở Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Vũ Thị Minh Hƣơng, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (1999), Địa
danh và tài liệu lƣu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Nxb VH Thông tin, Hà Nội.
9. Nguyễn Chí Huyên, Hoàng Hoa Toàn, Lƣơng Văn Bảo (2000): Nguồn
gốc lịch sử tộc ngƣời vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
10. Bế Huỳnh: Cao Bằng tạp chí nhất tập, Tư liệu viện dân tộc học, ký hiệu
D.136
11. Khâm định Việt sử thông giám cƣơng mục (1998), tập I, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
12. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn hóa dân
gian Tày, Sở Văn hóa thông tin Thái Nguyên.
13. Phan Huy Lê (1997), Địa bạ Thái Bình, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
14. Ngô Vi Liễn, Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thƣ (1999): Tên làng xã và
địa dƣ các tỉnh Bắc kỳ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
15. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lƣợc giới thiệu các nhóm dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Lã Văn Lô (1973), Bƣớc đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số Việt Nam
trong sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Nhiều tác giả (1997), Một số chuyên đề về lịch sử Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
18. Triệu Đức Ngự (1996), Thơ lẩu (Thơ đám cƣới), Hội văn học nghệ thuật
Bắc Thái.
19. Niên giám thống kê 2007 do Phòng thống kê huyện Ngân Sơn cung cấp.
20. Lục Văn Pảo (1994), Lƣợn Cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
21. Vũ Huy Phúc (1997), Tìm hiểu chế độ ruộng đất ở Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 - 1884), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại nam nhất thống chí, (1992), tập IV,
Nxb Thuận Hóa - Huế.
24. Trƣơng Hƣ̃u Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam , tập 1, Nxb
KHXH, Hà Nội.
25. Trƣơng Hƣ̃u Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam , tập 2, Nxb
KHXH, Hà Nội.
26. Trƣơng Hƣ̃u Quýnh , Đỗ Bang , Vũ Minh Giang , Vũ Xuân Quâ n,
Nguyễn Quang Trung Tiến (1997): Tình hình ruộng đất nông nghiệp và
đời sống nông dân dƣới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá.
27. Trƣơng Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1998), Đại
cƣơng lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2002), Địa lý tỉnh Bắc Kạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
29. Phan Phƣơng Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định
qua tƣ liệu địa bạ, Hà Nội.
30. Dƣơng Thị The, Phạm Thị Thoa (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế
kỷ XIX (thuộc các tỉnh tƣ̀ Nghệ Tĩnh trở ra). Nxb KHXH, Hà Nội.
31. Bùi Thiết (1999), 54 dân tộc Việt Nam và các tên gọi khác, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
32. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philipe Papin (2003), Đồng Khánh
địa dƣ chí, Nxb Thế giới, Hà Nội.
33. Vũ Anh Tuấn, Lâm Xuân Đình, Bàn Tuấn Năng (2000), Truyện cổ Bắc
Kạn, tập I, Sở văn hóa Thông tin và Thể thao Bắc Kạn.
34. Vũ Anh Tuấn, Lâm Xuân Đình, Bàn Tuấn Năng (2000), Truyện cổ Bắc
Kạn, tập II, Sở văn hóa Thông tin và Thể thao Bắc Kạn.
35. Vũ Anh Tuấn , Hoàng Hoa Toàn , Bàn Tuấn Năng (2002), Truyện cổ
Bắc Kạn, tập III, Sở văn hóa Thông tin và Thể thao Bắc Kạn.
36. Nguyễn Trãi toàn tập - Dƣ địa chí (1976), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
38. Đàm Thị Uyên (2000), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập
đến giữa thế kỷ XIX, Luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử,Trường ĐHSP Hà
Nội, Lưu tại Thư viện trường ĐHSP Thái Nguyên, ký hiệu: ĐT, Vv.01
39. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến
Việt Nam. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
40. Đàm Thị Uyên: Tổng Lạc Giao qua tƣ liệu địa bạ 1805 - 1830, Thư viện
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, ký hiệu: ĐT,Vv.70
41. Ủy ban nhân dân huyện Ngân Sơn (2006), Báo cáo quy hoạch, kế hoạch
sƣ̉ dụng đất huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn, đến năm 2010
42. Mai Khắc Ứng (1996), Chính sách khuyến nông dƣới thời Minh Mạng,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
43. Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam
(1975), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Hà Văn Viễn, Lƣơng Văn Bảo, Lâm Xuân Đình, Triệu Kim Văn, Bàn
Tuấn Năng, TS.Đàm Thị Uyên, Hoàng Thị Lan (2004), Bản sắc và truyền
thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Nxb Văn hoá dân tộc. Hà Nội.
45. Trần Quốc Vƣợng (1993), Trong văn hóa dân gian Cao Bằng, Nxb
Thông tin - Văn hóa Cao Bằng.
46. Nguyễn Thị Yên (2006), Then Tày, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
TÀI LIỆU ĐỊA BẠ
47. Thƣợng Quan xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - M.Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8312
48. Trung Quan xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - M. Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8314
49. Hoa Nê xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8319
50. Xuân Dƣơng xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8320
51. Đổng Xá xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8321
52. Trang Bình Lãng xã địa bạ G.Long 4 (1805)- M.Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8322
53. Bằng Khấu xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8324
54. Cốc Đán xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8325
55. Tam Lộng xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8326
56. Đinh Phƣơng xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - M.Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8327
57. Liêm Tuyền xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - M. Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8328
58. Kim Mã xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8333
59. Trâu Khê xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8334
60. Lƣơng Hạ xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8335
61. Lãng Sơn xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTTLTQGI, Q8337
62. Kim Lô xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8338
63. Vụ Nông xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8339
64. Linh Mai xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8340
65. Nam Tri xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8341
66. Lƣơng Hạ xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI,Q8343
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
67. Thơm Linh xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8344
68. Kim Thiện xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8345
69. Tú Trĩ xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8348
70. Thuần Mang xã địa bạ Gia Long 4 (1805 - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8350
71. Thiều Quang xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8352
72. Vi Hoa xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8353
73. Trang Cẩm Giàng xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - M.Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8357
74. Trang Văn Học xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11, TTLTQGI, Q8358
75. Yến Dƣơng xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8359
76. Trang Bình xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8356
77. Vũ Luân xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQG I, Q8361
78. Linh Quang xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - M. Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8362
79. Vân Muộn xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8363
80. Cƣ Lễ xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8365
81. Vân Tòng xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8364a
82. Tòng Lệnh xã địa bạ Gia Long 4 (1805) - Minh Mệnh 11 (1830), TTLTQGI, Q8366
83. Thƣợng Quan xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8313
84. Trung Quan xã đia bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8315
85. Hoằng Mô xã đia bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8317
86. Vụ Nông xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8318
87. Kim Hỷ xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8330
88. Ân Tình xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8332
89. Lƣơng Hạ xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8336
90. Thƣợng Ân xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8347
91. Tú Trĩ xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8349
92. Trâu Khê xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8351
93. Vũ Luân xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8354
94. Thơm Linh xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8355
95. Yến Dƣơng xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8360
96. Vân Tòng xã địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), TTLTQGI, Q8364.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
NGUỒN TƢ LIỆU ĐIỀN DÃ
TT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ
97 Hoàng Cao Báng 80 Nguyên Chủ tịch xã Xuân
Dương (Thầy Tào)
Xã Xuân Dương - Na Rì
98 Trương Văn Bay 82 Nguyên B.thư xã Kim Lư Xã Kim Lư - Na Rì
99 Hoàng Văn Giàng 83 Làm ruộng Thị trấn Ngân Sơn
100 Lê Văn Kheo 70 Thầy Mo Xã Kim Lư - Na Rì
101 Nông Văn Khoay 70 Cựu chiến binh Xã Bằng Vân - Ngân Sơn
102 Lô Văn Méo 60 C.tịch Hội người cao tuổi Xã Bằng Vân - Ngân Sơn
103 Hoàng Á Quy 80 Nguyên chủ nhiệm HTX
may Bằng Khẩu
Xã Bằng Vân - Ngân Sơn
104 Hoàng Văn Thú 80 Nguyên Bí thư chi bộ xã
Vân Tùng
Xã Vân Tùng - Ngân Sơn
105 Đồng Quang Tuân 78 Nguyên Bí thư huyện
Ngân Sơn
Xã Vân Tùng - Ngân Sơn
106 Lý A Voỏng 78 Làm ruộng Xã Vân Tùng - Ngân Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
PHẦN PHỤ LỤC
Bản đồ huyện Cảm Hóa thế kỷ XIX
(Đồng khánh dƣ địa chí) [32]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
PHỤ LỤC ẢNH
Toàn cảnh trung tâm huyện Ngân Sơn
Quang cảnh làng ngƣời Hoa ở Khu B - xã Bằng Vân huyện Ngân Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
Nơi thờ thổ công của ngƣời dân Khu Phố ở trung tâm
xã Vân Tùng huyện Ngân Sơn
Nhà sàn nửa sàn, nửa đất của ngƣời Dao
(Khuổi Ít - Kim Lƣ - Na Rì)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
Thƣờng phục của phụ nữ Dao Tiền váy
ngắn ở Bạch Thông và Dao Tiền váy dài
ở Ngân Sơn (Ngƣời đứng giữa)
Trang phục phụ nữ Mông Trắng
(Nà Phặc - Ngân Sơn)
(Ảnh: Sở Văn Hoá Thông tin và Thể thao Bắc Kạn)
Trang phục của phụ nữ Hoa xƣa
(màu đen) và nay
Tung còn tại hội Lồng tồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
Thợ rèn ngƣời Dao ở huyện Ngân Sơn đang làm công cụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
Chữ Nôm Tày: Bài mo đón vía xuống nƣớc
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9107.pdf