Lời nói đầu
Trong những năm qua công cuộc đổi mới đất nước đã thu được nhiều thành tựu đáng kể : Tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp nhất, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nươc trong khu vực và thể giới Việt Nam cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Một trong những giải pháp quan trọng là tăng cường khẳ năng huy động vốn để đáp ứng tiến trình công nghiệp hoá hi
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Huy động vốn trung & dài hạn qua phát hành trái phiếu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện đại hoá đất nước
Để đáp ứng nhu cầu vốn nói trên chúng ta có thể huy động vốn từ trong nước và nước ngoài thông qua nhiều biện pháp và hình thức khác nhau. Huy động vốn từ trong nước là tiền đề và là điều kiện để tiếp nhận và sử dụng các nguồn vốn ngoài nước đạt hiệu quả cao. Đồng thời nhằm phát triển thêm tính độc lập - tự chủ của nền kinh tế. Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng ta đã xác định"Nguồn vốn trong nước là quyết định,nguồn vốn từ nước ngoài là quan trọng".
Bên cạnh việc huy động vốn qua các kênh: từ ngân sách nhà nước, từ nguồn vốn đàu tư của các doanh nghiệp, thì huy động qua ngân hàng là một trong các kênh nhằm góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế ở nước ta. Thời gian qua,các ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc khai thác, huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên,nguồn vốn này hiện đang chiếm tỷ lệ thấp và còn hạn chế.
Đứng trước yêu cầu vốn của nền kinh tế đặt ra, đồng thời theo đánh giá của một số nhà kinh tế trong nhiều dữ liệu cho rằng hiện nay vốn đang lắng đọng trong dân cư còn nhiều.Vì vậy,vấn đề đặt ra là, các ngân hàng thương mại cần có các giải pháp tối ưu để khai thác triệt để nguồn vốn trong nước nhằm góp phần phục vụ phát triển kinh tế.
Đứng trước quan điểm huy động vốn trong giai đoạn hiện nay và dựa vào cơ sở thực tế tại NHĐT&PTVN bản thân chọn đề tài nghiên cứu:
"Huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội " để làm sáng tỏ lý thuyết đã học.Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài gồm có 3 chương:
Chương I: Vốn và biện pháp huy động vốn trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng về huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tai ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
Chương III: Những giải pháp mở rộng khả năng huy động vốn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
Huy động vốn là một vấn đề mặc dù không còn mới, song lại là một đề tài hết sức rộng và phức tạp. Vẫn còn nhiều ý kiến tranh cãi trên các diễn đàn kinh tế xung quanh vấn đề này. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết của mình, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu các giải pháp huy độnh vốn trung và dài hạn trong nước;với mong muốn được góp thêm lời bàn cho công tác huy động vốn của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương I:
Vốn và biện pháp huy động vốn trung và dàI hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
I. Sự cấp thiết của nguồn vốn trung và dàI hạn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đạI hoá đất nước, một thách thức lớn đối với ngành ngân hàng.
Sự công nghiệp hoá- hiện đại hoá(CNH- HĐH) là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội đòi hỏi phải tập trung sức người, sức của mọi tầng lớp nhân dân. Muốn thực hiện CNH- HĐH đất nước trước hết phải có nguồn vốn và nguồn vốn đó phải sử dụng có hiệu quả.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã chuẩn bị được một lực lượng lao động và một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; một nền công nghiệp cùng với những kinh nghiệm quản lý đáng kể, sẵn sàng bước vào giai đoạn phát triển mới với nhịp độ cao và nhanh hơn, vị thế thuận lợi hơn. Thực tế những năm qua đã chứng minh rõ tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, thông qua những thành tựu về kinh tế như mức tăng trưởng GDP hàng năm 8%, lạm phát từ mức 3 con số rút xuống chỉ còn 1 con số, tạo được nhiều việc làm cho người lao động, thu nhập bình quân đầu người đạt mức 200- 250 USD… Tuy nhiên để nền kinh tế tiến xa hơn và có thể cất cánh được trong tương lai, đòi hỏi phải chuẩn bị tốt các yếu tố, trong đó vốn được coi là một trong các những tố quan trọng nhất.
Chính nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong thời kỳ này đòi hỏi phải có một thị trường vốn ddủ mạnh mới có thể đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp nói chung và của nghành công nghiệp nói riêng, nhằm đỏi mới dây chuyền công nghệ, máy móc thiệt bị, nhà xưởng và cả vốn để đảm bảo kinh doanh.
Trong đường lối phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ: " Phát triển lực lượng sản xuất công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại hoá gắn liền với phát triển công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm… "(*). Thế nhưng, trong thực tế hiện nay, nghành công nghiệp quy mô còn nhỏ, lại bị phân tán; trình độ kỹ thuật, công nghệ thấp kém. Số xí nghiệp cỡ lớn và vừa chiếm trên 2% trong tổng số 377.000 ngành cơ sở sản xuất công nghiệp, hầu hết tập trung vào thành phần kinh tế quốc doanh, nhưng số vốn bình quân mỗi xí nghiệp chỉ trên 9 tỷ đồng (tương đương 0,8 triệu USD), trong đó gần 50% số xí nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng và chỉ có 5% số xí nghiệp có mức vốn từ 15 tỷ đồng trở lên. Số cơ sở sản xuất nhỏ chiếm gần 98% tổng số cơ sở, với số vốn bình quân trên 11 triệu đồng và hơn 3 lao động một cơ sở. Qua đó đủ nói lên trình độ trang bị kỹ thuật của nền công nghiệp nước ta còn rất thấp kém, lạc hậu, cơ bản là thủ công, không đủ sức cạnh tranh ở nước ngoài, ngược lại còn bị nước ngoài cạnh tranh trên thị trường trong nước.
Bên cạnh đó, theo các số liệu của Tổng cục thống kê, nói chung cơ cấu vốn của các doanh nghiệp không hợp lý: 81% là vốn cố định, chỉ 19% là vốn lưu động. Trong đó vốn cố định lạI có tới 39,3% là nhà xưởng, kiến trúc. 16,3% là phương tiện vận tảI và chỉ có số vốn ít ỏi (12,4%) dành cho thiết bị sản xuất chính. Với cơ cấu vốn như vậy dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Trong lĩnh vực quốc doanh vốn cố định chiếm từ 70%- 80%, lẽ ra phảI tạo được nhiều sản phẩm cho xã hội, nhưng trong thực tế chỉ cung cấp được 14% tổng giá trị hàng hoá. Trong năm 1996 các doanh nghiệp chỉ làm ra được trên 193.000 tỷ đồng doanh thu và 7.939 tỷ đồng lợi nhuận. Như vậy, cứ 1 tỷ đồng bỏ vốn vào kinh doanh, mỗi năm chỉ làm được 2,3 tỷ đồng doanh thu và 0,1 tỷ đồng lợi nhuận, với mức lợi nhuận khoảng 10% như thế là chưa đủ bảo toàn vốn theo mức trượt giá cùng thời đIểm. Đến năm 1997 cứ 1 đồng vốn đưa vào kinh doanh đã thu về 3,5 đồng giá trị sản lượng: 0,19 đồng tích luỹ và 3,2 đồng nộp ngân sách. Nhưng kết quả đó là quá thấp so với nhiều nước trên thế giới.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, cần phải đổi mới và hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ, sắp xếp lại quy mô và cơ cấu một cách hợp lý. Tuy nhiên, muốn làm được phải có vốn đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Không chỉ có vốn từ trong nước mà cả vốn từ nước ngoài, không chỉ vốn trong Nhà nước mà phải huy động vốn trong các thành phần kinh tế.
Nguồn vốn chủ yếu cho nền kinh tế là vốn tín dụng do nghành ngân hàng đảm nhiệm. Ngoài ra, còn có các "kênh" đầu tư tập trung từ ngân sách, từ FDI, ODA… từ doanh nghiệp và do nhân dân từ huy động đầu tư.
Thời gian qua ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc khai thác vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và nhân dân nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển. Cụ thể ngân hàng đã tiến hành một chương trình thu hút vốn trong nền kinh tế và trong các tầng lớp dân cư bằng việc khuyến khích những người có vốn mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng. Triển khai rộng rãi hình thức huy động vốn bằng kỳ phiếu, trái phiếu… làm cho số dư tiết kiệm dưới hình thức này tăng lên nhanh chóng. Từ ngày triển khai thực hiện hai pháp lệnh ngân hàng, phân định rõ ràng chức năng quản lý của NHNN và chức năng kinh doanh của NHTM, đã làm cho công tác huy động vốn ngày càng đa dạng và sôI động. Bắt đầu từ năm 1993, ngân hàng đã tiến hành dề án đào tạo cán bộ chuẩn bị cho việc khai triển các thị trường vốn trong nước, xây dựng đề án phát hành trái phiếu của NHTM, trái phiếu kho bạc, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu của công ty cổ phần, xúc tiến quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước để vừa đẩy mạnh việc tích tụ và tập trung vốn, vừa tạo ra nhiều hàng hoá cho thị trường chứng khoán ra đời và đi vào hoạt động. Do áp dụng các hình thức huy động vốn phong phú, hiệu quả nên số lượng vốn huy động được qua kênh ngân hàng được tăng lên liên tục. "Nguồn vốn kinh doanh chung tăng trưởng khá nhanh và đạt 50% - 60% qua các năm 1996 - 1997. Cơ cấu nguồn vốn có sự thay đổi theo hướng tích cực .Nguồnvốn ổn định với kỳ hạn dài không ngừng tăng lên(chiếm khoảng 50% nguồn vốn huy động ). (Trên cơ sở đó ngân hàng có thêm nguôn vốn để mở rộng cho việc vay trung và dài hạn, năng tỷ trọng cho vay từ dưới 20% ở các năm 1993 - 1994 lên 30% năm 1997 Các ngân hàng đẩy mạnh việc cho vay sản xuất hàng hoá, phát triển nông nghiệp và nông thôn , xuất khẩu, đồng thời đâu tư vào một số nghành công nghiệp mũi nhọn"
Tuy nhiên,ngân hàng vấp phải không ít trở ngại trong quá trình tham gia tạo vốn đáp ưng nhu cầu của CNH - HĐH đất nước. Hiện nay ngân hàng mmới chỉ đáp ứng được 30% vốn so với nhu cầu đầu tư trong nước và 8% so với tổng mức đàu tư toàn xã hội . Có lúc do nguồn vốn trung và dàI hạn quá eo hẹp ngân hàng phải sử dụng một nguồn đáng kể nguồn vốn ngắn hạn để cho vay ,làm cho không đơn vị đi vào rủi ro.
Ngoài ra,nguồn vốn tiết kiệm với thời hạn dài còn rất hạn chế đã ảnh hưởng trực tiêp đến việc huyđộng vốn chung và dài hạn ở trong nuức của nganh ngân hàng. Nhìn chung, nhiệm vụ tạo vốn phục vụ CNH - HĐH đang là một thách thức lớn đối vớ tất cả các ngành ,các cấp đặc biệt là ngành ngân hàng . Khó khăn lớn nhất của nền kinh tế nước ta là ngân sách còn thâm hụt nặng nề thị trường vốn thị trường tiền tệ phát triển chậm, một bộ phận vốn nhàn rỗi (gồm cả nội và ngoại tệ) đang trôi nổi ngoài lưu thông nhưng ngân hàng chưa kiểm soát được mức độ đảm bảo an toàn trong hoạt đông kinh doanh tiền tệ còn thấp, môi trường pháp lý còn chưa thật đầy đủ…
Do đó ,việc đưa thị trường chứng khoán đi hoạt động là một điều hết sức cần thiết ,nó ra đời sẽ là nơi quy tụ và phân phối các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn chung và dài hạn . Một nước phát triển thì việc coi trọng đầu tiên chính là hoạt động của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán ra đời thì có thể đảm bảo cho cung cầu về vốn ổn định ,đảm bảo cho các công ty phát triển được vốn thông qua việc phát hành hàng hoá trên thị trường chứng khoán.
Như ta cũng thấy, chiến lược phục vụ cho CNH -HĐH đang được tiếp tục thực hiện trên quan điểm đổi mới của đảng và nhà nước, là một quá trình gian khổ ,lâu dài và toàn diện trên các lĩnh vực. Với phương châm: phải dựa vào nguồn lực trong nước, đi đôi với mở rộng và hợp tác quốc tế , nhằm khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực bên ngoài. Muốn vậy, cần phải có sự kết hợp đồng bộ, có hiệu quả trong nước,đi đôi với mở rộng và hợp tác quốc tế nhằm khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực bên ngoài. Muốn vậy, cần phải có sự kết hợp đồng bộ, có hiệu quả của các ngành đống vai trò then chốt trong việc tạo nguồn lực về vốn để phục vụ cho ngiệp CNH - HĐH đất nước.
II. vốn và vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế xã hội
1.khái niệm và đặc trưng của vốn
1.1.Khái niệm :
Tiền tệ ra đời là một phát minh vĩ đại của loài người và nó làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế -xã hội .Mọi sự vận động của sản xuất và tiêu dùng hàng hoá đều có quan hệ mật thiết đến sự vận động của tiền tệ và đồng thời có sự tác động qua lạI lẫn nhau.Đồng tiền trở thành thước đo chung cho tất cả các hoạt động kinh doanh của nền kinh tế .KháI niệm vốn đưỡcuất hiện và vai trò của nó ngày càng trở nên quan trọng .Vốn theo kháI niệm rộng được hiểu không chỉ là tiền tệ mà còn là nguồn lực như: tài nguyên thiên nhiên ,đất đai, lao động, trí tuệ…
Khi nền kinh tế còn đang nằm trong giai đoạn mang tính tự cung, tự cấp thì đông vốn không phát huy được vai trò của mình và nó ít được chú ý đến .Nhưng chuyển sang nền kinh tế thị trường thì vấn đề vốn không phát huy được vai trò của mình và nó ít được chú ý đến .Nhưng chuyển sang nền kinh tế thị trường thì vấn đề vốn không những được quan tâm nhiều mà nó còn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu ,là điều kiện tiên quyết cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh .Thông qua thị trường ,vốn giao lưu rộng rãI và càng thể hiện rõ bản chất và vai trò của nó . C.Mác đã kháI quát hoá phạm trù vốn qua phạm trù "tư bản" "tư bản là giá trị mang lạI giá trị thặng dư".Theo nghĩa cô đọng này đã phản ánh được nội dung, đặc trưng và vai trò ,tác dụng của vốn .Để nhận thức đúng đắn quan đIểm của C.Mác ,cần thiết phảI hiểu sâu sắc hơn phạm trù vốn và đặc trưng của nó.
1.2. Các đặc trưng của vốn :
-Trước hết vốn ,được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản .Tức là phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất định ,bao gồm tài sản hữu hình như tư liệu sản suất nhà máy, đất đai, nguyên vật liệu… và tàI sản vô hình như chất xám, nhân lực, thông tin …điều đó phân biệt rõ vốn với tiền. Chỉ có đồng tiền phát hành trên cơ sở được đảm bảo bằng giá trị hàng hoá mới được gọi là vốn.
- Vốn phải vận động: vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng phải là tiền được vận động với mục đich sinh lời. Do đó các tài sản cố định không sử dụng, hàng hoá vật tư ứ đọng tiền để dành trong két… chỉ là những đông vốn chết.
Trong quá trình vận động,vốn-tiền đều có đIểm xuất phát và kết thúc là T,và sau mỗi chu kỳ vận động nó sẽ "lớn lên".
Sự vận động của vốn - tiền (T) được thể hiện qua ba phương thức:
T-H ……sản xuất …H' T' : Đây chính là phương thức vận động vốn của các doanh nghiệp sản xuất.
T-H-T' :Đây là phương thức vận động vốn của các doanh nghiệp thương mại.
T-T' :Đây là phương thức vận động vốn của các tổ chức tài chính trung gian .
Thông qua các phương thức trên,sự vận động của vốn- tiền thường phải thay đổi hình tháigiá trị và nhồ đó tạo ra khả năng sinh lời. Khả năng sinhcủa vốn vừa là mục đích kinh doanh, vừa là phương tiện để tiền vốn vận động tiếp ở chu kỳ sau.
Để có thể phát huy được tác dụng, vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định .Trong đầu tư sản xuất kinh doanh, thường đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định, mới có thể sản xuất kinh doanh bình thường và mang lại hiệu quả cao, đồng thời tăng sức cạnh tranh lẫn nhau.Do đó,nếu vốn bị phân tán, không huy động được, không được khai thác một cách tối đa thì sẽ không huy được tác dụng mạnh mẽ. Vì thế các nhà đầu tư gọi việc khai thác tiềm năng vốn của địa phương còn tìm cách huy động vốn qua các hình thức khác nhau như : hùn vốn vốn liên doanh. Phát triển trái phiếu, cổ phiếu, …
Trong nền kinh tế thị trường vốn là một loại hàng hoá đặc biệt và được gắn với một chủ sở hữu nhất. Đới với hàng hoá thông thường, được lưu thông trên thị trường hàng hoá và người sở hữu hàng hoá đó bán quyền sở hữu hàng hoá của mình. Còn "hàng hoá" vốn thì được lưu thông, mua bán trên thị trường vốn và người sở hữu vốn lại không bán quyền sở hữu vốn mà chỉ bán quyền sử dụng vốn. Sau một thời gian nhất định, người mua quyền sử dụng vốn phảI trả cho người chủ sở hữu vốn một khoản tiền - khoản tiền này được gọi là lợi tức. Như vậy, lợi tức là giá mà người mua phả trả cho chủ sở hữu về quyền sử dụng vốn.
Thị trường vốn là nơi diễn ra việc mua bán giữa người có vốn và người có nhu cầu sử dụng vốn. Người ta sử dụng đặc điểm quan trọng này lưu thông vốn nhằm tạo ra các dòng chảy, các "kênh" từ cung đến cầu về vốn.
Người chủ sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn hoặc có thể tách khỏi người sử dụng vốn. Do đó, trong mọi trường hợp thì người sử dụng vốn phải được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sử dụng vốn của mình. Để huy đông được lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, cần tuân thủ nguyên tắc này.
Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền- phản ánh giá trị của những tài sản hữu hình như đất đai, nhà máy, trang thiết bị … mà còn biểu hiện bằng giá trị của những tài sản vô hình như : bản quyển, phát minh, sáng chế, nhãn hiệu, vị trí sản xuất kinh doanh…
Từ những vấn đề phân tích trên đây về phạm trù vốn trong nền kinh tế thị trường, có thể rút ra định nghĩa chung như sau:
" Vốn đầu tư là giá trị của các tài sản xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai"
2. nội dung của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Cũng giống như mọi đơn vị kinh tế, ngân hàng muốn hoạt động được trước hết cần phải có vốn. Do vị trí, vai trò và loại hình kinh doanh tương đối đặc biệt nên nhu cầu về vốn của ngân hàng thương mại (NHTM) là rất lớn. Để có được lượng vốn đủ đáp ứng thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế, ngân hàng phải tìm kiếm từ các nguồn vốn khác nhau. Mỗi nguồn vốn đựơc thể hiện qua phương thức quản lý và huy động vốn của các NHTM trong cùng một thời gian, hơn nữa huy động vốn là một nghiệp vụ không thể thiếu được trong hoạt đọng của các NHTM. Hiện nay các NHTM có những nguồn vốn sau:
2.1. Vốn tự có của một ngân hàng bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự trữ pháp định.
2.1.1. Vốn điều lệ: Là vốn ghi trong điều lệ của NHTM, tối thiểu bằng vốn pháp định và là vốn do tự ngân hàng lập nên. Đây chính là tiêu chuẩn để một NHTM đuợc thành lập và hoạt động. Tuỳ theo loại hình ngân hàng mà vốn này hình thành từ các nguồn khác nhau do chủ sở hữu đóng góp.
Đối với các ngân hàng quốc doanh: do ngân sách nhà nước cấp.
Đối với các ngân hàng tư nhân: do một cá nhân đầu tư.
Đối với các ngân hàng cổ phần: do cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu.
Đối với các ngân hàng liên doanh: do các bên liên doanh đóng góp.
Đây là một nguồn vốn khá ổn định, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, tuy nhiên nó là cơ sở cho sự bắt đầu hoạt động của một ngân hàng vì ngân hàng thường dùng vào việc xây dụng trụ sở, mua sắm phương tiện làm việc, dự trữ hay kí quĩ ở ngân hàng trung ương (NHTM) hoặc hùn vốn đầu tư.
Vốn điều lệ thể hiện năng lực và xu thế phát triển của NHTM.Hơn thế nưã nó là chỗ dựa quan trọng trong việc đảm bảo thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng lâm vào tình trạng xấu nhất.Và đó là cơ sở để các NHTM mở rộng hay thu hẹp các nguồn vốn huy động của mình.
2.1.2. Các quỹ dự trữ pháp định: NHTM luôn yêu cầu các NHTM phải lập ra các quỹ dự trữ pháp định để nhằm bảo toàn và không ngừng nâng cao khả năng về vốn. Có hai quỹ dự trữ pháp định cơ bản:
Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: được hình thành do ngân hàng trích một phần lợi nhuận nhằm bổ sung vào vốn điều lệ.
Quỹ dự phòng rủi ro: được hình thành từ lợi nhuận của ngân hàng và phụ thuộc vào tính chất (mức độ) rủi ro của tài sản có của một ngân hàng.
Ngoài ra, còn có các loại vốn khác cũng được xem như là vốn tự có của NHTM như:
Quỹ khen thưởng (trích từ lợi nhuận)
Quỹ phúc lợi (trích từ lợi nhuận)
Quỹ khấu hao(không trích từ lợi nhuận)
2.2.Vốn huy động
Vốn huy động là phương tiện tiền tệ do NHTM huy động được bằng các nghiệp vụ của mình để làm vốn kinh doanh.Vốn huy động không thuộc sở hữu của ngân hàng song ngân hàng có quyền đối với số vốn tiền tệ này.Vốn huy động thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của một NHTM.Tuy nhiên,đây là một nguồn vốn biến động thường xuyên,do vậy NHTM luôn phải đặt ra một khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.Vốn huy động bao gồm những khoản mục sau:
2.2.1.Tiền gửi:
Tiền gửi NHTM bao gồm hai loại : tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn .
Tiền gửi không kỳ hạn ( còn goị là tiền gửi giao dịch ):là tiền gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào bằng cách phát séc .Tiền nằm trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn là tiền vốn đang làm trong quá trình vận động ,vì vậy tiền gửi không kỳ hạn là một phần của tiền trong lưu thông.Mục đích tiền gửi của khách hàng là có thể thực hiện thanh toán một cách nhanh chóng, chính xác kịp thời và an toàn,có thể thoả mãn nhu cầu tiền mặt của khách hàng bát kỳ lúc nào.Lãi suất đối với loại tiền gửi này thường thấp ,tuy nhiên việc đảm bảo một dịch vụ thích hợp, thuận tiện là yếu tố thu hút tiền gưỉ không kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn :là loại tiền gửi về cơ bản không được dùng để thanh toán mà chủ yếu là nhằm kiếm lời cao thay vì đầu tư vào lĩn vực khác.Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định , do đó các ngân hàng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này như : đa dạng hoá thời vụ (3 tháng ,6 tháng ,9 tháng ,12 tháng ,2 năm ...) ứng với mỗi kỳ hạn ngân hàng thường áp dụng một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao .Tiền gửi có kỳ hạn có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi .
2.2.2. Tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm ở Việt nam hết sức phong phú và đa dạng thường được chia ra các loại sau:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : theo hình thức này,người gửi có thể ký thác nhiều lần và rút ra theo nhu cầu sử dụng, loại tiền gửi này cũng được ngân hàng trả lãi nhưng lãi suất thấp hơn các loại tiền gửi tiết kiệm khác.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: gồm hai loại :
+Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi: loại tiền gửi này có lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
+Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được hưởng lãi và có thưởng: đây là hình thức tiết kiệm có sức hấp dẫn và được ưa chuộng (được áp dụng từ năm 1960 ở các tỉnh miền Nam )
2.2.3.Phát hành chứng chỉ tiền gửi:
Khác với tiền gửi và tiền tiết kiệm,chứng chỉ tiền gửi chỉ được phát hành để huy động vốn trong những trường hợp cần thiết.Chứng chỉ tiền gửi dược ngân hàng sử dụng một cách hết sức chủ động và lại là công cụ để mua bán trên thị trường tiền tệ.
2.2.4.Phát hành trái phiếu:
Trong trường hợp ngân hàng muốn huy động vốn với thời hạn dài thì NHTM sử dụng hình thức này .Tuy nhiên đây là hình thức huy động mà các tổ chức tín dụng khác hoặc các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng.Chính vì vậy ngân hàng phải sử dụng những lợi thế của mình.
2.3.Vốn đi vay
2.3.1.Vay tái chiết khấu:
Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng nhà nước (NHNN) và các NHTM thông qua việc NHNN tái chiết khấu các phiếu nợ ngắn hạn,khế ước chưa đến hạn trả của NHTM.Việc vay tái chiết khấu phụ thuộc vào:
-Thời hạn vốn tạm thời thiếu,nếu thời hạn quá ngắn có thể vay từ các NHTM khác.
_Lượng vốn tạm thời thiếu.
-Các thủ tục có thể được vay vốn.
NHNN với vai trò là người cho vay cuối cùng sẽ được xen xét cho các NHTM vay.Tuy nhiên về việc này có thể ảnh hưởng đến khối lượng tiền trong lưu thông nên nhiều khi do NHNN không muốn điều tiết tiền ra lưu thông nhưng vẫn phải cho NHTM vay tiền (chẳng hạn như trong trươngf hợp NHTM đang đứng trên bờ vực phá sản) thì khi đó NHNN sẽ áp dụng lão suất rất cao,còn NHTM thì vẫn phải vay vì không có sự lựa chọn nào khác.Chính vì vậy lãi suất vay tái chiết khấu còn được gọi là lãi suất phạt.
2.3.2. Vay từ các tổ chức tín dụng và các NHTM khác:
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ , đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng,các NHTM có thể vay các tổ chức tài chính ,tín dụng khác thông qua cơ chế thị trường liên ngân hàng mà các thành viên tham gia thị trường liên ngân hàng là các NHTM có hoạt động hợp pháp,các khoản vay đều phải có thế chấp (chứng từ có giá,số dư tài khoản tại NHNN) hoặc ít nhất phải được NHNN bảo lãnh.
2.3.3.Các khoản vay nứơc ngoài:
Đối với các nước có nền kinh tế phát triển cao hoạt động ngân hàng mang tính toàn cầu thì nguồn vốn này thường xuyên và khá quan trọng .Tuy nhiên đối với những nước đang phát triển và chậm phát triển các ngân hàng muốn có được nguồn vốn này phải đưọc phép của NHNN và được vay dưới dạng hiệp định khung ,do đó các nước đang phát triển nguồi này chiếm tỷ trọng không lớn trong tỷ trọng của các NHTM.
2.3.4.Nguồn vốn trong thanh toán:
Dư có tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán (l/c,séc bảo chi)
Các khoản trả nhưng chưa trả
Các nguồn vốn trong thanh toán khác
2.3.5 Các nguồn tài trợ ,uỷ thác:
Là các khoản tiền của các tổ chức ,cá nhân ở trong và ngoài nước giao cho ngân hàng để cho vay hoặc đầu tư vào một số đối tượng thuộc diện chính sách xã hội như cho vay người nghèo ...
3. Vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế -xã-hội.
Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ,nó thể hiện ở các mặt sau :
3.1.Góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Nguồn vốn tín dụng của NHTM có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế , thông qua hoạt động cho vay của NHTM nó tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công nghiệp,thương nghiệp và nông nghiệpcủa đất nước .
Đối với ngành công nghiệp ,nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện để duy trì thường xuyên mối liên hệ không thể tách rời giữa sản xuất ,lưu thông và tiêu dùng xã hội .Vốn tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá ,trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn cho vay xây dựng đầu tư cơ bản như xây dựng các cơ sở kinh tế hạ tầng ,cải tiến và đổi mới kỹ thuật bằng vốn trung và dài hạn .
Trong lĩnh vực thương nghiệp , nhờ có nguồn vốn tín dụng của ngân hàng mà các cửa hàng bán buôn bán lẻ có khả năng dự trữ những hàng hoá của họ và vận chuyển những hàng hoá đó đến tận tay người tiêu dùng.
Còn về phía nông nghiệp ,nhờ nguồn vốn tín dụng của ngân hàng mà người nông dân có khả năng mua các loại giống ,thức ăn ,phân bón ,máy móc thiết bị ...và nhu cầu cần thiết khác cho việc trồng trọt và phát triển nông nghiệp.
Ngoài ra nguồn vốn tín dụng ngân hàng còn góp phần thúc đẩy sự tiêu thụ sản phẩm xã hội .
Trong lĩnh vực tài chính ,do thu nhập của nhà nước không phải lúc nào cũng tương ứng với các khoản chi,đòi hỏi phải tạm thời vay nợ tại ngân hàng,do vậy việc cung ứng vốn tín dụng ngân hàng trong những trường hợp như vậy có khả năng làm cho các hoạt động của chính phủ được trôi chảy.Tuy nhiên,việc cải thiện tình hình thiếu hụt ngân sách không phải lúc nào cũng vay tín dụng ngân hàng.Như vậy, khi các ngân hàng mua chứng khoán công cộng ngân hàng thực hiện việc cung ứng vốn cho nhà nước nhằm cải thiện tình hình vốn của ngân sách và nhà nước sử dụng vốn đó vào viẹc xây dựng trường học,bệnh viện và các cơ sở hạ tầng khác.Chính nhờ việc sử dụng vốn vào mục đích như thế,mức sống của mỗi ngưòi có điều kiện được nâng cao.
Cùng với ngân sách,vốn tín dụng ngân hàng hỗ trợ đầu tư dưới dạng cho vay vào lĩnh vực công cộng sẽ thu hút được thêm số lượng lao động đặc biệt là các trương trình tạo việc làm cho người lao động của chính phủ .
Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế, mở rộng phát triển sản xuất sẽ cần đến lao động vì lao động là yếu tố tiềm năng của suất do vậy việc đầu tư vốn tín dụng ngân hàng được tăng lên sẽ có điều kiện để gia tăng việc sử dụng thêm nguồn nhân lực .
3.2.Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của nền kinh tế nói chung và chuyển dịch kinh tế nội bộ trong từng ngành kinh tế nội bộ trong từng ngành kinh tế, kỹ thuật nói riêng sẽ có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
Nước ta đang tiếp tục trên đường phát triển CNH-HĐH nên tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp.Do đó, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, một trong những yếu tố quan trọnglà việc phân phối và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đầu tư vào các ngành,lĩnh vực theo chiến lược phát triển kih tế đã đề ra.
Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện thông qua việc kích thích hay hạn chế đầu tư.
3.3. Nâng caokhả năng cạnh tranhcủa các doanh nghiệp
Chuyển sang nền kinh tế thị trường ,sự cạch tranh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp là điều tất yếu .
Đối các doanh nghiệp lớn có nhiều ưu thế trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường đươc ưu tiên cấp vốn tín dụng ngân hàng, thậm chí với những điều kiện ưu đãi so với các doanh nghiệp kém ưu thế. Do đó các doanh nghiệp lớn có thể mạnh dạn mở rộng hơn nữa quy mô sản xuất kinh doanh tăng cường khoa học kỹ thuật hiện đại ... nên càng có thể đứng vững trong bên cạnh tranh.
Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ muốn mở rộng quy mô sản xuát , thường phải tiến hành tự tích luỹ là chủ yếu.Nhưng do nguồn vốn tích luỹ thấp ,quy mô sản xuất nhỏ không đủ sức cạnh tranh,do đó việc kinh doanh không ít khó khăn nên các doanh nghiệp này thường gặp nhiều trở ngại trong việc vay vốn ngân hàng.Để có thể thuận lợi trong sản xuất kinh doanh và có đủ sức cạnh tranh thì họ cần sát nhập với doanh nghiệp lớn hoặc liên kết để tập trung vốn ,tập trung lực lượng lao động có trình độ cao... để hình thành các công ty cổ phần có quy mô lớn đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
3.4.Tăng cường chế độ hạch toán kinh tế
Trong nền kinh tế bao cấp với chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm đã làm vô hiệu hoá tác dụng cuả vốn .Các doanh nghiệp nhà nước phần lớn được nhà nước cấp hoặc vay vốn tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp, nên họ không quan tâm,đến vấn đề tính toán hiệu quả sử dụng vốn.Làm sao vay được càng nhiều càng tốt.Trong quá trình sản xuất kinh doanh nếu bị lỗ thì có nhà nước chịu.Do đó vai trò của vốn bị "lu mờ" ,nó không có tác dụng thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế,tính toán hiệu quả việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường muốn có vốn để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải tiến hành đi vay trên thị trường. để có được quyền sử dụng vốn các doanh nghiệp phải trả một tỷ lệ lãi suất nhất định.Giá cả hàng hoá vốn (lợi tức ) do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định "thuận mua - vừa bán " .Do đó ,buộc các doanh nghiệp phải tính toán hỉệu quả sử dụng vốn,làm thé nào để đảm bảo sản xuất , kinh doanh có lợi nhuận và trả được lãi vay ngân hàng. Như vậy, nguồn vốn tín dụng ngân hàng dã góp phần tăng cường củng cố chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
Tóm lại , muốn phát triển kinh tế phải tiến hành đầu tư, muốn đầu tư cần phải có vốn. Vốn trong nền kinh tế thị trường đã trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu của mọi quá trình đầu tư .một trong số các nguồn vốn trong nước không thể thiếu được, nhằm góp phần đáp nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội đó là nguồn vốn tín dụng huy động qua NHTM. Nguồn vốn này sẽ không nhỏ và ngày càng tăng- đó là cơ sở để phát triển kinh tế-xã hội
III. Các biện pháp huy động vốn trung và dài hạn của NHTM
1. Tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với NHTM
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động của nó chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như đã phân tích ở trên ,để cho hoạt động ngân hàng diễn ra một cách tr._.ôi chảy thì nguồn vốn có vay trò quyết định tới quy mô hoạt động của ngân hàng . Nguồn vốn của ngân hàng sẽ quyết định khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế, khả năng kích thích phát triển kinh tế .Mặt khác nó còn đảm bảo uy tín ngân hàng trên thị trường tài chính. Để làm được điều đó thì NHTM phải có một nguồn vốn dồi dào phong phú.
Trong bài "Chiến lược huy động vốn của NHĐT và PTVN " đồng chí Nguyễn Văn Doãn đã từng phát biểu:
" Vốn là khâu mở đường, khâu cốt tử, quyết định quy mô tầm cỡ của một ngân hàng .
-Vốn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành luật pháp, trước hết là các luật về ngân hàng; nó tạo thuận lợi trong kinh doanh.
-Vốn lớn tạo điều kiện cho việc mở ra nhiều dịch vụ, sản phẩm ngân hàng và phi ngân hàng .
-Vốn lớn mà lại trường vốn sẽ tạo thế và lực cho đầu tư phát triển dài
hạn
-Vốn mà biết khai thác, sử dụng có hiệu quả sẽ càng củng cố thế và lực, tạo uy tín ngày càng cao ở trong và ngoài nước, trong ngân hàng và ngoài ngân hàng ".
Thật vậy ,nếu một NHTM nào đó mà có một nguồn vốn lớn thì nó rất có lợi trong việc cạnh tranh trên thị trươngf tiền tệ.Nhưng về nguyên tắc, các NHTM là trung giăn tài chính hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực vốn ngắn hạn do đó việc tạo lập một nguồn vốn lớn và tính có tính chất lâu dài thì rất khó khăn.Vì thế các NHTM đă mở rộng các khả năng hoạt động của mình như việc đi vay vốn thời hạn ngắn và cho vay lại với thời hạn dài hơn, tất nhiên trong quá trình này đã gặp không ít khó khăn đi kèm với rủi ro và việc khắc phục rủi ro này đã trỏ thành phương thức kinh doanh của mỗi ngân hàng
Song không phải vì điều đó mà các NHTM lại không thể hoạt động trên lĩnh vực vốn trung và dài hạn.Nhưng các NHTM cần phải tìm ra những biện pháp thích hợp để huy động được ngày càng nhiều hơn nguồn vốn này để cho vay như:
Tăng cường nguồn tiền gửi có kỳ hạn với thời gian dài.
Duy trì và đẩy mạnh hình thức tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở .
Phát hành kỳ phiếu,trái phiếu ngân hàng ra công chúng có nhiều hình thức hấp dẫn.
Tận dụng những nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài ..
Trong quá trình hoạt động,ngân hàng luôn tiến hành kế hoạch nguồn vốn nhằm nắm được biến động của từng loại vốn huy động giữa các ngành, các thành phần kinh tế, từ đó có biện pháp để điều hoà vốn theo mục tiêu hoạt động của ngân hàng,khai thác tốt các nguồn vốn nhằm tăng tốc độ chuyển vốn qua ngân hàng ,tập trung được nguồn tiền nhàn rỗi biến thành vốn hoạt động mang lợi nhuận cho cả ngân hàng và người sở hữu tiền tệ.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là một nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng.Khả năng và hiệu quả vốn của tất cả các ngân hàng phụ thuộc vào các nhân tố sau:
2.1. Lãi suất
Đối với mỗi khách hàng có tiền gửi tại NHTM nào đó, Vấn đề quan tâm đầu tiên của họ là vấn đề lãi suất- đay là căn cứ quan trọng để quyết định là có nên gửi tiền vào ngân hàng đó hay không?Do đó,khi ngân hàng muốn huy động được nhiều vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì họ đưa ra một cơ chế lãi suất huy động hợp lý có sức thu hút và kích thích được người gửi tiền.Tuy nhiên,đây không phải là một việc đơn giản đối với một NHTM
Bởi vì hoạt động tín dụng của NHTM là quá trình "đi vay để cho vay " cho nên ngân hàng không thể đưa ra mức lãi suất huy động tuỳ ý,mà còn phải phụ thuộc vào mức lãi suất cho vay ra của ngân hàng, phù hợp với sức chịu đựng chung của nền kinh tế.Trong nềm kinh tế thị trường, lãi suất huy động vốn của NHTM thường phụ thuộc vào yếu tố sau:
Thời gian đáo hạn của khoản tiền gửi.
Khả năng chuyển hoán giữa các kỳ hạn.
Tỷ lệ lạm phát dự kiến
Mức rủi ro và lợi nhuạn mang lại từ các khoản đầu tư khác .
Lãi suất cho vay mà ngân hàng có thể áp dụng đối với mỗi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế ...
Ngoài mức lãi suất cụ thể ,các hình thức khác cũng có tác dụng kích thích người gửi tiền như : phương thức trả lãi ( trả lãi trước hoặc trả lãi hàng tháng ),được hưởng lãi như thế nào nếu rút tiền trước thời hạn ...
2.2 Nguồn lực của ngân hàng
Thông thường các khách hàng luôn mong muốn được giao dịch với những ngân hàng có bề dày kinh nghiệm trong hoạt động ,có uy tín trên thị trường tiền tệ.
Bên cạnh đó ,nguồn lực của ngân hàng cũng là điều mà khách đặc biệt quan tâm; nguồn lực ở đây chính là cơ sở vật chất và yếu tố con người.
-Cơ sở vật chất là điều kiện cần thiết và quan trọng để đánh giá tình hình hoạt động của mỗi ngân hàng. Khi một cá nhân nào đó có nhu cầu đến gửi tiền vào ngân hàng thì họ rất mong muốn tìm đến một ngân hàng có đủ độ tin cậy, điều đó có nghĩa là hình thức bề ngoài sẽ quyết định sự lựa chọn của họ: trụ sở, trang thiết bị... chỉ cần dựa vào đó thì cá nhân này sẽ biết là sẽ nên gửi vào nơi nào? Ngoài ra, vấn đề về địa điểm và mạng lưới chi nhánh cũng được xem là quan trọng.
-Yếu tố con người có tầm quyết định tương đối đặc biệt cho hoạt động của một ngân hàng. Nếu khi đến một ngân hàng nào đó mà thái độ nhân viên ở đây vui vẻ, lịch sự, phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo và tác phong làm việc nhanh nhẹn thì ngân hàng này sẽ để lại ấn tượng rất tốt đẹp trong khách hàng. Nếu làm được diều này thì đó chính là điểm mạnh của mỗi một ngân hàng . Đây là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
2.3. Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng
Khi một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thì ngân hàng đó thường có lợi thế hơn các ngân hàng khác có dịch vụ giới hạn. Chính vì điều này mà ở các nước phát triển, bằng việc tao ra nhiều hoạt động dịch vụ( có bãi gửi xe rộng rãi, có quầy giao dịch gần đường, có hệ thống chi trả tự động ...) mà hệ thống ngân hàng của họ ngắn liền với cuộc sống của người dân.
Nếu một khách hàng sẽ rất thích thú khi gửi tiền vào một ngân hàng mà ở đó ngân hàng có thể thay mặt anh ta thực hiện các khoản thanh toán về hangf hoá, các dịch vụ khác...
3. các biện pháp huy động vốn trung dài hạn
Có các hình thức huy động vốn trung dài hạn cơ bản như sau:
3.1. Huy động tiền gửi có kỳ hạn dài:
Tiền gửi có kỳ hạn, giống như tiền gửi không kỳ hạn: là một khoản cho vay của người gửi đối với ngân hàng. Điều khác nhau cơ bản của 2 loại này là tiền gửi có kỳ hạn không được rút ra khi cần. Do đó loại hình tiền gửi có kỳ hạn được coi là nguồn vốn ổn định đối với ngân hàng và các NHTM rất chú trọng trong việc huy động nguồn tiền gửi này với kỳ hạn càng dài càng tốt .
Để huy động được nguồn tiền gửi có kỳ hạn dài ,cần phải định ra nhiều loại kỳ hạn gửi tiền như 3 tháng, 6 tháng , 1 năm ,2 năm ,3 năm ,5 năm ,... và có đến 10 năm .Về nguyên tắc lãi suất trung và dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn , thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao ,vượt mức chịu đựng của nền kinh tế .Thông thường người gửi tiền có kỳ hạn dài lo âu là khi cần chuyển đổi khoản tiền này thành một thanh khoản họ sẽ gặp khó khăn ,hoặc có lạm phát ,giá trị tiền tệ của họ sẽ bị thiệt hại ; hoặc các ngân hàng phá sản ,họ sẽ không thu hồi được khoản tiền gửi .Vì vậy vấn đề đặt ra là các ngân hàng cần thực sự quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi gửi tiền dài hạn . Các khoản lãi phải được trả đúng hạn , nhập vốn đúng hạn theo ý muốn của người gửi .Trong trường hợp có lạm phát mạnh,giá trị tiền gửi cần phải được bảo đảm .Những quy định trên cần phải công bố cho mọi người đều biết và phải được pháp luật bảo vệ .
Nhìn chung trong nền kinh tế Việt Nam,thì hệ thống NHTM của chúng ta hiện nay chưa hội đủ những điều kiện cần thiết để huy động vốn qua hình thức tiền gửi có kỳ hạn dài.Tuy nhiên,về lâu dài nếu có sự quan tâm đúng mức của nhà nước và sự nhận thức đầy đủ của các NHTM về nguồn vốn này,lúc đó nó sẽ trở thành một trong những nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng của các NHTM .
3.2. Huy động tiền gửi tiết kiệm dài hạn
Đây là hình thức huy động vốn hấp dẫn của các NHTM .Bởi những người gửi tiết kiệm loại này thường nhằm vào những mục đích nhất định như mua mhà ở, trang trải chi phí học tập cho con cái trong tương lai....Bên cạnh được hưởng lãi suất cao, những người gửi tiết kiệmcòn hy vọng sẽ có được sự giúp đỡ của các ngân hàng trong việc thực hiện mục đích của họ. Do đó để huy động tiền gửi tiết kiệm theo loại này các NHTM cần phải tạo ra sự hấp dẫn nhất là phải chú trọng đến các yếu tố giá rẻ, thủ tục mua bán dễ dàng thuận lợi, kể cả vị trí, chất lượng của các loại hàng hoá mà người gửi tiền muốn đạt đến. Mà muốn đạt được điều đó các ngân hàng phải phối hợp với các tổ chức cung cấp như : các tổ chức kinh doanh xe máy, tổ chức kinh doanh các thiết bị gia đình hiện đại ... hoặc có thể thực hiện hộ khách hàng các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, tạo sự thoải mái cho khách hàng nhằm kích thích họ gửi tiết kiệm.
3.3. Huy động qua việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng:
kỳ phiếu ngân hàng hay chứng thư tiền gửi là một lọai hình phiếu nợ do ngân hàng phát ra để vay tiền trên thị trường.
Có 2 cách để phát hành loại chứng thư này:
Một là: khi có các đối tượng đến vay để sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng theo hợp đồng với ngân hàng, ngân hàng phát hành chứng thư cho các đối tượng đầu tư, hoặc muốn gửi tiền vào ngân hàng. Thay vì nhận một cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn, họ có thể nhận một loại chứng thư này. Xét về mặt hình thức, kỳ phiếu ngân hàng là một loại hình phiếu nợ, nó có đặc điểm sau:
- Giá trị bề mặt, tức là mệnh giá của nó được ghi bằng những con số như một đơn vị tiền mặt. ở Việt nam, mệnh giá có thể là 500 ngàn, 1 triệu, 2 triệu.....Đơn vị của loại kỳ phiếu này không qúa nhỏ như tiền mặt.
- Điều quan trọng nhất, nó là phiếu nợ do NHTM phát hành để vay tiền của dân, do vậy khi người dân bằng cách nào đó có trong tay một tờ phiếu ngân hàng có mệnh giá chẳng hạn là 1 triệu anh ta thực sự sở hữu một quyền được thanh toán, được chi tiêu với số tiền đến mức tối đa như giá trị bề mặt của kỳ phiếu.
Khi NHTM phát ra loại kỳ phiếu này, nó hướng tới việc vay tiền của thị trường, của nhân dân và kỳ phiếu là giấy xác nhận khoản vay này. Do đó điều quan trọng thứ 2 là vì nó là một khoản vay, cho nên trên chứng thư có ghi rõ thời hạn sẽ trả lại bằng tiền mặt ( 6 tháng, 1 năm, 2 năm...) và lãi suất người cho vay được hưởng. Đến ngày đáo hạn cuối cùng người sở hữu kỳ phiếu đem nộp nó cho ngân hàng phát hành để nhận lại cả vốn và lãi theo mệnh giá.
- Đối với NHTM, đây là hình thức của tiền gửi có kỳ hạn.Cái khác nhau là ở chỗ có tiền gửi có kỳ hạn thông thường có thể đổi thành tiền mặt khi chưa đến hạn nếu chịu lãi suất phạt, còn kỳ phiếu thì không thể được. Do vậy, vốn thu được từ phát hành kỳ phiếu giúp ngân hàng trong việc kinh doanh hơn so với vốn từ tiền gửi có kỳ hạn.
- Các NHTM phát hành kỳ phiếu có mục đích ,cụ thể về nhu cầu nguồn vốn của mình .Do đó, nó bị khống chế về khối lượng cũng như thời hạn.
- Các NHTM phát hành kỳ phiếu với nhiều thời hạn khác nhau như: 3tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng... cả bằng nội và ngoại tệ .
Khả năng vay vốn của NHTM thông qua việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
+Mức độ chấp nhận của nhân dân đối với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông.
+ Sự khuyến khích hay không của NHNN
+ Hiệu quả sử dụng đồng vốn đã vay được.
Thực tế, khi NHTM quyết định vay của thị trường bằng hình thức này, bao giờ họ cũng có sẵn những kế hoạch đầu tư nhất định và chắc chắn có hiệu quả.
3.4. Huy động qua việc phát hành trái phiếu tiết kiệm
Đây là loại hình tiền có kỳ hạn bằng cách dùng tiền mặy để mua các phiếu ghi nợ tiết kiệm do Chính phủ , chính quyền địa phương hay là các công ty, ngân hàng phát hành ra. Về hình thức trái phiếu tiết kiệm có những điểm giống với kỳ phiếu ngân hàng , nhưng nó có thời hạn dài hơn.
Hiện nay ở Việt Nam thì NHĐT & PTVN là một trong những đơn vị dẫn đầu trong việc phát hành loại trái phiếu này, nhằm mục đích thành lập thị trường chứng khoán sắp tới để tiếp tục phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
3.4.1 Khái niệm về trái phiếu:
Trái phiếu NHTM,NHĐT&PT gọi tắt là Trái phiếu ngân hàng, là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua ( hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định. Về phía người mua, trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số tiền mua trái phiếu ngân hàng . Nói cách khác, trái phiếu NHTM là một chứng chỉ nợ do NHTM phát hành, cam kết:
1. Thanh toán một số tiền xác định ( Mệnh giá trái phiếu);
2.Vào một ngày xác định trong tương lai ( Ngày đáo hạn):
3.Với một mức lãi suất cố định và trong thời hạn xác định trước ( Lãi suất ngân hàng ).
a. Mệnh giá trái phiếu :
Trên bề mặt của trái phiếu ngân hàng, thường công bố số tiền mà ngân hàng cam kết trả cho người chủ sở hữu trái phiếu . Số tiền này được gọi là mệnh giá hay giá trị danh nghĩa của trái phiếu.
.... nước ngoài, các trái phiếu có thể được phát hành trong khoảng từ 50USD đến 10.000USD. Còn ở Việt Nam thì NHNN quy định mệnh giá của trái phiếu từ 500 ngàn VNĐ trở lên.
b. Ngày đáo hạn:
Ngày đáo hạn cũng được ghi trên bề mặt của trái phiếu . Đây là ngày mà ngân hàng sẽ thanh toán mệnh giá của trái phiếu cho ngươoì chủ sở hữu trái phiếu.
Ngày này cũng có thể được coi là ngày đến hạn của trái phiếu. Thường thì các kỳ hạn của trái phiếu rất đa dạng cho phù hợp với các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Thời hạn của thị trường trái phiếu có thể là 1năm , 3 năm , 5năm,10 năm,...
Khái niệm này có ảnh hưởng đáng kể đến lãi suất của trái phiếu và độ nhạy cảm của trái phiếu trước sự biến động của lãi suất.
c. Lãi suất danh nghĩa:
Mỗi tờ trái phiếu có ghi cam kết của ngân hàng thanh toán cho chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi cố định vào một ngày xác định. Lãi suất thường được công bố theo tỷ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá trái phiếu . Mặc dù lãi suất được tính toán cho năm, song nó thường được trả năm đầu , khác so với năm thứ 2 trở đi trả khác.
d.Giá phát hành:
Là giá phải trả để đặt mua trái phiếu vào dịp phát hành. Giá phát hành được sửa lại cho đúng lúc cuối cùng để xuất lợi tức của trái phiếu phù hợp với lãi suất trên thị trường vốn. Nếu giá phát hành mà cao hơn mệnh giá ta gọi là tiền thưởng phát hành còn nếu giá phát hành thấp hơn thì phần thấp hơn đó gọi là chiết khấu phát hành.
e. Phiếu tính lãi (Coupon):
Là phiếu mà người sử dụng trái phiếu có thể sử dụng để rút lãi định kỳ (đối với trái phiếu phát hành có nhiều đợt trả lãi).
3.4.2 Tính ưu thế của hình thức huy động vốn bằng trái phiếu:
Nếu xét về tính thanh khoản thì tài sản nợ lỏng nhất là tiền gửi phát hành séc. Các loại tiền gửi này gần như tiền mặt và trên thực tế chúng thay tiền mặt trong chức năng làm phương tiện thanh toán.
Mặt khác , kỳ phiếu ngân hàng và trái phiếu ngân hàng là loại tiền gửi phi giao dịch . Tuy nhiên, chúng lại có thể bán được (chuyển nhượng quyền sở hữu) một cách dễ dàng trên các thị trường liên quan. Tuy không "lỏng" bằng tiền gửi có thể phát hành séc song trái phiếu ngân hàng lại là một nguồn vốn quan trọng có tỷ trọng lớn , ổn định hơn và thời hạn dài hơn. Chính điều này khiến cho hình thức huy động tiền gửi bằng cách phát hành trái phiếu rất được ưa chuộng bởi vì ngân hàng có thể sử dụng được nguồn vốn này trong một thời gian dài và ổn định chi phí lại không cao ( do tính chất có thể chuyển nhượng được của trái phiếu khiến cho nó từ một công cụ đầu tư dài hạn đối với người đầu tư thành công cụ đầu tư ngắn hạn do đó lãi suất thấp )
Kém lỏng nhất là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn vì trên nguyên tắc một khi khách hàng đã gửi tiền tiết kiệm thì họ chỉ được rút ra khi đến hạn. Mặc dù do sự tranh dành các món gửi, một số ngân hàng cho phép những người gửi rút tiền khỏi các tài khoản tiết kiệm của họ ngay và có những khoản phạt đáng kể ( bị mất tiền lãi một vài tháng hoặc chỉ được tính lãi theo lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn - mà lãi suất này lại rất là thấp )
Nếu đem trái phiếu so với nguồn tiền gửi này thì giống nhau ở chỗ là: ngân hàng được quyền sử dụng vốn này trong một thời hạn xác định do đó nó rất dễ dàng cho ngân hàng trong việc kế hoạch hoá, tuy nhiên ngân hàng có thể chịu lãi suất cao hơn khi sử dụng nguồn tiết kiệm có kỳ hạn hơn là từ nguồn phát hành trái phiếu.
Về phía người đầu tư, tức người gửi tiền, chắc chắn họ sẽ thích trái phiếu hơn bởi lẽ một khi đã mua trái phiếu thì họ lúc nào cũng có thể bán lại trên thị trường liên quan và thu hồi lại vốn gốc bởi lẽ những rủi ro và khó khăn mà người mua trái phiếu chưa lường hết được khi mua trái phiếu và đôi khi còn có tính đầu cơ , tuy nhiên họ không thể làm điều tương tự đối với tiết kiệm có kỳ hạn
Bảng1: Mức độ "lỏng" của các khoản mục trong nguồn vốn huy động
Các hình thức huy động
Mức độ lỏng
Chi phí cho việc vay tiền
Tiết kiệm có kỳ hạn
Thấp
Cao
Tiết kiệm không kỳ hạn
Cao
Thấp
Kỳ phiếu ,trái phiếu
Cao
Cao
Tiền gửi phát hành séc
Cao nhất
Thấp nhất
- Theo lý thuyết lượng cầu tài sản,khi trả lời câu hỏi là có nên mua hoặc nắm giữ tài sản hoặc nên mua tài sản này hay là mua tài sản khác thì cần xem xét những yếu tố sau:
+ Toàn bộ tiềm lực hiện có của mình ;
+ Lợi tức sự tính của một tài sản này so với các lợi tức dự tính của những tài sản thay thế ;
+ Mức độ không chắc chắn hoặc rủi ro đi kèm với lợi tức của một tài sản so với tài sản thay thế ;
+ Tính thanh khoản của một tài sản so với các tài sản thay thế nghĩa là nó có thể nhanh chóng và dễ dàng chuyển sang tiền mặt như thế nào?
Như vậy , qua phân tích trên thì ta cũng hiểu rằng khi đem đầu tư một số tiền thì ta sẽ phải chọn hình thức nào trong khi điều kiện về tiềm lực kinh tế tương đối ổn định.
Mặt khác, xét trên phương diện thị trường chứng khoán thì trái phiếu là một hàng hoá rất được ưa chuộng . Nếu đầu tư vào trái phiếu thì người sở hữu không phải lo lắng về độ an toàn , lãi suất cũng như thời hạn hoàn trả vốn . Do đó, để trái phiếu phát huy được thế mạnh của mình thì thị trường chứng khoán là một môi trường thuận lợi nhất cho các sản phẩm huy động vốn.
CHƯƠNG II
THựC TRạNG Về HUY ĐộNG VốN TRUNG Và DàI HạN qua phát hành trái phiếu tại NGÂN HàNG ĐầU TƯ & PHáT TRIểN Hà NộI
i. một số nét về kinh tế chính trị xã hội trên địa bàn hà nội.
Một số nét về phát triển kinh tế ở nước ta năm 2001.
Năm 2001 kết thúc với một kết quả khả quan hơn hẳn so với nhận định trong những tháng đầu năm, bằng những biện pháp kiểm soát tiền tệ
Quản lý ngoại hối thích hợp,đẩy mạnh đầu tư từ ngân sách nhà nước đã khiến chỉ số lạm phát đạt mức thấp nhất từ khi bắt đầu công cuộc cải cách.Tăng trưởng 4,7-5%GDP, dự trữ được cải thiện,nợ thương mại Ngân hàng được kiểm soát góp phần cải thiện những cân đối vĩ mô.Nông nghiệp thắng lợi toàn diện đạt sản lượng 33,8 triệu tấn xuất khẩu lương thực đạt 4 triệu tấn,cà phê tăng 9,9%.Xuất khẩu tăng vượt xa dự kiến đạt khoảng 11,3 tỷ USD,nhập khẩu giảm âm2%làm cho các cân thương mại trở lên lớn mạnh hơn,nhập siêu chỉ còn 600 triệu USD bằng 5,6% xuất khẩu mức thấp nhất từ trước đến nay đã góp phần cải thiện cán cân thnh toán quốc tế.Công nghiệp chiếm 3,2% GDP đạt mức tăng trưởng 10,5% thuỷ sản tăng 2,4% là một kết quả đáng ghi nhận mở ra triển vọng to lớn cho Việt nam bước vào thế kỷ XXI.
Tuy vậy qua tình hình kinh tế năm2001cũng vẫn cho ta thấy tình hình giảm sút kinh tế bắt đầu xuất hiện (1997 tăng 9,54%; năm 1998 tăng 9,34%;năm 1999 tăng 8,12%;năm 2000 tăng 5,8%; và năm 2001 tăng 4,7%) .Như vậy có thể thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế năm2001 đạt mức thấp nhất từ khi đổi mới đến nay .Chất lượng của tăng trưởng và năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện, nhiều biện pháp cải cách cần thiết chưa được thực hiện có hiệu quả .Tỷ lệ huy động vốn trong các ngân hàng tăng215% song dưnợ tín dụng chỉ tăng 9,5% cho thấy sự giảm lãi suất vẫn chưa đem lại bước cải thiện rõ rệt trong đầu tư kinh doanh.
Khái quát tình hình kinh tế của thành phố Hà Nội .
Năm 2001 nền kinh tế của thành phố tiếp tục tăng trưởng khá, mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đơì sống nhân dân thủ đô được ổn định và nâng lên rõ rệt.
Tăng trưởng (GDP) đạt:
Nông nghiệp: 5,8%
Công nghiệp -xây dựng : 5,8%
Các ngành dịch vụ: 5,8%
Tổng sản lượng lương thực đạt % tấn:
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt % USD:
Thu ngân sách từ kinh tế phát sinh trên địa bàn triệu đồng;
Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên %:
Đạt được những thành tích trên là do:
Sự ổn định về chính trị, sự đoàn kết nhất trí cao của toàn Đảng toàn dâncác cấp các ngành của thủ đô.
Cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước ngày càng hoàn thiện ,đồng bộ.
Sau hơn 10 năm đổi mới chúng ta đã có một nền kinh tế tương đối ổn định và tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao.
Chúng ta đã có những kinh nghiệm bài học thực tiễn trong công tác chỉ đạo điều hành đã được tích luỹ trong những năm qua.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiẻm tra trên các lĩnh vực tài chính.
Những tồn tại yếu kém chưa làm được:
Thu ngân sách trên địa bàn đạt và vượt kế hoạch, nhưng một số khoản còn thấp.
Việc thực hiện một số chủ trương dự án còn chậm, chưa có giải pháp cụ thể.
Phần lớn các cơ sở sản xuất công nghiệp quốc doanh còn thiếu vốn lưu động, công nghệ còn lạc hậu cơ chế quản lý trình độ quản lý còn lúng túng chưa thoát ra được.
Cơ sở hạ tầng tuy đã được đầu tư trong những năm qua nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Một số vấn đề văn hoá- xã hội còn bức xúc, phải tiếp tục giải quyết.
II. KHáI QUáT Về TìNH HìNH HOạT ĐÔNG KINH DOANH TạI CHI NHáNH NGâN HàNG ĐầU TƯ & PHáT TRIểN Hà NộI .
1.Sơ lược về lịch sử Ngân hàng .
Ngân hàng Đàu tư & Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Hà Nội gọi tắt là Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội .
Trụ sở tại 4B- Lê Thánh Tông-Quận Hoàn Kiếm -Hà Nội. Được thành lập từ ngày 27/05/1957 với tên gọi ban đầu là Ngân hàng kiến thiết Hà Nội , nằm trong hệ thống Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài Chính.
Nhiệm vụ của Ngân hàng là nhận vốn từ Ngân sách nhà nước để tiến hành cấp phát và cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Năm 1982, Ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng đầu tư và xây dựng Hà Nội nằm trong hệ thống Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam.
Tháng 5/1992 Hội đồng Nhà nước đã ban hành 2 pháp lệnh về Ngân hàng đó là: Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và pháp lệnh Ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính để nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống Ngân hàng cho thích ứng với cơ chế thị trường.
Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 01/10/1992. Theo đó hệ thống Ngân hàng bao gồm 2 cấp:
-Ngân hàng trung ương là Ngân hàng nhà nước Việt Nam
-Các Ngân hàng thương mại,Ngân hàng đầu tư & phát triển,Công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng.
Theo quy định của pháp lệnh, ở Việt Nam chỉ được thành lập Ngân hàng đầu tư & phát triển quốc doanh. Ngày 14/11/1993, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết đínhố 401 về việc thành lập "ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam ". Có trụ sở tại 194 Phố trần Quang Khải -Hà Nội.
Vốn điều lệ 200 tỷ đồng.
Có các chi nhánh trực thuộc tại các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương.
Từ đầu năm 1997, toàn bộ vốn cấp phát và một bộ phận cán bộ được bàn giao sang cục đầu tư phát triển thuộc Bộ tài chính.
Như vậy từ ngày thành lập tới 01/01/1997 chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội khong hoàn toàn là một ngân hàng thương mại mà chỉ là một kiểu ngân hàng quốc doanh có nhiệm vụ nhận vốn từ ngân sách nhà nước và tiến hành cấp phát, cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Từ sau 01/01/1997 chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội được phép huy động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế như một Ngân hàng thương mại để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và dân cư. Hiện nay chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội hoạt động như một ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng tổng hợp, nhưng lĩnh vực chủ yếu là phục vụ đầu tư và phát triển với khối khách hàng truyền thống là các đơn vị xây lắp .
-Với phương châm "Đi vay để cho vay" và "Khách hàng là thượng đế " quy mô của Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội đã được mở rộng và ngày càng phát triển cụ thể:
Chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội có 16 phòng và 320 cán bộ (kể cả chi nhánh trực thuộc). Trong đó có 6 phòng chức năng và 10 phòng trực tiếp kinh doanhđó là:
1/ Phòng tổ chức cán bộ và tiền lương.
2/ Phòng tín dụng 1
3/Phòng tín dụng 2
4/Phòng tín dụng 3
5/ Phòng tín dụng 4
6/ Phòng kinh tế đối ngoại và thanh toán quốc tế
7/ Phòng huy động vốn dâncư
8/ Phòng tài chính ,kế toán
9/Phòng nguồn vốn kinh doanh
10/Phòng tiền tệ ,kho quỹ
11/ Phòng thông tin điện toán
12/ Phòng thẩm định và tư vấn đầu tư
13/ Phòng kiểm tra nội bộ
14/ Văn phòng
15/ Phòng giao dịch 1
16/Phòng giao dịch 2
Ngoài ra chi nhánh còn có 3 chi nhánh khu vực đống trên địa bàn các huyện là:
Chi nhánh khu vực Thanh Trì
Chi nhánh khu vực Từ Liêm
Chi nhánh khu vực Đông Anh
Phải nói rằng, sự thay đổi này có ảnh hưởng rất lớn tới tổ chức hành chính và hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội do đó trong quá trình hoạt động ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội đã gặp không ít khó khăn.
Để phù hợp với hoàn cảnh mới ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội đã đưa ra chiến lược hoạt động cụ thể như sau:
Chiến lượckinh doanh: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mục tiêu cho mọi hoạt động. Hiệu quả an toàn trong kinh doanh là tiêu chuẩn hàng đầu. Đáp ứng cao nhất các yêu cầu của khách hàng. Hành động theo điều khoản, quy điịnh của ngân hàng đầu tư & phát triển trung ương( NHĐT&PTTW) và pháp luật.
-Chiến lược khách hàng: Ngân hàng phải hoạt động xuất phát từ yêu cầu của khách hàng, đa phương hoá khách hàng, củng cố và phát triển khách hàng truyền thống, mở rộng khách hàng, thu hút thêm khách hàng đến gửi tiền.Đặc biệt là có hoạt động đối ngoại để tạo ra sự cân đối về các loại tiền trong cơ cấu huy động vốn cũng như mở rộng các dịch vụ quốc tế.
-Chiến lược vốn: Đa dạng hình thức huy động vốn, tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn. Tăng nguồn tiền gửi, làm tốt chức năng ngân hàng đại lý.
-Chiến lược sử dụng vốn: Đa dang hoá sản phẩm. Tập trung dự án cho doanh nghiệp có hiệu quả. Gắn liền với chiến lược huy động vốn. Mở rộng cho vay thương mại nhưng không chạy theo doanh số mà thoả hiệp với rủi ro. Mở rộng liên kết với ngân hàng cùng hệ thống, tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong thẩm định dự án cho vay.
Chiến lược nguồn lực: Cán bộ trong ngân hàng đầu tư & phát triển.Phải thống nhất hành động. Các trưởng, phó phòng phải có quyết tâm ý chí không ngừng đào tạo cán bộ dưới nhiều hình thức, chăm lo cải thiện đời sống cán bộ trong ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội .
- Chiến lược quản trị: Tổ chức bộ gọn nhẹ và quản lý điều hành là khâu quyết định.
- Chiến lược công nghệ: Phát huy công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Công nghệ đồng bộ, thực hiện nối mạng. Đặc biệt, thực hiện công nghệ là đầu mối với khách hàng ( trang bị máy rút tiền tự động ATM phục vụ người sử dụng thẻ cá nhân an toàn ).
-Chiến lược cạnh tranh: thực hiện chính sách lãi suất cạnh tranh, tạo ra hình thức cạnh tranh mới. Đó là cạnh tranh bằng uy tín và phong cách phục vụ khách hàng, cạnh tranh qua các sản phẩm dịch vụ.
Các chiến lược trên được thực hiện đồng bộ trong tất cả các phòng ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội, thường xuyên có sự điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh mới và trong thời gian vừa qua đã đạt được những hiệu quả nhất định.
2. Những khó khăn và thuận lợi của Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội.
2.1. Những khó khăn
Tuy là một trong những Ngân hàng ra đời sớm (cách đây đã 43 năm) nhưng tới đầu năm 1997 chi nhánh ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội mới thực sự chuyển hẳn sang kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trong quá trình chuyển đổi này, ngân hàng đã vấp phải những khó khăn nhất định. Cụ thể:
-Từ 01/01/1997 Ngân hàng phải tiến hành chuyển toàn bộ nguồn vốn do ngân sách cấp trả về Tổng cục đầu tư phát triển trực thuộc bộ tài chính.Nguồn vốn này, theo số liệu của bảng cân đối nguồn và sử dụng nguồn cuối năm 1996 tại chi nhánh là khoảng 900 tỷ. Điều này đã gây một sự hẫng hụt ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng.
-Mô hình tổ chức phục vụ cho cơ chế kinh doanh chưa phù hợp.Việc sắp xếp các phòng ban và cán bộ chưa hợp lý.
-Đội ngũ cán bộ của ngân hàng mặc dù có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực xây cựng cơ bản nhưng khi chuyển sang cơ chế kinh doanh như một ngân hàng thương mại đã tỏ ra lúng túng, chưa nhanh nhạy và chưa thực sự hoà mình vào phong cách quản lý kinh doanh mới. Điều này ảnh hưởng bởi cơ chế gò bó trước kia.
-Ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong một môi trường có tính cạnh tranh rất lớn từ hơn 70 ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước cũng như nước ngoài, lãi suất thay đổi liên tục theo chiều hướng giảm dần. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng của chi nhánh chưa phát triển mạnh, chưa đa dạng và nhiệm vụ cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch nhà nước không chỉ do Ngân hàng đầu tư & phát triển đảm nhiệm mà còn do Tổng cục Đầu tư phát triển thực hiện, tạo ra sự cạnh tranh mới. Mặt khác,ngân hàng cũng có sự thua thiệt khi bước vào cơ chế mới chậm hơn so với các đối thủ khác trong cùng địa bàn đã sẵn có khả năng thu hút khách hàng.
2.2. Những thuận lợi
Tuy có những khó khăn trên, ngân hàng cũng có những thuận lợi cơ bản:
Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam đã triển khai kịp thời hệ thống cơ chế mới cùng những thông tin, quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi hoạt động của toàn hệ thống.
Bước vào hoạt động như một ngân hàng thương mại, Ngân hàng có thể tranh thủ kế thừa, học hỏi được những kinh nghiệm rút ra những thành công, thất bại ở các ngân hàng khác.
Nằm trên địa bàn sôi động là quận hoàn kiếm- một quận trung tâm về kinh tế, thương mại của thủ đô- ngân hàng có điều kiện thuận lợi để phát triển các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh, các loạt hình dịch vụ một cách đa dạng. Mặt khác, các nguồn huy động từ tiền gửi khách hàng, tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tiết kiệm từ dân cư là rất phong phú giúp cho Ngân hàng có khả năng đáp ứng tối đa nhu cầu của các doang nghiệp.
Ngân hàng với chính sách ._.g thành công qua việc phát hành trái phiếu NHĐT&PTHN cũng còn có những hạn chế nhất định dưới đây ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn:
Mặc dù đã chuẩn bị khá chu đáo nhưng thời gian chuẩn bị của các đợt phát hành trái phiếu tương đối ngắn, nhất là cho thời gian dành cho tập huấn của cán bộ giao dịch, cho nên những ngày đầu phát hành chưa được trôi chảy, đặc biệt là khâu hướng dẫn khách hàng khi viết tờ khai cũng như quy trình mua trái phiếu.Hơn nữa vì thời gian tập huấn quá eo hẹp dẫn đến tình trạng một số cán bộ nắm các chế độ chưa sâu sắc cho nên chưa thuyết phục được khách hàng thấy được mặt lợi của đầu tư trái phiếu so với việc đầu tư khác, việc tính toán mệnh giá cho khách hàng còn lúng túng do đó chưa tạo được lòng tin của khách hàng.
Công tác tổ chức chưa tốt, khi lượng khách hàng tham gia đôn ng, công tác tuyên truyền quảng cáo chưa linh hoạt, chưa cập nhật những thông tin cần thiết nhất đối với khách hàng.
Ngoài những hạn chế trên còn có một số yếu tố khác gây ảnh hưởng không nhỏ, cụ thể:
+ Năm 2000:
Lãi suất huy động thay đổi liên tục, bên cạnh đó tỷ giá ngoại tệ biiến động đã gây ảnh hưởng cho tâm lý người mua trái phiếu.
Mệnh giá nhỏ đã gây khó khăn cho khách hàng trong việc cất giữ.
Quá trình thực hiện một giao dịch khá lâu, gây khó chịu cho khách hàng.
+ Năm2001:
Vì năm này NHĐT&PTVN không phát hành loại trái phiếu kỳ hạn một năm do đó đã làm giảm tiến trình huy động, vì trên thực tế nhu cầu về trái phiếu kỳ hạn ngắn vẫn là chủ yếu mặc dù NHĐT&PTVN vẫn luôn huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu.
Số lượng chữ ký trên tờ trái phiếu của một số cán bộ khong cần thiết và hơn nữa không phải mỗi khách hàng chỉ sở hữu một tờ trái phiếu do đó thời gian để hoàn tất thủ tục cho khách hàng kéo dài, năng suất phục vụ thấp nên khách hàng phải chờ đợi lâu.
So với năm trước thì mệnh giá phânphối cho NHĐT&PTHN đã được cải thiệnnhiều nhưng vẫn không đáp ứng đưọc nhu cầu thực tế.
Đôi nơi,đôi lúc thái độ phục vụ của một vài cán bộ giao dịch chưa thực hiện đúng mực đối với khách hàng.
+Năm 2002:
Mộy số chế độ về phát hành ,giữ hộ , mua bán trái phiếu ra còn chậm do đó chưa đủ thông tin cho người dân, ảnh hưởng đến khả năng phát hành trái phiếu trong thời gian những ngày đầu phát hành.
Công tác tổ chức chưa linh hoạt, còn thiếu những thông tin cần thiết cho đợt phát hành như: dịch vụ giữ hộ ,mua bán lại trái phiếu,...Tần suất quảng cáo trên các phương tiện thấp ,giảm dần và hạn chế luồng thong tinđến với khach hàng...
Nhu cầu đối với trái phiếu ghi sổ ngày càng tăng nhưng trái phiếu ghi sổ còn hạn chế do đó ảnh hưởnh đến công tác huy động.
Đặc biệt những thông tin về sự cố Y2K tác động tới tâm lý và độ tin tưởng của người dân cũng ảnh hưoửng đến khả năng phát hành trái phiếu.
Nói tóm lại, trong bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào, việc huy động vốn từ bản thân nền kinh tế đó thông qua hệ thống ngân hàng đều luôn luôn có tầm quan trọng, đặc biệt vị trí của vấn đề này càng quan trọng hơn đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Muốn hấp dẫn được công chúng gửi tiền vào ngân hàng thì chính ngân hàng phải tìm hiểu nhu cầu của công chúng và phải thoả mãn nhu cầu của công chúng. Việc tổ chức huy động vốn đặc biệt là vốn trung cà dài hạn là một vấn đề khá phức tạp,...NHĐT&PTVN đã kịp thời nắm bắt được nhu cầu của công chúng thực hiện chiến lược huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu - đây là một việc làm có tích cực và mang tính chất lâu dài nhằm phục vụ cho mục đích riêng, cũng như mục đích chung của toàn xã hội là tiếp tục thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, góp phần chuẩn bị" hàng hoá" tham gia cho thị trường chứng khoán .Góp phần đưa đất nước ta ngày càng lớn mạnh, tiếp tục phát triển đi lên.
Chương III
Những giải pháp mở rộng khả năng huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển hà nội
1. giải pháp huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển hn
Đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, vốn luôn là một vấn đề cấp thiết mà thực tế cần giải quyết. Nguồn vốn hiện nay ở trong dân cư và các tổ chức kinh tế khá lớn, nhưng làm thế nào để thu hút được nhiều nhất lượng tiền đó ? Tâm lý chung hiện nay của người dân vẫn còn thích tích luỹ vàng, đô la, hơn nữa họ vẫn e ngại về các chính sách và cơ chế nhà nước, lo ngại gặp rũi ro, nên chưa an tâm gửi tiền vào ngân hàng.
Do vậy ngành ngân hàng cần phải làm gì để huy động được nguồn vốn đó, phải chăng về góc độ vĩ mô cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng ổn định, chống được lạm phát và đưa một thị trường chứng khoán vào hoạt động.
Để đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH đất nước do Đảng ta đề xướng , các ngành các cấp đều phải tập trung phát huy mọi nguồn lực. Trong đó ngành ngân hàng nói chung và NHĐT&PTVN nói riêng phải đưa ra các giải pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân.Một trong những giải pháp để huy động nguồn lực hiện có là huy động nguồn vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu. Nhưng vấn đề đặt ra là phải đưa ra một chiến lược như thế nào để huy động nguồn lực này một cách có hiệu quả nhất ? Qua mghiên cứu lý luận, kết hợp với việc phân tích, đánh giá những mặt thành công cũng như hạn chế của việc huy động vốn trung và dài hạn qua việc phát hành trái phiếu tại SGDI trong thời gian qua, xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp như sau:
cần đưa ra một cơ chế lãi suất linh hoạt, mền dẻo và hấp dẫn
Lãi suất là một công cụ quan trọng để ngân hàng huy động nguồn vốn hiện có nhàn rỗi trong các tầng lớp đân cư, doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác... Nó là một trong các yếu tố kinh tế tác động mạnh đến việc thu hút vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, vì khi gửi tiền vào ngân hàng với thời gian dài thì khách hàng luôn đặt mục tiêu lãi suất lên hàng đầu.
Kinh nghiệm của các nước thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường kinh tế, mà trước hết là huy động vốn bằng công cụ lãi suất đã cho thấy : chính sách lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó đối với việc huy động vốn trong điều kiện tiền tệ, giá cả biết biến động hay nói cách khác lạm pháp ở mức đọ vừa phải và không biến động thất thường.
Nhiều ngân hàng đã thành công trong chính sách lãi suất(lãi suất danh nghĩa cao hơn chỉ số lạm pháp ) để chống lạm phát và thu hút vốn vào ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu lãi suất đầu vào quá cao thì nó sẽ gây ảnh hưởng cho công tác tín dụng của ngân hàng.
Do đó cần thiết phải sử dụng một chính sách hợp lý để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguòn vốn nhàn rỗi trong xã hội vừa kích thích các đơn vị kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. để cho công cụ lãi suất phát huy được vai trò của mình cơ chế thị trường, chính sách lãi suất cần thiết điều chỉnh theo hướng.
-Lãi suất theo cư chế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn.Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, đảm bảo cho NHTM kinh doanh có lãi ( thực hiện chính sách lãi suất thực dương).
-Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến, nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giáđể điều chỉnh kịp thời và linh hoạt. Đảm bảo nguyên tắc này NHĐT&PTHN mới có thể huy động được nguồn vốn lâu dài ổn định và không gây thiệt hại cho khách hàng. Để thực hiện được công tác này, phòng nguồn vốn kinh doanh khi đưa ra kế hoạchhuy động vốn cho năm tới phải dự kiến tỷ lệ lạm pháp để cân nhắc mức lãi suất cho phù lý.
-Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm pháp dự kiến có như thế mới khuyến kích được tiết kiệm, tránh được tình trạng tích luỹ vàng và ngoại tệ.
-Lãi suất cho vay trung bình cao hơn lãi suất huy động trung bình, khoảng chênh lệch chính là ''lãi gộp'' cùa ngân hàng đề bù đắp chi phí, thuế,phí dự trử bắt buộc, đề phòng rủi ro mà vẫn có lãi.Do người vay buộc phải tính toán sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Trên thực tế cho đến nay vẫn còn một số người đang có lo ngại về lạm phát, sự không ổn định vữngchắc của đồng tiền Việt nam. Vì vậy họ đã chuyển đổi tiền đồng thành ngoại tệ để cất trữ trong nhà. Điều này, một mặt làm giảm đi hiệu lực thực hiện Quyết định 396/TTG của Thủ tướng Chính Phủ về tăng cường quản lý ngoại tệ, mặt khác cũng làm một lượng vốn khá lớn còn nằm rải rác trong dân cư. Để tiến hành huy động đượcnguồn vốn trung và dài hạn cần phải mở ra các hình thức huy động phong phú hơn, nhưng vấn đề là phải đảm bảo bằng tài sản có tính ổn định cao như : đô la Mỹ và vàng. Về lãi suất huy động vốn trung và dài hạn, cần xử lý linh hoạt lãi suất tiềnVNĐ cao hơn lãi suất tiền gửi và bằng ngoại tệ và thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao NHĐT &PTVN nói chung, NHĐT & PTHN nói riêng đã áp dụng cơ chế lãi suất tiền VNĐ cao hơn lãi suất bằng ngoại tệ nhằm kích thích nhu cầu của dân cư trong việc huy động đồng nội tệ.
- Bên cạnh đó, các NHTM cần ổn định mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn, có chăng chỉ nên thay đổi lãi suất tiền gửi ngắn hạn mà thôi. Chính điều này sẽ tạo được lòng tin cho khách hàng an tâm gưỉ tiền với thời gian dài vào ngân hàng. NHĐT&PTHN đã áp dụng hình thức này một cách linh hoạt trong việc huy động vốn qua việc phát hành trái phiếu: khi phát hành một đợt trái phiếu thì lãi suất của mỗi loại trái phiếu thường được cố định ngay đợt đầu phát hành nếu lãi suất năm sau đựoc tính thấp hơn năm đầu thì sẽ được giữ như mức laĩ suất năm đầu, nếu lãi suất năm sau mà cao hơn thì khách hàng sẽ được hưởng.
Một trong những nguyên tắc để nâng cao lãi suất huy động tiền gửi cần quán triệt là quá trình đó diễn ra một cách tự nhiên nhờ bàn tay vô hình của cơ chế thị trường. Điều này có nghĩa là phải tìm ra một cách tác động như thế nào đó nhưng có tác dụng nâng cao được lãi suất huy động tới mức tối đa và hấp dẫn đối với người gửi tiền mà phía ngân hàng vẫn có thể chịu đựng được. Giải pháp để nâng cao lãi suất huy động vốn phải thật mềm dẻo, đảm bảo lâu dài và rất tự nhiên hoàn toàn không mang tính áp đặt đối với người gửi tiền.
2. Đa dạng hoá về kỳ hạn:
Kỳ hạn là một yếu tố không thể thiếu đối với loại hình huy động vốn trung và dài hạn. Để đưa ra các loại kỳ hạn phù hợp với mức lãi suất huy động là một điều kỳ không thể dễ dàng. Thông thường để huy động vốn qua phát hành trái phiếu thì NHĐT&PTHN chỉ đưa ra các loại kỳ hạn : 1 năm ,2 năm ,3 năm và 5 năm .Nếu đặt trường hợp giả sử có một khách hàng nào đó muốn gửi một khoản tiền vào ngân hàng thông qua việc mua trái phiêu với thời hạn là 10 năm hoặc 20 năm thì chắc chắn sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc theo dõi loại tiền gửi này và việc xử lý lãi suất như thế nào cho thoả đáng đối với cả ngân hàng lẫn người gửi .
Phải chăng chính sách tiền tệ còn chưa ổn định ,người ta không thể tính toán giá trị của đồng tiền hôm nay và giá trị của đồng tiền sau 10 năm,20 năm sẽ như thế nào ? Thực ra, hiện nay đã và đang xuất hiện dần những ra đình trẻ làm ăn khá giả ,họ có khả năng làm ra tiền sớm nhưng họ chưa có con cái hoặc con cái còn nhỏ mà họ có ý thức đầu tư cho con cái ngay từ bây giờ hoặc đầu tư cho chính tuổi già của mình , do đó thiết nghĩ rằng ngân hàng sớm có chính sách đưa ra những kỳ hạn để nhằm một phần đáp ứng nhu cầu gửi tiền của người dân và mang lại lợi ích cho ngân hàng trong việc huy động vốn .
3.Mở RộNG MạNG LƯớI THÔNG TIN QUảNG CáO
Việc mở rộng hoạt động ngân hàng thông qua việc khuếch trương quảng cáo ,tuyên truylà một việc làm cần thiết .Với phương châm:"Mọi khách hàng là bạn đồng hành của ngân hàng , "Chúng tôi chính là sự phát triển của các bạn " do đó ngân hàng phải làm cho mọi người biết đến hoạt động của mình và tạo sự tin tưởng cho dân chúng .
Việc quảng cáo cần phải tập trung vào những tiêu chí cụ thểnhư: vấn đề lãi suất ,hình thức ,lợi ích khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng ...Cần thực hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng : truyền hình ,báo chí ...Ngoài ra, còn tăng cường việc dán các tờ áp phích ,băng rôn tại các trụ sở và các điểm giao dịch của ngân hàng .Đi song hành với hình thức quảng cáo đó là khuyến mại, góp phần đảy mạnh thêm hoạt động quảng cáo thu hút vốn vào ngân hàng .Chính các hình thức khuyến mại đa dạng sẽ tạo sự thích thú cho khách hàng: bốc thăm trả lời câu hỏi có thưởng, áp dụng hình thức sổ số hoặc lãi suất ưu đãi đối với khách hàng mua trái phiếu với số lượng lớn. Bên cạnh đó,trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng phải quan tâm đến các hoạt động xã hội khác như chính sách thăm hỏi tặng quà nhân dịp lễ tết đối với khách hàng có số dư tiền gửi cao, thời gian gửi dài. Hàng năm tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể, quỹ tài năng trẻ ... dưới hình thức tài trợ vớia mục đích gây ảnh hưởng uy tín của ngân hàng sâu rộng trong mọi tầng lớp dân cư.
4. Nâng cao nguồn lực.
Nhân tố con người trong hoạt đọng ngân hàng có tầm quyết định đặc biệt. Qua các chính sách tuyển dụng cán bộ về tuổi tác, sức khoẻ, tư cách cũng như trình độ nghiệp vụ đã phần nào đánh giá được tiềm lực của NHĐT&PTHN . NHĐT&PTHN thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao trình độ, khuyến khích nhân viên tham gi những khoá học nâng cao trình độ nghiệp vụ.
+ Những người làm công tác nguồn vốn cần phải tiếp tục đào tạo và đào tạo lại ,trang bị đầy đủ kiến thức để thực thi nhiệm vụ được giao .cần phải có chương trình đào tạo trung và dài hạn đối với cán bộ chuyên ngành .Nên tạo điều kiện để cán bộ được tìm hiểu nghiên cứu hay đi nước ngoài tham quan học tập mô hình hay quy trình nghiệp vụ ở một số ngân hàng phát triển.
+ Nhân viên giao dịch là người thường xuyên phải tiếp xúc với khách hàng do đó cần có sự nhiệt tình,vui vẻ, lịch sự ,cởi mở,tận tâm và có trình độ...
Cho nên NHĐT&PTHN cần phải thay đổi phong cách phục vụ sao cho khi khách hàng bước chân vào ngân hàng là họ sẽ cảm thấy là mình đang được cần đến , không bỡ ngỡ và ngại ngùng .Muốn vậy ,ngoài việc thay đổi phong cách phục vụ như hiện nay thì NHĐT&PTHN cần bố trí và tổ chức lại quầy giao dịch một cách hợp lý ,ví dụ như bố trí nhân viên ngồi bàn tiếp khách để hướng dẫn cho khách hàng một số thủ tục cần thiết trước khi thực hiện một giao dịch ,giải đáp thắc mắc cho khách hàng một cách lễ độ và dễ hiểu , đón tiếp và phục vụ tận tâm...Làm được những điều này một cách chu đáo thì đây chính là vấn đề đánh vào tâm lý của khách hàng và gây ấn tượng ban đầu cho khách hàng một cách tốt đẹp về ngân hàng .
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng :
+ trụ sở giao dịch là nơi thuận tiện : có nhiều dân cư sinh sống và gần các trung tâm văn hoá kinh tế ,...phù hợp với việc mở rộng mạng lưới huy động .Các phòng ban phương tiện làm việc hiện đại .Đối với bộ phận giao dịch cần sắp xếp lại hệ thống bàn làm việc sao cho cân xứng phù hợp với phong cảnh thiết kế của phòng làm việc : khoảng cách giửa nhân viên giao dịch và khách hàng phải bố trí hợp lý : không được đặt quá xa như hiện nay.Đồng thời trang trí làm đẹp phòng giao dịch với các loại cây cảnh ,... Tạo thêm sự gần gũi giữa khách hàng và nhân viên giao dịch và còn tạo môi trường thoải mái cho nhân viên làm việc .
+ứng dụng các thành tựu kỹ thuật tiên tiến để thanh toán chính xác ,an toàn và tiện lợi :trang bị máy đếm tiền ,soi tiền hiện đại nhằm phục vụ nhanh nhất cho quá trình bán trái phiếu ...Đặc biệt cần áp dụng và phát huy có hiệu quả công nghệ thông tin,sử dụng máy vi tính ,nối mạng giao dịch trong quấ trình lưu trữ, thanh toán, cập nhật thông tin .ứng dụng các phần mềm ngân hàng chuyên dụng. Trang bị đầy đủ các cơ sở vật chất và công cụ hiện đại hổ trợ cho quá trình làm việc như điện thoạ, máy fax,thiết lập hệ thông thư điện tử(kính gửi ban chấp hành chi đoàn-mail) giả đáp khach hàng,trao đổi ngân hàng nghiệp vụ,...
5. cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ
Khach hàng gửi tiền vào ngân hàng ngoà mục đich lãi suất, an toàn,tiện ích, thì họ cũng cần các thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Hiện nay ở NHĐT & PTHN vẫn còn tòn tại thủ tục quá rờm rà và rất nhiều khách hàng tỏ ý không hài lòng khi họ chờ đợi quá lâu...Do đó, NHĐT & PTHN cần phải cải tiến lại thủ tục giấy tờ và các nghiệp vụ vừa đơn giản, rõ ràng nhanh gọn nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn cho khách hàng. Để tạo điều kiện thuận lợi ch khách hàng thì NHTĐ &PTHN cần phải nối mạng thông tin kịp thời đảm bảo cho khách hàng gửi tiền nơi này nhưng có thể rút nơi khác. trong trường hợp rút tiền nếu khách hàng sơ xuất thiếu một giấy tờ nào đó thì ngân hàng cần giải quyết hợp lý, tránh khách hàng phải đi lại nhiều lần và qua đó góp phần cũng cố niềm tin cho khách hàng đối vơí ngân hàng.
6 mở rộng các loại hình dịch vụ
Hiện nay phương thức cạnh tranh hiện đại giữa các ngân hàng là cạnh tranh bằng loại hình và chất lượng dịch vụ .Thông qua các dịch vụ ngân hàng coa thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng Để thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến ngân hàng khơi tăng nguồn vốn huyđộng NHĐT&PTHN đã có các loại hình dịch vụ như :cất giữ hộ trái phiếu miễn phí,kiểm định tờ trái phiếu miễn phí .Bên cạnh đó NHĐT&PTHN cần nghiêncứ triển khai thêm các hình thức dịch vụ sau:
-Dịch vụ tư vấn : có thể nhiều khách hàng khi mua trái phiếu vẫn còn đắn đo và không biết quyết định mua loại nào? thời hạn bao lâu? Ngân hàng cần hành lập ban tư vấn để giúp khách hàng có sự lựa chọn đúng đắn .
- Dịch vụ tại nhà : Trường hợp những người già yếu muốn mua trái phiếu nhưng vì điều kiện riêng,họ không thể trực tiếp đến ngân hàng được thì NHĐT&PTHN cũng nên thành lập tổ nhân viên giao dịch trực tiếp xuống tận nơi hướng dẫn thực hiện thủ tục khi ngân hàng nhận được điện thoại của khách hàng .
- Dịch vụ bảo hiểm tờ trái phiếu : Ngân hàng đảm nhiệm bảo hiểm cho giá trị tờ phiếu trước rủi ro mất giá đồng tiền .Nếu khách hàng có nhu cầu bảo hiểm giá trị tờ trái phiếu thì đóng góp cho ngân hàng một khoản phí bảo hiểm và ngân hàng sẽ lập ra một quỹ bảo hiểm để bù đắp cho khách hàng khi đồng tiền mất giá. Như vậy sẽ tránh được rủi ro mất giá của đồng tiền khi nền kinh tế tiềm ẩn khả năng lạm phát cao.
7.thời gian làm việc
Đối với những vùng đô thị lớn,đại bộ phận là cán bộ công nhân viên chức thì việc xem xét lại giờ làm việc của ngân hàng là rất quan trọng. NHĐT&PTHN cũng như hầu hết các NHTM khác, giờ mở làm việc cũng trùng với giờ làm việc của hầu hết các công ty, doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước,do đó đây là một điều không thuận lợi cho khách hàng. Giả sử có một viên chức có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng nhưng không thể bỏ công việc cơ quan đến ngân hàng được mà đợi đến hết giờ làm việc của cơ quan thì ngân hàng cũng nghỉ giao dịch. Nên chăng NHĐT&PTHN cần tăng thêm giờ làm việc để đáp ứng toàn bộ nhu cầu của khách hàng.
Thời gian giao dịch hiện nay của NHĐT&PTHN là:Sáng từ 7h15" đến 11h30"- Chiều từ 1h30" đến 3h. Như vậy giờ làm chưa thật thuận lợi cho mọi tầng lớp dân cư. Do đó, bên cạnh việc duy trì thời gian như hiện nay thì NHĐT&PTHN cần bố trí làm thêm ngoài giờ hành chính, nên làm việc cả ngày thư bảy và chủ nhật để phục vụ khách hàng.
II. một số kiến nghị để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp
Để các giải pháp trên có tính khả thi thì phải có sự hỗ trợ nhất định từ phía NHNN và phía Chính Phủ:
1.Về phía ngân hàng nhà nước .
Với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng , là ngân hàng của các ngân hàng có tầm quan trọng rất lớn trong chiến lược huy động vốn phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước .
Để có một chính sách đúng đắn và cách điều hành hợp lý sẽ là tiền đề quan trọng và có tác đông tích cực đến việc huy động vốn hiện đang nhàn rỗi chủ yếu là trong dân cư .Thiết nghĩ rằng , NHNH cần có một số biện pháp để nhằm khuyến khích:
-Tiếp tục cải cách chính sách lãi suất cho phù hợp với cơ chế thị trường .Thực hiện lãi suất linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ nhưng phải đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền . Cần nghiên cứu cơ cấu lãi suất phù hợp theo hướng lãi suất tiền gửi chung và dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn .NHNH chỉ nên công bố lãi suất tái chiết khấu.Việc điều hoà lãi suất như trên góp phần điều hoà cung cấp trong nền kinh tế thu hút nguồn vốn trung và dài hạn và trong hệ thống ngân hàng .
-Trong quá trình huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu thì cần phối hợp với Bộ Tài Chính để tránh xảy ra sự trùng lặp giữa các đợt phát hành trái phiếu của NHTM với các đợt phát hành công trái ,trái phiếu kho bạc.
-Thực hiện điều chỉnh tỷ giá linh hoạy theo quan hệ cung cầu trên thị trường .
-Cần thực hiện đổi mới công nghệ ngân hàng ngày càng được hiện đại nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong quá trình giao dịch .
về phía chính phủ
Đối với việc khơi tăng nguồn vốn trong nước cho phát triển đất nước, Chính Phủ có vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra những biện pháp vĩ mô tạo điều kiện cho hoạt động của các ngân hàng :
-Tạo sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô:
+Để thu hút mạnh mẽ nguồn tiền gửi trung và dài hạn , cần tiếp tục thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát ,ổn định sức mua của đồng tiền.Ngân hàng phải điều hành một chính sách ngoại hối ,tỷ giá hợp lý để tránh tình trạng người dân đầu cơ vào bất động sản hay ngoại tệ.
+Trong thời gian gần đây nhà nước đã có những biện pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên ,nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ này hơn nữa để làm trong sạch hoạt động của bộ máy ngân hàng ,trước hết là các cán bộ lãnh đạo, sau đó chính là nhằm củng cố lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng và nhà nước nói chung.
-Môi trường xã hội :
+Nhà nước cần đưa ra các biện pháp tăng tích luỹ trong dân cư.Nâng cao ý thức của người dân trong thực hành tiết kiệm, chống tiêu xài lãng phí ,xa hoa.
+Quốc hội sớm ban hành luật cấm tổ chức chơi hụi cũng như cấm tư nhân cho vay và cầm cố khi không có giấy phép ...nhằm giải toả những tiêu cực về tiền tệ và thu hút vốn vào ngân hàng .
-Luật pháp hoá mọi hoạt động tiền tệ tín dụng và các định chế thực hiện các chức năng tiền tệ tín dụng:
Cũng như các ngành khác, hoạt động của ngành ngân hàng phải nằm trong khuôn khổ của luật pháp, được quản lý và giám sát chặt chẽ. Bởi đây là một hoạt động khá đặc biệt- hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng , do đó trong luật tiền tệ và tín dụng phải được quy định cụ thể về các thao tác nghiệp vụ, nội dung tính chất hoạt động và tất cả các đối tượng hoạt động trên lĩnh vực này.Ví dụ trong lĩnh vực ngân hàng, luật ngân hàng chỉ chi phối và áp dụng đối với các tổ chức tín dụng, khi các đơn vị kinh tế không có chức năng tín dụng lại thực hiện chức năng huy động vốn, đầu tư ....không thể bị ràng buộc và điều chỉnh bởi các quy định về luật ngân hàng làm cho nguồn vốn bị phân tán và không thể tập trung hoàn toàn vào các định chế ngân hàng để từ đó có sự điều phối đầu tư hợp lý, cũng như những khó khăn cho hoạt động của ngành. Do đó, cần có một định nghĩa thật rõ ràng về ngân hàng, để luật ngân hàng được áp dụng một cách chính xác hơn, nhất là trong guồng máy kinh tế ngày càng phát triển, mức độ tinh tế phức tạp ngày càng gia tăng
- Cần hình thành hoặc thiết lập cơ quan hoặc định chế bảo hiểm ngân hàng
Để bảo vệ quyền lợi cho người tiền gửi, đồng thời nhằm bảo vệ cho chính hoạt động của ngành ngân hàng tránh được những biến động và những tác động xấu có thể xảy ra làm ảnh hưởng tới tình hình tài chính và tiền tệ quốc gia. Nhà nước cần xây dựng và hình thành các định chế bảo hiểm ngân hàng nhằm trợ giúp thêm cho hoạt động của ngành ngân hàng được an toàn và mang lại hiệu quả cao hơn.
-Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động cần phát huy hơn nữa vai trò của thị trường chứng khoán
Với cơ chế huy động vốn như hiện nay thì không thể đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nhất là nguồn vốn trung và dài hạn. Hiện nay, các NHTM huy động vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn được huy động thông q1ua phát hành kỳ phiếu và traí phiếu nói chung đang còn gặp nhiều khó khăn.
Hơn nữa, khẳ năng chuyển hoán của các công cụ này là giới hạn, nếu TTCK hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm của cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt namưúa trình huy động vốn trung và dài hạn. Do đó TTCK là một nhu cầu thiết hết sức cấp bách ở nước ta.
NHNN cùng với Chính phủ có quyết định bắt buộc các cán bộ nhà nước phải mở tài khoản lương tại ngân hàng để có thể theo dõi tình hình thu nhập, đòng thời ngân hàng có tiền gửi huy động, có tác dụng công khai thu nhập chống thất thu thuế. Tuy nhiên, chúng ta không đánh thuế những người gửi tiền dưới hình thức tiết kiệm hay trái phiếu vì vậy khoản tiền có tính kiệm lâu dài.
Kết luận
Có thể nói rằng, vốn tín dụng ngân hàng luôn luôn đóng vai trò quan trọng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế , trong đó nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng càng trở nên quan trọng và cấp thiết đối với tiến trình CNH - HĐH đất nước.
Qua quá trình nghiên cứu. đề tài đã được hoàn thành với những nội dung cơ bản sau:
- Luận văn đã tổng hợp và khái quát được những vấn đề có tính lý luậnvề vốn và khả năng khai nguồn vốn trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Luân văn đã đi vào phân tích thực trạng, nêu lên những thành công và hạn chế trong việc huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN & PTHN, tìm ra các nguyên nhân làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp.
- Dựa vào cơ sở lý luận và tình hình thực tế tại nơi thực tập, luận văn đã nêu ra được một số giải pháp nhằm huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN , đó là : Đưa ra một cơ chế lãi suất linh hoạt, mềm dẻo và hấp dẫn; đa dạng hoá về kỳ hạn ; Mở rộng mạng lưới thông tin quảng cáo ; nâng cao nguồn lực ; cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ ; Mở rộng các loại hình dich vụ ; Thời hạn làm việc. Đồng thời, luân văn cũng nêu đã lên một số kiến nghị với NHNN & chính phủ nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp nêu ra.
Với những gì đã thực hiện trong luận văn huy vọng rằng sẽ có ít nhiều ý nghĩa thực tiễn đối với coong tác huy động vốn của hệ thống NHTM nói chung và việc huy động vốn trung và dài hạn của NHĐT&PTHN nói riêng.
Tuy nhiên, đây là một đề tài có phạm vi không nhỏ và lại rất phức tạp; trong khi khả năng của bản thân có hạn nên chắc chắn luận văn còn nhiều khiến khuyết. Vì vậy, mong được các thầy cô, Ban giám đốc NHĐT&PTHNvà tất cả những ai quan tâm đến đề tài này giúp đở và góp ý kiến để đè tài sớm được hoàn thiện với chất lượng tốt hơn.
Tác giả đề tài xin chân thành cảm ơn sự giúp đở tận tình, chu đáo của Thầycô giáo .............. Tác giả đã được thầy hướng dẫn nội dung, lựa chọn đề tài, đóng góp ý kiến , thảo luận trong quá trình xây dựng và viết bản luận văn này.
Tác giả xin cảm ơn sự quan tâmvà giúp đỡ của thầy cô giáo trong khoa và Học viện Ngân hàng đã giảng dậy và truyền đạt những kiến thức chuyên ngành. Tác giả xin nghi nhận sự đông viên và quan tâm của các bạn cùng lớp trong quá trình học tập.
Bản luận văn này sẽ không được hoàn thành nếu thiếu sự giúp đỡ của ban lãnh đạo NHĐT&PTHN, của cô, chú, anh chị phòng nguồn vốn kinh doanh và các phòng nghiệp vụ khác của NHĐT&PTHN. Trong quá trình thực tập, tác giả đã được cán bộ của NHĐT&PTHN nhiệt tình hướng dẫn, cung cấp số liệu, đóng góp ý kiến để bản luận văn này được hoàn thành.
Xin chân thành cảm ơn !
MụC LụC
LờI NóI ĐầU
Chương I:Vốn và biện pháp huy động vốn trung và dàI hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Sự cấp thiết của nguồn vốn trung và dàI hạn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đạI hoá đất nước, một thách thức lớn đối với ngành ngân hàng.
vốn và vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế xã hội
khái niệm và đặc trưng của vốn
nội dung của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế -xã-hội.
Các biện pháp huy động vốn trung và dài hạn của NHTM
1. Tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với NHTM
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của NHTM
3. các biện pháp huy động vốn trung dài hạn
CHƯƠNG II
Thực trạng về huy động vốn trung và dài hạ qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư & phát triển hà nội
i.một số nét về kinh tế chính trị xã hội trên địa bàn hà nội.
1.Một số nét về phát triển kinh tế ở nước ta năm 2001.
2.Khái quát tình hình kinh tế của thành phố Hà nội
II. KHáI QUáT Về TìNH HìNH HOạT ĐÔNG KINH DOANH TạI CHI NHáNH NGâN HàNG ĐầU TƯ & PHáT TRIểN Hà NộI .
1.Sơ lược về lịch sử Ngân hàng .
2. Những khó khăn và thuận lợi của Ngân hàng đầu tư & phát
3. tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư & phát triển.
III. thực trạng huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại sở giao dịch 1- NHĐT&PTVN
1.một số điểm quy định trong phát hành trái phiếu NHĐT & PTHN
2. Tình hình huy động vốn qua phát hành trái phiéu tại NHĐT&PTHN.
3.Đánh giá chung về hiệu quả huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại NHĐT&PTHN.
Chương III: Những giải pháp mở rộng khả năng huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển hà nội
I. giải pháp huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội trang55
1.cần đưa ra một cơ chế lãi suất linh hoạt, mền dẻo và hấp dẫn trang55
2. Đa dạng hoá về kỳ hạn:
3.Mở rộng mạng lưới thông tin quảng cáo
4. Nâng cao nguồn lực.
5. cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ
6 mở rộng các loại hình dịch vụ
7.thời gian làm việc
II. một số kiến nghị để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp
1.Về phía ngân hàng nhà nước
2.về phía chính phủ
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Kinh tế học của samuelson.
NHNN Việt Nam, năm 1998 - NXB Chính Trị Quốc Gia-HN.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII.
"Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH-HĐH đất nước " năm 1999- Tập kỷ yếu của nhiều tác giả.
Tiền tệ và hoạt động Ngân hàng của tác giả Lê Vinh Danh- Năm 2000.
Tích tụ và tập trung vốn-Tác giả Trần Xuân Kiên,NXB Thống Kê 1999
Các nghiệp vụ NHTM -Tác giả Lê Văn Tư, NXB Thống Kê 1999.
Tạp chí Ngân hàng năm 1998-1999-2000-2001-2002.
Tạp chí chứng khoán Việt Nam.
Tài liệu báo cáo thường niên,NHĐT&PTVN-Xuất bản năm 2000-2001-2002
Báo cáo tổng kết cuối năm 2000-2001 của NHĐT&PTHN .
Các văn bản, báo cáo thống kê và tài liệu khác của NHĐT&PTHN .
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0211.doc