Lời nói đầu
Đối với Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn có vị trí đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Nông thôn là nơi làm việc và sinh sống của gần 80% dân số, đa số là còn nghèo, thu nhập chiếm gần 40%GDP cả nước, là thị trường rộng lớn, tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm của mọi ngành nghề xã hội; là nơi cung cấp nguyên liệu và lao động cho nông nghiệp và các ngành nghề phát triển sản xuất. Nông nghiệp – nông thôn còn là nơi chủ yếu và quyết định sự phát triển bền vững và tính
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Huy động và sử dụng vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn VN trong những năm đầu của thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lâu bền môi trờng sinh thái đảm bảo tính ổn định, đa dạng của tự nhiên. Mà ở nông thôn thì phát triển cơ sở hạ tầng tạo tiền đề cho các ngành kinh tế khác phát triển. Nó có ý nghĩa đối với toàn bộ sự chuyển đổi kinh tế – xã hội nông thôn trong giai đoạn phát triển hiện nay. Muốn phát triển được cơ sở hạ tầng nông thôn thì vốn là vấn đề then chốt. Chính vì thế mà em đã chọn đề tài “Huy động và sử dụng vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI”.
Em muốn qua việc nghiên cứu đề tài này để hiểu rõ hơn về cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam, việc tăng cường và huy động vốn để phát triển cơ sở hạ tầng là hết sức cấp bách và cần thiết. Nhiều địa phương còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, lý do chủ yếu là về vốn. Vốn giữ vai trò quan trọng nhưng chúng ta không thể chỉ trông chờ nguồn vốn của Nhà nước mà phải tìm cách huy động trong mọi tầng lớp nhân dân, nguồn vốn nước ngoài. Khi vốn đã có thì phải tìm phương án sử dụng để đạt hiệu quả tối ưu nhất. Trên thực tế đã có nhiều địa phương sử dụng vốn một cách tuỳ tiện, chất lượng công trình không đảm bảo. Đưa vào sử dụng một vài năm đã hỏng không đáp ứng được nhu cầu đang phát triển nhanh ở nông thôn.
Do vậy cần có những biện pháp thích hợp để thúc đẩy qúa trình huy động và sử dụng vốn đạt hiệu qủa nhằm phát triển cơ sở hạ tầng từng bước khai thác tiềm năng nông nghiệp nông thôn. Với vai trò và tính cấp thiết của vấn đề đó em đã chọn đề tài này với nội dung chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp về vốn cho phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 21.
Khi nghiên cứu đề tài này em đã sử dụng các phương pháp thu thập tài liệu, phân tích đánh giá, quan sát – khảo sát, phương pháp tổng hợp, phương pháp tư duy lô gíc...
Bài viết của em sẽ không được hoàn thiện nếu không sự góp ý của các thầy cô giáo. Em mong được sự góp ý hơn nữa của các thầy cô để bài viết của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn
I. cơ sở hạ tầng và sự phát triển kinh tế xã hội
1.Khái niệm và đặc điểm của cơ sở hạ tầng.
a.khái niệm chung:
Trong việc sản xuất ra của cải vật chất, năng lực sản xuất, hay sức sản xuất được quyết định bởi lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ năng lực thực tế của người ta trong việc chinh phục thiên nhiên để sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm bản thân người lao động, tư liệu sản xuất và công nghệ. Trong tư liệu sản xuất có một bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là những cơ sở, phương tiện chung, nhờ đó mà các qúa trình công nghệ, sản xuất dịch vụ được thực hiện. Nói như vậy nghĩa là, bộ phận cơ sở, phương tiện chung này bản thân không phải là công nghệ, cũng không phải là những công cụ sản xuất, hay dịch vụ trực tiếp tiến hành việc chế tạo sản phẩm, hay tham gia trực tiếp trong lĩnh vực thực hiện sản phẩm. Nhưng thiếu nó thì các quá trình công nghệ, quá trình sản xuất và những dịch vụ trong sản xuất sẽ trở nên khó khăn hoặc không thể diễn ra được. Toàn bộ những phương tiện đó gộp lại trong khái niệm cơ sở hạ tầng. Vậy cơ sở hạ tầng ở đây là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật, các công trình, các phương tiện có tồn tại trên một lãnh thổ nhất định được dùng làm điều kiện sinh hoạt nói chung bảo đãm cho sự vận hành liên tục, thông suốt các luồng của cải vật chất, các hệ thống thông tin và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống.
b. Khái niện về cơ sở hạ tầng nông thôn:
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất đặc thù. Trong xã hội chậm phát triển , truyền thống, nông nghiệp là ngành sản xuất bao trùm và nền tảng kinh tế của toàn bộ sự tồn tại và phát triển của xã hội, ở đây nông nghiệp là ngành sản xuất thống trị và bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội. Bởi vậy dân cư của xã hội chậm phát triển là dân cư nông nghiệp và xã hội của nền kinh tế nông nghiệp đó là xã hội nông thôn, xã hội của người dân sống bằng nghề nông. Sự phát triển của xã hội là quá trình phân công lao động xã hội, quá trình hình thành các hoạt động phi nông nghiệp - Quá trình này kèm theo với quá trình đô thị hoá, hình thành nên các đô thị lớn và các khu công nghiệp, thương mại dịch vụ.
Từ đây có sự phân biệt giữa hai vùng đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ và nông thôn. Nông thôn là những khái niệm dùng để chỉ những khu vực dân cư sinh hoạt có hoạt động nông nghiệp. Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn có một nội dung gồm sự phát triển kinh tế của các hộ nông dân và sự phát triển của mỗi thôn làng, xã với tính cách là đơn vị xã hội cơ sở. Từ đó có khái niệm về cơ sở hạ tầng nông thôn là một hệ thông cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp – nông thôn được tổ chức thành các đơn vị sản xuất và dịch vụ các công trình sự nghiệp có khả năng bảo đảm sự di chuyển các hệ thống thông tin, vật chất nhằm phục vụ các nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất đại chúng, của sinh hoạt dân cư nông thôn đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao. Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm hệ thống giao thông đường bộ, các công trình bến bãi, cầu cống, thuỷ lợi, các công trình cung cấp điện, các cơ sở trường học, cơ sở y tế – văn hoá, hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Đưa ra được khái niệm về cơ sở hạ tầng, từ đó nêu lên được đặc điểm của nó, đồng thời có cơ sở tìm kiếm các nguồn lực cần thiết và có thể có cho xây dựng, phát triển những cơ sở hạ tầng ở nông thôn, cũng như phương thức thực hiện việc huy động và sử dụng vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
2. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng:
- Các công trình cơ sở hạ tầng đều có kết quả là dịch vụ phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sản xuất và đời sống trên phạm vi lãnh thổ nhất định.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng khác với đầu tư công cộng: Cơ sở hạ tầng do cả chính phủ và tư nhân đầu tư xây dựng, còn khu vực công cộng là do chính phủ đầu tư.
- Các công trình cơ sở hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng thời gian thu hồi vốn lâu và vốn được thu hồi qua các hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Vì vậy khu vực tư nhân không tích cực tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng mà chủ yếu là chính phủ đầu tư. Trong công tác kế hoạch hoá phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi phải làm tốt việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên, phải ngiên cứu phương hướng phát triển lâu dài của vùng. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả sử dụng công trình.
- Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng sau khi được xây dựng có thời gian tồn tại lâu dài trên lãnh thổ và phục vụ lâu dài cho hoạt sản xuất và đời sống.
3.Vai trò của cơ sở hạ tầng nông thôn đối với phát triển kinh tế xã hội:
Cơ sở hạ tầng tốt sẻ giúp giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro,thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành liên quan đến nông nghiệp, khu vực phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên.
Cơ sở hạ tầng phát triển sẻ tác động đến sự tăng trưởng và phát triển nhanh khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh, tăng cường sức hút vốn đầu tư nước ngoài và sức huy động vốn trong nước vào thị trường nông nghiệp – nông thôn.
Cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển là điều kiện quan trọng tác động tới việc phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ giúp phát triển đồng đều giữa các vùng.
Cơ sở hạ tầng nông thôn sẽ tạo điều kiện tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn tạo nên một cuộc sống khá hơn cho người dân, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và các mục tiêu nhân đạo, từ thiện, từ đó làm giảm dòng dân từ nông thôn đỗ ra thành thị.
4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển cơ sở hạ tầng.
Chúng ta đả biết cơ sở hạ tầng là công trình phục vụ sản xuất và đời sống của dân cư. Vì vậy, mục tiêu của phát triển cơ sở hạ tầng là để phục vụ sản xuất, nâng cao tính hiệu quả của sản xuất, nâng cao đời sống dân cư. Nhưng ta biết rằng nếu cơ sở hạ tầng phát triển quá nhanh so với nhu cầu, thì sẽ phát huy được hiệu quả. Ngược lại , nếu phát triển cơ sở hạ tầng chậm hơn, ít hơn so với sản xuất thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất. Do đó một vấn đề đặt ra ta phải xây dựng một tỷ lệ thích hợp giữa đầu tư cho cơ sở hạ tầng và đầu tư cho sản xuất. Ta biết rằng kết cấu hạ tầng chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Nhưng chủ yếu tố sau:
Yếu tố tự nhiên ... Môi trường:
Hai yếu tố tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến phát triển các công trình giao thông cấp nước, cấp năng lượng và các cơ sở hạ tầng xã hội là yếu tố địa hình và khí hậu. Chúng ta biết rằng địa hình và khí hậu là hai yếu tố cơ bản tạo nên tiềm năng về phát triển các ngành thuỷ lợi, giao thông bởi địa hình và khí hậu là hai yếu tố tạo nên mạng lưới sông ngòi và chế độ thuỷ văn của từng vùng. Các điều kiện tự nhiên, địa hình khí hậu ở mỗi vùng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng đường giao thông, cầu cống, cũng như việc tác động ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố này đến tiến độ thi công cấp thoát nước, vì mỗi nơi có nguồn nước và điều kiện cấp nước khác nhau nên ảnh hưởng đến việc xây dựng các công trình thuỷ lợi bảo đảm tưới tiêu cho nông nghiệp nuôi trồng thuỷ sản, ảnh hưởng tới việc cấp điện và cung cấp các nguồn năng lượng khác.
Yếu tố văn hoá - xã hội.
ở mỗi vùng có đặc điểm văn hoá - xã hội, mức độ dân trí sẻ khác nhau sẽ ảnh hưởng đến hệ thống cơ sở hạ tầng ở mỗi vùng đó khác nhau. Với sự đống góp ủng hộ của nhân dân vùng tạo điều kiện cho hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, bảo vệ các công trình thuỷ lợi, giao thông... Thực tế cho thấy ở nhiều địa phương đã phát triển phong trào quần chúng xây dựng đường xá, hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước mà đặc biệt là công trình thuỷ lợi, thuỷ nông. Do vậy, nếu có sự hướng dẫn về tổ chức, chuyển giao công nghệ thích hợp, cũng như có sự hổ trợ về vốn của nhà nước thì hoàn toàn có thể khơi dậy được các nguồn lực của nhân dân để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng nhằm phục vụ sản xuất và đời sống.
Yếu tố kinh tế ... dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, yêu cầu đổi mới là yêu cầu khách quan nhằm đáp ứng tính hiệu quả của các sản phẩm dịch vụ ngày càng cao trong điều kiện nguồn lực có hạn. Để đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi phải xây dựng mới các công trình củ nhằm đáp ứng sự chuyển dịch của các cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng phát triển. Ta biết rằng vùng kinh tế – dịch vụ phát triển sẽ cho hiệu quả cao dẫn đến dễ thu hút đầu tư, khả năng tài chính khu vực ảnh hưởng quyết định tới quy mô, tiến độ thực hiện và sự đồng bộ cuả dự án, bên cạnh đó ảnh hưởng đến quyết định thực hiện dự án của các ngành, đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn.
Yếu tố khoa học- công nghệ.
Khoa học – kỹ thuật – công nghệ ngày nay phát triển như vũ bảo, nhiều phát minh, sáng chế ra đời, cái sau cải tiến hơn cái trước, giai đoạn hiện nay là giai đoạn phát triển cao của khoa học – kỹ thuật – công nghệ. Vì thế, nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến cơ sở hạ tầng nông thôn. Yếu tố này tiên tiến hiện đại ảnh hưởng tới vốn đầu tư, chi phí quản lý và vận hành, quy mô của công trình.
Sự phát triển cơ sở hạ tầng do nhiều nhân tố tác động nhưng trên đây là 4 yếu tố quan trọng. Chúng ta cần phải phân tích và nghiên cứu nó để phát triển các mặt tốt và hạn chế các mặt xấu để hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam ngày càng hoàn thiện.
5. Xu hướng vận động và phát triển của cơ sở hạ tầng trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Phương thức phát triển kinh tế, xã hội dù chứa đựng yếu tố chủ quan đến mức nào, cũng không tránh khỏi sự quy định của bản thân những điều kiện khách quan trong đó diễn ra sự phát triển.
Xu hướng vận động của cơ sở hạ tầng là phương thức “nhà nước và nhân dân cùng làm” là phương thức phối hợp hai chủ thể, là Nhà nước và nhân cùng tham gia trong công cuộc phát triển hạ tầng ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Với tính cách là những chủ thể cùng tham gia vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, Nhà nước và nhân dân sẻ là hai chủ đầu tư, hai chủ quản và do đó là hai chủ thể có cùng trách nhiệm ở những vai trò và cương vị khác nhau trong việc tạo dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi nông nghiệp và nông thôn là mặt trận kinh tế trọng yếu, là cơ sở để phát triển công nghiệp, dịch vụ, là thị trường rộng lớn của công nghiệp, nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và các ngành nghề khác.
Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn và nông nghiệp Việt Nam. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã ghi: “Đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, ưu tiên cho công trình trọng điểm phục vụ chung cho nền kinh tế... xây dựng một cơ sở hạ tầng thiết yếu ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tăng tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, xây dựng và nâng cao kết cấu hạ tầng”. Cần tăng cường công tác chỉ đạo hướng dẫn việc thực hiện chủ trương huy động sức dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, các công trình xây dựng công cộng... khẩn trương đánh giá và rà soát lại công tác quản lý ngân sách, chấn chỉnh ngay các mặt yếu kém.
Trong chức năng quản lý Nhà nước, các Bộ ngành hoạch định các chương trình kinh tế xã hội và phát triển kinh tế – xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn như các chương trình về trường học cho vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, duyên hải miền Trung, vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên, chương trình giao thông nông thôn, y tế nông thôn, chương trình nước sạch nông thôn...
Việc đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn huy động các nguồn lực theo phương châm: Nhà nước đầu tư hỗ trợ giúp nông thôn, cộng đồng xã hội tham gia đầu tư giúp nông dân, nông dân giúp nông dân, gắn việc xây dựng phát triển hạ tầng nông thôn với các chương trình kinh tế – xã hội – an ninh quốc phòng.
Trên cơ sở các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, Nhà nước ban hành các chính sách đễ thu hút vốn đầu tư với nhiều hình thức từ nhiều nguồn lực:
Nhà nước hỗ trợ đầu tư một phần vốn đễ khởi động chương trình, huy động nhân dân đóng góp đễ hoàn thiện chương trình.
Chính sách huy động vốn dưới hình thức BOT( đầu tư, khai thác, chuyển giao).
Đầu tư vào các dự án phát triển công nghiệp gắn với phát triển vùng nguyên liệu ( bao gồm vùng nguyên liệu và cơ sở hạ tầng) dưới hình thức hiệp hội kinh tế công – nông – lâm nghiệp( chẳng hạn hiệp hội mía đường Lam Sơn Thanh Hoá).
Với mục tiêu tất cả các xã nông thôn phấn đấu có đủ 4 công trình “ điện, đường, trường, trạm”, cần xây dựng trên 500 trường học, 450 trạm y tế, 950 hệ thống cho xã và hàng chục nghìn cây số đường giao thông cho ô tô về được tận nơi. Đây là một khối lượng đầu tư cần hàng tỷ đồng vốn, không thể chỉ trong chờ vào ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương mà phải huy động các nguồn lực của toàn xã hội. Cụ thể là:
+ Nông dân địa phương.
+ Địa phương phát triển giúp địa phương kém phát triển
+ Huy động đầu tư từ các tổ chức xã hội và các tổ chức quốc tế.
Muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và nông thôn, vấn đề tiền đề và mấu chốt là đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn. Đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn phải được coi là cái gốc phát triển của chương trình xây dựng và phát triển nông nghiệp và nông thôn.
II. Sự cần thiết phảI đầu tư vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn:
1.Vốn đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội:
1.1.Khái niệm đầu tư:
Ta biết rằng, nếu xét trên toàn bộ nền kinh tế thì đầu tư chính là một lĩnh vực trong nền kinh tế nhằm tạo ra của cải vật chất và duy trì hoạt động của nền kinh tế.
Đầu tư có thể phân theo nhiều lĩnh vực khác nhau:
+ Nếu theo các lĩnh vực hoạt động trong xã hội thì đầu tư có thể phân chia thành:
- Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
- Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
+ Nếu theo tiêu thức thời gian: Đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn
+ Nếu theo quan hệ quản lý chủ đầu tư thì có đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
1.2.Vốn đầu tư và cơ cầu hình thành vốn đầu tư:
Vốn đầu tư
Vốn sản xuất là một tài sản của quốc gia được sử dụng làm phương tiện cho quá trình sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn tồn kho:
+ Vốn cố định bao gồm: máy móc, thiết bị, phân xưỡng, phương tiện vận tải, cơ sở hạ tầng.
+ Vốn tồn kho gồm: Nguyên nhiên vật liệu, hàng sơ chế, hàng thành phẩm chờ tiêu thụ.
Vốn đầu tư:
Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản quốc gia là bị hao mòn theo thời gian và do nhu cầu ngày càng tăng về tài sản quốc gia cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng hoạt động đầu tư, thông qua vốn đầu tư.
Vốn đâu tư là một nhân tố quan trọng để tiến hành sản xuất, bảo đảm tăng trưởng kinh tế của mọi hình thái kinh tế xã hội. Nó là điều kiện cần thiết tiên quyết cho việc phát triển mọi hoạt động kinh tế – xã hội, nó là yếu tố đầu vào của bất kỳ quá trình sản xuất nào.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì vốn là một lượng tiền nhất định phục vụ cho quá trình đầu tư phát triển; nó là khoản tích luỹ, là một phần thu nhập chưa được tiêu dùng. Còn hiểu theo nghĩa rộng thì vốn không chỉ bao gồm tiền mặt mà nó còn bao gồm nhiều yếu tố khác như sức lao động, tài nguyên và đất đai cùng với số đối tượng có nguồn gốc tự nhiên khác.
Ơ đây, vốn đầu tư được hiểu là chi phí để thực hiện quá trình sản xuất và tái sản xuất. Nó bao gồm chi phí để tăng thêm tài sản cố định bị thải loại. Vốn đầu tư có thể phân chia theo các tiêu thức khác nhau:
+ Phân loại vốn đầu tư:
. Theo tính năng sử dụng: Vốn đầu tư được chia thành vốn đầu tư sản xuất và vốn đầu tư cho tài sản quốc gia phi sản xuất.
. Phân loại theo ngành bao gồm các loại vốn: Đầu tư phát triển công nghiệp, đầu tư phát triển dịch vụ.
.Phân loại theo tính chất sở hữu bao gồm vốn. Thuộc sở hữu Nhà nước có vốn ngân sách quốc gia, vốn của xí nghiệp quốc doanh; Thuộc sở hữu tư nhân, có vốn của xí nghiệp tư nhân, vốn của hộ gia đình.
1.3. Cơ cấu hình thành vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu đề ra trong các chương trình dự án. Đó là khoản tiền tích luỹ, tiết kiệm các thành phần trong nền kinh tế và huy động từ nguồn khác. Vốn này được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất nhằm duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi lãnh thổ. Tiết kiệm trong nước gồm có: Nhà nước, tiết kiệm của doanh nghiệp, tiết kiệm của hộ gia đình, tiết kiệm của nước ngoài gồm có viện trợ ODA, NGO, FDI và kiều hối.
Tiết kiệm của Nhà nước bằng số dư giữa tổng thu và tổng chi của Nhà nước. Tổng thu của Nhà nước là tổng thu ngân sách, nó gồm có thu thuế, thu lệ phí và các khoản khác. Tổng chi của ngân sách gồm chi mua hàng hoá và dịch vụ, chi cho trợ cấp, chi trả nợ, trả lãi suất tiền vay. Chi tiêu của nhà nước chỉ được tính là chi tiêu hàng hoá và dịch vụ còn chi trợ cấp, trả nợ, trả lãI suất là chi chuyển khoản không được tính vào chi của chính phủ.
Ơ các nước đang phát triển, mặc dù tổng chi lớn hơn tổng thu song Nhà nước các nước đó vẩn có tiết kiệm và tiết kiệm đó là một khoản chi tiêu chủ yếu của Nhà nước. Đây là điều kiện đặc biệt của các nước đang phát triển.
Tiết kiệm của doanh nghiệp(Se) là mức lợi nhuận để lại doanh nghiệp(Pr để lại Dn) và mức khấu hao(Dp): Se= Pr để lại Dn+Dp.
Tiết kiệm của hộ gia đình(Sh) là số dư giữa tổng thu và tổng chi của hộ gia đình.
Nguồn ODA là quy định của Liên hiệp quốc, Liên hiệp quốc đã quy định các nước có thu nhập phải dành ra 0.7% GDP để viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và phúc lợi cho các nước này. Nguồn ODA có hình thức viện trợ với phương thức song phương hay đa phương(WB,ADB,IMF...). Ba hình thức đó là:
+ Cho vay với hình thức ưu đãi từ 0,5 – 5%/ năm.
+ Cho vay không trả lãi
+ Viện trợ không hoàn lại
Nguồn NGO chủ yếu là các các tổ chức này cho các tổ chức khác, của các tổ chức với nhau và nó nhằm vào phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, nhân đạo.
Nguồn FDI là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ yếu là của tư nhân. Nguồn này rất quan trọng đối với các nước đang phát triển, nó đầu tư chủ yếu trong hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa trong việc chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ của người lao động, thu hút được lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nước sở tại.
Nguồn kiều hối là nguồn tiền của Việt Kiều nước ngoài gữi về đầu tư trong nước. Đây là một nguồn cũng rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế.
Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư cho sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Huy động như thế nào:
Muốn đầu tư cho nông nghiệp – nông thôn trước hết phải có vốn. Vốn đầu tư được khai thác và huy động trong nước và nước ngoài.
Cơ sở để huy động trong nước là đầu tư phát triển sản xuất, tạo tích luỹ thực hiện táI sản xuất mở rộng. Vì vậy, tập trung phát triển các nguồn tạo nguôn tích luỹ là cơ sở quan trọng để tái sản xuất mở rộng. Trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển, nguồn lao động dồi dào, để có vốn cần phải tập trung phát triển các ngành thu hút nhiều lao động cần ít vốn, nhưng có khả năng tích luỹ nhằm tạo ra những cơ sở ban đầu cho sự phát triển.
Bên cạnh đó, một vấn đề hết sức quan trọng là phải tạo lập được một hệ thống chính sách phát huy tính năng động, sáng tạo của tầng cơ sở và người lao động, có cơ chế xữ lý lợi ích, khuyến khích các tầng lớp tích cực khai thác mọi khả năng tiềm tàng, các lợi thế so sánh để tăng thu nhập. Phải thực hiện chính sách tạo lập môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư trong nước trực tiếp cho nông nghiệp, nông thôn thông qua ưu đãi về thuế, về quyền sử dụng đất. Trực tiếp hoàn thiện cơ chế thu hút tiền gửi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, của các doanh nghiệp ngoài nông nghiệp cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với nguồn vốn từ bên ngoài. Ngoài nguồn vốn viện trợ phảI xác định nguồn vốn chủ yếu từ nước ngoàI và thông qua hình thức liên doanh, liên kết phảI thấy hết tính chất hai mặt của phương thức liên doanh, liên kết để có đối sách mền dẻo, hợp lý và chấp nhận những tiêu cực của nó. Để thu hút vốn từ nước ngoài cần phải có chính sách thoả đáng đảm bảo cho các nhà đầu tư vốn có lợi trong kinh doanh; ổn định, hợp lý.
Cơ sở hạ tầng nông thôn là vấn đề hết sức quan trọng do đó việc huy động vốn đầu tư cho nó là hết sức cần thiết. Nhưng phải huy động như thế nào?. Huy động ở đâu? là vấn đề mấu chốt. Chúng ta không thể tập trung huy động vào một nguồn mà bỏ qua các nguồn khác, mà phải biết kết hợp các nguồn có thể khai thác được. Nhưng phải huy động một cách hợp lý, có hiệu quả để cơ sở hạ tầng ngày một phát triển hơn.
Sự cần thiết cần phải tăng cường huy động vốn:
Vốn đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, nó là một yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đầu tư là yếu tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển nên trong từng vùng từng ngành nó càng trở nên cần thiết hơn, nó trở thành nhu cầu cấp bách nhất thiết phải được đáp ứng để phát triển ngành, vùng.
Đối với nước ta, nông nghiệp là nganh chiếm tỷ trọng lao động và giá trị sản lượng lớn, kinh tế nông thôn nước ta chủ yếu là kinh tế nông nghiệp( năm 1996 chiếm 74%) song là một nền nông nghiệp lạc hậu phần lớn các hoạt động sản xuất đều được tiến hành bằng lao động thủ công, năng suất lao động thấp. Sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong nông thôn còn quá nhỏ bé: công nghiệp chiếm 12,4%, dịch vụ chiếm 13,6%. Vì vậy cơ cấu kinh tế nông thôn chưa có khả năng thay đổi căn bản cũng như việc thu hút và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động của khu vực này chưa được cải thiện. Mặt khác, lao động trong nông thôn nước ta hiện nay có đến trên 90% chưa được đào tạo nghề nghiệp, một bộ phận không nhỏ trong số họ đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu vùng xa còn bị mù chữ, một số vùng tỷ lệ mù chữ lên tới 40-50%.
Từ những thực trạng nói trên, vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách. Mặt khác trong số 9 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là: Dầu thô, gạo, dệt máy dầy dép, thuỷ hải sản, cà fê, hạt điều, cao su, than đá và tơ tằm thì sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu đả chiếm tới 5 mặt hàng trong đó gạo chiếm tỷ lệ xuất khẩu lớn. Năm 1997 chúng ta đã xuất khẩu 3,68 triệu tấn và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới sau Thái Lan. Điều này chứng tỏ vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Do đó muốn thực hiện việc kiến thiết nông thôn chúng ta phải xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Bởi vì cơ sở hạ tầng là bước khởi động, nó tạo đIều kiện về vật chất, tinh thần ở nông thôn được nâng cao, tạo đà cho các doanh nghiệp, các hộ kinh tế gia đình đầu tư phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm thành hàng hoá, phục vụ trao đổi và xuất khẩu. Có thể nói: Cơ sở hạ tầng là nhân tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp và biến đổi nền kinh tế nông thôn. Và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là chiến lược quan trọng, cần thiết, bức xúc trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế hiện nay, vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn còn bị hạn chế, nguồn vốn huy động để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam còn rất kém, nghèo nàn, lạc hậu không có kinh phí để xây dựng mới và bảo dưỡng tu sửa, cơ sở hạ tầng phát triển không đồng đều giữa các vùng.
Với thực trạng trên, để thực hiện công nghiệp hoá nông thôn thì việc cung ứng vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp nói chung và cơ sở hạ tầng nói riêng là vấn đề hàng đầu. Lượng vốn cung ứng này rất lớn nên chúng ta không chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước mà cần phải có chính sách và giải pháp để tăng cường và huy động mọi nguồn vốn ở trong nước cũng như ở nước ngoài của mọi thành phần kinh tế để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Nguồn huy động vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn được hình thành từ các nguồn vốn sau: Vốn ngân sách nhà nước; vốn dân cư, vốn tín dụng vay ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn; vốn nước ngoài. Trong đó vốn ngân sách nhà nước là cơ bản và vốn góp của hộ nông dân gồm cả tiền và vật lực là quan trọng.
III. Thực tế rút ra từ các nước.
1. Các nước ASEAN:
Vào những năm trước, các nước ASEAN mới chỉ đầu tư khoảng 40%GDP cho cơ sở hạ tầng. Điều này làm giảm mức tăng GDP hàng năm đi vài phần trăm. Mặt khác do khâu quản lý vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng kém hiệu quả cũng gây nên những lổ hổng lớn. Do đó các nước ASEAN đã coi trọng việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là vấn đề bức xúc.
Mấy năm gần đây, các nước ASEAN đả thu hút được một lượng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, góp phần tạo nên sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Cần huy động hay thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Ta biết rằng kinh tế nông nghiệp và nông thôn vẫn chiếm tỷ trọng tương đối lớn ở các nước ASEAN. Vì vậy, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn là một yêu cầu khách quan, trong đó việc tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm mở rộng thị trường nông thôn, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn đã trở thành yêu cầu cấp thiết ở các nước này. Năm 1995 tỷ lệ đó như sau: Inđônêxia 18,9%; Malayxia 20,2%; Philipin 25,7% và Thái Lan là 10,2% trong đó đầu tư cho công trình thuỷ lợi chiếm phần lớn nhất, hơn 50% trong tổng số đầu tư của chính phủ cho nông nghiệp. Bên cạnh các công trình thuỷ lợi trong cơ sở hệ thống hạ tầng nông thôn, các nước ASEAN cũng có chính sách ưu tiên phát triển đường xá ở nông thôn và từ nông thôn đến các trung tâm kinh tế lớn – Hệ thống được coi là điều kiện tiên quyết để mở rộng thị trường, nối liền nông dân với thị trường tiêu thụ, nhất là đối với sản phẩm tươi sống.
Nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đã được các nước ASEAN huy động vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng trong nước, vốn vay nước ngoài, vốn đóng góp của hộ nông dân.
Nhờ thực hiện tăng cường huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đến nay hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn ở các nước ASEAN đả được cải thiện nâng cấp.
2.Kinh nghiệm từ các nước NICS
Các nước NICS xây dựng cơ sở hạ tầng trước khi nó trở thành nhu cầu bức thiết. Việc cung cấp cơ sở hạ tầng ở Đài loan, Hồng Kông, Nam Triều Tiên là theo chiến lược dài hạn, được tính toán trước, không chạy theo nhu cầu, không giải quyết những vấn đề đã rồi mà có chức năng hướng dẫn nhu cầu, nhất là nhu cầu đầu tư. Các nước này kiên trì thực hiện đầu tư cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo tạp chí kinh tế thế giới số 5 năm 1996, tỷ lệ thực hiện đầu tư cho cơ sở hạ tầng so với GDP ở Singapo là 40%, còn ở Đài Loan, Hông Kông, Nam Triều Tiên, là trên 30% với vốn huy động chủ yếu từ 3 nguồn.
Nguồn tích luỹ trong nước
Nguồn viện trợ và đi vay của các nước hoặc các tổ chức tài chính quốc tế. Nguồn vốn này chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Do đầu tư vào cơ sở hạ tầng nên thu hồi vốn lâu, vì vậy các nước này đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngắn hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại.
Tăng cường thu hút vốn trực tiếp của nước ngoài.
Từ kinh nghiệm của các nước NICS và ASEAN, kết hợp điều kiện của nước ta, chúng ta rút ra được bài học để tìm giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam để đạt được hiệu quả cao. Đó là:
Tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội.
Ngân sách nhà nước phải tập trung đầu tư cho các hệ thống công trình đầu mối. Các đường liên tỉnh, liên huyện, các kênh cấp I, các trạm điện lớn.
Các công trình vừa và nhỏ nên huy động tiền tài vật liệu của các hộ nông dân đóng góp là chủ yếu.
Sử dụng nguồn viện trợ và đi vay của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn. Ưu tiên nguồn vốn viện trợ không hoàn lại để phát triển các vùng yếu kém của đất nước.
Xây dựng cơ sở hạ tầng phải mang tính chất lâu dài, đi trước một bước so với sự phát triển._. của ngành, của vùng.
Cơ chế hoàn trả, bù đắp chi phí phải tính toán hợp lý để vừa có khả năng bù đắp chi phí quản lý, vừa không ảnh hưởng lớn tới thu nhập của những người phải trả chi phí sử dụng.
Chương 2: thực trạng huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn việt nam
Thực trạng huy động vốn:
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, có trên 80% dân số sống bằng nông nghiệp. Nhưng các cơ sở hạ tầng chưa phát triển, chưa có khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước ta cũng đã đưa ra những chính sách khá phù hợp huy động vốn cho phát triển. Đặc biệt là quan tâm đến huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
1. Huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nói chung ở nước ta:
Cơ sở hạ tầng là điều kiện tiền đề cho các ngành kinh tế phát triển. Muốn cho cơ sở hạ tầng phát triển cần phải tích cực huy động các nguồn vốn đầu tư. Huy động như thế nào? Huy động ở đâu? Đây thật là một vấn đề cần được các nhà nước cầm quyền đưa ra các chính sách phù hợp. Chủ yếu là huy động ở các nguồn sau:
Kết quả huy động vốn thông qua kho bạc nhà nước:
Chính phủ phải huy động vốn trong và ngoài nước để có khả năng tài trợ cho mục tiêu đầu tư của mình do các khoản thu ngân sách từ thuế và các khoản đóng góp xã hội khác không thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư.
Chính phủ đả huy động được hàng ngàn tỷ đồng vốn nhàn rổi trong các tầng lớp dân cư để bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn thu từ thuế và nguồn vốn của nhân dân, đạt được kết quả rất khả quan. Các nguồn vốn trong nước do chính phủ huy động chủ yếu thông qua Bộ Tài Chính và dưới các hình thức sau:
Trái phiếu kho bạc nhà nước: là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên nhằm mục đích bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước và đáp ứng yêu cầu về vốn
Huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng:
Ngân hàng là nơi có thể huy động được nguồn vốn lớn, bắt đầu từ năm 1994 hoạt động huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng phát triển mạnh. Năm 1995 tăng 16,8%, năm 1996 tăng 23,1%, năm 1997 tăng 56,3% và cuối năm 1998 tăng gấp 3,6 lần so với năm 1994. Qua số liệu này ta thấy được huy động vốn thông qua hình thức này đạt hiệu quả cao.
Nhờ chú trọng tăng cường huy động các nguồn vốn hùng và dài hạn, cơ cấu nguồn vốn đã thay đổi rõ rệt. Nguồn vốn tiền gửi có kỳ hạn năm 1998 tăng hơn 9 lần so với cuối năm 1994, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn vốn huy động thông qua hệ thống ngân hàng.
Việc huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng đạt kết quả không nhỏ song hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải đổi mới hơn nữa các hình thức, công cụ huy động, phương thức giao dịch phải cải tiến sao cho nhanh chóng, thuận tiện, lãi suất huy động phải linh hoạt phù hợp với tâm lý người gửi thì những kết quả huy động trong những năm tới sẽ có khả quan hơn.
Huy động vốn nước ngoài qua liên doanh, liên kết:
Vốn nước ngoài đầu tư vào các ngành kinh tế nói chung, nông nghiệp – nông thôn nói riêng qua nhiều hình thức: vốn hợp tác kinh doanh, liên kết, vốn và viện trợ. Việc huy động đầu tư trực tiếp nước ngoàI vào nước ta ngày càng được mở rộng khắp các vùng, các địa phương cả nước. Các hình thức vốn vay và vốn viện trợ phần lớn được bổ sung vào nguồn vốn ngân sách đầu tư dưới hình thức gián tiếp. Phần vốn còn lại được đầu tư dưới hình thức trực tiếp qua hợp tác liên doanh, liên kết. Đối với nhiều nước, trong đó có cả Việt Nam, nguồn vốn từ bên ngoài đống vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cuối cùng sự phát triển mối quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài ngày càng được mở rộng.
Nguồn vốn ODA đầu tư vào nông nghiệp thường tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc thực hiện các công trình cộng đồng( y tế, thuỷ lợi, đường giao thông , điện...) góp phần đáng kể cải thiện bộ mặt đời sống nông thôn..
Việc huy động nguồn vốn nước ngoài hết sức quan trọng, tạo điều kiện cho các ngành có điều kiện phát triển. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể chỉ thiên về huy động nguồn vốn nước ngoài mà phải huy động nội lực của mình
2. Huy động vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn:
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Sản phẩm hàng hoá của ngành nông nghiệp là những hàng hoá thiết yếu tuy không đạt giá trị cao song lại rất cần thiết cho bất kỳ ai muốn duy trì và tồn tại. ở các nước phát triển mặc dù nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu kinh tế có số dân sống ở nông thôn rất ít sông các nước này vẩn rất chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn với một mức thoả đáng về vốn và khoa học kỹ thuật nông nghiệp.
ở Việt Nam, nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chính, nó giữ một vị trí đặc biệt quan trọng vì nhiều lẻ: 80% dân số sống ở vùng nông thôn, nguồn sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp; trong cơ cấu kinh tế quốc dân, GDP do nông nghiệp tạo ra giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu và nông sản và thuỷ sản. Vì thế mà Chính phủ đả có các chính sách khuyến khích đầu tư vào phát triển nông nghiệp – nông thôn, đặc biệt là đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn.
Việc huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là vấn đề cần thiết. Phải huy động từ nhiều nguồn như vốn ngân sách, vốn tín dụng, ngân hàng và vốn huy động trong dân..., nguồn ngoài nước như vốn hợp tác, liên doanh, liên kết, vốn vay và vốn viện trợ... Nhưng thực tế cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta còn yếu kém nên việc huy động nguồn vốn đầu tư cho nó còn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi nhà đầu tư chưa thấy được lợi nhuận khi đầu tư vào nó, hơn nữa chưa có có sở đảm bảo nguồn vốn nếu nhà đầu tư đầu tư vào. Nguồn vốn khi được huy động vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn sử dụng còn manh mún, chưa thực sự đi vào mục đích chính. Chính vì thế mà khi huy động nguồn vốn cần phải sử dụng đúng mục đích của nó.
3.Đánh giá kết quả huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn:
Kết quả huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn tương đối khả quan. Nó nhằm mục đích mở rộng thị trường nông thôn, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đả được nhà nước ta huy động từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng trong nước, vốn vay nước ngoài, vốn đống góp của hộ nông dân. Nhờ thực hiện tăng cường huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đến nay hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn ở nước ta đả được thực hiện và nâng cấp.
Việc huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn đã phát huy được các ưu đIểm:
Nguồn vốn huy động của toàn xã hội dành cho đầu tư phát triển ngày càng tăng so với GDP. Năm 1989 chỉ đạt 8-9% GDP thì năm 1991 đạt 15,22% năm 1993 đạt 21% và năm 1995 đạt 26,3%, năm 1996 đạt 26,9%, năm 1997 đạt 27-27,5% năm 1998 đạt 28,2%, năm 1999 đạt 29,50% và năm 2000 đạt 31-31,5% GDP.
Nguồn huy động vốn đầu tư ngày càng đa dạng hoá bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng thương mại, vốn của doanh nghiệp và dân cư, vốn đầu tư nước ngoài, vốn cổ phần hoá doanh nghiệp... Nguồn vốn huy động đa dạng đã đưa đến sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn. Năm 1990 nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, chủ yếu là vốn Nhà nước chiếm 40,5% nhưng đến năm 1999-2000 vốn đầu tư Nhà nước chỉ chiếm còn 34,6% và nguồn vốn đầu tư nước ngoài chuyển dịch tương ứng từ 12,5% lên 38,2%
Hình thức huy động vốn phong phú như phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, huy động gửi tiết kiệm của nhân dân dưới nhiều hình thức như tiết kiệm, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý... qua kho bạc, qua ngân hàng. Bên cạnh đó mở rộng các hình thức huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao...
Trong công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp – nông thôn chúng ta đã đạt được kết quả tương đối. Vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn được tập trung cho lĩnh vực xây dựng, sửa chữa các công trình giao thông, thuỷ lợi, điện lưới...Theo điều tra của tổng cục thống kê vào năm 1994 mỗi một hộ gia đình nông thôn hàng năm tự đầu tư trên 500.000 đồng, như vậy với gần 12 triệu hộ nông dân thì mỗi năm dân cư đã tự đầu tư khoảng 6.000 tỷ đồng, số tiền này tương đương với số vốn tín dụng Nhà nước chuyển về nông thôn, đồng thời nó cũng cao gấp 3- 4 lần so vơí vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước hàng năm dành cho nông nghiệp – nông thôn.
Qua kết quả trên ta thấy rằng việc huy động vốn cho đầu tư phát triển là hết sức quan trọng và đạt được những kết quả tốt. Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm cần nêu ra để có những biện pháp khắc phục.
Chính sách huy động vốn chưa được thích hợp, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong khi tiềm năng vốn trong dân cao nhưng mức huy động còn thấp. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa được thu hút vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Thị trường chứng khoán chưa được phát triển phục vụ cho chính sách huy động vốn.
Hình thức đầu tư tài chính hầu như chưa được áp dụng. Vốn đầu tư phân bổ giữa các vùng, giữa các địa phương, giữa nông thôn và thành thị không đồng đều gây ra khoảng cách chênh lệch rất lớn về tăng trưởng, thu nhập, mức sống của các vùng.
Số vốn huy động được thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng bằng các hình thức ngắn hạn, trung hạn và dài hạn rất ít do đó không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, số vốn huy động trong nước vào hệ thống ngân hàng, thương mại không phát huy hết hiệu quả. Sử dụng vẫn còn một khối lượng lớn vốn đang bị ứ đọng không chuyển thành đầu tư được, do cơ chế cho vay chưa được thông thoáng, hạn chế...
Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước chủ yếu vẫn cho nhu cầu chi tiêu đầu tư tăng trong kế hoạch ngân sách hàng năm. Những năm gần đây, thông qua hình thức này Chính phủ đã huy động qua trái phiếu ngày càng đa dạng, thời gian vay vốn với lãi suất vay vốn khác nhau thích hợp với nhu cầu gửi tiền của người chủ sở hữu, cho nên Chính phủ đã huy động được cả các loại vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp.
Hoạt động thông qua hình thức này chúng ta có một nguồn vốn huy động lớn, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động được trong nước của Chính phủ. Nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu kho bạc Nhà nước năm 1998 là 11.327 tỷ đồng và năm 1999 là 12.650 tỷ đồng. Nhưng mặc dù đạt được kết quả khả quan song vẫn chỉ đáp ứng được 32,6% nhu cầu chỉ tiêu đầu tư của Nhà nước năm 1999.
Trái phiếu công trình: Là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ 1 năm trở lên, được phát hành để xây dựng các công trình, dự án lớn do Chính phủ thực hiện
Hình thức này còn rất mới ở Việt Nam, nhưng nó đã phát huy không nhỏ tác dụng của mình trong việc huy động nguồn vốn. Nó có ưu điểm là rủi ro thấp do ngân sách Nhà nước bảo lãnh thanh toán nên rất thích hợp với tâm lý người dân, các đơn vị tổ chức kinh tế đầu tư vốn cho Nhà nước để đáp ứng đủ nhu cầu đầy tư của một công trình cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, tránh lãng phí vốn đầu tư.
Tín phiếu kho bạc Nhà nước: Là loại trái phiếu ngắn hạn(dưới 1 năm):
Bằng hình thức này từ năm 1991 đến năm 1998 Chính phủ đã huy động được một nguồn vốn khá lớn trên 30.000 tỷ đồng. Nhưng nguồn vốn này chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và nguồn vốn này chỉ là một phần nhỏ trong tổng số vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi của dân cư và các doanh nghiệp. Vì vậy Nhà nước cần triển khai tốt hơn công tác hoạt động vốn trong nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư cơ bản của toàn nền kinh tế. Theo quy mô nhỏ và tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thương mại – dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Trong khi có nhiều dự đoán cho thấy có khoảng 50.000-60.000 tỷ đồng tiết kiệm trong dân đang được cất giữ dưới dạng vàng, bạc, đá quý, tàI sản có giá trị, tiền mặt, ngoại tệ nhàn rỗi chưa được chuyển thành vốn để đầu tư và kinh doanh.
Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn của Việt Nam chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, một phần do cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta còn quá kém, rủi ro trong nông nghiệp luôn lớn nên là nổi đe doạ đối với nhà đầu tư.
Những nhược điểm trên do các nguyên nhân sau:
Nguồn vốn huy động cho cơ sở hạ tầng nông thôn mấy năm gần đây tuy đã phát triển bằng nhiều hình thức, công cụ song chưa đa dạng như huy động vốn cho lĩnh vực sản xuất – kinh doanh.
Cơ chế huy động vốn chưa đảm bảo hợp lý giữa các nhà đầu tư về thời hạn, lãi suất, phương thức thanh toán – trao đỗi. Nguồn hộ trợ ODA và vốn của các tổ chức tài chính thế giới và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn chưa tập trung nhiều vào các vùng sâu, vùng xa gây nên mất cân đối giữa các vùng.
Vì đầu tư cho cơ sở hạ tầng nên thời gian thu hồi vốn quá lâu, chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, một phần do cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém, rủi ro trong nông nghiệp luôn lớn. Mặt khác, chúng ta vẫn chưa xoá bỏ tâm lý thích hoạt động ngầm hơn công khai theo pháp luật, đầu tư ngắn hạn hơn đầu tư dài hạn...
Qua việc đánh giá chung thực trạng sử dụng vốn đầu tư để đưa ra ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân, từ đó đưa ra các phương pháp giải quyết nhằm sử dụng nguồn vốn đầu tư ngày càng phát triển và đúng mục đích của nó. Từ đó đưa nền kinh tế đất nước tiến lên những bước vững chắc.
II.Thực trạng sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn:
1.Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn:
Theo vùng:
Vì nguồn vốn huy động được là hết sức khó khăn, do đó cần đầu tư cho các vùng trọng điểm. Chủ yếu là các vùng:
+ Vùng miền núi trung du Bắc Bộ:
ở đây có tiềm năng về than, du lịch, có lợi thế phát triển thuỷ điện. Với tiềm lực kinh tế này chúng ta cần phải khai thác thế mạnh của vùng, phải tập trung vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế nhiều hơn để thu hút được vốn đầu tư trong nước và ngoài nước vào các lĩnh vực kinh tế của vùng để vùng phát triển.
+ Vùng đồng bằng Sông Hồng:
So với các vùng trong cả nước thì vùng đồng bằng Sông Hồng là vùng có kết cấu hạ tầng phát triển nhất. Do sử dụng nguồn vốn đầu tư hợp lý, có các chính sách phù hợp.
+ Vùng khu bốn cũ: ở đây khí hậu khắc nhiệt, nền kinh tế chưa phát triển, cơ sở hạ tầng nông thôn ở đây còn yếu kém, tình hình sử dụng vốn đầu tư ở đây còn phân tán, chưa tập trung. Do cơ sở hạ tầng nông thôn chưa phát triển nên nguồn vốn huy động được chưa thực sự sử dụng cho các công trình trọng đIểm và khu vực trọng đIểm...
Để đánh giá được tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo vùng cần phải đi sâu xem xét để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Trên đây là một số khu vực cần ưu tiên đầu tư cho nó, bởi những nơi đã phát triển rồi thì phải bảo đảm sự phát triển đó ngày càng đi lên, còn những vùng còn yếu kém khó khăn thì phải khắc phục để đưa cơ sở hạ tầng của nó đi lên cùng với các vùng khác phát triển. Nhất là công tác huy động và sử dụng vốn ở đây ngày càng đạt hiệu quả cao.
Theo lĩnh vực:
Về thuỷ lợi: Hàng năm nhà nước đã dành 8,1-10% vốn ngân sách cho đầu thuỷ lợi. Vốn đầu tư từ ngân sách cho thuỷ lợi năm 1990 là 299,8 triệu đồng, năm 1991 là 405 triệu đồng, năm 1992 là 581,6 triệu đồng, năm 1993 là 7860 triệu đồng( trong đó vốn đầu tư thuỷ nông là 244,4 triệu đồng năm 1990 là 354,3 triệu đồng năm 1991;438,3 triệu đồng năm 1992 và 673,7 triệu đồng năm 1993) và đến năm1994 là 1000 triệu đồng. 50% số vốn này được dùng để duy trì nâng cấp các công trình đầu mối và trục kênh chính( đối với hệ thống và cả kênh cấp hai). Tổng mức đầu tư từ ngân sách trung ương tính đến nay đã đâù tư cho các công trình thuỷ lợi là 113 tỷ đồng còn ngân sách địa phương và thuỷ lợi phí là 435 tỷ đồng. Ngoài ra, nhà nước đã quyết định vay và Ngân hàng thế giới(WB) và Ngân hàng Châu á (ADB) 80 triệu đồng đầu tư cho các hệ thống ở miền Trung, 45 triệu USD cho hơn 30 dự án thuộc đồng bằng Sông Hồng.
Vốn đầu tư vào hệ thống chính thức từ đầu mối đến kênh 2 là vốn của ngân sách TW, ngân sách địa phương và vốn vay trung dài hạn của các tổ chức quốc tế. Hệ thống phân phối nước vào đồng ruộng có vốn đầu tư huy động từ công của nông dân, ở hệ thống này nhà nước chỉ hộ trợ một phần. Ví dụ như ở Thanh Hoá công trình xây lát kiên cố hoá kênh mương nội đồng với tổng chiều dài hơn 98 lần, khối lượng xây xát hơn 55.000m2 tưới tiêu cho 12.200 ha, đã tiêu tốn hết 1 lượng kinh phí 17 tỷ đồng trong nhà nước hổ trợ hơn 2,7 tỷ đồng, còn lại do dân đống góp. Bằng nguồn ngân sách, nhà nước đã đầu tư 1,374 tỷ đồng năm 1996, 1,773 tỷ đồng năm 1997; 1.904 tỷ đồng năm 1998 và năm 1999 là 2.2000 tỷ đồng. Kế hoặch năm 2000 là 2,345 tỷ đồng.
Nói tóm lại, đầu tư cho các công trình thuỷ lợi ở nước ta rất được nhà nước quan tâm. Vốn đầu tư các công trình này được nhà nước huy động theo phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Lượng vốn dành cho thuỷ lợi được nhà nước ưu tiên chiếm 50% tổng số vốn dành cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Tuy vậy, lượng vốn này chưa được giải quyết, phân bố đồng đều ở tất cả các công trình và các vùng. Nhiều hệ thống công trình, nhiều vùng còn đang rất thiếu thốn để duy trì nâng cấp chất lượng công trình. Mặc dù được ưu tiên đầu tư song vốn đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi ở nước ta vẫn còn rất thấp, mức đầu tư chưa được 1000USD/ha trong khi nhu cầu phải là 3000-4000USD/ha. Bởi thế chúng ta cần phải tích cực huy động vốn để đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi một hệ thống quan trọng trong ngành nông nghiệp.
Về điện khí hoá nông thôn: Theo nguồn của Tổng công ty điện lực. Việt nam những năm gần đây kết quả đầu tư đưa điện về các xã, các huyện là: năm 1995 đầu tư 173,726 tỷ đồng, năm 1996 là 465,500 tỷ đồng. Điện về nông thôn nằm trong mục tiêu công nghiệp hoá nông thôn và cũng làm nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty Điện lực.vì vậy ,đưa điện về nông thôn ,thực hiện mục tiêu điện khí hoá nông thôn có nguồn vốn đầu tư đóng góp của Tổng công ty điện lực bên cạnh nguồn vốn của Ngân sách Nhà nứơc và của dân .Trong số vốn đầu tư năm 1995 thì số vốn của Tổng công ty là 77,363 tỷ đồng , chiếm 44,5% còn lại là nguồn vón ngân sách nhà nước và vốn góp của nông dân là 96,363 tỷ đồng chiếm 55,5%. Năm 1996 tương ứng là 107,33 tỷ đồng chiếm 76,5% và 33,009 tỷ đồng chiếm 23,5% năm 1997 tương ứng là 258,567 tỷ đồng chiếm 63,3% và 150 tỷ đồng chiếm 36,7%. Vốn đầu tư của nhà nước và ngành đIện chỉ đầu tư các đường dây và trạm từ 35KV trở lên và chủ yếu là phục vụ cho thuỷ lợi. Các công trình từ 6-10KV và hạ thế là do các địa phương và nhân dân đóng góp.
Do điều kiện thu nhập của nhân dân còn thấp nên mức huy động vốn chỉ có hạn, đáp ứng chỉ được 20-30% yêu cầu. Vốn ngân sách nhà nước huy động đầu tư cho lĩnh vực này cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ
Về giao thông: mặc dù mấy năm gần đây, đầu tư phát triển mạng lưới giao thông nông thôn được ngân sách Trung ưong và ngân sách địa phương quan tâm hơn song vốn đầu tư vẫn còn ít, chưa thích đáng. Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư để xây dựng đường nông thôn các cấp là 219,2 tỷ đồng chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu vốn 511,5 tỷ đồng chiếm 70% là do dân đống góp. Qua thực tế quản lý cấp phát vốn, vốn đầu tư cho lĩnh vực này của ngân sách nhà nước chiếm một tỷ lệ không lớn chủ yếu mang tính chất hỗ trợ. Trong khi đó nguồn vốn do dân đóng góp tương đối lớn và hết sức cần thiết.
Đánh giá thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn:
2.1 Phân loại:
Nếu chỉ đánh giá thực trạng cơ sở hạ tâng nông thôn, xét trên phạm vi kết cấu hạ tầng cấp xã có 3 loại:
Loại 1: Là loại gồm các xã đã hình thành được bộ khung kết cấu hạ tầng ở mức khá, đường xá bảo đãm ôtô vào đến trung tâm xã và các thôn xóm. Công trình thuỷ lợi đã được giải quyết về cơ bản trên 60% số hộ được dùng điện, trên 30% số hộ được dùng nước sạch. Tổng thể các trường học, trạm y tế, nhà ở và các công trình công cộng đều đáp ứng các yêu cầu của dân cư.
Loại 2: Là loại trung bình gồm các xã có kết cấu hạ tầng phát triển ở mức chưa hình thành được đồng bộ với chất lượng khá như ở đoạn 1. Tỷ lệ hộ dùng nước sạch khoảng 25%, thuỷ lợi hoá mới giải quyết ở mức trung bình, tỷ lệ số hộ dùng điện khoảng 50%, số phòng học đạt chương trình cấp 4 trở lên mới khoảng 70%, có trạm ytế nhưng chất lượng còn thấp, tỷ lệ nhà kiên cố khoảng 50%.
Loại 3: Là loại kém gồm các xã có kết cấu hạ tầng kém phát triển. ở đó không có đường ôtô vào được trung tâm xã hoặc có nhưng chỉ vào được vào mùa khô, chưa có điện hoặc có điện dưới 30% số hộ. Công trình thuỷ lợi ít ỏi hoặc chưa có. Nước sinh hoạt chưa đãm bảo vệ sinh, số phòng học nhà tranh trên 50%. Trạm y tế đơn sơ hoặc chưa có, nhà ở tạm bợ trên 70% số hộ.
Trên đây là đánh giá thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn được xét trên phạm vi kết cấu hạ tầng cấp xã và được phân ra 3 loại. Từ đó chúng ta cần phải tăng cường, huy động vốn đầu tư cho từng loại phù hợp, đưa cơ sở hạ tầng đi lên, tạo tiền đề cho các ngành khác phát triển.
2.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn ở Việt Nam hiện nay:
Từ khi thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị, tiếp đó ta đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đả có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, sự kém phát triển của nhiều vùng nông thôn hiện nay là vấn đề cấp bách đòi hỏi sự quan tâm đầu tư phát triển của Đảng và Nhà nước.
Theo số liệu của Uỷ ban dân tộc và miền núi, hiện nay cả nước có 1.700 xã đặc biệt khó khăn, trong đó 1.160 xã(chiếm 11% tổng số xã) thiếu hạ tầng cơ sở như đường giao thông đến xã, điện thắp sáng, nước sinh hoạt, trường tiểu học, cho xã hoặc liên xã, trạm y tế. Trong số hơn 10.000 xã trên toàn quốc, có trên 473 xã chưa có đường ôtô đến trung tâm xã, 591 xã thiếu trường học( trong đó có 29 xã chưa có trường cấp I), 455 xã chưa có trạm y tế, 941 xã chưa có điện thắp sáng, 546 xã có 50% số dân thiếu nước sạch sinh hoạt, 760 xã chưa có chợ hoặc chợ liên xã.
Đảng và nhà nước xem chương trình xoá đói giảm ngèo là chương trình kinh tế – xã hội quan trọng trong chiến lược phát triển nông thôn, gắn xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế. Muốn giảm đói nghèo, giải pháp chủ yếu là tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Những vấn đề nổi cộm về hạ tầng nông thôn hiện nay là :
- Đường giao thông
- Điện thắp sáng và sản xuất
-Trạm y tế
- Trường học
Ngoài ra việc giải quyết nước sinh hoạt trong chiến lược khai thác và sử dụng tốt tài nguyên nước, vấn đề xây dựng hệ thống thuỷ lợi hợp lý, xây dựng các cụm trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội cũng đang được quan tâm trong xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông thôn.
Theo kết quả sơ bộ của cuộc tổng điều tra, đến thời điểm 1.10.2001, các yếu tố của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn cả nước đều phát triển theo chiều hướng tích cực.
Điện khí hoá: đIện khí hoá nông thôn có bước phát triển nhanh và khá toàn diện. Cả nước có 7.712 xã có điện, chiếm tỷ lệ 86,2%, trong đó có năm 1994 chỉ có 5,309 xã có đIện chiếm tỷ lệ 60,4%. Như vậy sau 7 năm qua, cả nước đã tăng thêm 2.403 xã có đIện, tốc độ tăng 45,3%. Các vùng có tốc độ tăng cao là miền núi Bắc bộ. Tây nguyên và đồng bằng Sông Cửu Long(Tây nguyên +185%;Tây bắc +162%; Đông bắc +69% và ĐBSCL +59%).
Số thôn có điện 62.227, chiếm tỷ lệ 77,3%, tăng 26.509 thông với năm 1994(năm 1994 có 74,2% số thôn có đIện); số hộ nông thôn dùng điện là 10.424.723 hộ, chiếm tỷ lệ 79,3%, tăng 43,3 van hộ( năm 1994 là 71,0%) so với năm 1994. Như vậy cho đến nay cả nước có 3 vùng cơ bản hoàn thành điện khí hoá nông thôn và tỷ lệ xã có diện trên 95% là đồng bằng sông Hồng 99,8%, đồng băng sông Cửu Long 98,7% và Đông Nam bộ là 97,5%; 26 tỉnh có tỷ lệ 100% có điện là 10 tỉnh đồng bằng sông Hồng( trừ HảI Phòng), Hà Tĩnh, Khánh Hoà, TP>HCM, Ninh Thuận, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sốc Trăng và Bạc Liêu. Giá bán đIện nông thôn bình quân cả nước là 693đ/kwh, giảm 63đ/kwh so với năm 1994, nguyên nhân chủ yếu là nhà nước cải tiến cơ chế quản lý nông thôn từ chính quyền sang ngành điện. Đến nay vùng có giá bán điện thấp nhất là Đông Nam bộ 608đ/kwh, cao nhất là Bắc Trung bộ 780đ/kwh.
Tồn tại lớn nhất của vấn đề này là vẫn còn gần 1.238 xã( 14%); 18.317 thôn( 22,7%) và 2.722.976( 20,7%) chưa có điện. ở 3 vùng miền núi phía Bắc Tây nguyên tỷ lệ hộ dùng điện mới đạt 50%. Giá điện nông thôn tuy đã giảm so với năm 1994 nhưng vẫn cao hơn giá đIện thành thị 38%. Trong nông thôn, vung nghèo có thu nhập thấp như Bắc Trung bộ, giá điện lại cao nhất, còn vùng Đông Nam bộ có thu nhập cao giá điện lại thấp nhất. Đó là một nghịch lý cần xem xét và xử lý.
Đường giao thông
Sau điện đường giao thông nông thôn cũng là một yếu tố quan trọng của kết cấu hạ tầng được nhà nước quan tâm và đầu tư trong những năm qua. Kết quả là đến nay cả nước có 8.461 xã (94,5% có đường ôtô đến UBND xã. So với năm 1994, số xã có đường ôtô tăng 731 xã (+9,5%). Các vùng có tỷ lệ cao là đồng bằng sông Hồng 99.9%. Đông Nam bộ 99,7%, Tây nguyên 97,8%, Đông bắc 97,2%. Vùng có tỷ lệ đường thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long 78,1%. Cả nước có 23 tỉnh, thành phố có 100% số có đường ôtô đến UBND xã, trong đó đồng bằng sông Hồng 10/11 tỉnh, Đông Nam bộ 6/8 tỉnh. Đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long số xã có đường ôtô tăng từ 755 xã lên 958 xã, nên số xã có đường ô tô tăng từ 65,7% lên 78,1% trong 7 năm, trở thành vùng có tốc độ tăng nhanh nhất cả nước về đường giao thông nông thôn. Chất lượng đường giao thông nông thôn tuy còn thấp song đã có tiến bộ so với trước. Đến nay cả nước có 1.427 xã( 16%) có đường liên thôn được nhựa hoá hoặc bê tông hoá trên 50%, trong đó vùng khá nhất là đồng bằng sông Hồng ( Hà Tây 23%, riêng huyện Thạch Nhất 52,6%; Ninh Bình 30%, trong đó Hoa Lư 56%, Yên Khánh 68,4%). Các tỉnh Bắc Trung Bộ, tuy là vùng nghèo, thiên tai bảo lụt thường xuyên xảy ra, song hệ thống đường giao thông nông thôn đã phủ kín 96,5% số xã, trong đó Hà Tĩnh 98,8%, Thừa Thiên Huế 98,4%, Thanh Hoá 97,8%. Chất lượng đường giao thông thôn, xóm được nâng cấp: tỷ lệ đường liên thôn được nhựa hoá và bê tông hoá trên 50%, đạt tỷ lệ 18% số xã, trong đó Thừa Thiên Huế 19%, riêng huyện Hương Trà 26,7%. Đặc biệt các tỉnh miền núi phía Bắc tỷ lệ xã có đường ôtô từ 82,6% năm 1994, đến nay tăng lên 97,2%, trong đó có 4 tỉnh đạt 100% là Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, 3 tỉnh đạt trên 99% là Lạng Sơn, Bắc Giang và Hoà Bình.
Trường học và y tế.
Hệ thống trường học ở nông thôn phát triển toàn diện. Đến nay 99,9% số xã có trường học; 8,7% số xã có trường trung học phổ thông và 85,6% số xã có lớp mẫu giáo, đạt cao hơn năm 1994(99,8%; 76,6%; 7% và 76,8%, trong đó miền núi Đông bắc từ 64,7% lên 79,7%, Tây nguyên từ 50,3% lên 78,4%, và đồng băng sông Cửu Long từ 74,9% lên 80,5%. Đến nay cả nước đã có 782 xã có trường phổ thông trung học, chiếm tỷ lệ 8,7%, trong đó có 6 tỉnh, thành phố đạt trên 15% là Hà Nội 15,3%, TP.HCM 21,4%, An Giang 18,6%, Tuyên Quang 15,3%, Bình Dương 16,7%. Cùng với việc mở rộng các trường phổ thông, nhiều vùng và địa phương đã quan tâm phát triển và mở rộng các lớp mẫu giáo ở khu vực nông thôn. Năm 2001 cả nước có 7.665 xã, chiếm tỷ lệ 85,6% số xã có lớp mẫu giáo so vơí 6.813 lớp và 76,3% năm 1994. Hệ thống trường phổ thông và mẫu giáo phát triển rộng khắc từ đồng bằng tới miền núi, hải đảo đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút trẻ em trong độ tuổi ở khu vực nông thôn đến trường.
Trong lĩnh vực y tế, thực hiện chủ trương đưa bác sỹ và cán bộ y tế tăng cường cho tuyến xã, hệ thống trạm y tế xã được cũng cố và hoàn thiện. Đến nay cả nước có 8.863 xã có trạm y tế, chiếm tỷ lệ 99%, tăng 6% so vơí năm 1994; có 2/8 vùng đạt 100% xã có trạm y tế là đồng bằng sông Hồng và Tây bắc, hai vùng đạt tỷ lệ thấp nhất là Đông bắc 92,7% và Tây nguyên 93,7%.
Thông tin liên lạc và cơ sở văn hoá
Hệ thống thông tin liên lạc khu vực nông thôn được Nhà nước đầu tư hổ trợ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, điểm bưu điện văn hoá xã - một mô hình thông tin, văn hoá nông thôn mới hình thành trong những năm đổi mới đến nay đã mở rộng khắp 61 tỉnh, thành phố trên địa bàn 4.902 xã, chiếm 54,8% số xã trên cả nước, trong đó cao nhất là đồng bằng sông Hồng 70%, Bắc Trung bộ 61,3%, Nam Trung bộ 55,2% và đồng bằng sông Cửu Long 50,2%, thấp nhất là Tây băc 36,6%. Cả nước có 7.503 có máy đIện thoại, chiếm tỷ lệ 83,8%, trong đó cao nhất là đồng bằng sông Cửu Long 99,7%, Đông Nam bộ 97%, đồng băng Nam bộ 98,6%, Nam trung bộ 88,5% và thấp nhất là 2 vùng miền núi phía bắc; Tây bắc 61,9% và Đông bắc 67,9%. Hệ thống điện thoại không chỉ đến trung tâm xã mà đã toả đến các hộ nông dân đáp ứng nhu cầu sản xuất sinh hoạt ngày càng tăng của dân cư nông thôn. Đến năm 2001, cả nước có 704,4 ngìn hộ nông dân có máy điện thoại, gấp 30 lần năm 1994( 38,6%). Đáng chú ý là những vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển như đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam bộ là những địa phương có nhiều xã và hộ sử dụng đIện thoại. Hệ thống loa truyền thanh trong thôn xóm đã được mở rộng và nâng cấp; năm 1994, cả nước chỉ có 3.395 xã có loa truyền thanh, chiếm tỷ lệ 38,5% tổng số xã thì nay đã có 5.091 xã chiếm tỷ lệ 57%. Nhiều xã đã có hệ thống loa truyền thanh đến các hộ gia đình nông dân góp phần tích cực vào việc tuyên truyền các chủ trương ,chính sách của Đảng và Nhà nước và phổ biến kiến thức khuyến nông đến người sản xuất.
Hệ thống cơ sở văn hoá ở nông thôn được hoàn thiện. Đến nay cả nước có 1.252 xã có nhà văn hoá, chiếm tỷ lệ 14%. 624 xã có thư viện chiếm 7%. Trong đó cao nhất là vùng đồng bằng sông Hồng 26% và 10,7%, Đông Nam bộ 20,4% và 12%, Bắc Trung bộ 17,4% và 6,4%. Tuy số lượng xã có nhà văn hoá và thư viện chưa nhiều, nhưng điều quan trọng là những cơ sở này đang có xu hướng hồi phục và đi vào hoạt động thực tế nhằm góp phần nâng cao đời sống tinh thần của dân cư nông thôn.
Mạng lưới chợ
Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển theo cơ chế thị trường, lấy sản xuất hàng hoá làm hướng chính đã tạo tiền đề và đIều kiện để phát triển mạng lưới chợ nông thôn. Đến nay cả nước có 5.101 xã có chợ, chiếm tỷ lệ 57%, bình quân gần 2 xã có một chợ. Tỷ lệ này cao hơn năm 1994(54,9%), chủ yếu tăng ở hai xã Tây nguyên từ 147 lên 203 chợ và miền núi phía Bắc từ 996 chợ lên 1.090 chợ trong 7 năm tương ứng. Những chợ có tỷ lệ chợ cao là đồng bằng sông Cửu Long 72,1%; Đông Nam ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35357.doc