Tài liệu Huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội: MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1.3.2 Các hình thức huy động vốn của NHTM 17
1.3.2.1 Tạo vốn thông qua tiền gửi. 17
1.3.2.2 Tạo vốn thông qua đi vay. 20
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM 22
1.3.3.1 Nhóm nhân tố khách quan. 22
1.3.3.2 Nhóm nhân tố thuộc ngân hàng 24
1.4 Mục tiêu huy động vốn và tiêu chi đánh giá kết quả huy động vốn của NHTM 26
1.4.1 Mục tiêu huy động vốn của NHTM. 26
1.4.2 Tiêu chí đánh giá kết quả huy động vốn ... Ebook Huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của NHTM 28
1.4.2.1 Cơ cấu và cấu trúc kỳ hạn của nguồn vốn 28
1.4.2.2 Chi phí nguồn vốn 29
1.4.2.3 Sự phù hợp giữa nguồn vốn với sử dụng vốn 30
Chương 2THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHNo&PTNT HÀ NỘI 33
2.1 Khái quát về NHNo&PTNT Hà nội 33
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà nội 33
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của NHN0&PTNT Hà nội 36
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Nội (Chi nhánh cấp I) 36
2.1.2.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của chi nhánh cấp II gồm: 37
2.1.2.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành chi nhánh cấp 3 38
2.1.3 Chức năng, nhiệm vụ của NHNo & PTNT Hà Nội 39
2.1.3.1 Chức năng 39
2.1.3.2 Nhiệm vụ 39
2.2 Thực trạng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội 42
2.2.1 Huy động vốn theo kỳ hạn 45
2.2.2 Huy động vốn phân theo loại tiền 49
2.2.2.1 Vốn huy động bằng nội tệ 51
2.2.2.2 Vốn huy động bằng ngoại tệ 52
2.2.3 Huy động vốn phân theo phương thức huy động 53
2.2.3.1 Nguồn tiền tiết kiệm 55
2.2.3.2 Tiền gửi giao dịch 57
2.2.3.3 Tiền gửi có kỳ hạn 58
2.2.3.4 Huy động vốn bằng cách phát hành kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi..59
2.2.4 Huy động vốn phân theo đối tượng 61
2.2.4.1 Tiền gửi của dân cư 63
2.2.4.2 Vốn huy động khác 65
2.3 Đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội 66
2.3.1 Kết quả chung đạt được 66
2.3.2 Đánh giá các hình thức huy động vốn 66
2.3.2.1 Huy động tiền gửi giao dịch 67
2.3.2.2 Huy động tiền gửi phi giao dịch 67
2.3.2.3 Hình thức phát hành các giấy tờ có giá 68
2.3.3 Đánh giá quy mô và cơ cấu 69
2.3.4 Những hạn chế và nguyên nhân 70
2.3.4.1 Hạn chế 70
2.3.4.2 Nguyên nhân 71
Chương 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo&PTNT HÀ NỘI 73
3.1 Định hướng đối trong công tác huy động vốn 73
3.2 Giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà nội 74
3.2.1 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn 74
3.2.2 Mở rộng mạng lưới giao dịch và nâng cao chất lượng phục vụ 76
3.2.3 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt 77
3.2.4 Thường xuyên đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 80
3.2.5 Tăng cường hoạt động Marketing Ngân hàng 81
3.2.6 Đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng 83
3.2.7 Nâng cao hiệu quả chính sách khách hàng 84
3.2.8 Phát triển các hoạt động dịch vụ của ngân hàng 86
3.3 Kiến nghị 87
3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 87
3.3.2 Kiến nghị với Nhà nước 88
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
1. NHTM: Ngân hàng thương mại
2. NHNo&PTNT Hà nội: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội.
3. NHNN: Ngân hàng nhà nước
4. NHTƯ: Ngân hàng Trung ương
5. TCTD: Tổ chức tín dụng
6. XNK : Xuất nhập khẩu
7. PGĐ : Phó giám đốc
8. VBQ: Vốn bình quân
9.Agribank Hà Nội: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội
10. TCKT: Tổ chức kinh tế
11. CNH – HĐH: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
12. KH – KTXH: Khoa học – Kinh tế xã hội
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội (Chi nhánh cấp I) 36
Bảng 2.1: Thực trạng huy động svốn tại NHNo & PTNT Hà Nội 43
Biểu đồ 2.1: quy mô vốn huy động tại NHNo&PTNT Hà nội 44
Bảng 2.2: cơ cấu huy động vốn theo thời kỳ của NHNo & PTNT Hà Nội 46
Biểu đồ 2.2: cơ cấu huy động vốn theo thời kỳ của NHNo&PTNT Hà nội 47
Bảng 2.3: cơ cấu huy động vốn theo loại tiền của NHNo&PTNT Hà nội 49
Biểu đồ 2.3: cơ cấu vốn huy động theo loại tiền của NHNo & PTNT Hà Nội 50
Bảng 2.4: Các phương thức huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội 54
Biểu đồ 2. 4: Các phương thức huy động vốn của NHNo & PTNT Hà Nội 55
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng của NHNo & PTNT Hà Nội 62
Biểu đồ2.5: cơ cấu huy động vốn theo đối tượng của NHNo & PTNT Hà nội 63
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta biết, vốn là một yếu tố đầu vào cơ bản trong quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, chúng ta không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước cũng như mục tiêu của các doanh nghiệp nếu không có vốn. Đối với NHTM, với tư cách là một doanh nghiệp, một định chế tài chính trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định đến các hoạt động chủ yếu của ngân hàng, quyết định khả năng sinh lời và sự an toàn trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn của ngân hàng bao gồm nhiều loại nhưng vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất. Huy động vốn là điều kiện đầu tiên và là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở các nước trên thế giới, nhưng quá trình này thường kèm theo sự bất ổn định và nó được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực ngân hàng, một khu vực nhạy cảm với các yếu tố tác động bên ngoài. Muốn tồn tại và phát triển bền vững, mỗi ngân hàng cần phải lựa chọn cho mình một con đường đi phù hợp nhất và nâng cao được uy tín của mình, uy tín đó được thể hiện trước hết thông qua khả năng tài chính.
NHNo&PTNT Hà nội luôn giữ vai trò chủ lực thúc đầy nền kinh tế đất nước phát triển. Ngân hàng đã và đang khẳng định vị thế hàng đầu này trong công tác huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế.
Đứng trước xu thế hội nhập và sự cạnh tranh của các ngân hàng khác, NHNo&PTNT Hà nội đang cố gắng tìm mọi biện pháp nhằm khai thác tối đa nguồn vốn còn tiềm tàng trong các tổ chức kinh tế và dân cư để có một nguồn vốn phong phú với cơ cấu tối ưu.
Do nguồn vốn có vị trí quan trọng như vậy đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngân hàng nói riêng, nên vấn đề huy động vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao đang rất được quan tâm hiện nay. Bởi vậy em chọn đề tài là “Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội” làm đề tài nghiên cứu.
Kết cấu bài viết của em bao gồm những nội dung sau:
Chương 1: Các lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của NHTM
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường khả năng huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà nội.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của PGS.TS Mai Văn Bưu, cũng các cán bộ của NHNo&PTNT Hà nội trong quá trình em nghiên cứu và thực hiện đề tài. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
NHTM trong nền kinh tế thị trường
Khái niệm NHTM
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường là cơ hội tốt để các trung gian tài chính đặc biệt là các NHTM thể hiện được vị trí quan trọng của mình. Hiện nay đang tồn tại rất nhiều các khái niệm khác nhau về NHTM, sau đây em xin trình bày một số khái niệm:
- Ở Mỹ người ta định nghĩa NHTM là: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.
- Ở Ấn Độ định nghĩa là: NHTM là cở sở nhận các khoản ký thác để cho vay hoặc tài trợ hay đầu tư.
- Theo luật Ngân hàng Việt Nam đã định nghĩa NHTM như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
(trang 164, chương 6, tiền tệ và ngân hàng)
Định nghĩa trên đã khẳng định về bản chất NHTM là một doanh nghiệp tài chính hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, và nó phải thực hiện hai nghiệp vụ cơ bản sau:
- Nhận ký thác của doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan Nhà nước
- Sử dụng khoản ký thác đó để cho vay hoặc chiết khấu
Các nghiệp vụ trên của ngân hàng được thực hiện một cách đầy đủ và thường xuyên. Trong quá trình hoạt động ngân hàng phải chịu trách nhiệm về các nghiệp vụ độc lập của mình.
Ngoài ra pháp lệnh còn quy định thêm ngân hàng phải có trách nhiệm “hoàn trả” và “làm phương tiện thanh toán”
Chức năng của NHTM
Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM rất phong phú và đa dạng, gần đây đã có sự đổi mới nhiều trong các nghiệp vụ ngân hàng bao gồm: việc đưa vào sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ kiểm toán đối với các doanh nghiệp, máy trả tiền tự động, môi giới chiết khấu, cho thuê két sắt...nhằm giúp ngân hàng thích ứng được với các các điều kiện kinh tế năng động và sự điều chỉnh của pháp luật. Chính vì vậy NHTM ngày càng khẳng định được vị thế của mình trước sự phát triển lớn mạnh của đất nước và điều này được thể hiện rất rõ qua các chức năng cơ bản sau của NHTM:
NHTM là trung gian tài chính
Như chúng ta đã biết, trước khi hệ thống NHTM xuất hiện thì quan hệ tín dụng giữa chủ thể có tiền mà chưa sử dụng với chủ thể có nhu cầu vay vốn gặp rất nhiều hạn chế, vì người có nhu cầu khó có thể tìm gặp được người có khả năng cung cấp. Hoạt động của NHTM đã khắc phục được hạn chế đó, ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phần lớn các quan hệ tín dụng được tập trung qua Ngân hàng. Còn các doanh nghiệp thì nguồn tín dụng do các ngân hàng cung cấp đã trở lên phổ biến và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết cấu tài sản nợ của doanh nghiệp.
NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền và kiềm chế lạm phát. NHTM thu hút vốn nhãn rỗi trong xã hội nhằm tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế.
Chức năng trung gian thanh toán.
Ta có thể thấy rằng, nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí để thực hiện các chi trả đó là rất lớn, bao gồm: những chi phí cho lưu thông tiền mặt của ngân hàng như in, đúc tiền, bảo quản, vận chuyển. Với sự ra đời và phát triển của NHTM, đại bộ phận các khoản chi trả của cá nhân được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, tiết kiệm chi phí lưu thông đồng thời tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng đã có rất nhiều các hình thức thanh toán như: thanh toán nhờ các loại thẻ, thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi...để có thể tiết kiệm tối đa thời gian và chi phí của khách hàng. cơ chế thanh toán là một trong những chức năng quan trọng do các Ngân hàng thương mại thực hiện và nó càng trở lên quan trọng khi được sự tín nhiệm trong việc sử dụng séc và thẻ tín dụng.
Khác với nền kinh doanh tiền tệ dưới hình thức ban đầu giản đơn và thuần tuý của nó, nghĩa là tách khỏi chế độ tín dụng trong ngân hàng, thì chức năng trung gian thanh toán gắn bó một cách chặt chẽ và hữu cơ với chức năng trung gian tài chính. "Ngân hàng dùng số tiền của nhà tư bản này cho các nhà tư bản khác vay" (Kmark, tư bản, quyển III tập I trang 462). Khi NHTM là trung tâm tín dụng thì NHTM sẽ huy động vốn từ dân cư qua nhiều hình thức khác nhau như: kỳ phiếu, trái phiếu....Qua đó ngân hàng sẽ tập trung được một lượng vốn lớn từ các thành phần kinh tế. Ngân hàng sẽ sử dụng số tiền đó để cho vay. Khi các bên có nhu cầu chi trả, thanh toán Ngân hàng sẽ đứng ra làm trung gian thanh toán.
Với khoa học công nghệ ngày càng phát triển, công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ ngày càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không những giữa các ngân hàng cùng quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
Qua việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán, ngân hàng đã trở thành "người thủ quỹ" của các nhà doanh nghiệp. Mọi việc thanh toán trao đổi đều được thực hiện thông qua ngân hàng.
Chức năng tạo phương tiện thanh toán.
Sự ra đời của các Ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển rất lớn trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Trong quá trình đó, các chủ ngân hàng đã phát hành giấy chứng nhận được khách hàng sử dụng chi trả các khoản nợ vì thế tiền giấy được chuyển đổi ra vàng được các ngân hàng đưa vào lưu thông qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng hoặc bạc. Sáng kiến này được xã hội chấp nhận và đây chính là phát minh có giá trị nhất trong lịch sử hoạt động của tiền tệ.
Các ngân hàng hoạt động cùng trong một hệ thống nên các NHTM đã tạo ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ đã thay thế tiền mặt là một sáng kiến quan trọng thứ hai của lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức tạo tiền này, mà ngân hàng trở thành trung tâm của đời sống kinh tế hiện đại.
Một trong những chức năng chủ yếu của các Ngân hàng thương mại là khả năng tạo và huỷ tiền. Quá trình tạo tiền của các NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và tổ chức thanh toán trong ngân hàng.
Theo quan niệm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận như: Tiền giấy trong lưu thông, số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch, tiền gửi có kỳ hạn...Như vậy các NHTM đã tạo ra phương tiện thanh toán khi các ngân hàng cho vay (hay tạo tín dụng). Các ngân hàng đã làm cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, và họ có thể dùng để chi trả khi đi mua hàng hoặc các dịch vụ khác.
Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của các Ngân hàng thương mại. Điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế bền vững đó là hệ thống tín dụng phải năng động. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền để mở ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp, sản xuất không thực hiện được và nguồn tích luỹ từ lợi nhuận và các nguồn khác sẽ bị hạn chế. Hơn thế nữa, các đơn vị sản xuất có thể phải gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển không được sử dụng trong quá trình sản xuất. Như thế không mang lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng thương mại.
Nền kinh tế cần một số cung tiền tệ vừa đủ và không được phép vượt quá số lượng cần thiết. Nếu tiền cung ứng tăng quá mạnh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và những hậu quả xấu là nền kinh tế sẽ phải chịu đựng. sVì vậy các NHTM có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện mục đích của chính sách tiền tệ, đó là đưa ra một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định giá cả, sự tăng trưởng kinh tế lành mạnh và tạo được nhiều việc làm.
Vai trò của NHTM
NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, sinh hoạt, tiêu dùng nói riêng. Xét từ góc độ nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh NHTM có các vai trò sau:
- Vai trò trung gian: NHTM đảm nhiệm việc chuyển các khoản tiền nhàn rỗi, chủ yếu từ hộ gia đình thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh.
- Vai trò thanh toán: ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ
- Vai trò là người bảo lãnh: Ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ cho khách hàng khi khách hàng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (như phát hành thư tín dụng).
- Vai trò là đại lý: Ngân hàng thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán.
- Vai trò thực hiện các chính sách: Thực hiện các chính sách của chính phủ, góp phần điều tiết sự phát triển kinh tế.
Vốn và nguồn vốn của NHTM
Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Như ta đã biết, ngân hàng chính là một doanh nghiệp tín dụng mà bản chất của nó là kinh doanh tiền tệ. Một ngân hàng muốn đi vào hoạt động kinh doanh thì phải đảm bảo được số vốn ban đầu theo quy định của chính phủ, đó là vốn pháp định. Từ cơ sở số vốn ban đầu ngân hàng sẽ phát triển và gia tăng nguồn vốn của mình bằng các hình thức khác nhau. Việc tăng trưởng nguồn vốn là vấn đề mà ngân hàng nào cũng không thể không quan tâm.
Quy mô của vốn cũng chính là quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có số vốn càng lớn thì hoạt động càng đảm bảo mang lại hiệu quả cao, tạo được lòng tin cho khách hàng và sẽ ngày càng thu được lợi nhuận cao hơn. Ngược lại nếu như một ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì dần dần sẽ mất khách hàng và làm giảm lợi nhuận.
Yếu tố quyết định để một NHTM có đủ khả năng thanh toán hay không, có đảm bảo được uy tín của ngân hàng đối với khách hàng hay không, đó chính là vốn. Ngân hàng cần phải có nguồn tài chính vững mạnh để có thể khẳng định được mình trên thị trường, đảm bảo cho người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu của họ bất cứ lúc nào ngay cả khi nền kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Quy mô của vốn cũng chính là quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có số vốn càng lớn thì hoạt động càng đảm bảo mang lại hiệu quả cao, tạo được lòng tin cho khách hàng và sẽ ngày càng thu được lợi nhuận cao hơn. Ngược lại nếu như một ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì dần dần sẽ mất khách hàng và làm giảm lợi nhuận.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng nào cũng luôn có xu hướng mở rộng quy mô để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường khả năng phục vụ khách hàng về cả chất lượng và số lượng. Ngân hàng nào có được nguồn vốn càng lớn thì càng có được nhiều thuận lợi để mở rộng các hình thức kinh doanh và như vậy thì sẽ đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho ngân hàng.
Vốn còn được xem là một yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng nào cũng luôn có xu hướng mở rộng quy mô để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường khả năng phục vụ khách hàng về cả chất lượng và số lượng. Ngân hàng nào có được nguồn vốn càng lớn thì càng có được nhiều thuận lợi để mở rộng các hình thức kinh doanh.
Nguồn vốn của NHTM.
Như chúng ta đã biết, NHTM là một doanh nghiệp tài chính đặc biệt mà bản chất của nó là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. NHTM là một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: Vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và một số vốn khác.
Vốn chủ sở hữu.
Cũng như bất cứ một tổ chức kinh doanh nào, muốn đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh phải có vốn riêng thuộc sở hữu của mình. Đây là yếu tố bắt buộc đối với tất cả các tổ chức kinh tế thực hiện kinh doanh.
Vốn chủ sở hữu của NHTM là số vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, đó là nguồn tiền được đóng góp chủ yếu bởi những chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau và được phân thành vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Trong đó:
Vốn cấp 1 là vốn cơ bản được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng
Vốn cấp 2 là vốn bổ sung được giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1.
Theo văn bản hiện hành của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vốn của NHTM được xác định cụ thể như sau:
* Vốn cấp 1
Vốn cấp 1 của NHTM bao gồm:
Thứ nhất là: vốn điều lệ
Đó là số vốn được quy định trong điều lệ hoạt động của NHTM, đó là điều kiện bắt buộc một ngân hàng phải đáp ứng trước khi có quyết định thành lập và hoạt động. Tuỳ theo mỗi hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của NHTM được hình thành từ các nguồn khác nhau như: Đối với các NHTM nhà nước thì nơi cung cấp vốn điều lệ chính là ngân sách nhà nước, ngân sách sẽ cung cấp vốn khi các ngân hàng này được thành lập và được bổ sung trong quá trình hoạt động; Các NHTM cổ phần thì số vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp; Vốn điều lệ của các ngân hàng liên doanh do các bên tham gia liên doanh góp; Đối với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, vốn điều lệ do ngân hàng mẹ ở nước ngoài cấp…
Vốn điều lệ ngoài là căn cứ để xác định điều kiện một ngân hàng có được phép thành lập và đi vào hoạt động kinh doanh hay không, nó còn là chỉ tiêu phản ánh quy mô, năng lực hoạt động của một ngân hàng. Nhưng vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và ý đồ thành lập ngân hàng với quy mô hoạt động khác nhau.Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng luôn phải lớn hơn hoặc tối thiểu cũng phải bằng vốn pháp định, đó là số vốn do Chính phủ quy định trong từng thời kỳ cho từng loại hình ngân hàng.
Các ngân hàng luôn có thể mở rộng quy mô của mình trong quá trình hoạt động, và như vậy vốn điều lệ cũng phải tăng thêm. Các ngân hàng tăng vốn điều lệ nhưng phải có sự đồng ý của Ngân hàng Trung ương và phải công khai vốn điều lệ mới.
Thứ hai là: các quỹ dự trữ
Các ngân hàng có rất nhiều quỹ dự trữ, các quỹ này được hình thành trong quá trình hoạt động và được tích luỹ theo thời gian để sử dụng cho các mục đích cụ thể của ngân hàng.
Các quỹ dự trữ bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ …. Việc trích lập và sử dụng các quý dự trữ của ngân hàng được thực hiện theo quy định của pháp luật trong từng thời kỳ.
Thứ ba là: lợi nhuận không chia
Đó là phần thu nhập của ngân hàng được giữ lại trong quá trình kinh doanh thay vì dùng để chi trả cổ tức cho các cổ đông.
Như vậy, vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua cổ phiếu, đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng.
* Vốn cấp 2
Vốn cấp 2 của NHTM gồm:
Thứ nhất là: Giá trị tăng thêm của tài sản cố định và giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.
Do giá trị thị trường của tài sản có thể thay đổi theo thời gian, nên vốn do đánh giá lại tài sản thường không ổn định, vì vậy các ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 một phần giá trị tăng thêm của tài sản. Theo quy định hiện hành thì vốn cấp 2 gồm: 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định và 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.
Thứ hai là: Dự phòng chung. Đây là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân nợ và trích lập dự phòng cụ thể trong các trường hợp khó khăn về tài chính của ngân hàng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Việc trích lập và sử dụng dự phòng chung được thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành thì mức dự phòng chung được tính vào vốn cấp 2 tối đa bằng 1,25% tổng tài sản Có rủi ro.
Thứ ba là: Các trái phiếu chuyển đổi và một số công cụ nợ khác thoả mãn điều kiện do ngân hàng nhà nước quy định. Đây là khoản nợ vốn dài hạn do các nhà đầu tư bên ngoài đóng góp. Vì vậy các nhà quản lý ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 khi các công cụ này thoả mãn các điều kiện do NHTƯ quy định về thời hạn, về đảm bảo của ngân hàng khi phát hành, về điều chỉnh tăng lãi xuất, về thanh toán nợ gốc và lãi...
Như vậy ta thấy, ngân hàng là một doanh nghiệp tài chính có tính chất đặc thù trong kinh doanh, nên vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM. Nhưng vốn chủ sở hữu của ngân hàng lại đóng vai trò quan trọng và thực hiện một số chức năng không thể thay thế được như: cung cấp nguồn lực ban đầu để giúp các ngân hàng mới thành lập có thể đi vào hoạt động, cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng quy mô hoạt động, giúp ngân hàng chống lại rủi ro....
Vốn huy động.
Đây là nguồn vốn chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của một NHTM thường chiếm từ 70% đến 80%. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn không thuộc sở hữu của ngân hàng, nhưng ngân hàng có quyền sử dụng tạm thời khoản vốn này và cho vay đối với khách hàng để hưởng lãi. Để được quyền sử dụng khoản vốn này ngân hàng phải trả cho người gửi tiền tiết kiệm, những người mua trái phiếu một khoản tiền bằng lãi suất huy động tính trên số tiền huy động. Ngoài ra ngân hàng còn phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn các khoản vốn này theo thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng.
Vì ngân hàng là một tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế nên việc tạo lập vốn cho ngân hàng là vấn đề quan trọng hàng đầu. Trong nguồn vốn của NHTM thì nguồn vốn huy động đóng vai trò quan trọng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hang đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau:
Vốn huy động từ tiền gửi
Ngày nay, các ngân hàng đã cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau cho khách hàng lựa chọn nhằm huy động vốn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng biệt nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thanh toán nhanh. Ngân hàng có thể huy động tiền gửi từ dân cư hoặc từ các tổ chức kinh tế khác.
b. Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
NHTM có thể phát hành các chứng chỉ tiền gửi , kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn. Nhưng để được phát hành các giấy tờ có giá này thì NHTM phải lên cân đối toàn hệ thống và nếu được Thống đốc Ngân hàng Trung ương chấp thuận thì mới được phép phát hành để huy động trên thị trường vốn.
Vốn đi vay.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, NHTM có thể vay mượn thêm. Trong quá trình hoạt động của mình, mỗi ngân hàng đều có thể phải đối mặt với tình trạng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn. Đó là khi, huy động vốn nhưng chưa cho vay hết thì sẽ dẫn đến thừa vốn, hay khi nhu cầu vay của khách hàng là lớn mà nguồn vốn không đáp ứng được, hoặc khi người gửi rút tiền trước thời hạn trong khi đó vốn cho vay chưa đến lúc thu lời thì sẽ dẫn đến thiếu vốn. Khi đó các NHTM có thể gửi tiền vào các tổ chức tín dụng khác để hưởng lãi suất, hay vay vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh. NHTM có thể vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay NHTƯ.
Nguồn vốn khác.
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, các NHTM có thể tạo lập vốn cho mình bằng nhiều nguồn khác nhau nữa như:
Thứ nhất là:Vốn trong thanh toán: Đây là số vốn có được do ngân hàng là trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Cụ thể là:
- Số vốn trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của người trả nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người hưởng do luân chuyển, xử lý chứng từ thanh toán.
- Số vốn trong thời gian khách hàng lưu kí tại ngân hàng nhưng chưa thanh toán trong một số hình thức thanh toán như séc bảo chi, thư tín dụng, thẻ thanh toán kí quỹ…
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, công nghệ thanh toán trong ngân hàng cũng ngày càng hiện đại, mọi quy trình thủ tục thanh toán đều được cải tiến, thời gian của mỗi khoản tiền thanh toán cũng giảm đi đáng kể, do đó vốn mà ngân hàng có được trong mỗi khoản thanh toán cũng giảm. Nhưng đổi lại có ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và khoản thanh toán được thực hiện qua ngân hàng ngày càng tăng, làm cho số vốn này có điều kiện gia tăng.
- Vốn uỷ thác, tài trợ của chính phủ hoặc của các tổ chức trong và ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Đây là nguồn vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý nhận uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những chương trình, dự án. Trong thời gian vốn đã được ngân hàng tiếp nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, ngân hàng có thể sử dụng số vốn này để kinh doanh. Ngoài ra, khi làm nhiệm vụ này các ngân hàng sẽ được hưởng hoa hồng phí.
Ngoài ra, các ngân hàng còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp, cũng như thu hồi lợi tức từ đầu tư chứng khoán cho khách hàng…Đó cũng tạo nên nguồn vốn cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác của ngân hàng có thể không nhiều, thời hạn sử dụng đôi khi rất ngắn. Nhưng đó lại là nguồn vốn mà ngân hàng không phải bỏ ra chi phí để huy động, và có điều kiện phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng khác phục vụ tốt nhất cho khách hàng.
Hoạt động huy động vốn của NHTM
Khái niệm về hình thức huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là nhiệm vụ cơ bản của các ngân hàng với nhiều hình thức đa dạng phong phú nhằm thu hút vốn từ các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình.
Các NHTM có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, có thể là trong nước cũng có thể là ngoài nước. Nhưng nguồn từ nước ngoài là rất quan trọng, nó khẳng định sự góp phần đầu tư ngày càng gia tăng của Việt Nam.
Ngay từ sau khi luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được cải thiện thuận lợi hơn cho các chủ đầu tư nước ngoài, nhiều dự án đầu tư lớn của nước ngoài được đưa vào thực hiện ở nước ta. Và như vậy, nó đã góp phần quan trọng vào việc bổ sung nguồn vốn trong nước.
Chính phủ Việt Nam đã có nhiều cải thiện nhằm tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư ở nước ta, mục đích là tăng khả năng huy động vốn từ nước ngoài. Tuy nhiên, đó là nguồn vốn không mang tính chủ động, ta thấy rằng nguồn vốn trong nước mới là chủ yếu.
Các NHTM có thể huy động vốn từ nhiều đối tượng khác nhau song mọi NHTM đều phải dựa vào tiết kiệm, tích luỹ của các doanh nghiệp và dân cư, có thể vay từ các TCTD khác và cũng có thể vay từ NHTƯ.
Các hình thức huy động vốn của NHTM
Tạo vốn thông qua tiền gửi.
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bao gồm:
a. Tiền gửi của tổ chức kinh tế.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh doanh thường có một bộ phận vốn nhàn rỗi như: các quy đầu tư phát triển, phúc lợi, khen thưởng, tiền lương, tiền mua nguyên vật liệu chưa phải trả, tiền khấu hao... Các tổ chức này có thể gửi số tiền ấy vào ngân hàng vừa làm sinh lời cho đồng vốn vừa đảm bảo được an toàn. Với sự phát triển của dịch vụ thanh toán qua ngân hàng như ngày nay, để tiết kiệm được thời gian và chi phí, các tổ chức này phải gửi vốn vào ngân hàng và giao dịch qua các tài khoản đó. Tổ chức kinh tế có thể gửi vốn vào ngân hàng qua các hình thức sau:
* Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng luôn có nghĩa vụ phải thoả mãn các nhu cầu._. đó. Mục đích chính của loại tiền này là để phục vụ nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Đối với loại tiền gửi không kỳ hạn này, tuy việc gửi và rút tiền có thể thực hiện bất cứ lúc nào mà ngân hàng khó có thể xác định trước được, nhưng trên thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, bởi vậy tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay.
Do đây là khoản tiền có thể rút được ra bất cứ lúc nào nên lãi xuất của loại tiền này là rất thấp, thậm chí có những khoản tiền gửi mà ngân hàng không phải trả lãi. Nguồn vốn này chỉ giúp cho ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư.
* Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền. Khách hàng muốn rút tiền phải chờ đúng tới thời hạn đã thoả thuận, nếu như khách hàng rút tiền trước thời hạn quy định thì sẽ được hưởng mức lãi suất không kỳ hạn hoặc hưởng mức lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do ngân hàng nhận gửi tiền quy định
Nguồn vốn này có độ ổn định rất cao, như vậy ngân hàng có thể chủ động trong quá trình sử dụng. Và đây cũng chính là nguồn vốn mà các ngân hàng muốn thu hút. Để huy động được nguồn vốn này, các ngân hàng đã đưa ra rất nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm phù hợp với lượng vốn nhàn rỗi của các đơn vị, mỗi kỳ hạn được quy định bởi một mức lãi suất riêng, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
b. Tiền gửi của dân cư.
Ngoài việc đảm bảo đời sống sinh hoạt hàng ngày của mình, dân cư còn dành ra được một khoản tiền dư thừa, và họ có xu hướng gửi số tiền đó vào ngân hàng với mục đích tiết kiệm, kiếm lời và để thanh toán. Tiền gửi của dân cư bao gồm hai loại sau:
* Tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi được ngân hàng cấp cho một sổ tiết kiệm, trong thời gian gửi tiền, sổ tiết kiệm đó có thể được dùng làm vật thế chấp hoặc được chiết khấu để vay vốn ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.
* Tiền gửi thanh toán
Với việc mở rộng phương thức thanh toán qua thể tín dụng đối với dân cư, pháp luật cho phép các cá nhân thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó họ được ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán và phải họ gửi tiền vào. Như vậy họ có thể sử dụng tài khoản đó thanh toán các chi tiêu hàng ngày cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan đến ngân hàng.
Đây là một nguồn vốn huy động không nhỏ tạo vốn hoạt động cho NHTM. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân hàng luôn chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động với lãi suất hợp lý.
c.Tiền gửi khác
Ngoài hai loại tiền gửi trên tại các NHTM còn có thêm các khoản tiền gửi khác như:
Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác
Tiền gửi của kho bạc nhà nước
Tiền gửi của các tổ chức đoàn thề xã hội…
Tạo vốn thông qua đi vay.
Các NHTM có thể vay vốn từ NHTƯ, các NHTM khác, các trung gian tài chính hoặc vay từ công chúng dưới các hình thức sau:
a. Phát hành các chứng từ có giá.
Đây là nguồn vốn mà NHTM có được thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá như: kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
Ngân hàng có thể chủ động phát hành các loại kỳ phiếu ngân hàng để huy động vốn nhằm thực hiện những dự án đầu tư đã định. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng được thực hiện theo hai phương thức sau: Phát hành theo mệnh giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên bề mặt kỳ phiếu) và phát hành bằng hình thức chiết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ trả một số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng).
Đối tượng mà ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn này là các tổ chức, các cá nhân. Ngoài việc dùng số tiền nhàn rỗi hay phần thu nhập tạm thời chưa dùng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh đầu tư của người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư trực tiếp. Các kỳ phiếu, trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi cần thiết bằng cách bán, chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại ngân hàng.
Ngân hàng có thể tập trung được một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá như vậy, và ngân hàng hoàn toàn được quyền chủ động sử dụng số vốn đó. Hình thức này thường được ngân hàng thực hiện khi đã tiếp nhận được các dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng, hay sau khi họ đã cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong toàn hệ thống mà vẫn còn thiếu và được sự đồng ý của thống đốc ngân hàng Trung ương.
Như vậy ta thấy, vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn vốn của mỗi NHTM. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn này ngày càng được các ngân hàng bằng mọi cách gia tăng thêm để phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế trong điều kiện tái cơ cấu và nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng.
b. Vay của Ngân hàng Trung ương.
NHTƯ là ngân hàng của mọi ngân hàng và là ngân hàng cho vay cuối cùng trong nền kinh tế. Vì vậy, bất kỳ NHTM nào khi được NHTƯ cấp phép hoạt động đều có thể được NHTƯ cho vay vốn khi cần thiết. Nghiệp vụ vay vốn này được NHTƯ thực hiện dưới hình thức phổ biến là tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá và cho vay cầm chấp. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền cung ứng của NHTƯ đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong quá trình hoạt động, NHTM rất có thể thiếu vốn trong thanh toán bù trừ, lúc này NHTƯ có thể cho các NHTM vay vốn để bổ sung thiếu hụt.
Trong cơ cấu vốn của NHTM, thì vốn vay của các TCTD khác và vốn vay từ NHTƯ thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Cho nên ngoài tác dụng góp phần gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh của ngân hàng, nó còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của NHTM.
c. Vay vốn từ các TCTD khác
Hiện nay, hầu hết các NHTM được tổ chức thành hệ thống gồm rất nhiều chi nhánh nhỏ và hạch toán kinh doanh toàn ngành, thực hiện việc điều chỉnh vốn giữa các chi nhánh qua trụ sở chính, khi thừa vốn các chi nhánh điều chuyển vốn về hội sở chính, khi thiếu vốn các chi nhánh lại nhận được vốn điều chuyển từ hội sở chính. Vì vậy việc vay vốn của TCTD khác trong và ngoài nước thường chỉ thực hiện ở NHTƯ của từng hệ thống.
Như vậy, qua thị trường liên ngân hàng NHTM có thể vay vốn của các TCTD khác nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời gian ngắn, ngân hàng có thể khai thác nguồn vốn nhàn rỗi từ các TCTD khác. Hoạt động vay mượn này nhằm mục đích điều hoà nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống ngân hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM
Nhóm nhân tố khách quan.
Có rất nhiều các nhân tố khách quan tác động đến công tác huy động vốn của NHTM, sau đây là một số nhân tố:
Thứ nhất là: Mức độ ổn định của nền kinh tế.
Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tạo vốn của NHTM và giúp quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp được tiến hành bình thường không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố luật pháp, khoảng cách đặc biệt nó làm cho khách hàng tạo vốn thông qua hoạt động tín dụng thanh toán dịch vụ của ngân hàng không biến động lớn và có khả năng phát triển tốt.
Khi nền kinh tế càng phát triển và chính trị ổn định, thu nhập của người lao động càng tăng cao và họ sẽ có khoản dư thừa ngày càng nhiều sau khi đã sử dụng số tiền cần thiết. Như vậy số tiền tích luỹ tăng lên và người dân sẽ có xu hướng gửi số tiền đó vào ngân hàng, đó sẽ là nguồn bổ sung vốn kinh doanh cho ngân hàng hoạt động.
Khi nếu nền kinh tế bất ổn, lạm phát cao tiền gửi vào ngân hàng không được đảm bảo, lãi suất mà ngân hàng trả không cao bằng tỷ lệ lạm phát ngoài thị trường, mọi người sẽ không gửi tiền vào ngân hàng nữa mà tìm hình thức đầu tư khác an toàn hơn mà mang lại nhiều lợi nhuận hơn.
Thứ hai là: Các chính sách của Nhà nước.
Đây chính là các chính sách có liên quan đến hoạt động của một ngân hàng như: chính sách lãi xuất, chính sách thu hút đầu tư, chính sách tiết kiệm…
Nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá, đưa nước ta tư một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành nước có nền kinh tế phát triển. Muốn vậy, pháp luật phải có nhiệm vụ tạo môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt kết quả cao. Các chính sách của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong công tác huy động vốn của ngân hàng, nó là cơ sở pháp lý để giải quyết tất cả các khiếu nại, tranh chấp có thể xảy ra. Các chủ thể tham gia hợp tác với ngân hàng luôn phải tuân thủ các chính sách mà Nhà nước đặt ra, chỉ có vậy, hiệu quả huy động vốn mới cao đem lại nhiều lợi ích cho cả hai phía.
Nhà nước như một người bảo mẫu trong nền kinh tế, phải nhắc nhở tuyên truyền cho dân chúng luôn luôn tiết kiệm trong tiêu dùng để có tiền gửi vào ngân hàng và đầu tư cho phát triển kinh tế. Mặt khác, Nhà nước còn giúp dân hiểu được lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng, đó không chỉ là lợi ích của từng cá nhân mà còn là lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ ba là: Các nhân tố thuộc về khách hàng.
Một nhân tố không thể thiếu khi nói đến những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới tới công tác huy động vốn của NHTM đó là những người tiền vào ngân hàng, những người vay tiền, hay những người sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng. Khách hàng vừa là nguồn cung về vốn tín dụng vừa là nơi tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Họ mong nhận được từ ngân hàng một khoản lãi từ tiền gửi. Nếu một ngân hàng có uy tín cao thì thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình. Trong môi trường cạnh tranh như ngày nay, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư, họ chỉ tìm đến những địa chỉ để gửi tiền hay vay tiền tại nơi mà họ cảm thấy thuận tiện nhất, ngân hàng nào đáp ứng được nhu cầu của khách hàng với thái độ niềm nở và thủ tục đơn giản sẽ được khách hàng lựa chọn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Nhóm nhân tố thuộc ngân hàng
Nhóm nhân tố này cũng rất đa dạng, sau đây là một vài nhân tố:
Thứ nhất là: Các hình thức huy động vốn của NHTM
Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh đến công tác huy động vốn. Hình thức huy động vốn đưa ra càng phong phú, đa dạng, linh hoạt và tiện ích thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng cao. Đó là sự khác nhau về nhu cầu, cũng như tâm lý của khách hàng. Ngân hàng có nhiều hình thức huy động vốn cũng tức là ngân hàng đã giúp khách hàng có thể lựa chọn dễ dàng hình thức phù hợp với nhu cầu của mình. Tuy nhiên lựa chọn hình thức huy động nào phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của mỗi ngân hàng.
Thứ hai là: Nguồn nhân sự của ngân hàng
Con người là yếu tố quyết định sự thành công trong hoạt động kinh doanh của một tổ chức. Con người đã xây dựng được uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Vai trò của các ngân hàng ngày càng được khẳng định trên thị trường bởi khả năng và trình độ của con người cộng với khoa học công nghệ ngày càng phát triển. Để có thể đáp ứng được kịp thời, có hiệu quả các yêu cầu cao trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng thì cần tuyển chọn được nguồn nhân lực có đạo đức nghề nghiệp tốt, có trình độ chuyên môn giỏi, đặc biệt là thái độ, cách cư xử của cán bộ ngân hàng.
Thứ ba là: Mức lãi suất huy động vốn mà mỗi ngân hàng đưa ra.
Theo xu hướng chung, ở đâu có lợi nhuận cao hấp dẫn thì vốn sẽ được đầu tư vào đó, lợi nhuận cũng là vấn mà dân cư quan tâm nhất. Trên thực tế các ngân hàng không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn cạnh tranh với nhiều tổ chức khác trên thị trường tài chính. Để thu hút và duy trì quan hệ với khách hàng thì ngân hàng phải đưa được ra mức lãi suất hợp lý cho từng loại khách hàng, từng loại số dư và từng loại kỳ hạn, thực hiện những ưu đãi về lãi suất cho những khách hàng lớn, khách hành đã hợp tác lâu năm, những khách hàng có uy tín…Song việc cạnh bằng lãi suất là cạnh tranh có giới hạn. Mỗi ngân hàng cần phải căn cứ vào thực trạnh và định hướng phát triển của mình trong những năm tiếp theo để có thể đưa ra hệ thống lãi suất huy động vốn phù hợp.
Thứ tư là: uy tín của ngân hàng.
Uy tín của ngân hàng là một nhân tố rất quan trọng, khách hàng bao giờ cũng tìm đến những ngân hàng có uy tín lớn trên thị trường để gửi hoặc vay tiền, với hy vọng sẽ đáp ứng nhu cầu tốt nhất của mình. Đối với tâm lý khách hàng, ngân hàng càng lớn càng hoạt động lâu năm thì càng có uy tín trên thị trường và sẽ hạn chế được rủi ro cho đồng vốn đầu tư của họ, khiến họ an tâm hơn về số vốn mình đã đầu tư. Ngân hàng có uy tín bao giờ cùng hấp dẫn được nhiều khách hàng đến giao dịch và gửi tiền.
Thứ năm là: vị trí đặt trụ sở của ngân hàng.
Vị trí của trụ sở có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của một ngân hàng. Nếu trụ sở của ngân hàng đặt ở nơi có vị trí giao thông thuận lợi, nơi tập trung dân cư có thu nhập cao, nơi là trung tâm kinh tế thì sẽ dễ dàng hơn trong việc thu hút khách hàng. Khách hàng không cần phải mất thời gian tìm kiếm địa điểm khi có nhu cầu sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Như vậy sẽ tiết kiệm thời gian cho cả khách hàng và ngân hàng.
Thứ sáu là: Trình độ công nghệ ngân hàng
Ngày nay với trình độ khoa học công nghệ ngày càng tiến bộ, đã có nhiều sản phẩm dịch vụ mới có liên quan đến hoạt động của ngân hàng đã ra đời như: máy rút tiền tự động ATM, dịch vụ ngân hàng tại nhà, hoạt động thanh toán điện tử…Một ngân hàng nếu đượcc trang bị đầy đủ công nghệ hiện đại, phù hợp với khả năng tài chính, phạm vi, quy mô hoạt động sẽ giúp ngân hàng đó ngày càng thành công hơn. Với sự trang bị công nghệ hiện đại như vậy, ngân hàng sẽ theo kịp thời phục vụ yêu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ một cách chính xác hơn, nhanh chóng hơn với chí phí hợp lý hơn.
Mục tiêu huy động vốn và tiêu chi đánh giá kết quả huy động vốn của NHTM
Mục tiêu huy động vốn của NHTM.
Hoạt động huy động vốn của NHTM nhằm đáp ứng các mục tiêu sau:
Thứ nhất là: nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu hoạt động của bất kỳ một NHTM là tạo ra lợi nhuận ngày càng nhiều trên cơ sở mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mở rộng nguồn vốn và đầu tư thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên NHTM phải chấp hành vì mục tiêu của nền kinh tế, phải biết đặt lợi ích của mình vào lợi ích chung của đất nước. Chỉ có vậy công tác huy động vốn của NHTM mới đạt yêu cầu mong muốn là tăng trưởng vốn phục vụ cho phát triển kinh tế.
Thứ hai là: Huy động vốn nhằm mở rộng hoạt động của ngân hàng trên thị trường tài chính tiền tệ
Với tư cách là một trung gian tài chính, hoạt động huy động vốn của NHTM cũng phải thâm nhập vào thị trường tài chính để có vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Do đó cần phải cải cách và hoàn thiện thị trường liên ngân hàng, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, tăng việc cung ứng vốn của NHNN và các NHTM trên cơ sở tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn.
Khi thị trường tài chính hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện cho công việc huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển cố phiếu, trái phiếu thành tiền mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nguồn vốn trung và dài hạn chỉ được mở rộng trên cơ sở thông qua thị trường vốn dài hạn, chính là thị trường chứng khoán. Vì vậy hoạt động tạo vốn của NHTM muốn phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và hiệu quả thì mục tiêu của huy động vốn đồng nghĩa với mục tiêu xây dựng và phát triển các loại nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường tài chính.
Thứ ba là: Huy động vốn nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động huy động vốn của NHTM nhằm mục tiêu thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế quốc dân. Với tư cách là một tổ chức kinh tế đặc thù về kinh doanh tiền tệ, qua hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ cung cấp vốn cho các nhà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, kinh doanh dịch vụ trong nước và quốc tế.
Trên cơ sở tạo vốn hoạt động, ngân hàng cấp tín dụng trên nguyên tắc hoàn trả, góp phần làm biến đổi điều kiện sản xuất kinh doanh phục vụ các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, nâng cao vòng quay của tiền tệ. Bằng cách đó, hoạt động tạo vốn của ngân hàng có tác động hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động và cạnh tranh của thị trường.
Tiêu chí đánh giá kết quả huy động vốn của NHTM
Việc đánh giá hiệu quả huy động vốn được thông qua xem xét, đánh giá khối lượng, cấu trúc kỳ hạn, cơ cấu, lãi suất, sự ổn định của nguồn vốn và sự phù hợp với sử dụng vốn. Hoạt động huy động vốn của một ngân hàng được đánh giá là có hiệu quả khi:
Cơ cấu và cấu trúc kỳ hạn của nguồn vốn
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm nhiều bộ phận khác nhau. Mỗi thành phần đều có đặc tính khác nhau về tính ổn định, thời gian tồn tại, chi phí phải trả… Do đó quy mô mỗi nguồn vốn đều ảnh hưởng lớn đến chi phí lãi suất, khả năng thanh toán và rủi ro lãi suất. Các ngân hàng cần xác định mô hình cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn nhằm tăng cường huy động vốn và quả lý sử dụng nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng có thể rất khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm khách hàng, chiến lược kinh doanh và hoạt động marketting của nó.
Cơ cấu nguồn vốn của một ngân hàng được coi là hợp lý nếu các thành phần của nó đáp ứng kế hoạnh sử dụng vốn đồng thời với chi phí và sự biến động thấp nhất.
Chi phí nguồn vốn
Quản lý chi phí cho các nguồn vốn là hoạt động thường xuyên và quan trọng của mỗi ngân hàng vì mỗi sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn hoặc lãi suất đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập lãi ròng.
Những nguồn vốn có thời hạn ngắn thường có chi phí nguồn vốn thấp và tính ổn định thấp, ngược lại những nguồn vốn có thời hạn càng dài thì chi phí cao hơn nhưng ổn định hơn. Nếu để hoạch định chiến lược kinh doanh cho mỗi giai đoạn, các ngân hàng phải tính toán, phân tích chi phí phải trả cho mỗi nguồn vốn để từ đó có sách lược huy động vốn phù hợp nhằm mục tiêu mở rộng kinh doanh tăng dư nợ cho vay đầu tư đồng thời đảm bảo được tài sản được định giá bù đắp được chi phí nguồn vốn và đem lại doanh lợi mong muốn mà không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán.
Lãi suất mà ngân hàng quy định trả cho từng nguồn vốn chỉ phần lớn chi phí cho nó, chi phí thực cho nguồn vốn phải tính đến bao gồm tiền lãi trả cho nguồn vốn và các chi phí khác như: kiểm ngân, phí dịch vụ, phí bảo hiểm tiền gửi tính trên số được sử dụng để đầu tư vào tài sản sinh lợi.
Với mỗi nguồn vốn khác nhau, tỷ lệ có thể đầu tư vào các tài sản là khác nhau do tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau, do vậy chi phí cho một nguồn vốn có thể xác định bởi công thức:
Mỗi thành phần của tử số trong công thức là chi phí dự kiến cho mỗi đơn vị nguồn vốn tăng thêm.
Lãi xuất thực tế mà ngân hàng phải trả cho nguồn vốn còn phụ thuộc vào số lần trả lãi, thời điểm trả lãi và lãi suất cố định hoặc thả nổi. Việc tính chi phí cho từng nguồn vốn cụ thể cho phép các nhà quản lý trả lời câu hỏi: Nguồn vốn nào rẻ hơn, nên vận dụng lãi suất huy động như thế nào, thu nhập từ tài sản tăng thêm có bù đắp được chi phí cho nguồn vốn tăng thêm hay không. Để từ đó Ngân hàng quyết định lựa chọn cơ cấu nguồn vốn của mình và đề ra giải pháp huy động vốn.
Để giải quyết mở rộng kinh doanh, tăng cường quy mô tài sản có hiệu quả, ngân hàng cần xác định chi phí cận biên của nguồn vốn làm căn cứ lựa chọn cơ cấu vốn cần huy động thêm. Chi phí cận biên của nguồn vốn là chi phí phải trả để có thêm một đơn vị vốn có thể đầu tư vào tài sản sinh lời. Chi phí này có thể tính cho một nguồn vốn hoặc một nhóm các nguồn vốn. Việc tính toán chi phí cận biên của nguồn vốn tăng thêm đặc biệt quan trọng trong các quyết định định giá, đồng thời nó như một chỉ số đánh giá chi phí tương ứng để lựa chọn nguồn tài trợ rẻ nhất cho tăng trưởng tài sản.
Bất kỳ nguồn vốn nào tăng lên cũng là một số hữu hạn và phải luôn được đảm bảo tính cân xứng với việc sử dụng vốn vì vậy việc nghiên cứu chi phí cận biên, chi phí bình quân giúp chúng ta xây dựng danh mục những nguồn vốn để lựa chọn nhằm đưa ra những giải quyết hữu hiệu tăng cường huy động và điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn đáp ứng mục tiêu kinh doanh.
Sự phù hợp giữa nguồn vốn với sử dụng vốn
Các nguồn vốn hoạt động được phân chia vào các danh mục tài sản của Ngân hàng. Danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần được xem xét dưới giác độ cấu trúc, thời hạn để xác định sự phù hợp với nguồn vốn.
Thông thường các ngân hàng vẫn sử dụng một phần nguồn vốn có thời hạn ngắn để đầu tư vào các tài sản có thời hạn dài hơn nhưng chỉ một tỷ lệ nhất định vì nếu lớn hơn tức là sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn thì các ngân hàng đến một thời điểm nào đó sẽ phải chịu sức ép về khả năng thanh toán. Ngược lại, nếu ngân hàng sử dụng nguồn vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn thì sẽ khó đảm bảo chênh lệch lãi suất và không hiệu quả, vì nguồn vốn dài hạn có chi phí sử dụng vốn cao trong khi lãi suất cho vay ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Cơ cấu vốn huy động gồm:
- Phân theo loại tiền: vốn huy động gồm TVHĐ, nội tệ, ngoại tệ.
- Phân theo thời gian vốn huy động gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Nếu ngân hàng có lãi suất phù hợp có thể thu hút được nhiều khách hàng thì lượng vốn huy động được sẽ giúp ngân hàng có thể chủ động trong việc sử dụng vốn. Tuy nhiên ngân hàng cũng cần có chiến lược phát triển lâu dài trong quá trình hoạt động của mình bởi vì, tiền gửi có kỳ hạn dài luôn có lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn ngắn, nếu tiền gửi có kỳ hạn dài tăng cao thi kèm theo đó là chi phí để sử dụng nguồn vốn đó là rất cao.
- Phân theo nguồn hình thành: cơ cấu vốn huy động gồm Tiền gửi của TCKT, Tiền gửi tiết kiệm, Phát hành GTCG
Ta thấy tiền gửi của các TCKT là nguồn vốn huy động có chi phí thấp nhất giúp ngân hàng nâng cao khả năng cạnh tranh, ngân hàng cần khai thác tốt nguồn vốn huy động này.
Việc huy động vốn có hiệu quả hay không thể hiện qua việc vốn huy động đó được sử dụng như thế nào, có được sử dụng tối đa hay không, có bị ứ đọng hay không, thu hồi vốn có đúng thời hạn không…
Sự phù hợp giữa nguồn vốn huy động với việc sử dụng vốn còn được thể hiện giữa lãi suất của từng nhóm tài sản với lãi suất phải trả cho nguồn vốn. Về nguyên tắc, lãi suất trên tài sản phải cao hơn lãi suất trên nguồn vốn có cùng kỳ hạn và các tài sản có thời hạn dài hơn phải có lãi suất cao hơn để bù đắp chi phí cao hơn của nguồn vốn.
Độ nhạy cảm của các loại tài sản và nhóm đối với lãi suất được xác định bởi các yếu tố: thời điểm đến hạn thanh toán từng phần hoặc toàn bộ, lãi suất áp dụng là cố định hoặc quy định là thả nổi trong một khoảng thời gian.
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHNo&PTNT HÀ NỘI
Khái quát về NHNo&PTNT Hà nội
Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà nội
NHNo & PTNT Hà Nội là ngân hàng cấp thành phố, có địa bàn hoạt động rộng. Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của cả nước, tập trung nhiều quan hệ kinh tế buôn bán lớn, nhiều doanh nghiệp hoạt động và có nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, hoạt động của NHNo & PTNT Hà nội chịu ảnh hưởng trực tiếp tình hình kinh tế - xã hội của Hà Nội đồng thời có đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế thủ đô. Hoạt động của ngân hàng tuân theo luật ngân hàng nhà nước, luật tài chính tín dụng và tuân theo điều ước quốc tế về lĩnh vực ngân hàng.
NHNo&PTNT Hà nội được thành lập theo quyết định số 51- QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng giám đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc NHNN Việt nam) Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Thành phố Hà nội (nay là NHNo&PTNT Hà nội) trên cơ sở 28 cán bộ cùng với 21 Công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công- Nông - Thương thành phố Hà nội và 12 Chi nhánh Ngân hàng huyện. Đây là một ngân hàng thương mại quốc doanh, là ngân hàng thành viên và hoạch toán phụ thuộc của NHNo & PTNT Việt Nam, hoạt động trên địa bàn Hà Nội.
Với tên gọi: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
Trụ sở đặt tại: số 77 Lạc Trung, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
NHNo&PTNT Hà nội đã nhận rõ được vai trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp. Ngân hàng đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Nhờ có quyết định táo bạo đổi mới nhận thức kiên quyết khắc phục điểm yếu đặc biệt là vấn đề thiếu vốn, thiếu tiền mặt, chỉ sau hai năm ngân hàng đã có đủ tiền mặt và nguồn vốn thoả mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường hiện nay, NHNo&PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới để huy động và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà nội.
Năm 1994 thành lập Ngân hàng khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng)
Năm 1995 thành lập Ngân hàng khu vực Đông Xuân (nay là Hoàn Kiếm)
Năm 1996 thành lập các Ngân hàng Quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân
Năm 1997 thành lập Ngân hàng Quận Cầu Giấy
Năm 2000 thành lập Ngân hàng Quận Đống Đa và khu vực Tam Trinh
Năm 2001 thành lập 10 phòng giao dịch
Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền PLAZA và 11 phòng giao dịch thì đến năm 2002 NHNo & PTNT Hà Nội có 33 phòng giao dịch huy động nguồn vốn và dịch vụ ngân hàng.
Qua gần 20 năm xây dựng và trưởng thành, đặc biệt từ năm 2001 trở lại đây thực hiện Đề án phát triển hoạt động kinh doanh trên địa bàn đô thị loại I. Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội đã có những bước đi vững chắc khẳng định uy tín và vị thế của mình trên con đường đổi mới hoạt dộng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ, từng bước chuẩn bị đủ điều kiện để hội nhập, trong những năm qua Agribank Hà Nội đã gặt hái được những thành quả đáng mừng trên mọi phương diện:
Về mạng lưới, đến tháng 6/2006 đã có 1 chi nhánh cấp I loại I, 11 chi nhánh cấp II và gần 25 phòng giao dịch trực thuộc, với đội ngũ cán bộ nhân viên tinh thông nghiệp vụ, luôn tận tâm, nhiệt thành phục vụ khách hàng.
Đặc biệt, từ năm 2001 thực hiện Đề án cơ cấu lại Ngân hàng tại các đô thị loại I đã có bước tăng trưởng khá. Nguồn vốn tăng trưởng bình quân đạt 40%/năm, dư nợ tăng trưởng bình quân 20%/năm, lợi nhuận tăng trưởng bình quân 20%/năm
Về công nghệ, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là ngân hàng đầu tiên áp dụng chương trình công nghệ hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới bằng nguồn vốn do Ngân hàng thế giới (World Bank) tài trợ.
* Về nguồn vốn: từ 18 tỷ khi mới thành lập, đến tháng 5/2003 NHNo&PTNT Hà nội đã huy động được 7500 tỷ, tăng 415 lần bình quân tăng 30% mỗi năm, trong đó nguồn vốn ngoại tệ chiếm 11% đến nay có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng nội, ngoại tệ của các doanh nghiệp.
Từ năm 2006 thực hiện đề án cơ cấu lại ngân hàng và đề án kinh doanh trên địa bàn đô thị loại I giai đoạn 2006 – 2010, hoạt động mô hình theo ngân hang kinh doanh đa cấp. NHNo&PTNT Hà nội có 11 chi nhánh cấp II và 37 PGĐ trực thuộc. Tổng nguồn vốn huy động đến hết năm 2006 là 12.856 tỷ đồng, dư nợ 2.500 tỷ đồng, tổng kim ngạch XNK trên 150 triệu USD, doanh số kinh doanh ngoại hối đạt trên 100 triệu USD.
Cơ cấu tổ chức của NHN0&PTNT Hà nội
Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Nội (Chi nhánh cấp I)
Sơ đồ1: cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà ội(Chi nhánh cấp I):
Các phó Giám đốc
Phòng NV & Kế hoạch tổng hợp
Phòng Kế toán & Ngân quỹ
Phòng KD ngoại tệ và Thanh toán quốc tế
Phòng Tổ chức cán bộ &đào tạo
Tổ kiểm tra , kiểm toán nội bộ
Phòng tín dụng
Phòng Thẩm định
Phòng vi tính
Phòng Hành chính
Tổ Nghiệp vụ thẻ
Tổ Tiếp thị
Chi nhánh cấp 2
Phòng giao dịch
Giám đốc
1. Giámđốc
2. Phó Giámđốc
3. Trưởng phòng Kế toán – NgânQuỹ
4. Các phòng, tổ chuyên môn nghiệp vụ:
a. Phòng Nguồn Vốn và Kế hoạch tổng hợp
b. Phòng Tín Dụng
c. Phòng Thẩm Định
d. Phòng Kế toán – Ngân Quỹ
e. Phòng Kinh doanh ngoại tệ và Thanh toán quốc tế
f. Phòng Vi Tính
g. Phòng Hành chính
h. Phòng Tổ chức cán bộ và đào tạo
i. Tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ
j. Tổ nghiệp vụ thẻ
k. Tổ tiếp thị
5. Chi nhánh cấp2
6. Phòng giao dịch
Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của chi nhánh cấp II gồm:
1. Giám đốc
2. Các phó giám đốc
3. Các phòng chuyên môn nghiệp vụ gồm có:
a. Phòng tín dụng
b. Phòng kế toán – ngân quỹ
c. Phòng hành chính – nhân sự
d. Tổ thẩm định
4. Chi nhánh cấp 3
5. Phòng giao dịch
Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành chi nhánh cấp 3
Giám đốc
Các phó giám đốc
Các tổ chuyên môn nghiệp vụ
Tổ tín dụng
Tổ kế toán - ngân quỹ
Đối với các chi nhánh mới đi vào hoạt động căn cứ vào tình hình thực tế, theo nội dung trình của giám đốc chi nhánh cấp 1, Tổng giám đốc NHNo&PTNN Việt Nam sẽ xem xét quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp với từng cấp chi nhánh.
Phòng kế toán ngân quỹ thuộc chi nhánh cấp 1 và chi nhánh cấp 2 có con dấu riêng được dùng trong giao dịch hoạt động nghiệp vụ theo quy định.
Phòng chuyên môn nghiệp vụ tại chi nhánh cấp 1 thì tuỳ theo quy mô, địa bàn hoạt động và số lượng chi nhánh phụ thuộc, Giám đốc chi nhánh cấp 1 được quyết định mô hình tổ chức cho phù hợp: Có thể nhập một số phòng (tổ) có tính chất tương đồng thành một phòng nghiệp vụ như nhập phòng Nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp với phòng Tín dụng lấy tên phòng Kế hoạch kinh doanh; phòng vi tính với phòng kế toán - ngân quỹ lấy tên phòng Kế toán ngân quỹ
Đối với cơ cấu tổ chức của chi nhánh cấp 2, tuỳ thuộc vào quy mô, địa bàn hoạt động của chi nhánh cấp2 giám đốc chinh nhánh cấp 1 có thể chỉ thành lập 2 tổ nghiệp vụ gồm: Tổ tín dụng và tổ kế toán ngân quỹ.
Các phòng chuyên môn nghiệp vụ của chi nhánh cấp 1 vừa trực tiếp thực hiện huy động vốn, cho vay đối với khách hàng đảm bảo đủ thu nhập trang trải chi phí theo quy định của NHNo&PTNN Việt Nam, vừa có nhiệm vụ chỉ đạo nghiệp vụ, trực tiếp kiểm tra, kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ trên tất cả các lĩnh vực tại chi nhánh cấp 2, chi ._. điểm chỉ đạo, phát huy nội lực trong nước là chủ yếu, bên cạnh đó kết hợp tiềm lực bên ngoài, đảm bảo sự thống nhất giữa các công tác huy động vốn và các mặt hoạt động khác, thực hiện tiết kiệm có hiệu quả phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam.
Giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà nội
Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn
Như ta đã biết, NHNo&PTNT Hà nội đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trên thực tế còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn là một trong những biện pháp để có thể huy động vốn với khối lượng lớn. NHNo&PTNT đã tiến hành đa dạng hóa theo một số quan điểm sau:
- Ngân hàng tiếp tục phát huy các hình thức huy động truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các hình thức kỳ phiếu, trái phiếu..., đa dạng hóa thời hạn gửi cụ thể là ngoài loại 3, 6, 9, 12, 13 tháng nên thêm loại dài hạn như 2, 3, 5 năm cùng với việc đưa thêm các yếu tố chuyển nhượng để thuận tiện cho việc bán lại của các cá nhân, doanh nghiệp hay các NHTM trước ngày đến hạn.
- Ngoài ra, ngân hàng có thể đưa ra nhiều hình thức huy động vốn mới như tiền gửi tiết kiệm có thưởng, lãi suất bậc thang, ...
- Ngân hàng cần chú trọng hơn nữa việc đa dạng hóa nghiệp vụ huy động ngoại tệ trong xu thế hội nhập toàn cầu như ngày nay. Khi nền kinh tế nước ta mở cửa, sẽ có nhiều cơ hội giao lưu làm ăn buôn bán giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài nên nhu cầu ngoại tệ ngày càng tăng. NHNo&PTNT Hà nội cần đưa ra những hình thức huy động hấp dẫn và thuận lợi để không những huy động vốn của các tổ chức kinh tế dân cư trong nước mà còn thu hút được vốn của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nước ngoài đang ở Việt Nam. Ngân hàng cũng có thể tìm các nguồn vốn ngoại tệ bằng cách thông qua các hợp đồng vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài để đầu tư vào các dự án kinh tế.
- Ngân hàng cần có các biện pháp khuyến khích dân cư làm quen với việc mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Để thực hiện tốt được công tác này, cần quy định các tổ chức hành chính sự nghiệp mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng sử dụng khối lượng tiền mặt tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị này vào quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
- Ngân hàng tiến hành mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương cho các cán bộ công nhân viên, đây là hình thức đang được sử dụng phổ biến ở các nước phát triển nhưng ở Việt Nam thì còn rất mới mẻ do thu nhập của người dân chưa cao. Khi ngân hàng áp dụng hình thức mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương đối với cán bộ công nhân viên sẽ huy động thêm nguồn vốn kinh doanh trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi cá nhân và doanh nghiệp. Đến kỳ hạn phát lương, doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế sẽ gửi một bảng lương cho ngân hàng, từ đó ngân hàng sẽ trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp chuyển sang tài khoản của các nhân viên mà họ đã mở tài khoản ở ngân hàng. Trong trường hợp nhân viên chưa mở tài khoản, ngân hàng có thể tuyên truyền, khuyến khích họ mở tài khoản vừa có lợi cho doanh nghiệp là không phải đến ngân hàng rút tiền về phát lượng, vừa có lợi cho nhân viên của doanh nghiệp là an toàn và được hưởng thêm một phần lãi suất đối với sổ tiền chưa sử dụng đến tất nhiên ngân hàng phải đảm bảo bí mật số dư tài khoản của người gửi tiền.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể đưa ra các hình thức dịch vụ nhận và trả tiền ngoài giờ (ngoài giờ hành chính, các ngày nghỉ, ngày lễ tết...)
Mở rộng mạng lưới giao dịch và nâng cao chất lượng phục vụ
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh như ngày nay đó là trình độ dân trí cao hơn, đời sống dân cư cũng ngày càng được cải thiện. Như vậy xã hội sẽ có ngày càng nhiều nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời, người sở hữu những khoản tiền ấy cũng muốn có thêm thu nhập nên họ đã gửi số tiền tích lũy đó vào ngân hàng. Để khai thác triệt để nguồn vốn này ngân hàng cần mở rộng mạng lưới giao dịch đến từng cơ sở, địa điểm nơi tập trung nhiều dân cư, các trung tâm thương mại theo hướng gần dân để đảm bảo giao dịch kịp thời cho người gửi tiền và lĩnh tiền.
Ngân hàng cần tiếp tục tìm địa điểm mở rộng mạng lưới, đồng thời thường xuyên kiểm tra nâng cao và thay đổi địa điểm các phòng giao dịch hoạt động kém hiệu quả, phân tích, tìm nguyên nhân và có giải pháp thích hợp, kịp thời để có thể rút kinh nghiệm cho các phòng giao dịch ở các nơi khác.
NHNo&PTNT Hà nội ngoài việc mở thêm nhiều mạng lưới giao dịch thì cũng đã kết hợp với trang bị kỹ thuật hiện đại để nâng cao chất lượng phục vụ. Ngân hàng cần sử dụng vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, mở rộng các loại dịch vụ khác của ngân hàng. Đây là biện pháp quan trọng để phát triển môi trường cạnh tranh phức tạp như ngày nay. Đối với khách hàng thì nơi nào có khả năng phục vụ tốt nhu cầu họ, đảm bảo an toàn cho đồng tiền của họ thì họ sẽ đến với ngân hàng đó. Nếu mức lãi suất hoạt động như nhau thì ngân hàng nào cho khách hàng hưởng nhiều dịch vụ tốt hơn thì tất nhiên khách hàng sẽ đến với ngân hàng đó.
NHNo&PTNT cần đầu tư ứng dụng các công nghệ tin học, khuyến khích sử dụng tài khoản séc đối với nhiều đối tượng đặc biệt là những đối tượng có thu nhập ổn định. Tăng cường lắp đặt các máy rút tiền tự động, tất nhiên chi phí lắp đặt máy ATM là rất lớn, bởi vậy muốn đạt hiệu quả cao trong hình thức huy động vốn này NHNo&PTNT cần phải tính toán hợp lý để đồng vốn được quay vòng nhanh nhất.
Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt
Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng của ngân hàng. Vì thế các ngân hàng luôn phải tìm cách duy trì mức lãi suất cạnh tranh. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, cho dù chỉ có một sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng khiến người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn mà họ đang có từ một tổ chức tiết kiệm này sang một tổ chức khác.
Lãi suất là một trong các công cụ kinh tế có tác động mạnh đến việc thu hút vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Ta thầy rằng, người dân khi có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng với thời hạn dài thường đặt mục tiêu lãi suất lên hàng đầu. Lãi suất ngân hàng là yếu tố “giá” cần phải thỏa mãn: có lợi cho người gửi, có lợi cho người vay, có lợi cho ngân hàng, cụ thể là:
+ Lãi suất danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến để đảm bảo quyền lợi cho người gửi
+ Lãi suất cho vay phải đảm bảo lợi nhuận cho các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường.
Lãi suất được xác định theo nguyên tắc thị trường và trong mối quan hệ về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, lãi suất thực dương tạo lợi nhuận cho ngân hàng. Lãi suất được xác định trong “khung giá”, lãi suất phải nằm trong mặt bằng chung trong hệ thống ngân hàng, phải có tính cạnh tranh, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dài phải cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn. Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng lãi suất huy động bằng tỷ lệ lạm phát bình quân hoặc lãi suất gốc cộng với tỷ lệ thu nhập dự tính của người gửi tiền.
Cần phải lựa chọn cơ cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng quy mô tổng nguồn vốn, tiết kiệm chi phí lại vừa tăng tính ổn định của nguồn vốn, dự báo được xu hướng biến động của lãi suất thị trường để chủ động tạo ra các khe hở nhạy cảm với lãi suất thích hợp, từ đó hạn chế rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán, điều chỉnh kết quả kinh doanh theo hướng tích cực.
Hiện nay mức lãi suất huy động nói chung của các ngân hàng còn nhiều bất cập, lãi suất huy động vốn (VNĐ) có chiều hướng tăng trong khi lãi suất cho vay lại hạ do cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Để tăng cường vốn huy động, ngân hàng cần tăng lãi suất tiền gửi, nhưng điều này gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp sử dụng vốn vay. Vì vậy, ngân hàng cần có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi lại vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra.
Đây là vấn đề khó khăn đặt ra mà ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau:
- Nâng cao lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn, đồng thời hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn ngắn để bảo đảm lãi suất trung bình không bị tăng lên đối với toàn bộ vốn huy động. Việc nâng cao lãi suất và dài hạn phải nằm trong khung giá, phải có tính cạnh tranh, ngân hàng có thể dựa vào khung lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của các ngân hàng lớn để đưa ra mức lãi suất vừa hấp dẫn lại mang tính cạnh tranh.
- Mở rộng các hình thức trả lãi: bên cạnh việc áp dụng hình thức trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi hàng tháng, NHNo&PTNT Hà nội có thể áp dụng hình thức lãi xuất lũy tiến theo số lượng gửi tiền. Cùng với một kỳ hạn như nhau, ngân hàng có thể thay đổi mức lãi suất với những khoản tiền lớn. Với chính sách lãi suất nhạy cảm như vậy ngân hàng có thể thu hút được nhiều khoản tiền lớn.
- Khi dịch vụ ngân hàng phát triển, công tác thanh toán qua ngân hàng được hiện đại hóa, ngân hàng sẽ tiến tới không trả lãi đối với các khoản tiền gửi không kỳ hạn như ở các ngân hàng nước ngoài đã làm hiện này.
- Các khoản tiền gửi trung và dài hạn thì mục đích chính của người gửi tiền là hưởng lãi suất hoặc tích lũy cho các mục đích khác như mua sắm. Do đó, ngân hàng có thể tăng lãi suất loại tiền gửi này để khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.
Thường xuyên đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Con người là yếu tố trung tâm quyết định đến sự thành bại của mọi tổ chức. Đối với NHTM thì yếu tố con người là quan trọng hơn cả. Muốn cho sự nghiệp kinh doanh của ngân hàng ngày càng phát triển, hoạt động quản lý kinh doanh và chiến lược khách hàng được tiến hành thuận lợi đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên quan tâm và đưa ra chiến lược con người phù hợp. Phải chú ý ngay từ khâu tuyển dụng, bố trí công tác, thực hiện đào tạo và đào tạo lại cán bộ để có thể theo kịp với những thay đổi.
Các cán bộ ngân hàng cần quán triệt sâu sắc tinh thần tận tụy, chu đáo với sự nghiệp của toàn đơn vị. Cán bộ ngân hàng được coi như tấm gương phản chiếu về ngân hàng, là một yếu tố củng cố uy tín của ngân hàng. Do vậy phải tạo cho cán bộ ngân hàng một phong cách đĩnh đạc, tác phong phục vụ khách hàng lịch sự, văn minh và có trách nhiệm cần hiểu nhu cầu và mong muốn của họ để từ đó mới thực hiện thành công chiến lược khách hàng vì chiến lược này phải được duy trì thường xuyên lâu dài.
Với thực trạng trình độ cán bộ so sánh với yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo NHNo&PTNT Hà nội nên tổ chức đào tạo theo các nội dung sau:
- Đào tạo nâng cao: Mục đích của việc này là bổ túc kiến thức thị trường, các lĩnh vực KH - KTXH, phương pháp nghiên cứu, phân tích tài chính các dự án, hoạt động kinh doanh của một số ngành kinh tế liên quan từ đó nâng tầm nhận thức để có thể hoạch định các chiến lược kinh doanh cho từng thời kỳ đồng thời có khả năng tư vấn cho khách hàng.
- Đào tạo chuyên sâu về công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng để mỗi cán bộ nhân viên giỏi về chuyên môn, thành thạo về nghiệp vụ.
- Trang bị kiến thức Marketing cho các nhân viên trong ngân hàng, tạo điều kiện cho họ trở thành những mắt xích trong thu thập thông tin, xử lý thông tin kịp thời để góp phần đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao kỹ năng giao tiếp.
Nói tóm lại, cán bộ ngân hàng cần phải tích cực hoạt bát, lịch sự khi giao tiếp, trên cơ sở đó tăng cường tín nhiệm, thắt chặt mối quan hệ bạn hàng lâu dài. Như thế, ngân hàng đã có một chính sách cán bộ đúng đắn, phù hợp với nhu cầu kinh doanh, tạo được niềm tin với khách hàng, giúp ngân hàng tăng nguồn vốn để đầu tư và sử dụng vốn cho nền kinh tế.
Tăng cường hoạt động Marketing Ngân hàng
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển, các ngân hàng phải tạo ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Thông qua công tác marketing ngân hàng cần phải đưa ra các hình thức huy động vốn với thời hạn, giá cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu, mong muốn của khách hàng về chất lượng, chủng loại các sản phẩm của ngân hàng. Không những thế, công tác marketing ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khác hàng về với mình để không ngừng mở rộng thêm các khách hàng mới, ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn.
Trong môi trường cạnh tranh như ngày này, NHNo&PTNT Hà nội phải tìm cách tạo nên sự khác biệt so với các ngân hàng khác thì mới có thể tồn tại và phát triển hơn nữa.
Hoạt động Marketing đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng cũng như trong hoạt động huy động vốn. Hoạt động Marketing trước hết phải được thực hiện ở bộ mặt của ngân hàng. Khách hàng nào cũng rất coi trọng bộ mặt bề ngoài của các nơi mà họ đến và thực hiện giao dịch. Do đó NHTM Hà nội cần tạo thêm một môi trường hoạt động gây được thiện cảm của khách hàng với các trang bị cơ sở vật chất hiện đại cùng với sự nhiệt tình niềm nở của nhân viên nghiệp vụ sẽ tạo nên thế mạnh cho bản thân ngân hàng.
Khi ngân hàng đã tạo được sự tín nhiệm cho khách hàng nhưng không tìm được biện pháp quảng cáo để mở rộng mạng lưới khách hàng thì ngân hàng cũng rất khó khăn để mở rộng quy mô hoạt động đặc biệt khi các sản phẩm hay dịch vụ mới ra đời nếu ngân hàng không sử dụng phương tiện quảng cáo thì khách hàng không thể biết mà tìm đến với ngân hàng được hoặc khi ngân hàng muốn thay đổi điều gì đó thì cũng cần phải có phương tiện để thông báo cho mọi người cùng biết. Do đó, ngoài việc sử dụng các hình ảnh về ngân hàng qua bộ mặt của trụ sở, thái độ và trình độ của cán bộ công nhân viên hoặc qua các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thì ngân hàng còn phải sử dụng tích cực hơn nữa các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là quảng cáo.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến lược marketing. Các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo các công cụ kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động của ngân hàng để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ thuật marketing được tập trung vào 4 chính sách lớn:
- Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu điều tra: từ các thông tin có được qua quan sát, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các lĩnh vực có liên quan đến thị trường ngân hàng, từ đó ngân hàng sẽ đưa ra các chính sách kinh doanh nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng phù hợp với nhu cầu của khách hàng và nhu cầu sử dụng vốn của thị trường
- Chính sách sản phẩm giá cả: Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng bao gồm các dịch vụ cơ bản của nghề ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn, nguồn vốn sử dụng vốn, nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ ngoại vi mang tính chất hỗ trợ như dịch vụ tư vấn khách hàng, nghiệp vụ thông tin theo nhu cầu, dịch vụ két… có những nghiệp vụ ngoại vi không mạng lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng, song có tác dụng kích thích sự chú ý, thu hút khách hàng và làm tăng giá trị cung ứng sự thỏa mãn của khách hàng đối với các dịch vụ cơ bản. Đặc biệt với sự đa dạng hóa các sản phẩm của nghiệp vụ huy động vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng khả năng huy động vốn.
- Chính sách phân phối: Chính sách phân phối là tập hợp toàn bộ những phương tiện vật chất đưa ra sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Một ngân hàng có càng nhiều kênh phân phối, nhiều quầy giao dịch thì cơ hội tiếp xúc với khác hàng càng nhiều, từ đó khả năng huy động vốn sẽ tăng lên
- Chính sách giao tiếp, khuyếch chương. Giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Bên cạnh đó, quảng cáo cũng là một phương tiện rất quan trọng để nâng cao vị thế của ngân hàng, thu hút thêm khách hàng cho ngân hàng, tạo lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng
Đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng
Đây là vấn đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Do vậy, NHNo&PTNT Hà nội cần tập trung phát triển và đổi mới công nghệ để phát triển hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Trong cạnh tranh các ngân hàng phải không ngừng đổi mới công nghệ áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến. Đối với một ngân hàng có công nghệ tiên tiến thì chất lượng phục vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ tốt hơn, sẽ huy động được nhiều vốn hơn.
NHNo&PTNT Hà nội trong thời gian qua đã tích cực đổi mới công nghệ ngân hàng như là:
- Tổ chức thực hiện các nghiệp vụ huy động tiền gửi một cách đồng bộ khoa học, phát triển công nghệ ngân hàng với hệ thống vi tính dàn trải khắp các phòng, trang bị các máy rút tiền tự động phục vụ yêu cầu rút tiền của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác, cắt bỏ những khâu không cần thiết.
- Đầu tư vào việc xây dựng hệ thống đường truyền để đảm bảo khả năng liên lạc thông suốt giữa hội sở chính với các chi nhánh.
Như vậy với việc đổi mới công nghệ NHNo&PTNT Hà nội sẽ đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, tạo được uy tín với khách hàng và thu hút thêm được nhiều khách hàng gửi tiền.
Nâng cao hiệu quả chính sách khách hàng
Khác với những hoạt động sản xuất kinh doanh khác, trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng mang tính thường xuyên và lâu dài. Khả năng tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào chữ tín của khách hàng kể cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền. Điều đó khẳng định chính sách khách hàng là một biện pháp quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thực hiện chính sách khách hàng đã được các NHTM rất quan tâm trong những năm gần đây, nhưng chủ yếu chỉ hướng tới những khách hàng vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức, các doanh nghiệp có số dư nợ trên tài khoản tiền gửi lớn và thường lớn. Trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là lớn, đặc biệt ở Hà nội. Nhận thức được điều ấy, NHNo&PTNT đã cố gắng mở rộng nguồn vốn huy động từ dân cư:
- Phải tăng cường công tác phổ cập và hướng dẫn người dân nhất là những người có thu nhập cao và ổn định ở các khu vực dân cư có đời sống cao, đặc biệt ngân hàng cần phải tiếp cận nhiều hơn nữa đối tượng làm công ăn lương. Thông qua việc trả lương bằng thanh toán thẻ ATM, thẻ điện tử, dịch vụ thanh toán công cộng…NHNo&PTNT Hà nội sẽ gia tăng được lượng vồn trong thanh toán phục vụ hoạt động của mình.
- Cần mở rộng nhiều thành phần khách hàng, thu hút mọi tầng lớp dân cư, ngân hàng cần có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích bằng vật chất đối với khách hàng, đặc biệt là chính sách ưu đãi dành cho các khách hàng lớn và thường xuyên cung cấp thông tin cho khách hàng về thị trường tài chính, các dịch vụ ngân hàng.
- Để thu hút tiền gửi tiết kiệm của dân cư, ngân hàng có thể phát hành thẻ tiết kiệm, quay sổ số có thưởng bằng tiền, ô tô hay nhà cửa hoặc thực hiện các chính sách khác đối với khách hàng….
Ngoài ra NHNo&PTNT Hà nội cần thực hiện chính sách để gia tăng nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội có nhiều tiềm năng. Hà nội là một trong những địa điểm có nhiều tổ chức hoạt động có hiệu quả cao trong cả nước. Vì vậy ngân hàng cần thực hiện nhiều chính sách hơn nữa để tận dụng được nguồn vốn tiềm năng này. Cụ thể là:
- Ngân hàng thường xuyên theo dõi số dư trên tài khoản của các tổ chức này để kịp thời trả lãi tiền gửi thanh toán, giao nộp tiền tại trụ sở của các tổ chức đó.
- Cung cấp và mở rộng các dịch vụ phục vụ nhu cầu của tổ chức như: nhu cầu thanh toán, nhu cầu chi trả lương,….Đặc biệt ngân hàng cần sử dụng công cụ lãi xuất một cách linh hoạt, phù hợp nhằm khuyến khích được mọi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
- Đặc biệt tập trung vào kinh tế ngoài quốc doanh, đây là thị trường có nhiều tiềm năng và nguồn vốn hấp dẫn của các ngân hàng. Do đó, NHNo&PTNT Hà nội cần tìm ra nhiều biện pháp khả thi để tiếp cận có hiệu các doanh nghiệp này.
- Tăng cường thức đẩy quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế để hợp tác đầu tư thông qua các dự án, chương trình phát triển kinh tế của đất nước, và các chương trình dự án này phải phù hợp với mục tiêu cơ cấu trong quá trình CNH – HĐH, đảm bảo khả năng khả thi dự án.
Phát triển các hoạt động dịch vụ của ngân hàng
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay, nhiều ngân hàng trên Hà Nội đã thực hiện phát triển nhiều dịch vụ tiện ích phục vụ cho nhu cầu của khách hàng. NHNo&PTNT Hà Nội tuy đã triển khai song vẫn còn nhiều hạn chế. Ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức như: chuyển tiền nhanh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo lãnh, ATM, thẻ tín dụng nội địa, dịch thanh toán biên mậu... song số lượng và chất lượng vẫn còn nhiều bất cập.
NHNo&PTNT Hà Nội đặc biệt chú ý đến dịch vụ thẻ ATM, ngân hàng đã triển khai chậm hơn so với các ngân hàng khác trên địa bàn nhưng vẫn chưa thực sự có được những biện pháp hiệu quả để mở rộng hình thức huy động vốn này. Ngân hàng ngoài việc tuyên truyền quảng cáo sản phẩm thẻ đến với đông đảo người dân thì cũng cần phát hành thẻ miễn phí và hướng dẫn tận tình cách sử dụng đối với khách hàng. Thực hiện phương châm đưa ngân hàng đến từng cơ sở, từng địa điểm tập trung đông dân cư ngân hàng cần đặt thêm nhiều máy ATM hơn nữa. Hiện nay ngân hàng cũng đã sử dụng thẻ ATM trả lương cho cán bộ công nhân viên nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa các hợp đồng thẻ ATM thanh toán lương cho các doanh nghiệp.
Ngân hàng đã thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ liên ngân hàng ví dụ như: thực hiện thanh toán thẻ ACB, Master Card, Visa Card, American Express, thanh toán séc du lịch. Mặc dù vậy số lượng vẫn còn hạn chế do người dùng thẻ thanh toán còn chưa nhiều chủ yếu là người nước ngoài. Bởi vậy ngoài việc tuyên truyền quảng cáo dịch vụ này thì ngân hàng còn phải cho người dân làm quen dần với hình thức sử dụng séc để thanh toán.
NHNo&PTNT Hà nội cần có một đội ngũ cán bộ đủ khả năng để thực hiện các dịch vụ ngân hàng tại doanh nghiệp.
Ngoài ra NHNo&PTNT Hà nội còn cần phải mở rộng nhiều hình thức dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu của khách hàng như dịch vụ tư vấn thông tin, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ bảo hiểm ….
Kiến nghị
Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
NHNN có chức năng quản lý và điều hành hệ thống NHTM và là ngân hàng của các NHTM, NHNN có tầm quan trọng rất lớn đối với chiến lược huy động vốn của ngân hàng, đồng thời cũng định hướng cho các NHTM hoạt động kinh doanh. NHNN với chính sách hợp lý và cách thức điều hành đúng đắn sẽ là tiền đề tốt tác động tích cực đến công tác huy động vốn của NHTM.
Sau đây là một số kiến nghị đối với NHNN:
Thứ nhất là: Cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa khuôn khổ pháp luật, đặc biệt chú ý tính đồng bộ, tính đầy đủ, tính thống nhất các hệ thống văn bản hướng dẫn luật, nhất là các luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Đồng thời chú trọng tới chất lượng thực hiện của các cơ quan thi hành pháp luật các cấp để xây dựng được môi trường kinh doanh thông thoáng, lành mạnh hơn và qua đó tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Thứ hai là: NHNN cần trực tiếp thực hiện đồng bộ các giải pháp khả thi để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Việc làm đó một phần giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông khi thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, mặt khác nó làm phát triển khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM, tăng tốc độ tăng trưởng vốn.
Thứ ba là: NHNN cần cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng, của các tổ chức tài chính trung gian trong việc tạo vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì các ngân hàng phải tạo lập được mối quan hệ liên kết chặt chẽ với nhau và với các tổ chức tài chính khác.
Thứ tư là: NHTM cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến về lợi ích của công tác thanh toán không dùng tiền mặt trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân hiểu và thấy được lợi ích của việc thanh toán qua ngân hàng.
Thứ năm là: NHNN cần tiếp tục kiểm soát và điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho nền kinh tế tăng trưởng cao trong thế ổn định, tiếp tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong mức cho phép đối với các NHTM để các NHTM có nhiều vốn hơn trong hoạt động cho vay và đầu tư.
Kiến nghị với Nhà nước
Thứ nhất là: Nhà nước cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Sự ổn định của môi trường vĩ mô gắn liền với ba mục tiêu là, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng bền vững. Trong đó quan trọng nhất là kiềm chế lạm phát ở mức hợp lý để không làm ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế cũng như khả năng kiểm soát của nhà nướcđối với hoạt động của ngân hàng.
Thứ hai là: Nhà nước cần ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng. Điều này không chỉ tạo niềm tin đối với công chúng mà với những quy định khuyến khích của Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển dần tài sản tích trữ dưới dạng vàng hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi vốn vào ngân hàng.
Thứ ba là: Nhà nước cần hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán.
Như ta đã biết, thị trường chứng khoán bao gồm hai bộ phận là thị trường vốn và thị trường tiền tệ, hai thị trường này cùng thực hiện chức năng cung cấp vốn cho nền kinh tế. Hệ thống NHTM hoạt động trên thị trường tiền tệ, việc thị trường chứng khoán chưa phát triển buộc gánh nặng cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế đè nặng lên vai hệ thống các NHTM, kết quả các NHTM phải đối đầu với nhiều rủi ro.
Thị trường chứng khoán được hoàn thiện và phát triển thực sự sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Mặt khác đây là nơi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình thành tiền mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra các kênh làm cho nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội chảy đến nơi có nhu cầu đầu tư và sử dụng có hiệu quả nhất với giá rẻ nhất, nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất cũng như các hoạt động dịch vụ khác, ngoài ra tạo ra một kênh tiềm năng để NHTM thu hút vốn trung và dài hạn có tính thanh khoản cao.
Thứ tư là: Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa chính sách thuế thật chặt chẽ để vừa đem lại thu nhập cho Nhà nước và cũng tạo nên sự công bằng thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Bởi vì sự tồn tại của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào sự hưng thịnh của nền kinh tế. Khi mà các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả với chính sách thuế hợp lý thì sẽ tăng nguồn thu cho chính phủ và từ đó sẽ có nhiều dự án được triển khai, ngành ngân hàng cũng gia tăng nguồn vốn của mình do các dự án thường không sử dụng hết vốn một lần mà thường chia nhỏ ra nhiều giai đoạn. Ngân hàng chiếm dụng được nguồn vốn này để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Muốn vậy chính sách thuế cần được xây dựng dựa trên quan điểm thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu tăng nguồn tích lũy.
Thứ năm là: nhà nước cần giải tỏa vốn bị đóng băng trong các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả để giảm bớt rủi ro cho các NHTM. Và thường xuyên kiểm tra giám sát để kịp thời rút vốn đầu tư ra khỏi doanh nghiệp không thuộc các lĩnh vực xương cốt của nền kinh tế. Đây cũng là biện pháp tạo vốn quan trọng đối với nhà nước và cũng là một trong những điều kiện để hoạt động huy động vốn của ngân hàng mang lại hiệu quả cao hơn.
Trong hoàn cảnh như hiện nay thì khách hàng truyền thống của NHNo&PTNT Hà nội chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhà nước với mức chiếm dụng vốn rất lớn. Trong khi đó các doanh nghiệp này làm ăn không có hiệu quả, nhiều năm không trả được nợ cho ngân hàng do đó NHNo&PTNT Hà nội đã làm giảm sự quay vòng vốn của đồng vốn ngân hàng.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các NHTM vốn luôn đóng vai trò quan trọng, nó quy định quy mô, các hoạt động của ngân hàng. NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, cho nên việc tăng cường huy động vốn của các NHTM nói chung và NHNo&PTNT Hà nội nói riêng là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Với đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội” , em đã cố gắng nghiên cứu về vốn, các hình thức huy động vốn của NHTM nói chung và của NHNo&PTNT Hà nội nói riêng. Từ đó em đã đưa một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội.
Trong quá trình hoạt động, NHNo&PTNT Hà nội đã đạt được nhiều thành công trong công tác huy động vốn, nhưng bản thân ngân hàng còn nhiều hạn chế, chính vì thế, ngoài sự nỗ lực của bản thân ngân hàng cần phải có sự trợ giúp của NHNN với các chính sách, biện pháp hỗ trợ cho hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng của khách hàng.
Đây là một đề tài liên quan đến mọi mặt hoạt động của một NHTM gắn với môi trường kinh doanh của nó. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của thầy hướng dẫn PSG.TS Mai Văn Bưu cùng các cán bộ của NHNo&PTNT Hà nội, dù đã có nhiều cố gắng nhưng với sự hiểu biết và khả năng còn hạn chế nên bài viết của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Giáo trình Khoa học quản lý – TS Đoàn Thị Thu Hà, TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – NXB Khoa học và Kỹ thuật – Hà Nội 2002.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội - PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – NXB Khoa học và Kỹ thuật – Hà Nội 2006.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Tiền tệ ngân hàng – TS. Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê - Hà nội 2006.
Nguyễn Bá Nha – Lãi xuất trong nền kinh tế thị trường - NXB Thống Kê - Hà Nội 1997.
Viện Khoa học ngân hàng – Marketting trong ngân hàng – NXB Thống Kê - Hà nội 1996.s
Nguyễn Công Nghiệp – Công nghệ ngân hàng và thị trường tiền tệ - NXB Thống Kê - Hà nội 1993.
Học viện ngân hàng - Quản trị ngân hàng – NXB Thống Kê 2001.
GS.TS. Lê Văn Tư – Ngân hàng thương mại – NXB Tài Chính 2004.
PTS. Nguyễn Đức Thảo – Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường – NXB Mũi Cà Mau 1995.
Trần Bá Tước - Những điều cần biết về hoạt động ngân hàng – NXB Tre 1996.
PTS.Nguyễn Quốc Việt – Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam – NXB Chính Trị Quốc Gia 1995.
Tạp chí ngân hàng số 7 tháng 4 năm 2008 - Một số ý kiến về đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam - Nguyễn Đức Hải.
Internet.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12258.doc