Huy động vốn đầu tư

Lời mở đầu Trong thời gian vừa qua Việt Nam đã có những bước phát triển khá thuyết phục. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt 7-8%/năm, tình hình chính trị ổn định và trong con mắt của các nhà đầu tư quốc tế, Việt Nam là một trong những môi trường đầu tư hấp dẫn, ẩn chứa nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, tiếp tục duy trì và hơn thế nữa là đẩy mạnh sự tăng trưởng này đang được xem là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu trong công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, đưa Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Vấn

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Huy động vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề mấu chốt, quyết định của mọi sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia là vấn đề đầu tư phát triển. Giải quyết các bài toán tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội suy cho cùng là giải quyết các vấn đề đầu tư như như : Lấy cái gì để đầu tư ? Lấy ở đâu ? Đầu tư ở đâu ? Đầu tư như thế nào ? Và quản lý đầu tư ra sao ? Giải quyết tốt những vấn đề trên cũng chính là lời giải của những bài toán đầu tư đặt ra cho nền kinh tế nói chung và nền kinh tế nước ta hiện nay nói riêng. Nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển, cộng với những diễn biến phức tạp của quá trình đầu tư hiện nay. Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 4 đã đánh giá một cách kịp thời và chính xác những định hướng và nhiệm vụ của chính sách đầu tư hiện nay trên tinh thần khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, tích cực tranh thủ ngoại lực. Vấn đề huy động hiệu quả nguồn vốn cho đầu tư phát triển luôn mang theo nó tính chất thời sự, chính vì vậy, đề tài : “ Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam ” mong muốn đem lại một cái nhìn tổng thể về nền kinh tế Việt Nam trên góc độ đầu tư trong giai đoạn vừa qua cũng như một số giải pháp tăng cường trong vài năm tới. Chắc chắn đề tài còn chứa đựng nhiều sai sót, rất mong được sự góp ý từ phía các thầy cô và bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Nguyễn Bạch Nguyệt đã giúp em hoàn thành đề án này. Hà Nội 11 /2003 Phần I một số vấn đề lý luận chung I. một số vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển 1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển Cùng với xu hướng phát triển chung của xã hội, hoạt động đầu tư trở thành một nhân tố không thể thiếu cho sản xuất, cho việc gia tăng nguồn lực cho nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế học đã dưa ra những quan niệm khác nhau khi nhìn nhận vấn đề đầu tư; nhưng trước hết đầu tư được hiểu là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiếm hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất, tài sản trí tuệ… Hoạt động đầu tư trực tiếp tái sản xuất các cơ sở vật chất kỹ thuật gọi là đầu tư phát triển. Đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong nhiều năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn. Đối với từng cá nhân, đơn vị đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển mọi hoật động sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đối với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng. 2. Vai trò của đầu tư phát triển Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, hoạt động đầu tư không ngừng được mở rộng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong các quan hệ kinh tế. Vai trò của đầu tư phát triển được thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau đây: 2.1 Đầu tư tác động đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ đó tác động đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Về mặt cầu: đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư chiếm từ 24% đến 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Về mặt cung: khi thành quả phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng, giá cả sản phẩm giảm, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản của tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Mối quan hệ của đầu tư đối với tổng cầu được thể hiện qua đồ thị sau : P S P1 Po D S’ P2 D’ O Q0 Q1 Q2 Q Cho đến những năm đầu của thập kỷ 50 thế kỷ XX, Nurkse đã nhấn mạnh hơn đến vai trò của đầu tư và vốn đầu tư đến sự phát triển cảu nền kinh tế. Nurkse cho rằng việc thiếu vốn đầu tư là một nguyên nhân gây ra tình trang nghèo đói. Ông đã chỉ ra cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói (vicious circle of poverty): Về phía cung: Một quốc gia có thu nhập thấp sẽ có khả năng tích tuỹ thấp, tích luỹ thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng lực sản xuất bị hạn chế và năng suất lao động cũng không thể tăng cao, năng lực sản xuất thấp sẽ dẫn đến thu nhập thấp. Về phía cầu : Thu nhập thấp làm cho sức mua thấp, sức mua thấp làm cho động lực tăng đầu tư bị hạn chế, đầu tư bị hạn chế dẫn đến năng lực sản xuất thấp và từ đó cũng sẽ lại dẫn đến thu nhập thấp. Thực tế cho thấy, các nước nghèo hiện nay trên thế giới hầu hết chịu cảnh nghèo đói một phần do những nguyên nhân trên. Tức là sự nghèo đói tại các quốc gia này một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đáng, có hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng đầu tư hạn chế tại các nước này là do hoặc vì thiếu động lực thúc đẩy đầu tư hoặc là khả năng tích luỹ của nền kinh tế quá nhỏ. Điều này cho thấy rằng, để phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo thành công thì phải làm sao phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn trên. Một trong những biện pháp để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó là xuất phát từ khía cạnh đầu tư. Nền kinh tế phải tạo được sự chuyển biến, tăng mức tích luỹ từ mức thấp lên mức trung bình và mức cao để tăng quy mô đầu tư từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập. 2.2 Đầu tư tác động đến tốc tăng trưởng và phát triển kinh tế Thứ nhất: đầu tư tác động đến tốc độ phát triển của nền kinh tế. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của cá nhân tố bên ngoài, tận dụng lợi thế so sánh bên trong thì quốc gia đó tạo ra tốc độ tăng trưởng cao. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy ; muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% đến 25% so với thu nhập quốc dân, tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước: ICOR = Vốn đầu tư /Mức tăng GDP Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường, ICOR trong công nghiệp cao hơn trong nông nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Thứ hai : đầu tư tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực tế cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học nên để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát ra khỏi tình trang đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh vế tài nguên, địa thế, kinh tế của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy ngững vùng khác cùng phát triển. 2.3 Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước Xuất phát từ nền công nghiệp lạc hậu, nền kinh tế kém phát triển, công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ của thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở giai đoạn 1 và 2. Với trình độ công nghệ hiện nay, quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá cảu Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cũng cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Một phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả thi. 2.4 Đầu tư tác động tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Đầu tư mà cụ thể là đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Thông qua các hình thức đầu tư gián tiếp ODA, NGO, Việt Nam tạo ra mối quan hệ mật thiết với các nước và các tổ chức đầu tư. Đầu tư nước ngoài cũng là tiền đề cho nền kinh tế mở đưa Việt Nam tham gia vào các khu vực kinh tế như APEC hay gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. II. nguồn huy động vốn đầu tư và mối quan hệ giữa chúng 1. Khái niệm và phân loại nguồn vốn đầu tư Đứng trên góc độ nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, ta có thể đưa ra định nghĩa về vốn đầu tư như sau: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Từ đây, người ta phân loại vốn đầu tư ra thành 2 nguồn : Vốn trong nước Vốn nước ngoài 2. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài Với cách chia như trên, ta cần xem xét mối quan hệ giữa 2 nguồn vốn này đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với các nước nghèo, để phát triển kinh tế, và từ đó để thoát ra khỏi khó khăn thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng… Do đó, trong những bước đi ban đầu, để tạo được cú “hích” đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích luỹ ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong diều kiện nền kinh tế mở. Tuy nhiên, cở sở vật chất kỹ thuật để có thể tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước lại chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước. Tỷ lệ giữa vốn huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. ở trung Quốc, tỷ lệ này là 5:1, một số nước khác là 3:1, Việt Nam, theo các nhà kinh tế, tỷ lệ này phải là 2:1. Nói như vậy để thấy một điều là : Nguồn vốn huy động trong nước và nguồn vốn huy động từ nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thông qua nhiều cơ chế tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, nguồn vốn nước ngoài có tác dụng rất lớn làm cho nguồn vốn trong nước tăng lên cả về quy mô và hiệu quả sử dụng. Đồng thời, các nguồn vốn trong nước cũng tác động tích cực trở lại đối với nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hai nguồn vốn này cũng gây ra những tác động tiêu cực cho nhau và ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư. Trước hết, ta hãy cùng xem xét tác dộng của nguồn vốn trong nước đối với vốn nước ngoài. Có thể nói, nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phần vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư huy động được ở trong nước. Quy mô của nguồn vốn trong nước là nhân tố cơ bản cho phát triển kinh tế. Thực tế là trong một khoảng thời gian tương đối dài, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, sản xuất không phát triển. Nguyên nhân sâu xa và khách quan là nền kinh tế xuất phát ở trình độ thấp kém, xản xuất nhỏ là phổ biến lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và hậu quả chiến tranh để lại khá nghiêm trọng. Nhưng nguyên nhân quyết định là do chúng ta đã duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, đóng cửa nền kinh tế cả bên trong và bên ngoài. Hệ quả là chúng ta đã kìm hãm các nguồn lực (bao gồm cả nguồn vốn) trong nước, mặt khác, những nguồn vốn đã được sử dụng lại không đem lại hiệu quả cao. Từ năm 1986, Đảng đã chủ trương chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường, thực hiện nhất quán nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát huy tiềm năng của toàn xã hội. Kể từ mốc thời gian này, với sự năng động của các thành phần kinh tế, một khối lượng vốn lớn đã được huy động. Tuy chưa ở mực triệt để nhưng lượng vốn này đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng, góp phần quyết định trong việc cải thiện đời sống kinh tế ở nước ta. Đạt được những thành quả như vậy, một phần quyết định là do nguồn vốn trong nước đã tăng đáng kể. Như vậy, quy mô và hiệu quả sử dụng vốn trong nước là động lực cho tăng trưởng kinh tế và qua đó thể hiện tiềm năng phát triển kinh tế của một quốc gia. Đối với các định chế tài chính và các nhà đầu tư nước ngoài, đây là tiêu chí hàng đầu để cho vay vốn hoặc đầu tư trực tiếp. ở nước ta, cùng với việc khai thông nguồn vốn trong nước, từ năm 1998, nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế đã không ngừng gia tăng. Vào những năm 1997-1998, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra làm cho tốc độ nền tăng trưởng kinh tế bị sụt giảm mạnh, kéo theo sự suy giảm của khối lượng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, vốn trong nước vẫn tiếp tục gia tăng. Nhờ những nỗ lực trên, trong năm 2000 chúng ta đã ngăn chặn được sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng và làm cho nguồn vốn nước ngoài gia tăng trở lại với sức hút của một thị trường ổn định và an toàn cho hoạt động đầu tư. Như vậy, sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam với nguồn gốc là sự gia tăng lượng vốn trong nước đã tạo uy tín cho thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế và qua đó nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam đã tăng đáng kể. Sự tác động của vốn đầu tư trong nước đối với sự tăng hay giảm của đầu tư nước ngoài còn thể hiện ở chỗ : Các nguồn vốn trong nước, đăc biệt là nguồn vốn của ngân sách nhà nước được sử dụng để xây cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng càng hiện đại, càng đồng bộ thì hoạt động đầu tư càng thuận lợi và khi đó dòng vốn chảy vào càng nhiều. Theo những phân tích trên, nguồn vốn trong nước có ảnh hưởng rất lớn đến các nguồn vốn nước ngoài. Đến lượt mình, nguồn vốn huy động từ nước ngoài đã tạc dộng trở lại đối với nền kinh tế Việt Nam một cách tích cực và tác động không nhỏ tới nguồn vốn trong nước. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tốc độ tăng GDP của nước ta năm 1995 là 9,5% nhưng nếu không có đầu tư trực tiếp nước ngoài thì mức tăng trưởng chỉ đạt được 5,2%, tức là đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra tốc độ tăng trưởng GDP là 4,3%. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo ra một khối lượng lớn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đây chính là nguồn gốc của tích luỹ để tăng vốn cho đầu tư. Mặt khác, đời sống của người lao động được cải thiện, những nhu cầu thiết yếu được đáp ứng tốt hơn, các nhu cầu cao hơn nảy sinh, mở ra những cơ hội lớn đối với các nhà sản xuất. Nói một cách khác, nó góp phần kích thích các nhà cung ứng tăng tích luỹ để mở rộng quy mô sản xuất nhằm mục tiêu lợi nhuận. Thực tế là cùng với chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài, tiết kiệm trong nước đã tăng liên tục cả về quy mô tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP. Khi nền kinh tế của đất nước có sự tham gia của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với ưu điểm về công nghệ, kinh nghiệm quản lý… sẽ làm tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước do yêu cầu phải sản xuất có hiệu quả. ở khía cạnh khác, thông qua các nguồn vốn nước ngoài, thông qua hợp tác đầu tư với nước ngoài, những nguồn lực của nền kinh tế mà trước đây chưa được sử dụng hết (do không đủ vốn, do thiếu công nghệ kỹ thuật, do không có thị trường) nay được đưa vào sản xuất bằng cách hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Cùng với quá trình hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp liên doanh, phần vốn góp của phía Việt Nam trong các doanh nghiệp đó cũng tăng lên, có nghĩa là quy mô vốn trong nước tăng lên. Như vậy, vai trò của vốn đầu tư nước ngoài thể hiện ở chỗ: với sự có mặt của nguồn vốn nước ngoài, tính hiệu quả trong hoạt động thị trường Việt Nam được cải thiện và qua đó tác động tích cực đến nguồn vốn trong nước. Vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài có mối quan hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ nhau cùng gia tăng về số lượng và hiệu quả sử dụng. Kinh nghiệm thực tế của các nước trong khu vực đã cho thấy, những năm khởi đầu của quá trình phát triển kinh tế đều phải dựa vào vốn nước ngoài. Nguồn vốn này đã đóng góp một phần đáng kể (đối với một số nước góp phần quyết định như Hàn Quốc, Philipin…) tạo nên sự phát triển nhanh của các nước này đồng thời đưa đến sự lệ thuộc nhiều mặt của nước đó vào nước ngoài. Mặt khác, do mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là lợ nhuận nên việc họ đầu tư vào các lõnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao là điều tất yếu. Tuy nhiên, một khối lượng vốn lớn từ nước ngoài đầu tư vào, trong nhiều trường hợp, cũng khiến các nguồn vốn trong nước phải chuyển sang những hướng đầu tư khác không thuận lợi. ở nước ta, tuy sự tiêu cực này chưa được thể hiện rõ nét nhưng đó là bài học để chúng ta có những biện pháp nhằm hạn chế những tác động không tốt của vốn nước ngoài. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải nhận thức được vốn đầu tư chủ yếu phải dựa vào tích luỹ trong nước và do đó phải thực hiện các chính sách và giải pháp để phát triển kinh tế nhằm tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, khuyến khích tiết kiệm. III. nội dung của vốn đầu tư phát triển 1. Nguồn vốn trong nước Đứng trên góc độ vi mô của nền kinh tế, chúng ta phân chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn hình thành sau: Vốn của Doanh nghiệp quốc doanh Nguồn vốn trong nước Vốn của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Vốn của các tổ chức phi lợi nhuận Đứng trên góc độ vĩ mô, chúng ta lại chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn sau: Tiết kiệm của Chính phủ Nguồn vốn trong nước Tiết kiệm của doanh nghiệp Tiết kiệm của dân cư Trong bài này chúng ta sẽ nhất quán phân tích nguồn vốn trong nước trên quan điểm kinh tế vĩ mô. 1.1 Tiết kiệm của Chính phủ (nguồn vốn Nhà nước) Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc nhà nước quản lý…). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể, tăng từ mức 2,3% GDP năm 1991 lên 6,1% GDP năm 1996. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Theo báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm 1/1/2000, tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước là 173.857 tỷ đồng. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của các doang nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. DNNN vẫn đóng góp một lượng lớn vào GDP của nền kinh tế, nộp ngân sách chiếm 40% tổng thu của ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho trên 1,9 triệu người. Một số sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước có đóng góp chủ yếu vào cân bằng hàng hoá của nền kinh tế như: xi măng, dầu khí, bưu chính viễn thông… Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. 1.2 Tiết kiệm của doanh nghiệp Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các HTX) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế mở cửa nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu vực này gia tăng mạnh mẽ. Hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn hàng chục tỉ đồng (chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2001, có khoảng 11 ngàn doanh nghiệp mới được thành lập với số vốn 13.000 tỉ đồng). Nhà nước cũng có những hỗ trợ thiết thực nhằm tăng cường thêm sức mạnh cho các doanh nghiệp tư nhân. Các cuộc hội thảo liên tiếp được mở ra, mục đích là lắng nghe, tiếp nhận ý kiến của các doanh nghiệp, từ đó tiến hành điều chỉnh luật cũng như ban hành các chính sách mới tạo diều kiện hơn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh khi hội nhập quốc tế và khu vực. Đặc biệt là với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, các dự án hỗ trợ về luật, nghiệp vụ, việc thành lập các tổ chức, hiệp hội theo ngành nghề, lĩnh vực đang là những hoạt động có ý nghĩa được Đảng và Nhà nước quan tâm kịp thời, đúng mức. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân đã có thêm những sức mạnh mới, Việt Nam đã được bạn bè trên thế giới biết đến qua nhiều thương hiệu nổi tiếng, điều này càng khẳng định vai trò không nhỏ của doanh nghiệp tư nhân cũng như số lượng vốn huy động được từ khu vực này. Dự báo trong thời gian tới, các doanh nghiệp sẽ còn tăng thêm cả về số lượng, quy mô vốn cũng như chất lượng hoạt động. Đây sẽ là câu hỏi đặt ra cho các nhà kinh tế trong việc quản lý hoạt động và cũng sẽ là bài toán có nhiều lời giải cho việc huy động vốn đầu tư từ khu vực được đánh giá là còn chứa ẩn nhiều tiềm năng này. 1.3 Tiết kiệm của khu vực dân cư Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống, nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt… Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỉ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Với khoảng 15 triệu hộ gia đình đóng góp khoảng 1/3 GDP, trong giai đoạn 1996-2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia đình đã thực sự trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp). Tập quán tiêu dùng của dân cư. Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội. 2. Vốn nước ngoài 2.1 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là vốn của các doanh nghiệp và các nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. Vốn nay thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế-xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ (do nguời đầu tư đem vào góp vốn và sử dụng), trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, vì lý do cạnh tranh hay cấm vận nước nhận đầu tư; học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiêp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư. Tùy theo điều kiện cụ thể của mình các nước ASEAN và NICs Đông á, có nước dựa chủ yếu vào vốn đầu tư gián tiếp (Hàn Quốc, Philipin, Thái Lan, Inđônêsia, Malaixia), có nhiều nước lại chủ trọng vốn đầu tư trực tiếp (Singapo, Hông Kông). Để thu hút nhanh các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, các nước ASEAN và NICs Đông á đã tạo môi trường thuận lợi cho nàh đầu tư như cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, có luật đầu tư ưu đãi, luật các khu chế xuất. Hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN là kỹ thuật cao, ở các nước NICs là phục vụ xuất khẩu. 2.2 Vốn đầu tư gián tiếp Đây là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA-Viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Vai trò đầu tư gián tiếp được thể hiện ở những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Hàn Quốc, Philipin những năm sau giải phóng và đối với Việt Nam những năm chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. Các nước Đông Nam á và Nics Đông á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngán hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp, việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian hoạt động đủ để thu hồi vốn. Thực chất nguồn vốn ODA đã được phân bổ theo các nguồn khác như vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển… Tuy nhiên, ở đề án này đề cập đến với vai trò như là một nguồn vốn nước ngoài, không nằm trong cơ cấu của tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chỉ đưa ra để so sánh và đánh giá nhằm tăng cường khả năng thu hút nguồn vốn này ngày càng lớn hơn. 2.3 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thụ trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế. 2.4 Vốn đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài thông qua thị trư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0487.doc