Huy động và sử dụng vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh tại Công ty điện lực 1

Lời mở đầu Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thị trường dù là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp, đặc biệt là trình độ quản lý tài chính. Có được một bộ máy quản lý tài chính tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận. Trong đó nhân tố quan trọng nhất là việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp phải đạt

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Huy động và sử dụng vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh tại Công ty điện lực 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được hiệu quả cao nhất. Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch, tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp của chúng ta rất yếu kém trong vấn đề quản lý và sử dụng vốn do trong thời kỳ bao cấp các doanh nghiệp đều hoạt động theo sự chỉ đạo của Nhà nước với các kế hoạch đã được vạch sẵn, vốn cũng được nhà nước bao cấp toàn bộ. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường đã xoá bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp cũng có nghĩa là xoá bỏ hoàn toàn việc cấp vốn cho các doanh nghiệp, cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau đã làm tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn nâng cao được khả năng cạnh tranh thì phải có tiềm lực về vốn và sau đó là từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đồng thời doanh nghiệp cũng phải xây dựng và hoàn thiện cho mình hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Là một đơn vị hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Công ty Điện lực I có chức năng kinh doanh phân phối điện năng trên địa bàn của 25 tỉnh và thành phố miền Bắc và Bắc Trung bộ. Bằng các nguồn vốn của mình và các nguồn vốn vay, Công ty đã không ngừng đầu tư mở rộng lưới điện phân phối nâng cao khả năng cung cấp điện của các đường dây và trạm biến áp phục vụ nhu cầu của các khách hàng mới và nhu cầu tăng lên của khách hàng cũ. Chính vì vậy mà nguồn vốn cho đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh đối với công ty là hết sức quan trọng và cần thiết. Giống như hầu hết các doạnh nghiệp Nhà nước khác vấn đề đặt ra cho công ty là làm sao để có thể quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn được cấp, nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay để phát triển sản xuất kịnh doanh có lãi, xây dựng được ngày càng nhiều các nhà máy điện mới, mở rộng mạng lưới điện đến tận các vùng sâu, vùng xa, nông thôn để góp phần nâng cao đời sống kinh tế xã hội của người dân. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Điện lực I, được tìm hiểu về các hoạt động tài chính của công ty và cũng thấy được tầm quan trọng của Vốn đối với hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty nên em đã lựa chọn đề tàI m điện mới, mở rộng mạng lưới điện đến tận các vùng xâu, vùmg xasản xuất kịnh doanh quả các nguôcủa mình là : “Huy động và sử dụng vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh tại Công ty Điện lực I” Đề tài có mục tiêu nghiên cứu là phân tích thực trạng của hoạt động huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty để thấy được những mặt tích cực cũng như những hạn chế cần khắc phục trên cơ sở đó sẽ đề ra một số giảipháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động và sử dụng vốn của Công ty. Theo mục tiêu nghiên cứu, Đề tài được kết cấu làm ba chương: Chương I: Tổng quan về huy động và sử dụng Vốn của Doanh nghiệp trong nền KTTT. Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng Vốn tại Công ty Điện lực I Chương III: Giảipháp nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công Ty Điện lực I. Trong bài viết của em có thể còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của Quý Thày Cô, Em xin chân thành cảm ơn. Chương I Tổng quan về huy động và sử dụng vốn của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1 Vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp Khi một doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì luôn luôn phải trả lời ba câu hỏi đó là sản xuất cái gì? cho ai? Và sản xuất như thế nào? Việc sản xuất cái gì hay mặt hàng gì là tuỳ thuộc vào cung cầu của thị trường về loại sản phẩm hàng hoá đó ; việc sản xuất cho ai tức là xác định đối tượng khách hàng sẽ tiêu thụ hàng hoá dịch vụ do hãng sản xuất ra còn việc sản xuất như thế nào hay bằng phương pháp nào được quyết định bằng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tóm lại, để trả lời được ba câu hỏi này đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ các chỉ tiêu về cung cầu sản phẩm, giá cả của hàng hoá cạnh tranh, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình cũng như các hình thức cạnh tranh trên thị trường. Và muốn làm được việc đó thì trước hết doanh nghiệp phải có Vốn. Để hiểu được thế nào là Vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn. Theo quan điểm của K.Marx vốn được coi là yếu tố mang lại giá trị thặng dư và là một đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất. đây là một cách hiểu tương đối đầy đủ cả về bản chất và vai trò của Vốn. Bản chất của Vốn chính là giá trị và vì chúng tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua hoạt động kinh doanh nên vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Còn theo P.Samuelson, người đại diện cho trường phái tân cổ điển đã phân chia các yếu tố đầu vào của một quá trình sản xuất làm 3 loại chủ yếu là : Đất đai, lao động và Vốn. Theo Ông vốn là loại hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho mọi hoạt động sản xuất và vốn ở đây chính là tiền, máy móc, thiết bị,vật tư… Trong hai quan điểm trên, các nhà kinh tế học đều có một điểm chung là coi vốn là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên họ lại đồng nghĩa Vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn và tài sản là biểu hiện hai mặt của hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn lực sản xuất trong doanh nghiệp. Vậy ta có khái niệm về Vốn như sau: Vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị vật tư , tài sản …được đầu tư phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Vốn có các đặc trưng cơ bản sau: -Vốn có khả năng sinh lời: Mục đích được đặt lên hàng đầu của các doanh nghiệp là phải tối đa hoá giá trị. Vốn cũng là một loại hình giá trị của doanh nghiệp vì vậy mà vốn cũng phải vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả tiền đều là vốn mà Tiền chỉ biến thành Vốn khi nó được sử dụng vào mục đích kinh doanh sinh lời. Mặt khác Vốn phải được tập trung đến một lượng nhất định thì mới phát huy tác dụng, do vậy doanh nghiệp không chỉ tìm cách khai thác các tiềm năng của vốn mà còn phải tìm các biện pháp thu hút vốn đầu tư từ bên ngoàI như góp vốn, phát hành cổ phiếu,trái phiếu, liên doanh, liên kết… Mặt khác vì vốn được biểu hiện bằng tiền mà tiền lại có giá trị theo thời gian nên Vốn phải thường xuyên được vận động, không để vốn ứ đọng. -Vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu: Không có bất kỳ một đồng vốn nào mà lại không gắn với những người chủ sở hữu chúng. Tuy nhiên, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn được tách biệt. Tuỳ theo các hình thức đầu tư khác nhau mà người sở hữu vốn và người sử dụng những đồng vốn đó là một hoặc cũng có thể người sở hữu vốn tách biệt với người sử dụng. Song dù trong trường hợp nào thì người sở hữu vốn vẫn phải được đảm bảo quyền lợi của mình. -Vốn luôn luôn vận động: Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng những giá trị của tài sản hữu hình và vô hình như Nhà xưởng, đất đai, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chất xám, thông tin…Đối với mỗi loại doanh nghiệp khác nhau thì vốn vận động cũng khác nhau: Đối với những doanh nghiệp sản xuất thì công thức vận động của Vốn được thể hiện là T-H-SX-H-T. Theo công thức này khi bắt đầu một chu trình sản xuất, Vốn của doanh nghiệp sẽ được kết tinh trong các yếu tố đầu vào như nguyên nhiên vật liệu và những chi phí đầu vào khác. Quá trình sản xuất sẽ biến đổi những yếu tố đầu vào này thành những sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp đem những sản phẩm này tiêu thụ trên thị trường và thu về được Tiền hay các khoản phải thu tức là đem lại thu nhập cho doanh nghiệp. Như vậy vốn sẽ kết thúc một vòng luân chuyển; Đối với doanh nghiệp thương mại thì quá trình luân chuyển của Vốn là T-H-T. Có thể thấy khi một doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tự bản thân các đồng vốn đã luôn luôn vận động. Sự vận động này là sự thay đổi về hình thái giá trị của đồng vốn nhưng bắt đầu và kết thúc của vòng tuần hoàn phải là tiền, là giá trị. -Vốn phải được bảo toàn và phát triển: Trong các phương án sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp luôn phải chú trọng đến tính bảo toàn của vốn điều đó có nghĩa là vốn phải được đầu tư vào những dự án có tính khả thi cao, đem lại khả năng sinh lợi cao nhất mặt khác doanh nghiệp cũng phải đảm bảo thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh việc bảo toàn nguồn vốn thì doanh nghiệp cũng phải chú trọng phát triển nguồn vốn của mình, bổ xung thêm các nguồn vốn mới. 1.1.1.Vai trò của Vốn trong doanh nghiệp Có thể thấy Vốn là một điều kiện không thể thiếu để giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Một doanh nghiệp muốn đứng vững được trong nền kinh tế thị trường thì doanh nghiệp đó phải có một số vốn nhất định, số vốn đó giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục, ngoài ra số vốn đó cũng được sử dụng để cải tiến máy móc thiết bị, để đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh mới và để hiện đại hoá công nghệ…Bởi vì trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt không những là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với hàng ngoại nhập trong bối cảnh thị trường ngày càng được tự do hoá và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó nếu doanh nghiệp có một lượng vốn tương đối sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc lưa chọn các phương án sản xuất kinh doanh hợp lý và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Quy mô sản xuất cũng là một nhân tố giúp cho doanh nghiệp mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh mà muốn mở rộng được quy mô sản xuất thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn. Đúng vậy, khi đồng vốn của doanh nghiệp sinh sôI nảy nở thì doanh nghiệp sẽ mạnh dạn mở rộng quy mô sản xuất để phát triển thị phần đồng thời doanh nghiệp cũng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động vào các thị trường tiềm năng mà trước đó doanh nghiệp chưa có điều kiện để thâm nhập. Vốn với đặc tính là sinh lời nên trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp là làm cho đồng vốn ban đầu sinh sôi nảy nở, do vậy một doanh nghiệp khi đã tồn tại được trên thị trường thì doanh nghiệp đó phải ngày càng phát triển, tức là đồng vốn của doanh nghiệp ngày càng tăng theo thời gian. Nhận thức được vai trò của vốn giúp cho doanh nghiệp có một phương án sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả cao. 1.1.2.Nội dung Vốn trong doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường tồn tại rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau và mỗi doanh nghiệp lại lựa chọn cho mình một cơ cấu vốn phù hợp nhất với doanh nghiệp mình. Đối với doanh nghiệp sản xuất họ sẽ sử dụng một lượng vốn lớn đầu tư vào máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu ngược lại các doanh nghiệp thương mại lại đầu tư một lượng vốn lớn vào dự trữ hàng hoá. Không chỉ các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì cơ cấu vốn mới khác nhau mà ngay trong một chu kỳ kinh doanh của một doanh nghiệp cũng có sự thay đổi tỷ trọng và tính chất của các nguồn lực trong cơ cấu vốn. Khi doanh nghiệp đang trong quá trình sản xuất thì lượng vốn được tập trung vào giá trị nguyên vật liệu dự trữ, sản phẩm dở dang nhưng trong thời kỳ tiêu thụ thì lượng vốn lại được tập trung trong khâu thành phẩm, hàng hoá và các khoản phải thu… Tuỳ theo mục đích của việc quản lý Vốn mà nguời ta có thể phân loại vốn thành Vốn Chủ sở hữu và Vốn nợ hoặc phân chia Vốn thành hai bộ phận là Vốn Cố định và vốn lưu động. 1.1.2.1. Vốn Chủ sở hữu Trong hầu hết các loại hình doanh nghiệp thì Vốn chủ sở hữu bao giờ cũng gồm có ba bộ phận là: Vốn góp ban đầu, Vốn từ Lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu. *Vốn góp ban đầu: Một doanh nghiệp khi mới thành lập bao giờ cũng phải có một số vốn điều lệ nhất định để hoạt động. Số vốn này do các cổ đông sáng lập ra công ty đóng góp. Khi xem xét vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp thì phải xét xem doanh nghiệp đó thuộc loại hình sở hữu nào chẳng hạn như đối với doanh nghiệp nhà nước thì Vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước do vậy mà người chủ của doanh nghiệp nhà nước chính là nhà nước hoặc đối với công ty cổ phần thì Vốn chủ sở hữu của công ty chính là cổ phần do các cổ đông đóng góp. Mỗi cổ đông là một người chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên số cổ phần mà họ nắm giữ. *Vốn từ lợi nhuận không chia: Số lượng vốn ban đầu của một doanh nghiệp là quan trọng tuy nhiên cùng với quá trình phát triển của doanh nghiệp thì số vốn đó phải được tăng dần theo thời gian. Trong quá trình hoạt động nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì sẽ có điều kiện để tăng số vốn đó lên gấp nhiều lần so với số vốn ban đầu. Nguồn vốn này sẽ được sử dụng để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn cũng rất quan trọng đối với các doanh nghiệp vì nếu doanh nghiệp tự tài trợ bằng nguồn vốn không chia thì sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được các chi phí về huy động vốn và giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận không chia chỉ có thể thực hiện đuợc nếu như doanh nghiệp đã và đang làm ăn có hiệu quả, được phép tiếp tục tái đầu tư. *Phát hành cổ phiếu: Một biện pháp khác giúp doanh nghiệp có thể tăng nguồn vốn chủ sở hữu của mình là phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Đây là một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng. Các công ty có thể phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. trong đó cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có nhiều lợi thế khi phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Nó cũng là loại chứng khoán được mua bán phổ biến nhất trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên việc phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng có những hạn chế nhất định đó là hạn chế về số lượng cổ phiếu được phát hành trong mỗi đợt phát hành. Số lượng cổ phiếu tối đa được phép phát hành được quản lý bởi Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành của Công ty. Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một lượng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu đãi có đặc điểm khác với cổ phiếu thường là có cổ tức cố định, người sở hữu cổ phiếu ưu đãi được quyền hưởng lãi trước các cổ đông thường và các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính các công ty phát hành thu hồi lại hoặc mua lại khi họ thấy cần thiết. Tuy là chiếm một lượng nhỏ nhưng trong một số trường hợp thì việc sử dụng cổ phiếu ưu tiên là phù hợp. 1.1.2.2. Vốn Nợ Để tăng cường vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp có thể vay nợ từ các nguồn như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng và phát hành trái phiếu. *Nguồn vốn tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng: Đối với Công ty, tín dụng thương mại là hình thức tài trợ mang lại nhiều ưu điểm như rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh. Tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người bán, hình thức này được hình thành trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nhưng cũng cần nhận thấy nếu quy mô tài trợ quá lớn thì quan hệ tín dụng thương mại mang rất nhiều rủi ro. Còn đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng thì đây là một nguồn tài trợ quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của hay còn gọi là tín dụng của người bánng kinh doanhó thể vay nợ từ các nguồn như tín dụng ngân hàng và tín ducác doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Một doanh nghiệp muốn tồn tại vững chắc trên thương trường thì không thể không sủ dụng tín dụng ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt nó rất cần thiết cho những dự án mở rộng hoặc đầu tư sản xuất theo chiều sâu. Một doanh nghiệp muốn vay được vốn của Ngân hàng thì phải đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng như điều kiện tín dụng, điều kiện đảm bảo tiền vay… mặt khác doanh nghiệp cũng sẽ chịu sự kiểm soát của ngân hàng và phải chịu một chi phí vốn nhất định ( lãi suất ). Tóm lại, trong bất kỳ một nền kinh tế nào dù là ở các nước phát triển hay các nền kinh tế đang phát triển thi nguồn vốn tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp và thường chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu nợ của doanh nghiệp. *Vốn từ phát hành trái phiếu: Do một vài hạn chế của tín dụng ngân hàng nên các doanh nghiệp cũng có thể có được một nguồn vốn nợ từ việc phát hành trái phiếu. Nguồn vốn thu được từ việc phát hành trái phiếu cũng là nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng đối với doanh nghiệp. Việc lựa chọn loại trái phiếu thích hợp là vấn đề cần xem xét khi phát hành chúng trên thị trường chứng khoán vì nó có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của loại trái phiếu đó. Có bốn loại trái phiếu là Trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất biến đổi, trái phiếu có thể thu hồi, và trái phiếu có thể chuyển đổi. Trái phiếu có lãi suất cố định được sử dụng phổ biến, lãi suất được ghi trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Trái phiếu có lãi suất thả nổi thì lãi suất của những loại trái phiếu này phụ thuộc vào một số nguồn lãI suất quan trọng khác như lãi suất LIBOR hoặc lãi suất cơ bản. Một số doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn phát hành trái phiếu có thể thu hồi vì nó có những ưu điểm như doanh nghiệp sẽ mua lại các trái phiếu đã phát hành khi thấy cần thiết để giảm số vốn vay. Ngoài ra doanh nghiệp muốn thay đổi cơ cấu nguồn tài chính thì cũng có thể sử dụng loại trái phiếu này. 1.1.2.3. Vốn cố định Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Cần phải nghiên cứu xem xét tính chất và đặc điểm của TSCĐ để có được biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả Vốn cố định. Trong nền sản xuất hàng hoá, để tiến hành sản xuất sản phẩm bao giờ cũng có mặt của ba yếu tố là Vốn, sức lao động và tư liệu sản xuất. TSCĐ là những tư liệu lao động chủ yếu tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc…qua nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mặc dù TSCĐ bị hao mòn nhưng chúng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu chỉ khi nào chúng đã quá hư hỏng, cũ nát thì mới được thay thế bằng TSCĐ mới..1.2.3.n dtín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng: ay.iệp mua lại các trái g khoánnh Tóm lại TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu mà đặc điểm của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của TSCĐ không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần tong phần vào giá thành sản phẩm của chu kỳ sản xuất tiếp theo. Để mua sắm, xây dựng được các TSCĐ thì cần phải có Vốn và Vốn đó được gọi là Vốn cố định. Quy mô vốn cố định sẽ quyết định quy mô của TSCĐ. Đặc điểm của Vốn Cố định là: -Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này là do TSCĐ được sử dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất và được tính khấu hao trong từng lần sử dụng vì thế mà Vốn cố định cũng tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. -Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, giá trị sử dụng của tài sản giảm dần, do vậy mà Vốn cố định cũng được tách làm hai phần: Một phần sẽ được tính vào chi phí của sản phẩm( dưới hình thức chi phí khấu hao), phần còn lại của Vốn cố định sẽ bị giảm dần cùng với sự hao mòn của TSCĐ. Từ đây ta có thể khái quát khái niệm về Vốn cố định như sau: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của Vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì tầm quan trọng của Vốn cố định mà việc quản lý, sử dụng nó cũng phảI được doanh nghiệp quan tâm chú ý. 1.1.2.4. Vốn lưu động Như chúng ta đã biết Tư liệu sản xuất gồm Đối tượng lao động và tư liệu lao động. TSCĐ chính là những tư liệu lao động còn đối tượng lao động ở đây chính là Tài sản lưu động. Khi đối tượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất nó sẽ không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất vì vậy mà toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được chuyển toàn bộ một lần vào sản phẩm. Đối tượng lao động được biểu hiện thành hai bộ phận : Một bộ phận là những vật tư dự trữ để chuyển bị cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, một bộ phận khác chính là những sản phẩm đang trong quá trình chế biến như sản phẩm chế tạo, bán thành phẩm…Hai bộ phận này được biểu hiện dưới hình tháI vật chất được gọi là Tài sản lưu động. Để phục vụ cho quá trình sản xuất doanh nghiệp cần phải dự trữ một số công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế, bao bì đóng gói cũng được coi là những TS lưu động. Khi kết thúc giai đoạn sản xuất sẽ là giai đoạn lưu thông, tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình lưu thông sản phẩm cũng cần phải có những chi phí nhất định. Số tiền được đầu tư vào TS lưu động trong quá trình sản xuất và TS lưu động trong quá trình lưu thông chính là Vốn lưu động. Vốn lưu động được chuyển hoá qua nhiều hình tháI khác nhau, bắt đầu là hình thái tiền tệ sau đó tiền sẽ được dùng để mua hàng hoá, vật tư và sau khi sản phẩm được tiêu thụ thì nó lại quay trở về hình thái ban đầu là tiền. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra không ngừng vì vậy mà sự vận động của vốn cũng có tính chất tuần hoàn không ngừng. Muốn cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, không ngừng thì phải có đủ lượng vốn lưu động cần thiết để đầu tư vào những TS lưu động đó. Dựa vào vai trò của Vốn lưu động trong quá trình tái sản xuất, Vốn lưu động được chia làm ba loại: -Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất gồm: +Nguyên vật liệu chính +Nguyên vật liệu phụ +Nhiên liệu +Phụ tùng thay thế +Vật đóng gói +Công cụ lao động nhỏ -Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất gồm: +Sản phẩm dở dang +Bán thành phẩm tự chế tạo Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông +Thành phẩm: Là những sản phẩm đã được sản xuất hoàn chỉnh đã nhập kho và chuẩn bị cho các công việc tiêu thụ +Tiền tệ: Bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng +Các khoản phải thu, tạm ứng phát sinh trong quá trình mua bán vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sẩn phẩm. Nhìn chung Vốn lưu động phản ánh số lượng vật tư hàng hoá dự trữ ở các khâu là nhiều hay ít, Vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng có tiết kiệm hay không, thời gian vốn nằm ở khâu sản xuất và lưu thông có hợp lý hay không. Bởi vậy thông qua quá trình luân chuyển của Vốn lưu động có thể đánh giá kịp thời về tình hình mua sắm, dự trữ vật tư, hàng hoá, quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Việc tổ chức và quản lý vốn lưu động là rất quan trọng, nhà quản lý phảI biết phân phối vốn trong từng khâu sao cho hợp lý nhất, không để vốn dư thừa ở bất kỳ khâu nào. 1.2 Huy động và sử dụng Vốn cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp Vốn là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Nhưng làm thế nào để có thể nâng cao được hiệu qủa của hoạt động huy động và sử dụng vốn luôn là điều mà các doanh nghiệp trăn trở và tìm biện pháp tháo gỡ. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể của từng doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có những hình thức huy động và sử dụng vốn khác nhau. Trước hết chúng ta đI tìm hiểu nguồn Vốn của doanh nghiệp do đâu mà có? 1.2.1 Huy động Vốn trong doanh nghiệp Vốn bao giờ cũng được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau, điều này phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp và cách mà các doanh nghiệp sử dụng để thu hút vốn. Các hình thức mà doanh nghiệp sử dụng để huy động Vốn bao gồm: 1.2.1.1 Nguồn vốn tự tài trợ của doanh nghiệp Đây là nguồn vốn cũng rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tự tài trợ cho các dự án sản xuất kinh doanh của mình bằng nguồn vốn nội bộ. Khi sử dụng nguồn vốn nội bộ để tài trợ cho các dự án của mình thì doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc sử dụng vốn, giảm được các gánh nặng về chi phí vốn và giảm bớt sự lệ thuộc vào bên ngoài… Nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm: Vốn tự bổ xung từ lợi nhuận không chia: Lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã thực hiện tất cả các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, bù các khoản lỗ của năm trước (nếu có), chia lãi cho các cổ đông…sẽ được trích lại một phần để bổ xung vào vốn kinh doanh của công ty nhằm mục đích đầu tư mở rộng quy mô sản xuất trong tương lai. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một cách thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn với các doanh nghiệp. Có rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại. Phát hành cổ phiếu: Việc doanh nghiệp phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán chính là một biện pháp doanh nghiệp sử dụng để làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu khi doanh nghiệp cần vốn để tài trợ cho các dự án trung và dàI hạn. Đây là một trong những cách thức huy động vốn phổ biến ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển. ở Việt Nam do chúng ta đang trong tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, mặt khác thị trường chứng khoán mới chỉ đang ở trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển nên việc các doanh nghiệp của chúng ta sử dụng hình thức huy động này vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên trong năm 2005 và những năm tiếp theo với sự nỗ lực của các doanh nghiệp của chính phủ và các bộ ngành thì tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ diễn ra nhanh chóng, tạo ra được nhiều hàng hoá cho thị trường chứng khoán phát triển. và khi đó thị trường chứng khoán sẽ thực sự trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp. 1.2.1.2. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài doanh nghiệp Trong giai đoạn phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh thì vấn đề về vốn lại càng trở nên quan trọng với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp rất cần vốn để đầu tư trang thiết bị, công nghệ mới , đào tạo nhân lực để có thể tiếp thu được công nghệ mới. Trong giai đoạn này doanh nghiệp cũng đã lập sẵn rất nhiều các phương án sản xuất kinh doanh nhưng nếu chỉ dựa vào nguồn vốn nội bộ thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho các dự án đó chính vì thế mà ngoài nguồn vốn nội bộ doanh nghiệp còn phải tìm biện pháp để thu hút được các nguồn vốn từ bên ngoài. Các nguồn Vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ bên ngoài bao gồm: *Nguồn Vốn Vay: Các doanh nghiệp có thể có được nguồn vốn vay từ thị trường tài chính chính thức hoặc thị trường tài chính phi chính thức nhưng chủ yếu nhất vẫn là nguồn vốn vay từ các ngân hàng và các tổ chức tàI chính, tín dụng. Nguồn vốn vay của doanh nghiệp bao gồm: -Vốn vay dài hạn: khi doanh nghiệp muốn tồn tại lâu bền và vững chắc trên thị trường thì doanh nghiệp cần phải có những tính toán lâu dài cho sự phát triển của mình, muốn thực hiện được những dự án đó lại phải cần đến nguồn vốn dài hạn. Nhu cầu về vốn dài hạn của các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Doanh nghiệp sẽ sử dụng vốn vay dài hạn để mua sắm, xây dựng TSCĐ hoặc thực hiện một số dự án nhất định. ở nước ta nguồn vốn vay dài hạn chủ yếu vẫn là từ các ngân hàng thương mại do thị trường tàI chính chưa phát triển kịp với nhu cầu thực tế. Về mặt thời hạn, Vay dài hạn thường có thời gian từ 3-5 năm trở lên. -Vốn vay ngắn hạn: Các doanh nghiệp khi có nhu cầu tài trợ cho TS lưu động hoặc cho nhu cầu vốn tăng thêm để tiến hành sản xuất kinh doanh thì có thể vay ngắn hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là nguồn vốn tạm thời doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh trong thời gian ngắn hạn thường là dưới một năm và có tính chất bất thường phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. -Tín dụng thuê mua: Để bắt kịp với sự phát triển ngày càng nhanh chóng của khoa học kỹ thuật thì các doanh nghiệp lại càng phải quan tâm đến vấn đề đổi mới thiết bị, công nghệ để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên việc đầu tư để đổi mới thiết bị, công nghệ thì không phải là doanh nghiệp nào cũng làm được. Thực chất đi thuê và cho thuê tài chính là giải pháp cấp tín dụng bằng mặt hiện vật hoặc trợ giúp về mặt tài chính để doanh nghiệp mua máy móc thiết bị và hình thức này đang nhận được sự quan tâm chú ý của các doanh nghiệp. Tín dụng thuê mua là một hình thức tàI trợ vốn trung và dài hạn khá mới mẻ ở nước ta. Do vậy để nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng này cần phải nhanh chóng hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thuê mua, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành để hình thúc tài trợ này trở nên phổ biến với các doanh nghiệp. -Phát hành trái phiếu công ty: thực chất đây là việc các doanh nghiệp phát hành các loại giấy nợ trung và dài hạn. khi đó doanh nghiệp sẽ trở thành người vay nợ, do vậy mà việc lựa chọn trái phiếu khi phát hành là rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi và tính hấp dẫn của trái phiếu…Có một số loại trái phiếu chủ yếu được lưu hành trên thị trường tài chính của các nước là: +Trái phiếu có lãi suất cố định +Trái phiếu có lãi suất biến đổi +Trái phiếu có thể thu hồi +Chứng khoán có thể chuyển đổi Hiện nay ở nước ta chỉ có các doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH và công ty cổ phần mới được phép phát hành trái phiếu. Tuy nhiên hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. *Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Liên doanh là một hình thức liên kết kinh tế mà khi doanh nghiệp thực hiện một dự án sản suất kinh doanh nếu không có đủ vốn sẽ kêu gọi các nhà đầu tư cùng góp vốn vào để thực hiện dự án đó và sẽ chia lợi nhuận theo tỷ lệ phần vốn góp giữa các bên. Các bên liên doanh có thể góp vốn bằng tiền (VND, ngoại tệ..) hoặc bằng hiện vật như đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…hoặc bằng giá trị của những tài sản vô hình như các phát minh, sáng chế cải tiến kỹ thuật, công nghệ… Các công ty liên doanh đang là loại hình công ty rất phổ biến ở nước ta, có rất nhiều công ty được thành lập và liên doanh với các công ty, các tập đoàn lớn của nước ngoài. Trong các công ty liên doanh thì phía Việt Nam thường đóng góp khoảng 30% vốn chủ yếu là đất đai còn phía nước ngoài góp khoảng 70% vốn trong liên doanh. Tuy nhiên trong quá trình liên doanh những doanh nghiệp trong nước thường bị các doanh nghiệp nước ngoài lấn át một mặt do họ có tiềm lực tàI chính mạnh hơn chúng ta mặt khác Luật pháp của chúng ta cũng chưa có những điều khoản cần thiết để bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệ._.p trong nước. *Nguồn vốn do doanh nghiệp chiếm dụng: Thực chất nguồn vốn mà doanh nghiệp chiếm dụng được chính là các khoản phải trả của doanh nghiệp cho những đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán hết, bao gồm: -Phải nộp Ngân sách nhà nước: Đó là Thuế và các khoản phải nộp NSNN khác nhưng doanh nghiệp chưa nộp hoặc chưa nộp hết. -Phải trả người bán: Đây là những khoản mà doanh nghiệp phải trả khi mua hàng hoá dịch vụ của người cung ứng nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền hoặc đã trả nhưng vẫn còn nợ. -Chiếm dụng của người mua: Đây là số tiền mà người mua trả trước để mua hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. -Phải trả cán bộ công nhân viên: Đây là tiền lương hoặc những khoản khác phải trả cho cán bộ công nhân viên mà doanh nghiệp vẫn chưa thanh toán. -Vốn chiếm dụng của các đơn vị khác: Đây có thể là các khoản tiền mà những đơn vị nội bộ chi trả hộ nhau nhưng chưa được hoàn trả hoặc những khoản BHXH, BHYT của CBCNV phải trích nộp theo quy định nhưng doanh nghiệp chưa nộp *Nguồn vốn khác: Ngoài những nguồn vốn chủ yếu như trên, nguồn vốn của doanh nghiệp có thể đuợc hình thành từ những nguồn khác như nguồn viện trợ từ bên ngoài, các tài sản được cấp trên tặng, thưởng, được biếu tặng hay tài sản thừa chờ xử lý…. Trên đây là một số phương thức huy động vốn phổ biến mà các doanh nghiệp thường sử dụng. Tuy nhiên khi đi vào từng doanh nghiệp cụ thể thì mỗi doanh nghiệp sẽ có những hình thức tài trợ đặc thù của riêng mình. 1.2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp cả nhân tố chủ quan từ phía doanh nghiệp và các nhân tố khách quan do nền kinh tế cũng như các chính sách kinh tế của chính phủ mang lại. *Các nhân tố về phía doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp muốn tự tài trợ bằng nguồn lợi nhuận không chia thì doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang làm ăn có lợi nhuận và được phép tiếp tục tái đầu tư. Nếu doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả thì rất khó có thể sử dụng hình thức tài trợ này. Đối với công ty cổ phần thì việc giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư cũng cần được xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng vì nó có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và thu nhập của các cổ đông. Nếu quy mô của doanh nghiệp quá nhỏ thì doanh nghiệp không đủ điều kiện để phát hành cổ phiếu ra công chúng. Điều này đã làm cho doanh nghiệp mất đi một cơ hội có được một nguồn vốn rẻ. Đây chính là tình trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Còn đối với những Công ty được phép phát hành trên thị trường chứng khoán thì một trong những nhân tố hạn chế số lượng cổ phiếu phát hành chính là quyền hạn của các cổ đông. Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công ty, do đó họ là người đầu tiên có quyền đối với tàI sản hoặc sự phân chia tài sản, thu nhập của công ty. Hoặc nếu doanh nghiệp không có đủ Vốn như quy định thì cũng không được phép phát hành trái phiếu ra công chúng. Đối với doanh nghiệp được phát hành trái phiếu thì có thể loại hình trái phiếu do công ty phát hành lại không hấp dẫn được công chúng như lãi suất của trái phiếu, kỳ hạn của trái phiếu chưa hợp lý. Ngoài ra thì uy tín của doanh nghiệp cũng sẽ ảnh hưởng đến số lượng trái phiếu được công chúng mua, các công ty có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Nếu doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải đáp ứng được các điều kiện do ngân hàng đặt ra, chịu sự kiểm soát của ngân hàng và phải chi trả lãi suất vay vốn. Nếu bản thân doanh nghiệp không có được một phương án kinh doanh có hiệu quả thì sẽ không thuyết phục được các ngân hàng cấp tín dụng. Bên cạnh đó các ngân hàng trước khi cho vay thường yêu cầu doanh nghiệp phải có các điều kiện đảm bảo tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện đảm bảo tiền vay thì cũng không thể vay vốn từ các ngân hàng, đây là điều mà doanh nghiệp cần lưu ý khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. *Các nhân tố của nền kinh tế: Đối với các doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện chính sách tái đầu tư bằng lợi nhuận để lại không chỉ phụ thuộc vào khả năng kinh doanh làm ăn có lãi của các doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước. Việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào các quy định của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. ở Việt nam hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về thị trường chứng khoán đang từng bước được hình thành và hoàn thiện. Hoạt động của thị trường chứng khoán đang dần đi vào quỹ đạo của sự phát triển. Tuy nhiên thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển đồng bộ về cơ cấu, chưa đồng đều về trình độ giữa các bộ phận hợp thành. Các hoạt động trên thị trường tài chính của chúng ta mới chỉ tập trung vào thị trường vốn ngắn hạn, chưa nhiều các hoạt động trên thị trường vốn dài hạn. Hơn nữa trong thị trường vốn ngắn hạn cũng chỉ tập trung ở hoạt động huy động và cho vay tín dụng thông thường của các ngân hàng thương mại quốc doanh, còn ở thị trường vốn dàI hạn mới chỉ tập trung ở hoạt động vay nợ dài hạn của chính phủ hoặc doanh nghiệp nhà nước…thị trường chứng khoán-một định chế tài chính tiên tiến thì lại đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nên rất khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ huy động vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác quy mô của thị trường tài chính còn nhỏ, các hàng hoá và dịch vụ tài chính nghèo nàn, mang tính chuyên nghiệp chưa cao. Quy mô và số lượng vốn điều lệ cũng như khả năng thanh toán của các ngân hàng, các công ty tài chính còn rất khiêm tốn do vậy chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp. Các yếu tố như lạm phát và lãi suất thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp do nó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất của vốn vay mà các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay, ảnh hưởng đến lãi suất các loại giấy nợ trung và dài hạn do doanh nghiệp phát hành. Nhưng trong những năm tới cùng với sự chuyển biến về nhận thức và sự hoàn thiện cơ chế thị trường mở nói chung, hệ thống pháp lý kinh tế nói riêng, thị trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được củng cố và phát triển vững chắc tạo ra các dịch vụ về vốn nhanh chóng và thuận lợi để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.2.2.Sử dụng vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi doanh nghiệp đã huy động đủ số vốn cần thiết thì doanh nghiệp sẽ tiến hành sử dụng số vốn đó vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn phải luôn luôn được vận động, sử dụng hợp lý để tránh sự lãng phí và tạo ra được lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.2.2.1. Mục tiêu sử dụng vốn Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một doanh nghiệp đều có một mục tiêu hoạt động khác nhau. Các mục tiêu này sẽ phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng như những thay đổi của thị trường và nền kinh tế. Tuy nhiên mục tiêu cuối cùng của tất cả các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều là lợi nhuận, là làm tối đa hoá giá trị của công ty từ các giá trị ban đầu. Để thực hiện được mục tiêu đó thì doanh nghiệp phải chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 1.2.2.2. Nội dung sử dụng vốn của doanh nghiệp Sau khi doanh nghiệp đã huy động đủ số vốn cần thiết cho đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và đặc biệt là sau khi đã xác định rõ mục tiêu sử dụng vốn thì doanh nghiệp sẽ phải lên kế hoạch sử dụng vốn làm sao để phát huy tối đa sức sinh lời của một đồng vốn bỏ ra. Vốn của doanh nghiệp được sử dụng vào những mục đích sau đây: Vốn được dùng để đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tiến hành được hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần phải có những tài sản cố định ban đầu như nhà xưởng, trụ sở, văn phòng làm việc, máy móc, thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất...Ngoài những tài sản cố định được đầu tư ban đầu thì hàng năm doanh nghiệp vẫn phải tiến hành đầu tư mới tài sản cố định, thay thế những tài sản cố định đã hết thời hạn sử dụng...vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là tính toán để đầu tư vào tài sản cố định một cách hợp lý, tránh những đầu tư dàn trải, không cần thiết gây ra sự lãng phí trong sử dụng vốn. Đối với những doanh nghiệp vừa tiến hành hoạt động sản xuất, vừa tiến hành hoạt động kinh doanh thì vốn đầu tư cho tài sản cố định chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Vốn được dùng để đầu tư vào tài sản lưu động: Sau khi đã có được một sự đầu tư hợp lý vào tài sản cố định thì doanh nghiệp bắt đầu tiến hành các hoạt động sản xuất của mình, tuy nhiên muốn tiến hành được hoạt động sản xuất thì ngoài những TSCĐ thì còn phải cần đến nguyên vật liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, chính vì vậy mà cần đến một lượng vốn để đầu tư cho nguyên vật liệu, hàng dự trữ và vốn được sử dụng để đầu tư vào những hàng hoá này được gọi là vốn lưu động. Ngoài ra, sau khi đã sản xuất ra sản phẩm thì doanh nghiệp phải tiến hành việc tiêu thụ sản phẩm đó trên thị trường. Việc tiêu thụ này cũng đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả thì sẽ góp phần đẩy nhanh vòng quay của vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh góp phần làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.2.2.3.Hiệu quả sử dụng vốn Trong bất kỳ hoạt động nào của con người dù là hoạt động kinh tế hay hoạt động xã hội đều mong muốn nhận được những kết quả tốt nhất. Chúng ta luôn quan tâm đến việc làm thế nào để với khả năng hiện có mà tạo ra được một kết quả tốt nhất. Vậy có thể nói hiệu quả là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có để đạt được kết quả hoạt động cao nhất. Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp thì người ta thường đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó có tốt hay không. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với toàn bộ chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh đó. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn không những thể hiện ở kết quả và chi phí mà nó còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu khác như khả năng thanh toán, vòng quay của vốn… 1.2.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Để quản lý tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình thì doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn dựa trên hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để biết được thực trạng sử dụng vốn của doanh nghiệp mình như thế nào từ đó đề ra các giải pháp sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả hơn. Sau đây là một số chỉ tiêu tài chính giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp, các cơ quan quản lý cũng như các đối tác có thể đánh giá được kết quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.2.2.4.1.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng Vốn cố định *Các chỉ tiêu về TSCĐ: Tài sản cố định là biểu hiện bằng hiện vật của Vốn, nên khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn phải đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ. Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Hệ số đổi mới TSCĐ= Giá trị TSCĐ bình quân kỳ SXKD Đây là hệ số phản ánh tình hình đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp. Giá trị TSCĐ tăng thêm trong kỳ là giá trị của những tài sản cố định được mua mới, được cấp trên cấp hoặc nhận của bên góp vốn liên doanh, liên kết… Còn giá trị tài sản cố định bình quân kỳ SXKD là giá trị TSCĐ bình quân đầu kỳ và cuối kỳ của doanh nghiệp. Giá trị TSCĐ giảm đi trong kỳ Hệ số loại bỏ TSCĐ= Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Song song với việc đầu tư mới trang thiết bị công nghệ thì doanh nghiệp cũng cần loại bỏ những tài sản đã quá cũ nát không thể sử dụng được nữa. Hệ số loại bỏ TSCĐ là chỉ tiêu phản ánh quá trình thay đổi máy móc, thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp. Những tài sản giảm đi trong kỳ là những tài sản đã hết hạn sử dụng, đã thanh lý hoặc chưa hết hạn sử dụng nhưng được điều chuyển đi nơi khác. Giá trị hao mòn của TSCĐ vào thời điểm đánh giá Hệ số hao mòn TSCĐ= Nguyên giá TSCĐ Trong quá trình sử dụng TSCĐ hao mòn dần và đến một lúc nào đó sẽ không còn sử dụng được nữa. Việc hao mòn TSCĐ diễn ra một cách đồng thời với hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc phân tích hệ số hao mòn có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp. Nó giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp đánh giá đúng thực trạng của tài sản đang sử dụng để từ đó có hướng sửa chữa, bảo dưỡng hoặc thay mới tài sản cố định. Hệ số hao mòn của TSCĐ càng gần đến 1 thì thể hiện là tàI sản đó đã sắp hết thời hạn sử dụng và ngược lại khi nó càng nhỏ hơn 1 nhiều thì thể hiện nó còn mới và có thời gian sử dụng dài. Hệ số này cho doanh nghiệp biết thời điểm cần phảI đổi mới hoặc hiện đại hoá tài sản của mình. Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng Vốn cố định: Doanh thu thuần trong kỳ Hệ số phục vụ VCĐ = Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa doanh thu thuần với vốn cố định của doanh nghiệp. Cụ thể là một đồng vốn cố định bỏ ra sẽ thu về được Bao nhiêu đồng doanh thu VCĐ bình quân trong kỳ Tỷ suất hao phí VCĐ = Doanh thu thuần trong kỳ Tỷ suất này cho biết để có được một đồng doanh thu thuần thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn cố định. Lợi nhuận trong kỳ Hệ số sinh lời của VCĐ= VCĐ bình quân trong kỳ Đây là chỉ tiêu cho biết khả năng sinh lợi của VCĐ, hệ số này càng lớn càng chứng tỏ số vốn cố định mà doanh nghiệp bỏ ra là có hiệu quả 1.2.2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng Vốn lưu động. Doanh thu thuần trong kỳ Hiệu suất sử dụng VLĐ = VLĐ bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ(Trước hoặc sau thuế) Hệ số sinh lời của VLĐ = VLĐ bình quân trong kỳ Cũng như các chỉ tiêu của Vốn cố định, hai chỉ tiêu trên cho biết hiệu quả sử dụng vốn lưu động, thể hiện một đồng vốn lưu động bỏ ra sẽ thu về được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc lợi nhuận. Hai chỉ tiêu này càng cao càng tốt vì nó chứng tỏ vốn lưu động mà doanh nghiệp bỏ ra sử dụng là có hiệu quả. Doanh thu thuần trong kỳ Vòng quay TSLĐ trong kỳ = TSLĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị TSLĐ sử dụng trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần, chỉ tiêu này càng lớn chính tỏ hiệu suất sử dụng TSLĐ cao. TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Mức đảm nhiệm TSLĐ = Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết để đạt được mỗi đơn vị doanh thu , doanh nghiệp phải sử dụng bao nhiêu phần trăm đơn vị TSLĐ, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả kinh tế càng cao. 1.2.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng Vốn Trong suốt quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp luôn phải chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau. Những nhân tố này ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên chúng cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh ngiệp. Có những nhân tố ảnh hưởng tích cực tuy nhiên cũng có những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực. Do vậy muốn nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của mình thì doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ những ảnh hưởng của các nhân tố này để từ đó có những giải pháp thích hợp khi thực hiện những dự án kinh doanh của mình. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả sử dụng Vốn của doanh nghiệp: 1.2.2.5.1. Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nhà nước đã thực hiện chức năng quản lý và điều tiết các nguồn lực trong nền kinh tế bằng hệ thống luật pháp về kinh tế cũng như các thể chế về kinh tế của mình. Các chính sách kinh tế của chính phủ tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng hướng các hoạt động đó theo các kế hoạch kinh tế vĩ mô. Vì thế với bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào trong chính sách kinh tế vĩ mô cũng đều ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. ảnh hưởng rõ rệt nhất vẫn là các chính sách về Thuế, Luật đầu tư hoặc các chính sách về lãi suất, tín dụng ngân hàng. *Chính sách Thuế: Chính sách Thuế của Nhà nước quy định các loại thuế và mức thuế suất mà doanh nghiệp sẽ phải nộp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Những sự thay đổi của các loại thuế và mức thuế suất phải nộp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như nếu Nhà nước quyết định giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp xuống dưới mức 28% như hiện nay thì sẽ làm cho số tiền thuế thu nhập mà doanh nghiệp phảI nộp giảm đi, từ đó sẽ làm tăng lợi nhuận sau thuế của doanh nhiệp hoặc nếu như Chính phủ quyết định thay đổi mức thuế suất thuế Nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu hay việc xuất khẩu sản phẩm, hàng hoá…. Tóm lại, chính sách Thuế của nhà nước sẽ có ảnh hưởng to lớn đến doanh thu và lợi nhuận thu được của doanh nghiệp trong một kỳ sản xuất kinh doanh, mà đây lại chính là những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả sủ dụng Vốn của doanh nghiệp. Vì thế có thể nói chính sách thuế của nhà nước cũng có rất nhiều ảnh hưởng đến công tác quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. *Luật đầu tư: Đây là một trong những công cụ quan trọng có thể giúp nhà nước khuyến khích hoặc hạn chế các nguồn hình thành nên vốn đầu tư trong mỗi doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết, để có đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Luật đầu tư do nhà nước ban hành cho phép doanh nghiệp lựa chọn những phương thức phù hợp để thu hút các nguồn vốn kinh doanh từ bên trong và bên ngoài. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể thu hút đựơc cũng như phương thức mà doanh nghiệp sử dụng để tạo nguồn vốn cho mình. *Chính sách về lãi suất và tín dụn ngân hàng: Mức lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại hoặc của các tổ chức tín dụng là cao hay thấp phụ thuộc vào cung- cầu Vốn trên thị trường, sự điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước… Khi doanh nghiệp muốn vay vốn để tài trợ cho các dự án của mình thì doanh nghiệp phải xem xét mức lãi suất mà các ngân hàng đưa ra có phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp hay không, từ đó sẽ ảnh hưởng đến khối lượng vốn vay của các doanh nghiệp. Lãi suất tiền vay cao hay thấp sẽ làm cho chi phí tiền vay của doanh nghiệp thay đổi từ đó làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp và do vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, trong cơ chế kinh tế cũ các doanh nghiệp chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh theo các chỉ tiêu, kế hoạch do nhà nước đặt ra. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó để đứng vững và phát triển các doanh nghiệp cần phát huy tối đa sự nhanh nhạy, sáng tạo, chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn vốn cho sản xuất sản phẩm và tìm thị trường cho sản phẩm đầu ra. Như vậy, có thể thấy chính sách quản lý của Nhà nước nhìn chung là tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp , giúp doanh nghiệp phát huy khả năng sáng tạo trong quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó khi đứng trước các quyết định về đầu tư tài chính doanh nghiệp luôn phải xét tới các chính sách kinh tế của nhà nước. 1.2.2.5.2. Các biến động của nền kinh tế Một doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì luôn phải gắn các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình với sự vận động và biến đổi không ngừng của thị trường, của nền kinh tế. Khi nền kinh tế biến động thì doanh nghiệp cũng chịu nhiều ảnh hưởng vì doanh nghiệp là một thực thể của nền kinh tế. Những nhân tố mà ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp từ bên ngoài cũng đều ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Những tác động đó có thể xảy ra khi nền kinh tế có lạm phát, sức ép của môi trường cạnh tranh gay gắt, những rủi ro mang tính hệ thống mà doanh nghiệp khó tránh khỏi. ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh cũng sẽ tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp. Khi nền kinh tế suy thoái thì rất khó cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Hoặc nguợc lại khi nền kinh tế thịnh vượng thì nó sẽ có những tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tất cả các nhân tố này ở mức độ nào đó sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đến công tác quản lý, sử dụng vốn, và tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.2.2.5.3. Các nhân tố từ phía doanh nghiệp *Sản phẩm và sự cạnh tranh của sản phẩm: Trước khi tiến hành hoạt động sản xuất, doanh nghiệp phải xác định được sản phẩm mà mình định sản xuất là sản phẩm gì, mẫu mã ra sao, có phù hợp với thị hiếu của khách hàng hay không, sản phẩm có tính cạnh tranh cao trên thị trường hay không,.. Muốn vậy, doanh nghiệp phảI tích cực trong việc cải tiến công nghệ, đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hoá TSCĐ, và sử dụng có hiệu quả, hợp lý nguồn vốn để tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt, có tính cạnh tranh cao với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khi sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng thì sẽ làm tăng tốc độ quay vòng của vốn, ngược lại khi sản phẩm sản xuất ra bị ứ đọng, tiêu thụ chận sẽ làm giảm tốc độ quay vòng của vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. *Tính cân đối giữa vốn cố định và vốn lưu động: Đây là nhân tố rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào TSCĐ thì có thể dẫn đến tình trạng sử dụng không hết công suất của TSCĐ, từ đó kéo theo sự lãng phí không cần thiết. Còn nếu doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào TS lưu động thì sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, gây lãng phí. Do đó, việc bố trí một cách cân đối giữa TSCĐ và TSLĐ, giữa VCĐ và Vốn lưu động là rất quan trọng. Trong các doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất việc bố trí tỷ trọng của TSCĐ và tàI sản lưu động có thể là rất khác nhau vì đặc điểm hoạt động giữa hai loại hình này là khác nhau. Đây là vấn đề cần phảI được các nhà quản lý đặc biệt quan tâm *Trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp: Một trong những yếu tố cũng rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là trình độ tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được tổ chức tốt từ trên xuống dưới thì sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và ngược lại. Điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phảI có được sự phân công lao động hợp lý, không ngừng nâng cao tay nghề cho các công nhân viên và bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các cán bộ phòng ban. Nếu các nhà quản lý doanh nghiệp không nhanh nhạy, nắm bắt được sự thay đổi nhanh chóng của thị trường để có được một kế hoạch dàI hạn cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp khó có thể đứng vững được trên thị trường mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên đây là những nhân tố có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả của hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nắm bắt được các nhân tố này sẽ giúp cho các doanh nghiệp kịp thời đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của chúng tới hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chương II. Thực trạng huy động và sử dụng Vốn tại công ty Điện lực I 2.1.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thời gian qua Ngày 7/4/ 1993 Công ty Điện lực I được tái thành lập với số vốn kinh doanh là 3.508.596 triệu đồng và cấp điện cho 25 tỉnh và thành phố phía Bắc. Để có thể tiến hành kinh doanh điện năng, Công ty phải tổ chức một hệ thống lưới truyền tải, phân phối đem điện đến tận người tiêu dùng, do đặc điểm trên nên trong cơ cấu vốn, Vốn cố định của công ty chiếm tỷ trọng lớn. Tài sản cố định của Công ty chủ yếu dưới dạng hệ thống lưới điện, các trạm biến áp, cao áp và hạ thế...Ngoài hoạt động kinh doanh điện năng, công ty còn tiến hành các công trình cải tạo lưới điện phân phối. Để có vốn cho đầu tư, xây dựng mạng lưới phân phối điện Công ty đã mạnh dạn điều hoà các nguồn vốn có trong tay, tận dụng tối đa nguồn vốn do khách hàng ứng trước cũng như các nguồn vốn tín dụng để dự trữ vật tư, hàng hoá... Trước khi đi vào phân tích thực trạng huy động và đánh giá hiệu quả sử dụng Vốn cho sản xuất kinh doanh tại Công ty Điện lực I, chúng ta sẽ xem xét một số chỉ tiêu phản ánh khái quát tình hình tài chính của công ty trong hai năm 2003 và 2004. Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 và 2004 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 So sánh 04/03(%) 1. Doanh thu thuần 4.840.127,125 6.231.134,901 128.7 2. Giá vốn hàng bán 4.243.960,154 5.512.485,276 129.8 3. Lợi nhuận gộp (1-2) 596.166,971 718.649,625 120.5 4. Doanh thu h.động TC 150.646,759 23.351,619 15.5 5. Chi phí h.động TC 208.180,851 73.258,934 35.1 6. Chi phí bán hàng 237.339,360 186.931,550 78.7 7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 47.380,413 278.398,280 587,5 8. Lợi tức từ hoạt động KD (3+4-5-6-7) 253.913,106 203.412,479 80,1 9. Thu nhập khác 4.978,248 7.192,642 144,5 10. Chi phí khác 3.065.699 5.516,052 179,9 11.Lợi nhuận khác (9-10) 1.912,548 1.676,590 87,6 12.Tổng Lợi nhuận trớc thuế (8+11+4-5) 255.825,655 205.089,069 80,2 13. Thuế TNDN phải nộp 81.326,091 65.527,549 80,5 14. Lợi nhuận sau thuế (12-13) 174.526,564 139.561,519 79,9 15. Hệ số doanh lợi (14/1) 0,036 0,022 Nguồn số liệu: Báo Cáo Tài chính năm 2003, 2004 của phòng Tài chính- Kế toán. Công ty Điện Lực I Qua các chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận của Công ty trong hai năm 2003-2004 cho thấy Công ty đã sản xuất kinh doanh có lãi. Tuy nhiên, Lợi nhuận trước và sau thuế của Công ty năm 2004 lại giảm so với năm 2003. Nếu năm 2003, Tổng lợi nhuận trước thuế của Công ty là 255.825,655 triệu đồng thì năm 2004 giảm xuống còn 205.089,069 triệu đồng. như vậy lợi nhuận trước thuế của Công ty năm 2004 giảm so với 2003 là 50.736,586 triệu đồng và chỉ bằng 80,2% của năm 2003. và do vậy mà lợi nhuận sau thuế của công ty năm 2004 giảm so với năm 2003 là 34.965,045 triệu đồng và chỉ bằng 79,9% năm 2003. Nguyên nhân làm cho Lợi nhuận của công ty giảm xuống là do trong năm 2004, chi phí quản lý doanh nghiệp đã tăng đột biến, đồng thời giá vốn hàng bán cũng tăng lên nhiều hơn mức tăng của doanh thu thuần. Trong khi đó chi phí hoạt động tài chính lại lớn hơn doanh thu từ hoạt động tài chính rất nhiều. Cụ thể, năm 2004 doanh thu hoạt động tài chính chỉ bằng 15,5% của năm 2003 nhưng chi phí hoạt động tài chính thì lại bằng 35,1%. Điều này chứng tỏ hoạt động tài chính của công ty còn chưa có hiệu quả, thu nhập từ hoạt động tài chính luôn nhỏ hơn so với chi phí mà công ty phải bỏ ra làm cho lợi nhuận từ hoạt động tài chính hai năm qua đều là những số âm. Hệ số doanh lợi là một chỉ tiêu tài chính nhằm giúp cho Công ty đánh giá được hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Chỉ tiêu này được xác định bằng thương số giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần. Như vậy ta có thể thấy chỉ tiêu này trong năm 2004 đã giảm so với năm 2003 có nghĩa là lợi nhuận ròng tương ứng cuả Công ty đã bị giảm. Bảng 2: Bảng cân đối kế toán Ngày 31 tháng 12 năm 2003 và 2004 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 Tỷ lệ so sánh 04/03 (%) A. Tài sản 5.240.629,637 6.781.659,925 129,4 1.TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 1.855.857,563 2.335.716,464 125,8 Tiền 536.674,361 609.562,582 113,6 Các khoản phải thu 1.047.288,202 1.500.439,910 143,3 Hàng tồn kho 191.846,763 181.062,274 94,4 TSLĐ khác 79.607,984 42.214,064 53,03 Các khoản đ.tư tài chính NH 0 2.000,000 Chi sự nghiệp 440,250 437,632 99,4 2. TSCĐ và đầu tư dài hạn 3.384.772,074 4.445.943,461 131,3 TSCĐ ( GTCL) 2.976.807,424 4.266.432,453 143,3 Các khoản đ.tư tài chính DH 5.931,582 6.501,541 109,6 Chi phí đầu tư xây dựng 74.068,693 141.733,149 191,4 Các khoản kí quỹ, kí cược DH 59,434 78,171 131,5 Chi phí trả trước dài hạn 0 31.198,146 B. Nguồn Vốn 5.240.629,637 6.781.659,925 129,4 1.Nợ phải trả 1.732.533,490 2.671.724,451 154,2 Nợ ngắn hạn 1.641.950,645 2.486.072,048 151,4 Nợ dài hạn 21.698,748 56.823,602 261,8 Nợ khác 68.884,096 128.828,800 187,02 2.Nguồn Vốn CSH 3.508.096,147 4.109.935,474 117,2 a.Nguồn vốn- quỹ 3.455.796,674 4.050.064,595 117,19 Vốn kinh doanh 3.264.464,793 3.881.428,004 118,9 Quỹ đầu tư phát triển 43.862,029 -1.173,609 -2,67 Quỹ dự phòng tài chính 64.589,079 71.812,763 111,18 Chênh lệch tỷ giá 343,357 0 Lợi nhuận chưa phân phối 46.189,765 41.068,164 88,9 b. Nguồn kinh phí 52.299,473 59.870,878 114.4 Nguồn số liệu: Báo cáo Tài chính năm 2003, 2004 của Phòng Tài chính- Kế toán, Công ty Điện lực I. Qua bảng số liệu trên ta thấy giá trị TSCĐ đã tăng trong hai năm qua từ 3.384.772,074 triệu đồng năm 2003 lên 4.445.943,461 triệu đồng năm 2004 tương ứng vói mức tăng 31,3%. Bên cạnh đó nguồn vốn của Công ty cũng tăng lên, năm 2003 tổng nguồn vốn của công ty là 5.240.629,637 triệu đồng thì năm 2004 con số này đã tăng lên 6.781.659,925 triệu đồng tương ứng với mức tăng 29,4%. Trong đó nguồn vốn chủ sở hữu năm 2004 tăng 601.839,327 triệu đồng so với năm 2003, tương ứng với mức tăng 17,2%. Tuy nhiên Nợ phải trả của Công ty năm 2004 lại tăng so với năm 2003 là 54,2% đặc biệt là các khoản nợ dài hạn và nợ khác đã tăng đột biến như nợ dài hạn tăng 161,8% và nợ khác tăng 87,02%. Với sự đầu tư về vốn và TSCĐ trong những năm qua, cùng với việc phát huy năng suất của những máy móc, thiết bị, Công ty ĐL I đã đạt được một số chỉ tiêu sau: Bảng 3: Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của công ty điện lực I. Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu ĐVT Năm 2003 Năm 2004 So sánh 04/03 1. Bố trí cơ cấu TS và NV 1.1.Bố trí cơ cấu TS TSCĐ/ Tổng TS % 65 66 1% TSLĐ/ Tổng TS % 35 34 -1% 1.2.Bố trí cơ cấu NV Nợ phải trả/ Tổng NV % 33 39 6% Vốn CSH/ Tổng NV % 67 61 -6% 2. Khả năng thanh toán 2.1.Khả năng thanh toán hiện hành Lần 3,02 2,54 -0,48 2.2.Khả năng thanh toán nợ NH Lần 1,13 0,94 -0,19 2.3. Khả năng thanh toán nhanh Lần 0,33 0,25 -._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36779.doc