Huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank

LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, Vỉệt Nam đã có nhiều bước tiến trên con đường phát triển của mình. Đó cũng là cơ hội tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam theo kịp các nước khác. Để có được những thành tựu như vậy trong thời gian qua không thể không kể đến vai trò của hệ thống ngân hàng, đã đóng góp không nhỏ vào tổng thu nhập quốc dân. Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi để khuyến khích sự phát triển của ngành ngân hàng. Một trong nhữ

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ngân hàng có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời là ngân hàng thương mại cổ phần kĩ thương Techcombank. Với 15 năm hình thành và phát triển không ngừng, cùng với sự nỗ lực của mình đã tạo dựng được niềm tin đối với khách hàng trong và ngoài nước, là một ngân hàng uy tín đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ. Với bất kì một ngân hàng nào nguồn vốn cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu được. Bởi vậy em chọn đề tài ngiên cứu: ”Một số giải pháp huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của ngân hàng Tthương Mại Cổ Phần Kĩ Thương Techcombank ” Mục đích của đề tài là tìm hiểu các hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần kĩ thương Techcombank để tìm ra những nguyên nhân và các mặt hạn chế, tích cực của công tác huy động vốn từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm tăng cường hoạt động thu hút vốn và nâng cao năng lực hoạt động của ngân hàng. Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và khá phức tạp nhưng thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên báo cáo này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo hướng dẫn thạc sĩ Bùi Thị Lan và các anh chị, cô chú trong phòng kế hoạch – tổng hợp đã giúp đỡ em hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 :NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Nguồn vốn của ngân hàng thương mại Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Với tư cách trung gian tài chính, ngân hàng có nhiệm vụ cơ bản là nhận tiền gửi và sử dụng những khoản này để cho vay. Các ngân hàng sẽ trả lãi suất cho người gửi tiền và tính lãi cao hơn đối với khách hàng vay tiền. Khoản chênh lệch giữa hai mức lãi suất này được sử dụng một phần để bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng, phần còn lại là lợi nhuận. Ngoài ra, chức năng quan trọng thứ hai của ngân hàng làm nó khác biệt với các trung gian tài chính khác là cung cấp dịch vụ thanh toán. Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử. Từ các khái niệm cho thấy ngân hàng luôn tìm kiêm lợi nhuận bằng cách nhận tiền gửi và sử dụng những khoản tiền này để cho vay. Vì thế các ngân hàng luôn tìm cách để giâ tăng số vốn của mình. Vốn của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác, nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau. Vai trò của nguồn vốn thương mại là rất lớn, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, Biều hiện của vốn trong kinh doanh ngân hàng chủ yếu bằng tiền. Cơ cấu nguồn vốn của NHTM có thể được chia thành bốn nhóm : Nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn huy động, nguồn đi vay và các nguồn khác. Trong đó nguồn vốn chủ sở hữu và nguốn vồn huy động là hai loại vốn chue yếu được ngân hàng sử dụng trong các hoạt động của mình Nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu của NHTM là những gí trị tiền tệ do ngân hàng tạọ lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lí bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn có vai trò bảo vệ người gửi tiền: Trong hoạt động của ngân hàng luôn gặp phải những rủi ro khó kiếm soát, các tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn chủ sở hữu. Vì thế nếu quy mô của vốn chủ sỏ hữu lớn thì khách hàng sẽ cảm thấy an tâm hơn. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng, tùy thuộc tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu có thể gồm có: nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Nguồn vốn hình thành ban đầu Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng được yêu cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Khi ngân hàng bứơc vào hoạt động thì nguồn vốn này được thể hiện dưới dạng văn phòng, trụ sở, trang thiết bị, dự trữ…, và ngân hàng không được phép sử dụng vốn này chia lợi tức hay trích lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Trong nền kinh tế thị trường, với sự gia tăng các lọai hình ngân hàng, vốn điều lệ cũng được hình thành theo rất nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng từng hình thức sở hữu Bảng: Vốn pháp định của các ngân hàng STT Loại hình tổ chức tín dụng Mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2008 2010 Ngân hàng 1 Ngân hàng thương mại a Ngân hàng thương mại Nhà nước 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng b Ngân hàng thương mại cổ phần 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng c Ngân hàng liên doanh 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng d Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD 2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng 3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng 4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng 5 Ngân hàng hợp tác 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có thể gia tăng vốn chủ sở hữu theo các phương thức khác nhau tùy vào điều kiện cụ thể: Nguồn bổ sung từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm … - Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Các quỹ của ngân hàng thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ. Nguồn vay nợ có thể chuyển thành cổ phần Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu dài hạn cũng thuộc vốn chủ sỡ hữu mặc dù chúng mang nhiều tính chất của một khoản nợ, tuy nhiên phần này thường bị giới hạn và quản lí chặt chẽ, Nguồn vốn huy động Nguồn vốn huy động là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn (hơn 50%) trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên được thực hiện là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Đặc điểm của nguồn vốn này là phải thanh toán cho khách hàng khi họ yêu cầu ngay cả khi chưa đến kì hạn thanh toán. Đề gia tăng khối lượng tiền gửi và thêm chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau, Kèm theo đó là các dịch vụ, giải thưởng và khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng. Nguồn vốn huy động gồm các khoản như tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và cá nhân, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, vốn huy động thông qua phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi… Nguồn vốn đi vay Tỷ trọng của nguốn này thấp hơn so với nguồn tiền huy động. Khi các ngân hàng đã sử dụng hết vốn mà vẫn không đủ để hoạt động thì sẽ phải đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình. Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM với ngân hàng nhà nước, hoặc giữa NHTM với nhau, với các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường. Nguồn vốn này tuy chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng nó sẽ đảm bảo cho ngân hàng hoạt động thông suốt. Các nguồn khác Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác. - Nguồn ủy thác: NTHM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng. - Nguồn trong thanh toán: các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C...) Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. - Nguồn khác: các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả... 1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn - Bổ sung vốn cho hoạt động đầu tư Ngân hàng làm cầu nối giữa những người dư tiền muốn khoản tiền của mình sinh lời một cách an toàn và những người muốn thực hiện những dự án đầu tư của mình nhưng thiếu vốn ban đầu. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng sẽ tập trung được nguồn tiền nhàn rỗi trên thị trường để cho vay các nhà đầu tư với lãi suất cao hơn. Nguồn tiền trong thị trường sẽ được luân chuyển và thông qua ngân hàng mọi người đều có thể đạt được mục đích của mình. Người gửi tiền thông qua lãi suất kì hạn gửi đã làm sinh sôi khoản tiền của mình so với ban đầu một cách an toàn và hiệu quả hơn so với việc đầu tư vào những danh mục khác có đội rủi ro cao như đầu tư vào vàng, bất động sản, chứng khoán… nhất là khi kinh tế thế giới đang lâm vào suy thoái khủng hoảng khiến nhu cầu giảm mảnh và khiến việc đầu tư trở nên rủi ro hơn bao giờ hết. Việc gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng là một biện pháp an toàn đối với những người không muốn chấp nhận rủi ro. Bên cạnh đó, những nhà đầu tư sẽ nhận được tiền để phục vụ cho hoạt động đầu tư của mình. Trong bất cứ lĩnh vực kinh doạnh nào thì yêu cầu về vốn cũng là yêu cầu đầu tiên, tuy nhiên không phải bất kì một doanh nghiệp hay nhà đầu tư nào cũng có thể đáp ứng được điều này. Vì thế vay tiền của ngân hàng sẽ là một giải pháp khả thi. Với một mức lãi suất định kì chấp nhận được, các nhà đầu tư sẵn sang vay tiền của ngân hàng để nhận được số vốn mình mong muốn để phục vụ cho hoạt động đầu tư của mình. Thời hạn vay tiền thường khá dài và mức lãi định kì mà ngân hàng yêu cầu bắt buộc sẽ được chi trả bằng lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của khách hàng. Tại Việt Nam, trong nỗ lực kích cầu của chính phủ, các ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay của mình xuống rất thấp để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể vay được tiền. Đảm bảo cho sự tồn tài và phát triển của ngân hàng Ngân hàng là loại đối tượng kinh doanh hàng hóa đặc biệt- tiền tệ nên có thể nói vốn đóng vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đầu tiên để có thể thành lập 1 ngân hàng yêu cầu bắt buộc phải có một số vốn pháp định. Nhưng để có thể hoạt động và phát triển ngân hàng cần phải có hoạt động huy động vốn mạnh mẽ và hiệu quâ. Nguồn tiền gửi thu được từ hoạt động huy động vốn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong nguồn tiền của ngân hàng (> 50%). Thông qua khoản chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận. Ngoài ra, một ngân hàng trường vốn sẽ tạo được uy tín qua hoạt động sẵn sằng chi trả và thanh toán cho khách hàng. Khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao, một ngân hàng ít vốn sẽ bị khó khăn trong việc chi trả, ngược lại một ngân hàng trường vốn vừa đảm bảo được việc cho vay với các nhà đầu tư vừa sẵn sang cho hoạt động thanh toán cho khách hàng nhờ nguồn dự trữ vốn lớn của mình và vì thế sẽ tạo được uy tín ngày càng cao. Với lượng vốn lớn, ngân hàng có thể mở rộng quy mô hoạt động, trình độ nghiệp vụ và phương tiện kỹ thuật của mình, cạnh tranh với các ngân hàng khác và ngày càng phát triển, còn các ngân hàng nhỏ và ít vốn thì quy mô hoạt động kinh doanh, khoản mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn, thậm chí không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nghiêp. Họ sẽ mất khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô Một vai trò rất quan trọng nữa của hoạt động huy động vốn đó chính là ổn định kinh tế vĩ mô. Khi lượng tiền dư thừa trong thị trường quá nhiều khiến giá cả tăng cao và nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát, thông qua việc điều chỉnh lãi suất tăng lên, các ngân hàng sẽ thu hút được một khối lượng tiền lớn trong lưu thông và qua đó sẽ giảm lạm phát. Tuy nhiên việc tăng lãi suất của ngân hàng khiến ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn do song song với việc tăng lãi suất huy động thì ngân hàng cũng phải tăng lãi suất cho vay, điều này làm cho các nhà đầu tư cảm thấy khó khăn trong việc chi trả và sẽ hạn chế đi vay ở ngân hàng và do đó làm cho ngân hàng hoạt động khó khăn hơn. Trong năm 2008 vừa qua, thực hiện yêu cầu của chính phủ trong việc thắt chặt tiền tệ, các nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng được phát huy tối đa bằng các sản phẩm huy động với lãi suất ưu đãi, đảm bảo những giá trị lợi ích cao nhất cho khách hàng. Lãi suất huy động của nhiều ngân hàng đã tăng lên rất cao, có nơi hơn 20 % đã thu hút được lượng tiền rất lớn trong lưu thông và qua đó đã ngăn chặn lạm phát ở nước ta. 1.2.2. Các hình thức huy động vốn 1.2.2.1. Theo đối tượng huy động - Huy động vốn từ dân cư Huy động vốn từ dân cư là hoạt động huy động chủ yếu của ngân hàng. Nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư sẽ được sinh lời khi gửi tiền. Gửi tiền ở ngân hàng còn là một hoạt động đầu tư an toàn, vì lãi suất định kì sẽ làm sinh lời số tiền đã gửi. So với các loại đầu tư khác như đầu tư vào vàng, chứng khoán hay bất động sản… có độ rủi ro cao thì gửi tiền vào ngân hàng sẽ là một lựa chọn an toàn đối với những người có tâm lí thận trọng không thích rủi ro hoặc những người không có nhiều kiến thức về kinh tế để có thể tham gia vào các hoạt động đầu tư khác như các bà nôi trợ, những người già… Do nhu cầu sử dụng khác nhau nên các NHTM luôn tìm mọi cách để đa dạng hóa nguồn vốn huy động từ dân cư bằng cách đa dạng hóa các sản phẩm, các loại kì hạn ngắn hạn theo tuần, theo tháng… Huy động vốn từ dân cư thường có các hình thức : + Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời, tuy mỗi khoản tiết kiệm đều nhỏ lẻ nhưng với khối lượng lơn khách hàng, đây là nguồn tiền ổn định và có lãi suất cao. + Tiền gửi thanh toán: Là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán cho các hoạt động tiêu dùng của mình mà không cần dung đến tiền mặt. Tiền gửi thanh toán cũng có tính chất giống như tiền gửi không kì hạn, tức là khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà họ cần, vì thế ngân hàng ở thế bị động và rất khó có kế hoạch cụ thể cho loại hình này. Lãi suất của loại tiền gửi này thường rất thấp hoặc không có. Tuy nhiên thông qua các loại hình thanh toán đa dạng và nhanh gọn của ngân hàng sẽ khiến cho khách hàng cảm thấy hài lòng và nâng cao được uy tín của ngân hàng. Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác Đây là khoản tiền các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tín dụng và các tổ chức xã hội khác gửi vào ngân hàng nhằm mục địch thanh toán hoặc tiết kiệm. Với mỗi tài khoản lượng vốn thường là rất lớn nhưng không có tính ổn định bằng nguồn vốn huy động từ dân cư do nó phụ thuộc vào tình hình thu chi biến động của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Theo loại tiền huy động - Huy động bằng nội tệ Do quá trình tích lũy thu nhập và gửi tiền nhằm mục đích thanh toán và tiết kiệm nên khách hàng thường gửi tiền bằng nội tệ. Nguồn tiền này chiếm tỉ trọng lớn. Có thể chi ra làm 3 loại: + Tiền gửi bằng nội tệ của dân cư: Đây chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm, nguồn này có quy mô lớn nhưng tăng trưởng không ổn định. Nhược điểm huy động tiền gửi tiết kiệm có lãi suất huy động bình quân cao, kì hạn tiển gửi danh nghĩa của người dân thường ngắn( kì hạn nhỏ hơn 12 tháng). Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn, khả năng dịch chuyển kì hạn dư nợ, kết quả kinh doanh và giảm sức cạnh tranh của NHTM, + Tiền gửi bằng nội tệ của các TCKT- XH: Nguồn tiền này cũng có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động. Tiền gửi này thường là tiền gửi giao dịch hoặc có kì hạn ngắn. hưởng lãi suất thấp. Nếu ngân hàng huy động được nhiều để cho vay và đầu tư thì không những kéo dài được chênh lệch lãi suất hai đầu trần và sàn, giảm được chi phí vốn bình quân, tăng lợi nhuận. + Tiền gửi bằng nội tệ của các TCTD khác: Nguồn này có quy mô, cơ cấu nhỏ trong tổng nguồn tiền gửi bằng nội tệ. Nguồn tiền gửi của các TCTD khác thường có mức độ tăng trưởng khá cao nhưng chủ yếu là nguồn trong thanh toán, ngân hàng cũng không sử dụng nhiều nguồn này để cho vay và đầu tư. Huy động bằng ngoại tệ Do nhu cầu trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu hoặc do tỷ giá hối đoái thay đổi có lợi nên nhiều khách hàng gửi vào ngân hàng vốn bằng ngoại tệ. Tuy nhiên lãi suất của lại này thường không cao do thường có sự thay đổi về tỉ giá. Có 3 loại: + Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư: Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ luôn bị tác động mạnh bởi lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế và tính trạng khan hiếm tiền đồng VND. + Tiền gửi bằng ngoại tê của các TCKT-XH: Đây chủ yếu là các khoản tiền gửi trong thanh toán, tiền gửi có kì hạn ngắn thường từ 1-3 tháng. + Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD khác: Nguồn tiền này chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số vốn huy động bằng ngoại tệ. Tại Việt Nam đối tượng cho vay chủ yếu là các NHTM nhà nước 1.2.2.3. Theo thời gian huy động - Không kì hạn: Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người ta phân chia thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy + Tiền gửi thanh toán: đây là khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến hành thanh tóan, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khỏan chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Khi sử dụng các tiện ích thanh toán, chủ sở hữu tài khỏan phải trả cho ngân hàng một khỏan phí. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản: tài khỏan tiền gửi thanh tóan và tài khỏan vãng lai. Đối với tài khỏan tiền gửi thanh tóan, việc rút tiền hay chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích thanh tóan và sử dụng dễ dàng, thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định và trong một giới hạn nhất định được gọi là hạn mức thấu chi. + Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: đây là khoản tiền của doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể nhằm mục đích đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể sử dụng ngay, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút ra để chi tiêu. Hình thức gửi tiền này không được ngân hàng cho phép phát hành séc. Nói chung, tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng phản ánh mối quan hệ kinh tế, pháp lý giữa ngân hàng với người gửi tiền nên giữa ngân hàng với người gửi tiền phải tuân thủ quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi do Thống đốc NHNN ban hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đồng thời chủ tài khoản phải làm thủ tục mở tài khoản và đăng kí mẫu chữ ký của chủ tài khoản đối với khách hàng là cá nhân, mẫu chữ ký chủ tài khoản và kế toán trưởng, mẫu con dấu đối với các khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức xã hội tại các ngân hàng mở tài khoản. Ngân hàng được từ chối thanh toán nếu người gửi tiền vi phạm quy định quản lý tài khoản thanh toán và chế độ chứng từ kế toán ngân hàng. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kì hạn một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh tóan hay giữa các tài khỏan của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản. Khi đã đảm bảo khả năng thanh toán của mình, ngân hàng có thể sử dụng tồn khoản vào làm vốn kinh doanh. Ngắn hạn Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là các khoản huy động ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi của các NHTM mà có thể chia nhỏ các kỳ hạn theo ngày, tuần, tháng, quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường cao. Theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng là 11% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền thường được khách hàng ưa chuộng nên chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động. Trung và dài hạn Do ngân hàng chủ yếu là cho vay dài hạn nên để nâng cao khả năng thanh khoản cũng như hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM thường huy động các nguồn tiền trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng) và dài hạn (từ 60 tháng trở lên). Do kỳ hạn dài nên lãi suất chi trả cho nguồn tiền này thường cao. Theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền có chi phí cao nên chiếm tỷ trọng thấp hơn so với nguồn ngắn hạn trong tổng nguồn vốn huy động và thường được cho vay, đầu tư vào các dự án có tính khả thi cao. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.3.1.Các nhân tố khách quan - Hàng lang pháp lí Hành lang pháp lý ở đây có thể hiểu là các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các NHTM như: luật NHNN, luật các tổ chức tín dụng,… Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của NHTM so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và quy định cả hạn mức cho vay của NHTM đối với khách hàng. Tất cả các văn bản luận này đều có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của các NHTM. Sự can thiệp của NHNN khi thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng tới việc huy động vốn, vì khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ mang lại thuận lợi cho NHTM trong việc huy động vốn vay từ NHNN. Đồng thời, nó còn có tác dụng làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn vay từ NHNN. -Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp,... có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mức tăng trưởng của nền kinh tế quyết định đến thu nhập của người lao động. Khi nền kinh tế phát triển, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống làm cho thu nhập của người lao động tăng lên; khi đó, họ sẽ có các khoản tiền nhàn rỗi phát sinh sau khi đã trang trải đủ cho các nhu cầu sinh hoạt, từ đó họ sẽ nghĩ tới khả năng gửi tiền để tích luỹ cho các nhu cầu tài chính cho tương lai. Ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển không ổn định, thường xuyên có lạm phát hoặc khủng hoảng kinh tế; khi đó, người dân sẽ thích đầu tư vào vàng, bất động sản hay các loại ngoại tệ mạnh khác hơn là gửi tiền vào ngân hàng. Lúc này, ngân hàng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn hơn bằng cách tăng lãi suất huy động để có thể thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi từ dân cư. Tâm lí thói quen tiêu dùng của khách hàng Thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng của người dân ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Ở nơi nào mà người dân có thói quen tiết kiệm chi tiêu ở hiện tại để phục vụ cho nhu cầu trong tương lai thì ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi đó và ngược lại. Bên cạnh đó, thói quen tiêu dùng cũng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Nếu như ở những vùng dân cư quen sử dụng tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì công tác huy động vốn của các ngân hàng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thì trình độ dân trí của người dân ngày càng được nâng cao. Họ bây giờ gửi tiền vào ngân hàng không chỉ với mục đích hưởng lãi mà còn có mục đích sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp như các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, séc, thẻ tín dụng, thẻ rút tiền,...Và khi thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng của người dân được hình thành thì các NHTM sẽ có cơ hội lớn hơn trong việc huy động vốn từ dân cư. Đối thủ cạnh tranh Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, hệ thống các NHTM cũng như bản thân các ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thách thức và nhiều đối thủ cạnh tranh cả trực tiếp lẫn gián tiếp; trong nước và nước ngoài. Những đối thủ này với nhiều hình thức huy động vốn đa dạng và lợi ích mang lại cho khách hàng lớn hơn sẽ làm giảm thị phần của ngân hàng; do đó, làm giảm lượng vốn huy động được của ngân hàng. Khi người dân sở hữu các khoản tiền nhàn rỗi, họ có rất nhiều lựa chọn khi quyết định gửi tiền vào hệ thống NHTM. Họ có thể lựa chọn gửi vào ngân hàng này hay ngân hàng khác, lựa chọn hình thức gửi này hay hình thức gửi khác sao cho phù hợp với mục đích sử dụng của họ. Hơn thế nữa, họ có thể sử dụng khoản tiền đó để đầu tư vào bất động sản, thị trường chứng khoán hoặc có thể mua vàng tích trữ,...Các ngân hàng mang lại cho người gửi tiền nhiều lợi ích hơn sẽ thu hút được nhiều khách hơn đến với ngân hàng của mình, và điều này sẽ làm giảm đi đáng kể lượng vốn huy động được từ các ngân hàng khác 1.3.2. Các nhân tố chủ quan - Quy mô, uy tín của ngân hàng Trong thời điểm nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt trực tiếp từ các ngân hàng khác hoặc gián tiếp từ các doanh nghiệp đầu tư khác. Quy mô và uy tín của ngân hàng sẽ quyết định xem vị thế của họ trong cuộc đua. Khách hàng có rất nhiều lựa chọn đầu tư để có thể sinh lãi từ vốn của mình, có thể là gửi tiền vào ngân hàng, mua vàng, bất động sản hay đầu tư vào sàn chứng khoán…, dân trí cũng ngày càng phát triển nên có thể nói chính những gói sản phẩm hấp dẫn, công nghệ hiện đại và sự phục vụ tận tình chu đáo với một phong cách chuyên nghiệp sẽ lôi kéo được các nhà đầu tư. Các dịch vụ ngân hàng Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Với nhiều loại sản phẩm khác nhau, khách hàng có thể lựa chọn một sản phẩm phù hợp với điều kiện khả năng của mình. Có như vậy, NHTM mới thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình. Không những thế, ngân hàng còn phải đưa ra được các dịch vụ kèm theo tốt và đa dạng để tăng lợi thế cạnh tranh. Với nhiều tiện ích kèm theo, sẽ giúp ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội. Qua đó, tạo thêm nhều mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn giữa các ngân hàng và khách hàng. Chính sách lãi suất Là một nhân tố quan trọng, có tác động mạnh đến việc huy động vốn của NHTM; đặc biệt là đối với các khoản vốn mà người gửi đầu tư vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Chính sách lãi suất bao gồm các chính sách, quyết định liên quan đến lãi suất của một ngân hàng trong một thời kỳ nhất định. Đối với các NHTM, lãi suất huy động vốn có tác động trực tiếp đến tâm lý, hành vi người gửi tiền. Nếu lãi suất ngân hàng lớn hơn lãi suất đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế sẽ kích thích người dân gửi tiền vào ngân hàng vào ngược lại. Bởi lẽ lợi nhuận là một trong những yếu tố quan tâm hàng đầu của mỗi khách hàng, vì thế nên ở đâu có lãi suất hấp dẫn, vốn sẽ được đầu tư nhiều vào đó. Hoạt động Marketing của ngân hàng Marketing ngân hàng là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc đưa hình ảnh của ngân hàng gần gũi hơn với dân chúng. Hoạt động Marketing ngân hàng tốt sẽ giúp ích nhiều trong việc đưa khách hàng đến gần hơn với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, từ đó có thể huy động vốn một cách hiệu quả. Các ngân hàng phải vận dụng đồng bộ chính sách Marketing hỗn hợp bao gồm chính sách giá cả, sản phẩm, phân phối… Đối với các sản phẩm dịch vụ cần phải tạo nên sự khác biệt, độc đáo, mới lạ để thu hút sự chú ý của khách hàng. Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu thị trường kĩ càng để có thể đưa ra chính sách Marketing đối với từng đối tượng khách hàng một cách phù hợp. Họat động Marketing hiệu quả sẽ nâng cao hình ảnh của ngân hàng, từ đó thu hút được nhiều đối tượng khách hàng hơn. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG TECHCOMBANK 2.1. Khái quát về ngân hàng Thương mại cỏ phần kĩ thương Techcombank. Được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 1993, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.Hiện nay ngân hàng có hội sở chính tại 70-72 Bà Triệu. Qúa trình thành lập Được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 1993, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.Hiện nay ngân hàng có hội sở chính tại 70-72 Bà Triệu. Thương hiệu Techcombank . Hai hình vuông đỏ lồng vào nhau tạo thế vững chắc, ổn định, thể hiệ._.n cam kết cho sự hợp tác bền vững và có lợi nhất cho khách hàng, cổ đông, đối tác và nhân viên ngân hàng. - Hai hình vuông đỏ có tám cạnh mang triết lý phương Đông sâu sắc, tượng trưng cho sự may mắn, phát tài, phát lộc, điều mà chúng tôi luôn mong muốn cho quý khách hàng, bè bạn và cho chính mình. - Hai hình vuông lồng vào nhau sinh ra một hình vuông nhỏ ở giữa nói lên sự phát triển liên tục của ngân hàng, những mong muốn tạo ra ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần mới cho xã hội, kết hợp hài hòa ba lợi ích:  lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích cộng đồng. - Màu đỏ của hai hình vuông lớn nói lên sự nhiệt thành, tận tụy, màu trắng ở giữa tượng trưng cho cái tâm trong sáng,  tính minh bạch, đó là điều quan trọng tạo nên phong cách phục vụ và văn hóa kinh doanh mà chúng tôi muốn xây dựng. - Ý tưởng kết hợp giữa màu đen và màu đỏ nhiệt huyết, những hình khối chắc khỏe và kiểu chữ hiện đại sẽ là hình ảnh mới của Techcombank, khẳng định những định hướng giá trị tích cực mà một định chế tài chính vững mạnh cần phải có và mang đến khi sát cánh bên khách hàng trong mỗi dự định và thành công.  * CAM KẾT THƯƠNG HIỆU TECHCOMBANK Chúng tôi cung cấp sản phẩm và dịch vụ với chất lượng tốt nhất và bảo đảm rằng Techcombank là đối tác đáng tin cậy của bạn. Chúng tôi cam kết xây dựng mối quan hệ đối tác và hợp tác bền vững, cùng có lợi, giữa Ngân hàng với khách hàng, các cổ đông và người lao động. *  GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU TECHCOMBANK Chúng tôi tin tưởng vào năng lực của mỗi cá nhân, lợi ích của làm việc tập thể và tính chuyên nghiệp. Trong tất cả các việc chúng tôi làm, chúng tôi đều tiến hành với sự thống nhất và sự sáng tạo.  * CÁ TÍNH THƯƠNG HIỆU TECHCOMBANK Chúng tôi  thể hiện phong cách riêng của mình trong giao tiếp, phục vụ và chăm sóc khách hàng. Phong cách đó sẽ tạo ra cảm nhận cho khách hàng và các đối tác của chúng tôi về một ngân hàng VỮNG CHẮC, TIN CẬY, CHUYÊN NGHIỆP, HIỆN ĐẠI, NHIỆT THÀNH VÀ CHĂM LO.  * SỰ NHẤT QUÁN CỦA THƯƠNG HIỆU TECHCOMBANK Đó là sự bảo đảm rằng cảm nhận  về thương hiệu Techcombank là nhất quán  tại mọi lúc mọi nơi, dù là qua giao tiếp trên điện thoại, tại các sự kiện, trên các tài liệu in ấn và trên mạng Internet. Các sản phẩm dịch vụ -Với các khách hàng cá nhân: Techcombank cung ứng trọn bộ các sản phẩm ngân hàng đáp ứng mọi nhu cầu có thể phát sinh của khách hàng,trong đó,nhóm các sản phẩm trụ cột bao gồm tài trợ tiêu dùng và cho vay mua nhà trả góp,sản phẩm thẻ và các sản phẩm tiết kiệm.Hơn thế,khách hàng còn được cung ứng rất nhiều phương thức tiện ích để kiểm soát các giao dịch của mình như gọi điện tới trung tâm hỗ trợ khách hàng 24/7,giao dịch tại mạng lưới chi nhánh và hệ thống ATM rộng khắp toàn quốc,hay thông qua sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến. -Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ:techcombank cung cấp”siêu thị dịch vụ tài chính trọn gói”hỗ trợ tối đa hoạt động kinh doanh trong nước cũng như nước ngoài bao gồm tài khoản,tiền gửi,tín dụng,đầu tư dự án,tài trợ xuất nhập khẩu,quản lí nguồn tiền,bao thanh toán,thuê mua,dịch vụ ngoại hối và quản lí rủi ro,các chương trình cho vay ưu đãi và hỗ trợ xuất nhập khẩu theo các thỏa thuận kí với các tổ chức quốc tế. -Với các doanh nghiệp quốc doanh quốc doanh và doanh nghiệp có quy môn: Techcombank cung cấp đa dạng các sản phẩm dịch vụ như dịch vụ quản lí quỹ,tài trợ vốn,thanh toán quốc tế và dịch vụ ngân hàng điện tử. -Trên thị trường tài chính.Techcombank là một trong những ngân hàng năng động nhất và vinh dự là đại diện của nhiều tập đoàn và tổ chức tài chính lớn.Techcombank cung ứng các sản phẩm ngoại hối,giao dịch vốn,chiết khấu chứng từ có giá,các công cụ phát sinh và quản trị rủi ro cho rất nhiều khách hàng trong nước trên cơ sở hợp tác với các tổ chức quốc tế và sàn giao dịch lớn trên thế giới 2.1.1. Cơ cấu tổ chức, mạng lưới hoạt động Hội đồng quản trị Hội đồng quản trị có 9 thành viên, thường trực hội đồng quản trị gồm Chủ Tịch, một Phó Chủ Tịch thứ nhất và ba Phó Chủ Tịch. Chủ tịch: Ông Hồ Hùng Anh Phó chủ tịch thứ nhất: Ông Nguyễn Thiều Quang Phó chủ tịch: Bà Nguyễn Thị Nga. Phó chủ tịch: Ông Trần Đức Lưu. Phó chủ tịch: Ông Ngô Chí Dũng. Ủy viên: Ông Hoàng Văn Đạo. Ủy viên: Ông Brian George Fredrick. Ủy viên: Ông Thái Quốc Minh. Ủy viên: Ông Nguyễn Hoài Nam. Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị Ngân hàng, có toàn quyền nhân danh Ngân hàng để quyết định những vấn đề liên quan đến mục đích quyền lợi của Ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội cổ đông. Ban Kiểm Soát Ban Kiểm Soát có ba thành viên: Trưởng Ban Kiểm soát kiêm kiểm soát viên chuyên trách, một Kiểm soát viên chuyên trách và một Kiểm soát viên. Ban kiểm soát là cơ quan kiểm tra hoạt động tài chính của Ngân hàng, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ của Ngân hàng. Sơ đồ tổ chức 2.1.2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng Techcombank trong những năm qua. 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Huy động vốn từ dân cư Trong năm 2002, tổng nguồn vốn huy động từ dân cư của Techcombank đạt 1294,430 tỷ đồng, tăng 47,72 % so với năm 2001. Nếu như 2003 nguồn vốn huy động từ dân cư là 1646 tỷ đồng thì đến năm 2004 đã tăng lên 2129 tỷ đồng tăng 38,125 %. Tuy nhiên con số này chưa dừng lại ở đây, năm 2005 Techcombank đã huy động được 3.891,55 tỷ đồng, tăng 82,76% , so với năm 2004, chiếm 42,03% trong cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng. Năm 2006 với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán và theo đó là một lượng vốn nhàn rỗi tương đối lớn từ dân cư rót vào thị trường này. Điều này đã gây khó khăn cho hầu hết các ngân hàng nói chung và Techcombank nói riêng trong công tác huy động vốn. Tuy nhiên, công tác huy động vốn vẫn là một điểm nhấn trong hoạt động kinh doanh của Techcombank. Vốn huy động dân cư năm 2006 đạt 6.684,45 tỷ đồng, tăng 72% so với năm 2005 và chiếm 46% trong cơ cấu huy động của ngân hàng. Năm 2007 thực sự là 1 năm đột phá của techcombank trong mọi mặt trong đó huy động vốn từ khu dân cư đạt 14.866,5 tăng 122,4%.chiếm 59.64% tổng huy động. Con số đó trong năm 2008 là 29.733 tỷ đồng tăng 110% so với năm 2007. Biểu đồ so sánh vốn huy động dân cư Huy động vốn từ doanh nghiệp Năm 2002, tổng số vốn huy động tử khu vực kinh tế của techcombank là 599,820 tỷ tăng 30,58% so với năm 2001 (459,320 tỷ). Năm 2003 tổng số vốn huy động từ doanh nghiệp chỉ đạt mức 785 tỷ đồng nhưng đến năm 2004 đã tăng lên 2.096 tỷ đồng, tăng 131% so với 2003, trong năm 2005 đạt 5367 tỷ đồng, tăng 156,07% so với năm 2004. Tổng số vốn huy động từ doanh nghiệp năm 2006 đạt 7292 tỷ đồng chiếm 54% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Huy động vốn từ khách hàng doanh nghiệp đạt 10.057,31 tỷ VND trong năm 2007. Số lượng khách hàng tổ chức kinh tế tăng hơn 1,5 lần - từ 9.285 khách hàng năm 2006 lên 14.848 khách hàng năm 2007 trong đó khách hàng SME tiếp tục là nhóm khách hàng quan trọng của ngân hàng,chiếm gần 80% tổng số khách hàng doanh nghiệp của Techcombank.. Huy động vốn doanh nghiệp qua các năm ( Đơn vị:tỷ đồng): Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 599,20 785,00 2096,00 5367,43 7292,00 10057,31 11358 Biểu đồ so sánh vốn huy động doanh nghiệp qua các năm 2.1.2.2. Hoạt động tín dụng Gắn chặt với sự tăng trưởng của huy động vốn. Năm 2002, hoạt động tín dụng của Techcombank tiếp tục đạt được những sự tăng trưởng tương đối tốt, chất lượng tín dụng cũng có những biến chuyển tốt so với năm 2001. Tổng dư nợ tín dụng đến 31/12/2002 đạt 2103,30 tỷ đồng tăng 679,94 tỷ đồng với tỷ lệ 48% so với năm 2001. Dư nợ tín dụng đều tăng tại hầu hết các chi nhánh trong hệ thống. Dư nợ cho vay trung hạn đạt 516 tỷ đồng chiếm 24,5 tổng dư nợ. Việc cho vay bằng đồng đô la Mỹ được quan tâm chú ý trong năm 2002 tại hầu hết tất cả các đơn vị. Tổng dư nợ cho vay bằng đồng USD đến 31/12/2002 đạt 39,08 triệu USD tại thị trường I. Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 29,16 % trong tổng dư nợ so với tỉ lệ 19,17% của năm 2001. Năm 2003,Techcombank tăng trưởng tín dụng thận trọng trên nguyên tắc có lựa chọn và phản ánh linh hoạt trước các biến động của thị trường. Không ngừng hoàn thiện quy chế, cải tiến quy trình nghiệp vụ tín dụng nhằm phục vụ tốt các khách hàng truyền thống nhưng đồng thời cũng tăng trưởng tính an toàn, hiệu quả trong hoạt động của techcombank. Tổng dư nợ của Techcombank đến 31/12/2003 đạt 2.296 tỷ đồng tăng 400 tỷ đồng, hơn 21% so với cuối năm 2002. Dư nợ ngắn hạn của các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước tính đạt 1605 tỷ đồng, chiếm 30% tổng dư nợ. Năm 2004, cơ cấu tín dụng của Techcombank không có sự thay đổi lớn, tín dụng DN vừa và nhỏ của techcombank là 2147 tỉ đồng, chiếm 62% tổng dư nợ tín dụng Techcombank, tăng 7% so với năm 2003 trong đó các khoản vay ngắn hạn chiếm 70% và các khoản vay dài hạn chiếm 30%. Tiếp tục phát huy thế mạnh của các sản phẩm cho vay tiêu dùng, trong năm 2005 techcombank đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và đạt được những kết quả khá ấn tượng đối với các sản phẩm trên. Tổng dư nợ tín dụng từ khu vực khách hàng cá nhân đạt 1560,9 tỷ đồng, tăng 66% so với năm 2004, chiếm 29% tổng dư nợ tín dụng. Để có thể tăng nhanh dư nợ bán lẻ Techcombank đã nghiên cứu và cải tiến quy trình cho vay của các sản phẩm như Ô tô xịn, Nhà mới..đồng thời phát triển them các sản phẩm tín dụng trọn gói Gia đình Trẻ hướng dẫn đến các cặp vợ chồng trẻ đang có nhu cầu tài chính để tạo dựng ngay cuộc sống tiện nghi. Sản phẩm đánh dấu một bước quan trọng trong công tác đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của từng phân đoạn thị trường, các sản phẩm tín dụng bán lẻ khác như cho vay Du học, hỗ trợ kinh doanh cá thể vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Dư nợ tín dụng cuối năm 2008 đạt 26.022 tỷ đồng, tăng 30% so với mức dư nợ tín dụng cuối năm 2007. Tổng dư nợ tín dụng qua các năm (đơn vị:tỉ đồng) Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 2103,3 2296 3462,90 5382,41 8810 20016,92 26022 2.1.2.3. Thẻ thanh toán Năm 2003 đánh dấu một sự kiện quan trọng đó là Techcombank tham gia thị trường thẻ Ngân hàng Việt Nam, dựa trên nền tảng công nghệ của Globus và sự hợp tác liên kết với Vietcombank, Techcombank đã phát triển sản phẩm thẻ thanh toán F@stAccess-connec 24 và chính thức phát hành thẻ ngày 05/12/2003. Nhờ hệ thống mới, Techcombank trở thành một trong những ngân hàng đầu tiên thực hiện được nghiệp vụ phát hành thẻ thanh toán kết nối trực tiếp từ tài khoản cá nhân. Tính đến cuối năm 2003,techcombank đã phát hành được 1600 thẻ F@stAccess-connec 24 cho khách hàng. Sau hơn 1 năm, số thẻ phát hành ra trên thị trường đã lên tới trên 20000 thẻ. Trong năm 2004 đã có 150000 giao dịch được thực hiện qua thẻ với doanh số hơn 160 tỷ đồng. Đằng sau con số đơn giản đó là sự nỗ lực phấn đấu của toàn hệ thống, và sự trợ giúp của những công nghệ tiên tiến nhất. Trên nền tảng công nghiệp hiện đại, với việc bổ sung them 2 tính năng mới hấp dẫn và lần đầu tiên xuất hiện tại thị trường Việt Nam, đó là F@stSaving-tài khoản tiết kiệm và F@stAdvance-ứng trước tài khoản cá nhân, thẻ F@stAccess nhanh chóng được thị trường đánh giá là một trong những thẻ tiện ích nhất. Trong năm 2005, số thẻ F@stAcces được Techcombank phát hành là 32000 thẻ, nâng số thẻ phát hành lũy kế tính đến ngày 31.12.2005 lên trên 50.566 thẻ. Số dư trong tài khoản thẻ đạt 543.012 giao dịch với doanh số là 611,9 tỉ đồng tăng 320% so với năm 2004. Có thể nói năm 2006 là năm Techcombank ra mắt rất nhiều sản phẩm bán lẻ mới với các tính năng hiện đại như: chứng chỉ tiền gửi, hệ thống tài khoản, các sản phẩm tiết kiệm…Các sản phẩm này đã được khách hàng rất quan tâm và hưởng ứng .Tiêu biểu, sản phẩm chứng chỉ tiền gửi Lộc Xuân đã huy động được gần 300 tỉ sau 2 tháng triển khai, tài khoản tiết kiệm Đa năng F@stUni trở thành sản phẩm chủ lực của ngân hàng chỉ sau vài tháng, sản phẩm tiết kiệm giáo dục đã có trên 200 khách hàng với tổng giá trị hợp đồng trên 3,5 tỉ đồng sau chưa đầy 1 tháng chính thức cung cấp, sản phẩm thanh toán qua tin nhắn điện thoại di động F@stMObiPay đã gây được tiếng vang nhất định trên thị trường. Năm 2007 là một năm đáng ghi nhớ đối với hoạt động phát triển thẻ tại Techcombank. Thẻ ghi nợ Techcombank Visa được phát hành vào đầu năm và đến cuối năm đa đạt hơn 50.000 thẻ. Tổng số thẻ phát hành mới trong năm 2007 là 200.000 thẻ; tăng gần 300% so với năm 2006. Cùng với sự phát triển hoạt động phát hành thẻ, số giao dịch qua ngân hàng và số dư tiền gửitrên tài khoản cũng tăng đáng kể, từ trung b́nh 2.900.000 đồng/thẻ năm 2006 đến 4.000.000đồng/thẻ năm 2007 Độ bao phủ của mạng lưới dịch vụ thẻ không ngừng được mở rộng trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt tại các trung tâm kinh tế, chính trị lớn. Đến hết năm 2007, Techcombank đã lắp đặt 168ATM, 2.300 máy cà thẻ tại các Đơn vị chấp nhận thẻ, góp phần tăng số lượng giao dịch thẻ gấp đôi so với năm 2006, từ 328.000 giao dịch/tháng cuối năm 2006 đến 66 0.000 giao dịch/thángcuối năm 2007. Chỉ thị của chính phủ về việc trả lương qua tài khoản cũng góp phần tạo ra một thị trường tolớn cho Techcombank. Chỉ trong ba tháng cuối năm 2007, Techcombank đã có thị phần đáng kể nhờ việc khai thác trả lương cho hàng chục ngàn cán bộ nhân viên của các bộ ngành như: Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Lao động Thương binh và Xă hội, Bộ Ngoại giao, Ṭa án Nhân dân tối cao, Bảo Việt Nhân thọ, Vietnam Airlines, Pacific Airlines, các trường học... Sản phẩm Internet banking mang tên F@st i-bank là một bước đột phá của Techcombank, mang đến một sản phẩm Internet Banking đích thực đầu tiên tại Việt Nam. Sau 7 tháng triểnkhai, đã có 820 khách hàng tham gia với tổng giá trị giao dịch thực hiện qua F@st i-bank là 155 tỷ đồng. Techcombank cũng là ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ thanh toán qua tin nhắn di động,qua đó khách hàng có thể mua hàng hoá, thanh toán hoá đơn điện thoại, phí bảo hiểm qua một bước nhắn tin đơn giản. Các sản phẩm thương mại điện tử này (F@st Mobipay – giao dịch qua tin nhắn điện thoại, Cổng thanh toán điện tử F@st VietPay) đã giúp khai thác không những khách hàng cá nhân mà cả các đối tác lớn như FPT, Bảo hiểm BảoMinh, PacificAirlines, VinaPhone… Trong năm 2008, các sản phẩm mới lần lượt được giới thiệu và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều khách hàng như các sản phẩm tiết kiệm trúng thưởng, Tiết kiệm bội thu, linh, Tiết kiệm linh hoạt, sản phẩm internetbanking – F@st i bank, F@st E-Bank, thẻ đồng thương hiệu TECHCOMBANK – VISA – VIETNAM AIRLINES.... được nâng cấp hoàn thiện và phục vụ rộng rãi các đối tượng khách hàng. Các sản phẩm mới ra mắt được đánh giá là đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường và được khách hàng đón nhận. Đặc biệt sản phẩm internet banking F@st I-bank/F@st E-Bank tạo rất nhiều thuận tiện cho khách hàng trong việc quản lý tài khoản, thanh toán, kiểm soát các giao dịch với ngân hàng đem lại nhiều tiện lợi hơn cho khách hàng. Techcombank trở thành ngân hàng đầu tiên và là ngân hàng có nhiều nhất số lượng các khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam. Năm 2008, Techcombank phát hành gần 300 000 thẻ các loại trong đó có gần 100000 thẻ VISA debit và credit, trở thành ngân hàng có số lượng phát hành thẻ VISA debit lớn nhất Việt Nam, và là 1 trong số 3 ngân hàng phát hành thẻ quốc tế lớn nhất Việt Nam với thị phần 14% thẻ quốc tế phát hành ở Việt Nam. Công tác quản lý chất lượng dịch vụ cũng được tăng cường mạnh mẽ với phương châm đem lại sự hài lòng cho khách hàng, Techcombank đã liên tục tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ đặc biệt của đội ngũ cán bộ giao dịch khách hàng. 2.1.2.4 Công nghệ của Techcombank Năm 2007 là năm bản lề trong đó Techcombank đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ đa đề ra từ năm 2005. Với những khái niệm và yêu cầu quản trị mới, công nghệ phải chuẩn bị để đáp ứng và thậm chí phải đi tiên phong trong việc thực hiện những yêu cầu này. T24 phiên bản mới cho phép tích hợp các module phục vụ mô h́inh ngân hàng bán lẻ như đánh giá chấm điểm khách hàng (Customer Scoring), quản lư nhắc nợ tập trung (Debt Collection). Hai phân hệ này đa được TTCN triển khai thành công và đi vào hoạt động kịp thời phục vụ yêu cầu nghiệp vụ của ngân hàng trong quý II và III năm 2007. Phát triển sản phẩm mới dựa trên nền tảng công nghệ cao luôn là ưu tiên hàng đầu của Techcombank trong việc tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường ngân hàng. Với hệ thống ngân hàng lơi phiên bản T24R6 mới nhất, TTCN đã cùng các pḥòng ban nghiệp vụ liên tiếp cho ra các sản phẩm mới như: Tiết kiệm Tài lộc Đón xuân (1/07), Tiết kiệm gửi Techcombank trúng Mercedes (QIII/07), Cho vay Tiêu dùng trả góp, Cho vay liên kết với Nguyễn Kim, Nhà Xinh, Bảo Việt, cải tiến các sản phẩm thẻ (Fast Access I), quản lư tập trung quy tŕnh phát hành thẻ (Debit và Credit), Sản phẩm tài khoản đầu tư của Pacific Airlines… Đa dạng các kênh bán hàng, mở rộng việc tiếp cận với khách hàng qua các kênh phi truyền thống như Hệ thống tin nhắn nhanh (SMS), Ngân hàng trực tuyến (Internet Banking), Cổng thanh toán điện tử (Payment Gateway) không chỉ là chiến lược kinh doanh ngân hàng hiện đại mà c̣òn là thước đo năng lực các hệ thống công nghệ của một ngân hàng. Techcombank tự hào là một trong những ngân hàng tiên phong và dẫn đầu trong việc áp dụng các thành tựu kỹ thuật tiên tiến này. Tháng 4/2007 đánh dấu một bước tiến mới trong việc ứng dụng Internet vào giao dịch ngân hàng khi Techcombank là ngân hàng tại Việt Nam đầu tiên tung ra sản phẩm F@st I Bank, một sản phẩm ngân hàng trực tuyến trọn gói đầy đủ, cho phép khách hàng giao dịch chuyển khoản trực tuyến qua mạng internet. Với sản phẩm này, lần đầu tiên công nghệ bảo mật hai yếu tố, mật khẩu sử dụng một lần của hăng bảo mật hàng đầu thế giới RSA Mỹ được áp dụng cho khách hàng của một ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Thanh toán qua SMS banking là một kênh giao dịch trực tuyến đa được Techcombank triển khai từ năm 2006. Hàng loạt dịch vụ giá trị gia tăng trên kênh thanh toán này đa được Techcombank phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ triển khai năm 2007. Điển h́nh là các thỏa thuận hợp tác Báo cáo thường niên 2007 với VTC, FPT, Bảo Minh, Viettel, Vinaphone, Goldmart cho phép khách hàng của Techcombank thanh toán dịch vụ của các nhà cung cấp thông qua tin nhắn. Việc sử dụng hạ tầng Internet để thanh toán các dịch vụ trực tuyến sử dụng thẻ quốc tế như Visa, Master… đã trở nên phổ biến tại các nước phát triển nhưng c̣òn mới lạ tại thị trường Việt Nam do chưa có nhiều nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trong khi đa có nhu cầu nhất định của những khách hàng sở hữu thẻ tín dụng hoặc ghi nợ quốc tế. Một lần nữa Techcombank lại là một trong những ngân hàng đầu tiên cung cấp giải pháp cổng thanh toán điện tử (payment gateway) cho khách hàng của ḿnh, những nhà cung cấp dịch vụ mua bán trực tuyến mà 123 Mua là một ví dụ. Một số dịch vụ ngân hàng điện tử khác được Techcombank triển khai thành công trong năm 2007 có thể kể đến như sản phẩm F@st Sbank cung cấp cầu nối cho nhà đầu tư với các công ty chứng khoán, sản phẩm Telebank cho Prudential, thẻ Metro gift, giải pháp thanh toán cho Pacific Airline. Càng ứng dụng công nghệ hiện đại th́ ngân hàng càng phải đối mặt với những vấn đề “hậu cần”như đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ bao gồm máy chủ, máy trạm, đường truyền, và cuối cùng,nhưng không kém phần quan trọng là an ninh bảo mật hệ thống. Năm 2007, Techcombank đa xây dựng và đưa vào vận hành một trung tâm dữ liệu (Data Center)hoàn toàn mới với các trang thiết bị hiện đại như hệ thống sàn nâng, hệ thống chống cháy tự động bằng khí Nitrogen, hệ thống điều ḥòa đa điểm tại chỗ. Theo kịp sự phát triển về mạng lưới của ngân hàng, năm 2007 TCCN đa triển khai hạ tầng cho hàng chục chi nhánh pḥòng giao dịch mới, nâng cấp hệ thống đường truyền công nghệ mới như cáp quang, megawan, đảm bảo liên lạc giữa từng chi nhánh với trung tâm dữ liệu ở mức cao nhất. Nhận thức rõ rủi ro về bảo mật thông tin luôn song hành cùng sự phát triển của các hệ thống công nghệ, Techcombank đã thành lập một pḥòng chuyên biệt phụ trách công tác bảo mật. Bên cạnh đó bộ phận kiểm toán IT độc lập cũng được thành lập nhằm đảm bảo các hoạt động IT phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn quản lư công nghệ quốc tế như Cobit, Iso 270001.Có thể nói trong năm 2007, Techcombank đã tiến một bước dài về công nghệ, giữ vững vị thế là một ngân hàng hiện đại, đi đầu trong việc áp dụng các thành tựu công nghệ vào chiến lược kinh doanh của ḿình. Techcombank nói chung và TTCN nói riêng cũng nhận rơ các thách thức mới đang ở phía trước trên con đường phát triển và đội ngũ cán bộ, chuyên viên TTCN cần không ngừng nâng cao nghiệp vụ, tinh thần làm việc chuyên nghiệp để chinh phục những đỉnh cao mới mà trước hết là hoàn thành xuất sắc kế hoạch năm 2008 do Ban Tổng Giám đốc giao. 2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn của ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005 - 2008 Đơn vị (tỉ đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Kế hoạch Thực hiên Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện Tổng vốn thu hút hút 8500 9238,05 13056 14932,67 25630 35197,81 55000 50000 Bảng 2.1 Tổng nguồn vốn thu hút của ngân hàng thương mại cổ phần kĩ thương Techcombank giai đoạn 2005 – 2008 Cùng với sự phát triển vượt bậc, quy mô huy động vốn của Techcombank tăng dần theo từng năm và luôn vượt chỉ tiêu đề ra, chỉ trong 4 năm đã tăng từ 9238,05 lên 50000 tỷ đồng, gấp 5,41 lần, duy chỉ có năm 2008 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trên thề giới gây hàng loạt khó khăn cho các hoạt động doanh nghiệp nói chung và của ngân hàng nói riêng nên mục tiêu đề ra đã không thực hiện được, tuy vậy đây không phải là một tín hiệu đáng lo ngại vì việc gặp khó khăn là xu hướng chung của tất cả các doanh nghiệp chứ không chỉ riêng Techcombank. Theo cơ cấu của Techcombank, hoạt động huy động vốn có thể chia theo đối tượng: Huy động vốn từ hộ gia đình và từ doanh nghiệp, trong mỗi đối tượng lại có thể chia nhỏ theo kì hạn và theo loại tiền. 2.2.1. Huy động vốn từ hộ gia đình Huy động vốn từ hộ gia đình luôn là 1 chính sách ưu tiên hàng đầu trong công tác huy động vốn của Techcombank. 2.2.1.1 Huy động vốn theo kì hạn Huy động vốn theo kì hạn chia theo không có kì hạn, ngắn hạn (dưới 12 tháng), trung và dài hạn ( từ 12 tháng đến 60 tháng). Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 KH TH KH TH KH TH KH TH Tổng vốn thu hút 5400 5738,05 9300 10052 14050 22634,81 37770 33834 Không kì hạn 1000 1300 1200 1500 1450 2730 2300 1150 Ngắn hạn 3250 3286,05 6000 6200 9500 12904,01 26020 25050 Trung và dài hạn 1150 1152 2100 2352 3100 7000,8 9450 7634 Bảng : Quy mô vốn huy động theo kì hạn với đối tượng hộ gia đình Biểu đồ : Quy mô vốn huy động của các loại kì hạn theo đối tượng hộ gia đình trong giai đoạn 2005-2008 Nhìn vào bảng có thể thấy, vốn huy động đã tăng lên rất nhanh, năm 2005 mới chỉ là 5738,05 tỷ thì sang năm 2006 đã tăng lên 10052 tỷ đồng, tăng 75%, đặc biệt trong năm 2007 khi nền kinh tế phát triển vượt bậc, vốn huy động đã đạt 22634,81 tỷ tăng hơn 125% so với 2006, sang đến năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nên quy mô vốn đã không đạt được như kế hoạch ban đầu, tuy vậy so với năm 2007 vẫn có sự bứt phá đáng kể, tăng hơn 49%. Trong 3 loại kì hạn thì vốn huy động không có kì hạn chiếm tỷ trọng thấp nhất do tính chất của loại này là khách hàng có thể rút tiền ra bất kì lúc nào khiến ngân hàng khá bị động trong việc hoạch định kế hoạch cho loại này nên lãi suất rất thấp. Vốn huy động ngắn hạn luôn chiếm tỉ lệ cao nhất, điều này cũng dễ hiểu, lượng tiền nhàn rỗi được hộ gia đình gửi trong thời gian ngắn hạn nhằm mục đích sinh lời và sau 1 năm có thể rút tiền ra để sử dụng cho các hoạt động của mình. Đây cũng là nguồn tiền chủ yếu để các ngân hàng có thể thực hiện hoạt động cho vay của mình. Trong 4 năm, vốn huy động ngắn hạn đã tăng từ 3250 lên 25050 tỷ đồng, gấp 7,7 lần. Còn vốn huy động không có kì hạn thì có tỷ trọng thấp nhất do loại này khách hàng có thể rút tiền ra bất kì lúc nào nên lãi suất rất thấp. Tỷ trọng của vốn ngắn hạn bình quân giai đoạn này chiếm 74% trong tổng cơ cấu thu hút vốn và tỷ trọng vốn trung, dài hạn chiếm 22.56 % trong tổng cơ cấu thu hút vốn. Xu hướng dịch chuyển là tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn trong tổng nguồn vốn thu hút như trên là khá hợp lý vì các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Bất kì một ngân hàng nào trong quá trình hoạt động cũng đều có xu hướng tăng loại hình tiền gửi trung, dài hạn cũng như tiền gửi có kì hạn, do loại tiền gửi này sẽ làm cho ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời vẫn phải giảm tỷ trọng thu hút vốn ngắn hạn đến một tỷ trọng hợp lý nhưng vẫn phải giữ tỷ trọng tuyệt đối trong tổng vốn huy động. Thứ hai: Do có một thực tế là lãi suất của các khoản tiền gửi ngắn hạn luôn thấp hơn lãi suất của các khoản vay dài hạn chính vì vậy mà để thu được lợi nhuận cao trong hoạt động thì ngân hàng thường lấy các khoản gửi ngắn hạn cho vay dài hạn. Nhưng đồng thời các ngân hàng cũng nhận thấy nếu như người gửi các khoản tiền ngắn hạn đến thời điểm đáo hạn thì sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động tiền trả nợ. Chính vì vậy mà ngân hàng luôn hi vọng rằng trong khoảng thời gian đáo hạn của khoản này thì dứt khoát sẽ có nhiều người tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng và ngân hàng có thể dùng những khoản này để trả nợ cho các khoản đến hạn. Như vậy ngoài việc thiết lập uy tín vững chắc thì ngân hàng cũng cần phải tiến hành các biện pháp cũng như hình thức quảng cáo, khuyến mại nhằm giữ vững tỷ trọng tuyệt đối của các khoản tiền gửi ngắn hạn trong tổng vốn thu hút. Qua bảng số liệu ta thấy thu hút vốn năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006 vì năm 2007 có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà lại ổn định, là năm mà nước ta gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO nên đã tạo ra nhiều cơ hội để phát triển kinh tế đất nước. Nền kinh tế tăng trưởng cao kéo theo các ngành khác phát triển đặc biệt là ngành tài chính – ngân hàng. Năm 2005 tỷ trọng vốn trung, dài hạn giảm là do năm 2005 có sự biến động về chỉ số giá liên tục tăng, chỉ số lạm phát tương đối cao, làm cho người gửi tiền thận trọng nên không muốn gửi tiền với kì hạn dài và những ảnh hưởng đó cũng đôi chút ảnh hưởng đến năm 2006. Như đã phân tích ở trên năm 2008 bị ảnh hưởng bởi cuộc suy thoái kinh tế kinh tế trên toàn cầu nên mọi người cảm thấy không an tâm khi gửi tiền bằng hình thức trung và dài hạn làm cho vốn thu hút bằng hình thức này không cao. Giai đoạn này Techcombank quan tâm hơn đến việc huy động tiết kiệm bằng các hình thức phát hành kì phiếu, chứng chỉ các loại tiền gửi với lãi suất cao. Chính vì vậy mà mức độ chênh lệch giữa thu hút vốn ngắn hạn và trung, dài hạn ngày càng rút ngắn lại. Tuy nhiên trong giai đoạn này vốn huy động ngắn hạn vẫn duy trì vai trò chủ đạo của mình trong tổng vốn thu hút của ngân hàng Techcombank. Thể hiện ở việc nó luôn chiếm tỷ trọng 60-74% trong vòng 4 năm qua. Tiền gửi ngắn hạn thường của các khách hàng lớn có mối quan hệ truyền thống với ngân hàng nên có xu hướng ổn định những khoản tiền gửi này qua các năm đồng nghĩa với việc loại tiền này còn tiếp tục tăng và ổn định trong giai đoạn tiếp theo do kì hạn thực tế của các loại tiền gửi này thường kéo dài nhiều năm (hết kì hạn này khách hàng sẽ rút cả lãi và gốc, sau đó sẽ rút cả lãi và gốc sau đó tiếp tục gửi vào kì tiếp theo). Tuy nhiên sự chiếm tỷ trọng lớn của vốn ngắn hạn cũng như vốn không kì hạn cũng là một vấn đề mà Techcombank cần tiếp tục chuyển dịch hơn nữa để có thể có hiệu quả kinh doanh và an toàn trong năm tới. Kết quả của cơ cấu này cho thấy giai đoạn 2005 – 2008 chất lượng nguồn vốn theo kì hạn của Techcombank có chiều hướng được nâng lên do lãi suất các khoản tiền gửi là thấp, mặt khác cũng phản ánh tính chất nguồn vốn từ dễ biến động sang ổn định dần, do nguồn tiền gửi không kì hạn và ngắn hạn thường chịu ảnh hưởng về những biến động như lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kì chi tiêu… Huy động vốn theo loại tiền Huy động vốn theo loại tiền có thể chia thành huy động theo nội tệ và ngoại tệ Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 KH TH KH TH KH TH KH TH Tổng vốn thu hút 5400 5738,05 9300 10052 14050 22634,81 37770 33834 Nội tệ 4220 4350 6750 7450 8250 12904,81 21560 16584 Ngoại tệ (đã quy đổi ra VND) 1180 1388,05 2550 2575 5800 9730 16210 17250 Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy về mặt giá trị thu hút vốn của cả loại tiền đều tăng qua các năm. Tốc độ tăng trưởng của đồng nội tệ năm sau so với năm trước là 170% và của đồng ngoại tệ là 210%. Đồng thời cũng có sự chuyển dịch trong cơ cấu của vốn thu hút xét theo loại tiền. Cụ thể là tăng dần về tỷ trọng của tiền ngoại tệ trong cơ cấu thu hút vốn. Từ 2035,37 tỷ đồng năm 2005 lên 20040 tỷ đồng năm 2008, tức là gấp 9,8 lần. Tuy nhiên tỷ trọng của đồng nội tệ đang có xu hướng giảm dần. Đây là sự chuyển dịch hợp lý dần tiến đến thế cân bằng của hai loại tiền gửi này để phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Đầu tiên nguồn nội tệ là nguồn chủ yếu của ngân hàng Techcombank chiếm 65% tổng nguồn vốn, có xu hướng giảm dần qua các năm. Đến cuối năm 2008 vốn nội tệ thu được là 29960 tỷ đồng gấp 4,15 lần so với năm 2005 (năm 2005 vốn nội tệ thu hút được là 7202,68 tỷ đồng). Nguyên nhân của sự chuyển dịch này nằm trong chiến lược điều chỉnh cơ cấu vốn theo chương trình hoạt động của Techcombank, phù hợp với hoạt động tín dụng. Vốn huy động VNĐ vẫn tăng về mặt giá trị cho dù tỷ trọng trong tổng vốn có xu hướng giảm dần, đây là kết quả của hoạt động đa dạng hóa sản phẩm của Techcombank trong thời gian qua đã áp dụng nhiều biện pháp như triển khai các loại kì phiếu với nhiều kì hạn khác nhau…đẩy mạnh thu hút qua hình thức tài khoản cá nhân cùng với các dịch vụ thẻ đồng thời các phòng ban cũng có sự phối hợp tích cực để đưa ra các giải pháp tổng thể cho khách hàng là các tổ chức kinh tế, xã hội lớn. Thứ hai nguồn ngoại tệ quy đổi có tỷ trọng khá cao, bình quân giai đoạn này là 25%. Năm 2006 vốn ngoại tệ là 5500,17 tỷ đồng gấp 2,7 lần so với năm 2005. Năm 2007 vốn ngoại tệ là 16232,25 tỷ đồng cao gấp 2,9 lần so với nă._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2510.doc
Tài liệu liên quan