Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ở nước ta, trước mắt cũng như lâu dài, nông nghiệp và kinh tế nông thôn luôn luôn là một ngành kinh tế cơ bản và quan trọng, nông nghiệp và nông thôn nước ta tập trung hơn 80% dân cư, 70% lực lượng lao động xã hội, nơi đáp ứng nhu cầu đời sống tất yếu cho toàn xã hội, là nguồn nội lực để phát triển bền vững nông nghiệp và kinh tế quốc dân, là chỗ dựa để các ngành, các doanh nghiệp khai thác, kinh doanh phát triển, là nơi có lợi thế so sánh nguồn nhân lực v

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à vật lực để cạnh tranh tham gia vào thị trường thế giới. Thực tiễn trải qua 20 năm (1986-2006) một loạt chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp của Đảng và Nhà nước; bộ mặt nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đã và đang có những thay đổi theo hướng tích cực. Vấn đề lương thực đã giải quyết được cơ bản; cơ cấu ngành, nghề nông nghiệp bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc trồng, bảo vệ rừng được chú trọng. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Chương trình xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm trong nông nghiệp, nông thôn và đẩy mạnh định canh, định cư, xoá nhà tạm cho đồng bào các dân tộc miền núi được tích cực triển khai… Tuy nhiên, hiện nay vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là một vấn đề chiến lược hàng đầu, được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 7 Khoá VII chỉ rõ : " Trong những năm trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu công ăn việc làm rất cấp bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội chưa thật sự ổn định vững chắc. Vì vậy, cần tập trung, nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các ngành du lịch, dịch vụ.." [10]. Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn cần phải có những nguồn lực nhất định, trong đó vốn là một trong những nhân tố hết sức cần thiết. Do vậy, phải nâng cao tỷ lệ huy động, sử dụng vốn một cách hợp lý và có hiệu quả, mà hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức huy động tập trung và cho vay vốn đối với lĩnh vực này. Huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam là một huyện miền núi, nông dân chiếm 95% dân số, cơ sở vật chất kỹ thuật trong những năm gần đây tuy có tập trung đầu tư cải tạo và xây dựng mới nhưng vẫn còn lạc hậu so với yêu cầu phát triển, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất phân tán, manh mún, năng suất thấp, sản phẩm hàng hoá ít, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Phước Sơn lần thứ XVIII (tháng 10 năm 2005) đã nêu là : Phát triển bền vững nền kinh tế theo cơ cấu " Lâm - Nông - Công nghiệp - Thương mại, dịch vụ". Tiếp tục ổn định ĐCĐC, sắp xếp lại dân cư, hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho những hộ còn khó khăn. Nhằm tăng ổn định giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp mỗi năm từ 5 - 6%. Tạo thêm việc làm để tăng thu nhập cho nhân dân. Tích cực huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, tiếp nhận các kênh đầu tư vốn từ cấp trên, để đáp ứng nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX (tháng 2 năm 2006) đã xác định : "Phát triển kinh tế miền núi, trung du vừa nhằm mục tiêu giảm nghèo, vừa làm chức năng chỗ dựa, tác động trở lại đối với sự phát triển của vùng đồng bằng ven biển, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp điện, xi măng, các loại nguyên liệu xây dựng và tạo thế liên kết với Lào, Thái Lan, để tham gia vào tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây" [15]. Từ đó vấn đề huy động tập trung vốn và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp tại địa bàn huyện có ý nghĩa hết sức thiết thực. Vì vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Đồng thời có vai trò tác dụng trong việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là giải pháp cơ bản để chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự túc khép kín tại địa phương thành nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao có thể huy động được tối đa các nguồn vốn và sử dụng vốn một cách hợp lý, phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp tại địa bàn một cách hiệu quả nhất. Điều này liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở lý luận đã học và thông qua thực tiễn công tác tại địa phương trong lĩnh vực Ngân hàng. Tôi chọn đề tài : Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Nhằm tiếp tục nêu ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động, cho vay vốn tín dụng ở khu vực nông thôn, đặc biệt là khu vực nông thôn miền núi phía tây của tỉnh Quảng Nam hiện nay, góp phần giải quyết các yêu cầu bức xúc trước mắt cũng như lâu dài về vốn đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững. Do vậy, đề tài này không chỉ có ý nghĩa lý luận nói chung mà đang còn là vấn đề bức xúc đối với địa phương và đối với bản thân trong công tác thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Hoạt động huy động và cho vay vốn của Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng để phát triển nông nghiệp, nông thôn đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và đề cập đến dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau và nhiều đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ đã được công bố như :" Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam", Luận văn thạc sĩ của Võ Văn Lâm. " Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hải Dương", Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh. " Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện miền núi Lập Thạch - Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Đức Tiến. " Huy động vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước " , Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Văn Phúc. " Làm gì cho nông thôn Việt Nam", của Phạm Đỗ Chí - Đặng Kim Sơn - Trần Nam Bình - Nguyễn Tiến Triển. Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh - Trung tâm kinh tế Châu á -Thái Bình Dương ( VAPEC ) - Thời báo kinh tế Sài Sòn, 2003. " Nghị quyết Trung ương IV khoá VIII về vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn". Nxb CTQG,1998. Công trình được tuyển chọn từ những ý kiến đóng góp của hơn 200 nhà khoa học, cán bộ quản lý, những người làm công tác thực tiễn, tham gia cuộc hội thảo khoa học, do Tạp chí cộng sản và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam phối hợp tổ chức. " Một số vấn đề về công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam", của GS. TS. Đỗ Hoài Nam. Nxb Khoa học xã hội,2004…Tuy nhiên, với một huyện miền núi phía tây của tỉnh Quảng Nam mà cụ thể là ở huyện Phước Sơn thì đến nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ thống dưới góc độ kinh tế chính trị. Vấn đề " Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn tỉnh Quảng Nam" vẫn là mới mẻ, cần được tiếp cận, nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu : - Mục đích : Góp phần đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại địa bàn huyện Phước Sơn - giai đoạn 2006 - 2010. - Nhiệm vụ : Làm rõ cơ sở lý luận về vốn và vai trò của vốn đối với quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; phân tích, đánh giá tình hình huy động và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp và đề xuất các giải pháp cơ bản về hoạt động huy động, cho vay vốn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn giai đoạn 2006- 2010 và những năm tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn , tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi nghiên cứu hoạt động huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2001 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của chủ nghĩa Mác - Lênin : Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp để rút ra kết luận về những vấn đề xem xét. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn làm rõ những luận cứ khoa học về các phương thức huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp. - Phân tích thực trạng huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong giai đoạn 2001 - 2005 tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu trong hoạt động huy động và cho vay vốn để phát triển nông nghiệp, nông thôn tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo hướng bền vững. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 : Cơ sở lý luận về huy động và cho vay vốn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Chương 2 : Thực trạng huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001 - 2005 Chương 3 : Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn để phát triển nông nghiệp ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đến năm 2010. Chương 1 cơ sở lý luận về huy động và cho vay vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Ngày nay, người ta khó có thể hình dung nổi nền kinh tế thị trường mà lại vắng bóng các tổ chức tài chính trung gian làm chức năng "cầu nối" giữa người có vốn và người cần vốn. Trong thực tế, các tổ chức tài chính trung gian được hình thành ở rất nhiều dạng, nhưng nội dung hoạt động của chúng lại đan xen lẫn nhau rất khó phân biệt rõ ràng. Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các Ngân hàng Thương mại (NHTM) chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh tế tiền tệ hoạt động trên cơ sở " đi vay " để "cho vay" thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình. Việc "buôn" tiền của Ngân hàng Thương mại suy cho cùng phải đạt được lợi nhuận. Với tư cách là một trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn. Doanh nghiệp ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc thù. Chất liệu kinh doanh chủ yếu của loại hình này là " quyền sử dụng các khoản tiền tệ". Đặc quyền phát hành tiền thuộc về Ngân hàng trung ương. NHTM phải bỏ chi phí mua lại "quyền sử dụng" của tiền này trong một thời gian nhất định. Do vậy, hầu hết các nghiệp vụ của NHTM đều có kỳ hạn cụ thể và có hoàn trả. NHTM không thể bán "tiền" mà chỉ bán quyền sử dụng của tiền, nên khi hết thời hạn sử dụng theo cam kết, tiền phải quay về ngân hàng theo nguyên mệnh giá của nó. Ngân hàng vừa là người "cung cấp" đồng vốn, đồng thời cũng là người "tiêu thụ" đồng vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động "mua bán" này thường thông qua một số công cụ và nghiệp vụ ngân hàng. NHTM luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. NHTM kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay. Để thu hút tiền vào ngân hàng đưa ra các điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Tiếp đó, ngân hàng phải tìm ra những cách có lợi để đem cho vay những gì đã vay được [45.tr 28]. Xét về chức năng, NHTM không trực tiếp tham gia vào sản xuất và lưu thông hàng hoá như các doanh nghiệp thông thường, mà nó thực hiện các chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và làm dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho khách hàng… Ngân hàng kinh doanh tiền tệ chủ yếu không phải bằng vốn tự có, mà chủ yếu bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi giới cho các nhà đầu tư và những người có tích luỹ, Thực hiện các chức năng trung gian của mình, NHTM nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải xã hội dưới dạng giá trị, nhưng không có quyền sở hữu chúng, mà chỉ có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc, đòi hỏi NHTM phải chịu trách nhiệm vật chất đối với những người chủ sở hữu thực của các tài sản này và sử dụng tài sản vốn đúng với điều kiện ràng buộc sao cho có hiệu quả nhất. Khi thực hiện chức năng trung gian tài chính, NHTM làm chủ chính bản thân mình, không làm hộ ai, do đó ngân hàng có trách nhiệm phải hoàn trả tiền cho người gửi và được tự mình sử dụng số tiền gửi đó. Hoạt động này mang lại lợi ích thiết thực cho các bên hữu quan. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một doanh nghiệp nhà nước, được nhà nước cấp vốn tự có, được quyền tự chủ hoàn toàn về tài chính từ khâu lựa chọn các phương thức huy động vốn, lựa chọn phương án đầu tư đến quyết định mức lãi suất với quan hệ cung cầu trên thị trường vốn. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được quyền kinh doanh tổng hợp, đa năng, vừa làm chức năng kinh doanh thật sự, vừa làm chức năng dịch vụ tài chính trung gian cho Chính phủ và các tổ chức kinh tế xã hội trong nước và quốc tế. Đối tượng phục vụ chủ yếu là nông dân và các doanh nghiệp hoạt động có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong những năm qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không ngừng vươn lên để phục vụ đắc lực, có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn [7, tr.16]. 1.1.1. Vốn và vai trò của vốn đối với quá trình phát triển kinh tế 1.1.1.1. Khái niệm vốn + Vốn : Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết của bất cứ một doanh nghiệp nào, ngành kinh tế và dịch vụ nào trong nền kinh tế quốc dân. Vốn là một hình thái giá trị được biểu hiện bằng tiền của các nguồn lực đi vào sản xuất kinh doanh, quá trình hoạt động phải được bảo tồn và sinh lợi. Vốn là yếu tố sản xuất khan hiếm nhất của nền kinh tế nước ta hiện nay. Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích luỹ, tức là một bộ phận của thu nhập chưa được tiêu dùng. Dưới hình thức vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các công trình hạ tầng, các loại nguyên liệu, nhiên liệu, các sản phẩm trung gian, các thành phẩm… Bên cạnh vốn tồn tại dưới dạng vật chất còn có các loại vốn vô hình (bằng phát minh sáng chế…) không tồn tại dưới dạng vật chất nhưng có giá trị kinh tế và cũng là yếu tố vốn cần thiết cho quá trình phát triển. Vốn là một loại nhân tố "đầu vào", đồng thời bản thân nó lại là kết quả "đầu ra" của hoạt động kinh tế. Trong quá trình hoạt động của nền kinh tế, vốn luôn luôn vận động và chuyển hoá về hình thái vật chất cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ. Vốn tiền tệ được vận động dưới nhiều hình thức khác nhau. Trên thực tế vốn có ba phương thức vận động như sau : T - T ' Là phương thức vận động của các tổ chức tài chính trung gian để huy động vốn trong trường hợp đầu tư mua trái phiếu, cổ phiếu công ty, hoặc góp vốn liên doanh. T - H - T ' Là phương thức vận động vốn của các doanh nghiệp lưu thông (thương mại - dịch vụ). Trong công thức này H là hàng hoá - lao vụ cung ứng được lưu thông và được thực hiện giá trị. TLSX T H … sản xuất …H ' T ' SLĐ Là phương thức vận động vốn của các doanh nghiệp sản xuất. Trong quá trình sản xuất, các tài sản vật chất bao giờ cũng hao mòn theo thời gian. Xu hướng vận động của một nền sản xuất phải tăng thêm điều kiện sản xuất, kỹ thuật mới đòi hỏi xã hội cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn, bổ sung thêm khối lượng các tài sản vật chất, kỹ thuật mới. Những hoạt động đó gọi là hoạt động đầu tư. Như vậy hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất, đồng thời làm tăng thêm năng lực mới cho nền kinh tế. Thực chất là việc chuyển hoá tiền thành tài sản phục vụ cho tái sản xuất mở rộng. Theo tính chất sử dụng của vốn đầu tư, có thể chia thành vốn đầu tư sản xuất và vốn đầu tư phi sản xuất. Vốn đầu tư cho sản xuất bao gồm vốn đầu tư thay thế tài sản cố định bị loại thải để tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm hàng hoá tồn kho. Theo ngành, vốn đầu tư được chia thành vốn đầu tư cho nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Theo tính chất sở hữu, vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư của nhà nước và vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Đối với ngành Ngân hàng, vốn được biểu hiện dưới dạng vốn bằng tiền. Nguồn vốn (Tài sản nợ) của ngân hàng bao gồm : - Tiền gửi : là bộ phận tài sản nợ chủ yếu của NHTM. Nghiệp vụ này là đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của ngân hàng, tiền gửi bao gồm các loại: + Tiền gửi thanh toán : (tiền gửi không kỳ hạn) được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả khác. Đây không phải là tiền để dành mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán. Vì vậy, khách hàng gửi tiền có thể rút ra hoặc sử dụng để thanh toán bất cứ lúc nào theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán của khách hàng được bảo quản trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để chờ thanh toán là một nguồn vốn được ngân hàng dùng để cho vay trong hoạt động kinh doanh của mình. + Tiền gửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì vậy các ngân hàng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động các loại tiền gửi này. + Tiền gửi tiết kiệm : là khoản để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đây là một nguồn vốn đáng kể trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. + Các hình thức huy động vốn khác : Ngoài việc huy động vốn dưới hình thức tiền gửi, ngân hàng còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu. Chứng chỉ tiền gửi là loại trái phiếu nợ ngắn hạn (dưới 12 tháng), trái phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn. Hai loại phiếu nợ này do ngân hàng phát hành nhằm thu hút tiền để dành của các doanh nghiệp và cá nhân. Trong thời gian qua các NHTM Việt Nam đã phát hành chứng chỉ tiền gửi có thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, bên cạnh đó còn phát hành các loại trái phiếu trên 1 năm cùng với lãi suất thích hợp đã thu hút được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội tập trung về ngân hàng để đầu tư phát triển. + Vay các ngân hàng : Ngoài tiền gửi và huy động tiền qua phát hành phiếu nợ, các NHTM còn vay vốn các ngân hàng khác, các ngân hàng nước ngoài và vay của ngân hàng trung ương. + Vốn của ngân hàng : Vốn của ngân hàng bao gồm vốn pháp định, các quỹ dự trữ, lợi nhuận còn lại và các loại quỹ khác. Tất cả các nguồn vốn trên của NHTM được hình thành để cho vay trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Cho đến thời gian gần đây, tài sản nợ của NHTM trên khắp thế giới vẫn còn tập trung vào năm nhóm phổ biến là : 1) Vốn pháp định hay vốn điều lệ, 2) tiền gửi không kỳ hạn, 3) tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) các khoản vay thị trường tiền tệ, 5) các khoản vay các ngân hàng khác hoặc ngân hàng trung ương. Tài sản nợ của NHTM là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thị trường, tài sản nợ diễn tả những khoản mà NHTM mắc nợ thị trường, nghĩa là bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương, các ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân… 1.1.1.2. Vai trò của vốn trong quá trình phát triển kinh tế Vốn luôn là vấn đề nổi cộm của những nước muốn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với điểm xuất phát thấp như chúng ta thì nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn tồn tại sự khác biệt giữa nhu cầu và khả năng cung cấp vốn. Hàm sản xuất đơn giản nhất và nổi tiếng nhất được sử dụng để phân tích sự phát triển kinh tế - do các nhà kinh tế Roy Harrod ở Anh và Evsey Domar ở Mỹ nêu ra từ những năm 1940 - đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với hệ số gia tăng tư bản - đầu ra ( ICOR) và tỷ lệ đầu tư như sau: i g = k Trong đó : g = tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP,GNP) i = tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế (GDP,GNP) k = hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) Như vậy, theo quan hệ cơ bản Harrod - Domar ở phương trình trên thì : về lâu dài nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức chấp nhận được đối với hệ số gia tăng tư bản - đầu ra. Bởi vì, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế là 8% với ICOR = 3 thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được ở mức 24% so với GDP (hoặc GNP). Sai lầm trong chiến lược phát triển kinh tế dẫn đến sai lầm trong cơ cấu đầu tư cùng với việc sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả làm tăng nhanh hệ số ICOR kéo theo việc giảm sút tỷ lệ đầu tư sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng và khả năng tích luỹ của nền kinh tế. Quá trình sử dụng vốn gồm hai giai đoạn và tác động của nó ở từng giai đoạn cũng khác nhau. ở giai đoạn đầu, sự tăng lên về đầu tư làm cho nhu cầu chi tiêu tăng lên tác động đến tổng cầu, tăng sản lượng, công việc làm và kèm theo sự biến động (tăng) giá cả.Tuy nhiên nhu cầu của quá trình đầu tư tạo ra chủ yếu là nhu cầu về tư liệu sản xuất, là cái mà ở các nước đang phát triển rất thiếu. Do đó, nhu cầu xuất khẩu các hàng hoá trong nước sản xuất ra để nhập khẩu tư liệu sản xuất là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển. Mặt khác, khi mà tích luỹ trong nuớc còn thấp việc thu hút đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài là cần thiết và tạo ra sự tăng trưởng rõ rệt trong quá trình thực hiện đầu tư. ở giai đoạn thứ hai, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn vật chất bao gồm tài sản cố định (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) và hàng hoá tồn khó cho sản xuất và các tài sản vật chất phi sản xuất. Vốn sản xuất tăng lên làm tăng khả năng sản xuất của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng tác động đến tổng cung bằng tăng sản lượng và công việc làm kéo theo mức giá giảm. ở giai đoạn này, sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng, năng suất lao động, chất lượng hàng hoá sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố tài nguyên và lao động. Chính vì vậy, vốn trở thành nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta hiện nay. Tất nhiên, vai trò của vốn dựa trên cơ sở vốn được đầu tư đúng hướng, được quản lý và sử dụng có hiệu quả. Nhìn nhận vai trò của vốn qua hai giai đoạn đã nêu cho thấy cần có cái nhìn thực tế hơn qua các con số về tốc độ tăng trưởng và bản chất hơn về tác động của vốn đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế [2, tr.140-142]. Vốn là một yếu tố cơ bản để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá. Trong nông nghiệp nhất là ở vùng đồi núi, các hộ nông dân sản xuất theo phương thức tự cấp tự túc, muốn chuyển lên sản xuất hàng hoá phải có vốn. Trên thực tế, đang tồn tại một vòng luẩn quẩn : Thu nhập thấp Sản xuất phát triển chậm Sức mua thấp Đầu tư thấp Thiếu vốn, đầu tư sẽ thấp, sản xuất kém phát triển và cứ thế sẽ tiếp nối vòng tuần hoàn luẩn quẩn. Từ vai trò của vốn trong quá trình tái sản xuất, nhiều nhà kinh tế thế giới đã rút ra hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (hệ số ICOR) liên quan đến tăng trưởng sản xuất nông nghiệp như sau : + ICOR nằm giữa 1 - 2,5 : tăng trưởng chủ yếu dựa vào lao động, chưa dựa chủ yếu vào vốn. Đây là đặc trưng cho các nước nghèo, kinh tế hàng hoá ở dạng sơ khai, chưa phát triển. + ICOR nằm giữa 2,5 - 4,5 : là mức dùng tư bản đã bắt đầu tăng lên và thuộc các nước đang phát triển. + ICOR cao hơn 4,5 : khi sử dụng công nghệ hiện đại, vốn đầu tư lớn và nguồn lao động hạn chế, thiếu lao động, tiêu biểu của các nước công nghiệp phát triển [14]. 1.1.1.3. Những quan điểm chung để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn + Huy động tối đa các nguồn vốn trong nước kết hợp với việc thu hút các nguồn vốn bên ngoài. Muốn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 9 - 10% với hệ số ICOR dự tính từ 3 đến 3,5 trong thời gian tới thì số vốn đầu tư cho phát triển cần đạt tỷ lệ từ 30% đến 35% GDP. Để huy động được số vốn như vậy trước hết và quan trọng nhất là phải tạo ra và huy động được đến mức tối đa các nguồn tiết kiệm trong nước. Từ quan điểm trên, phương hướng cơ bản cho mọi giải pháp huy động vốn là phải trên cơ sở phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm triệt để cả trong sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. Vốn trong nước là quan trọng nhất không chỉ ở tỷ lệ của nó trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển, mà còn là nhân tố đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế và là điều kiện, tiền đề để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn bên ngoài. Yêu cầu vốn đầu tư với quy mô lớn như vậy, điều kiện hiện nay của nền kinh tế không thể đáp ứng đầy đủ bằng nguồn vốn trong nước. Do đó thu hút các nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa quan trọng. Với kết quả của 20 năm đổi mới và bối cảnh quốc tế hiện nay, việc thu hút vốn bên ngoài không gặp nhiều trở ngại và khó khăn như trước nữa, nhưng cạnh tranh quốc tế trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như yêu cầu nâng cao chất lượng và những điều kiện có lợi trong việc thu hút vốn bên ngoài đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. + Sử dụng các nguồn vốn một cách có hiệu quả Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để phát triển và là cơ sở đảm bảo cho việc gia tăng khả năng huy động các nguồn vốn. Sử dụng vốn có hiệu quả, vì thế, cần phải chú ý ngay khi lựa chọn và xác định mục tiêu phát triển đến chiến lược, chính sách và giải pháp phát triển. Hiện nay, việc diễn tả hiệu quả kinh tế vĩ mô được gắn với khái niệm "hiệu quả kinh tế - xã hội ", song lượng hoá nó để xử lý trong thực tiễn là vấn đề khó khăn, dễ dẫn đến chủ quan và không thống nhất. Tuy vậy, trên phương diện đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cần phải lưu ý đến các mặt sau: - Đối với các nguồn vốn kinh doanh sinh lời cần phải được đánh giá thông qua hiệu quả kinh doanh trên cơ sở cơ chế thị trường mang tính cạnh tranh và một môi trường đầu tư phù hợp, khuyến khích được những nỗ lực, sáng tạo cá nhân. - Phối hợp một cách hợp lý giữa các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài, giữa các nguồn vốn của khu vực dân cư với nguồn vốn thuộc khu vực kinh tế nhà nước, giữa các nguồn vốn viện trợ với các nguồn vốn đi vay và các nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Nếu như nguồn vốn của khu vực dân cư và nguồn vốn FDI được điều chỉnh bởi động cơ lợi nhuận thì điều chỉnh của nhà nước đối với khu vực này chủ yếu thông qua những tác động đến môi trường đầu tư để định hướng phát triển. Như vậy, thực chất của sự kết hợp trên chủ yếu lại thể hiện quan điểm và phương hướng sử dụng các nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước, nguồn vốn ODA và vốn của các doanh nghiệp nhà nước nhằm phối hợp có hiệu quả với các luồng đầu tư của dân cư và nguồn FDI. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay để giải quyết mâu thuẫn giữa sự hạn chế của nguồn vốn khu vực nhà nước với mục tiêu và yêu cầu to lớn mà nhà nước mong muốn trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, những lĩnh vực nhà nước cần nắm giữ cũng như những yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội khác. - Định hướng việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và khuyến khích vốn đó vào những mục tiêu nào, sử dụng và quản lý sao cho có hiệu quả, đều cần được tính toán cân nhắc xuất phát từ yêu cầu, khả năng của nền kinh tế. Những điều kiện của việc thu hút từng loại nguồn vốn và hiệu quả sử dụng của các nguồn vốn đó đối với quá trình phát triển, khả năng trả nợ để không tạo ra gánh nặng nợ nần cho những năm sau mà nền kinh tế không đủ sức trang trải. - Những công trình đầu tư bằng vốn nhà nước cũng phải được đánh giá trên tiêu chuẩn hiệu quả, quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư nhằm đảm bảo thời hạn xây dựng, giá cả và chất lượng công trình. + Một số quan điểm về huy động và cho vay vốn của NHTM Cùng với tiến trình đổi mới của đất nước, đây cũng là giai đoạn đổi mới của hoạt động ngân hàng. Từ ngân hàng một cấp chuyển sang ngân hàng hai cấp, ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, còn các NHTM khác thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, đối với NHTM thì nguồn vốn là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho hoạt động tín dụng của mình. Việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng phụ thuộc vào việc tăng trưởng hoặc giảm sút nguồn vốn. Huy động vốn để cho vay là nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ ngân hàng, cùng với yêu cầu khách quan về mở rộng tín dụng trong các thành phần kinh tế, việc tạo vốn ở các ngân hàng đang là vấn đề đáng quan tâm và cần thiết phải có những biện pháp thích ứng. Việc huy động vốn trong thời gian qua của các chi nhánh NHTM được tổ chức trên cơ sở các phương thức huy động như : Tiền gửi của các tổ chức kinh tế, huy động tiết kiệm, kỳ phiếu có mục đích, kỳ phiếu trả lãi trước…nhằm phục vụ cho quá trình đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu của từng địa phương đã được xác định. Nhưng để cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển đúng hướng thì phải có thực lực mà một yếu tố được đặt lên hàng đầu đó là vốn. Có thể nói vốn cho nền kinh tế nói chung và của từng địa phương nói riêng là một vấn đề lớn và cấp bách hiện nay. Vì muốn đổi mới công nghệ, thiết bị để tạo năng suất lao động cao hơn thì phải có vốn, muốn thay đổi kết cấu hạ tầng thích hợp với công nghệ mới, quy mô sản xuất mới phải có vốn…không chỉ cơ sở địa phương thiếu vốn mà cả ngân hàng cũng đang thiếu vốn để đầu tư. Đặc biệt là vốn trung, dài hạn để làm ngòi nổ ban đầu cho sự tăng trưởng và tích luỹ lâu dài cho nền kinh tế. Hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động của ngân hàng nói riêng, giữa huy động vốn và cho vay vốn không thể tách rời nhau, vốn huy động được phải tập trung cho vay mở rộng tín dụng, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nhằm nâng cao đời sống và thu nhập cho mọi thành viên trong xã hội, có thu nhập và có tích luỹ thì ngân hàng mới tiếp tục huy động được vốn. Đây là mối quan hệ nhân quả trong hoạt động ngân hàng. Do đó, bên cạnh việc huy động vốn thì việc cho vay vốn của các NHTM trong thời gian qua đã._. mang lại hiệu quả nhất định, góp phần tích cực trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sản xuất hàng hoá phát triển, tạo điều kiện cho nhân dân làm ăn, vượt qua ngưỡng cửa đói nghèo, vươn lên khá giàu, thị trường cho vay nặng lãi ở nông thôn, miền núi đã được thu hẹp, ngành nghề phát triển, đời sống nông dân ngày được cải thiện. Mặt khác, vốn tín dụng ngân hàng đã thật sự góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp dân doanh ngày càng ổn định, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Huy động vốn được rồi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những nguồn tài sản này. Hầu như tất cả khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó, để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được, ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho vốn đã vay, thanh toán các chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Nói cách khác, nghiệp vụ có của ngân hàng là những nghiệp vụ thực hiện sử dụng những khoản vốn đã huy động (tập trung ở nghiệp vụ nợ) nhằm mục đích sinh lợi. Cho vay hay đầu tư để sinh lợi từ tiền đã huy động được là lẽ sống còn của NHTM. Cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiếm lợi nhuận. Chỉ có một ít khác biệt giữa hai khái niệm: Cho vay thường là một hoạt động trực diện với khách hàng thông qua các cuộc thương lượng, còn trong đầu tư, ngân hàng tiến hành lựa chọn một loạt các chứng khoán hiện có với các kỳ hạn định sẵn.Trong hoạt động cho vay, người vay thường khởi xướng việc giao dịch, nhưng trong đầu tư ngân hàng chủ động khởi xướng [41, tr.99], do đó đôi khi người ta cũng gọi chung cả hai hoạt động trên vào một từ là "đầu tư ". Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của NHTM, hoặc có thể nói ngược lại, sự đa dạng của tài sản có phản ánh sự đa dạng trong các loại hình đầu tư của ngân hàng. ở các nước trên thế giới, tài sản có của một NHTM thường quy về các nhóm sau đây : 1) Dự trữ tiền mặt, bao gồm: a) tiền mặt tại kho của ngân hàng; b) tiền mặt ký gửi tại NHTƯ. 2) Đầu tư vào chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu…) 3) Cho vay. 4) Đầu tư vào các loại tài sản (như bất động sản, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị…). Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư. - Với quan điểm " đi vay để cho vay" các NHTM cho vay vốn phải phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và khi đến hạn vốn phải được thu đủ cả gốc và lãi về ngân hàng để tiếp tục chu kỳ cho vay vốn tiếp theo. - Mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế : tín dụng không chỉ dành riêng cho khu vực kinh tế quốc doanh mà còn mở rộng ra các thành phần kinh tế khác để phát triển sản xuất kinh doanh (ngân hàng toàn dân). - Chuyển dịch cơ cấu tín dụng : giảm tỷ trọng tín dụng ngắn hạn, nâng dần tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn. - Các NHTM được độc lập trong hoạch định và thực thi chiến lược kinh doanh, trong kinh doanh được tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình theo pháp luật. Các cơ quan Đảng và Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh và tác nghiệp của các ngân hàng. Xoá bỏ các hình thức bao cấp về vốn và lãi suất tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh. Trên tầm vĩ mô, hệ thống NHTM là công cụ đắc lực đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng nhà nứoc không giao nhiệm vụ cho các ngân hàng làm việc này và yêu cầu thực hiện nó với bất cứ giá nào. Nhiệm vụ này được thực hiện một cách tự nhiên như là hệ quả tất yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Hoạt động kinh doanh sinh lời và nghĩa vụ thực hiện chính sách xã hội là khác biệt. Việc thực hiện chính sách xã hội được đặt ra với tổ chức kinh doanh tiền tệ trên nguyên tắc tự nguyện và theo khả năng. Tuy nhiên, đối với các NHTM quốc doanh có trường hợp được nhà nước giao nhiệm vụ làm một số công việc mang tính chất xã hội như (xoá đói giảm nghèo, xoá nợ, cho vay ưu đãi đối với các vùng bị thiên tai bão lụt, hạn hán, cho vay giảm lãi suất đối với khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa…). Trong những trường hợp đó, nhà nước sẽ tạo các điều kiện để tổ chức tín dụng không gặp khó khăn về tài chính, thực hiện được nhiệm vụ kinh doanh của mình. - Các NHTM quốc doanh vừa phải được hoạt động bình đẳng trong cơ chế thị trường, vừa phải được thể hiện rõ tính định hướng XHCN và vị trí chủ đạo của mình trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Nó phải là chỗ dựa và là công cụ đắc lực trong tay nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế nhà nước các NHTM quốc doanh không thể chỉ biết kinh doanh với lời lãi đơn thuần và cũng không thể trở thành " bầu sữa" nuôi dưỡng các doanh nghiệp quốc doanh như thời bao cấp, phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh doanh với việc thực hiện chính sách xã hội (khi cần) với mức độ và điều kiện cho phép. - Đa dạng hoá các hình thức cho vay: Bên cạnh việc làm phong phú thêm các hoạt động kinh doanh tiền tệ truyền thống như cho vay hộ nông dân, cho vay người nghèo, cho vay tạo việc làm, xây dựng nhà ở, trợ giúp sinh viên, xuất khẩu lao động… cần sớm mở thêm các công cụ lưu thông tín dụng như thương phiếu, hối phiếu để mở thêm hình thức tín dụng thương mại. - Việc quản trị điều hành kinh doanh của các NHTM cần được thường xuyên hoàn thiện, loại bỏ tầng nấc trung gian trùng lắp, cần xử lý hài hoà giữa yêu cầu quản lý tập trung về chiến lược kinh doanh, cơ chế chính sách, bí quyết nghiệp vụ và công nghệ, điều hoà vốn… với việc tạo tính độc lập tương đối và tính sáng tạo của mạng lưới chân rết trong hoạt động kinh doanh. - Cần nhận thức rõ sự khác biệt giữa hoạt động kinh doanh của các NHTM với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác, để có chính sách thích hợp với các tổ chức kinh doanh tiền tệ. Mặt khác, cần phân biệt vị trí người đi vay và người cho vay, phân biệt trách nhiệm giữa hai bên trong trường hợp mất vốn, tránh quy trách nhiệm một chiều đối với người cho vay. - Kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro nhất, phòng ngừa rủi ro phải là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Do đó hoạt động của các NHTM luôn luôn đặt dưới áp lực kiểm tra kiểm toán nội bộ và thanh tra từ phía Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước xác định hành lang an toàn, các chuẩn mực và hệ thống các chỉ tiêu an toàn mà các NHTM phải tuân thủ. Bên cạnh đó, các NHTM cần chủ động tự kiểm toán, hoặc đặt dưới sự kiểm toán của các tổ chức kiểm toán Nhà nước hay kiểm toán độc lập nhằm ngăn chặn các sai sót trong hoạt động kinh doanh ngân hàng theo từng thời kỳ nhất định. 1.2. Vai trò của tín dụng NHNo&PTNT trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. 1.2.1. Bản chất, chức năng và các hình thức tín dụng. 1.2.1.1. Khái niệm chung về tín dụng. Danh từ tín dụng (crédit) dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp, như: bán chịu hàng hoá (vente à crédit), cho vay, chiết khấu (escompte), bảo lãnh (acceptation), ký thác (dépôt), phát hành giấy bac. Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau như sau: - Một bên thì trao ngay một số tài khoá hay tiền bạc; - Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài khoá đó trong một thời gian nhất định và kèm theo một số điều kiện nhất định nào đó [41, tr.115]. Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai, chẳng hạn hai người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta thấy một sự chuyên nghiệp đã xảy ra, và ngày nay khi nói tới tín dụng, người ta nghĩ ngay tới các ngân hàng, vì các cơ quan này chuyên làm việc như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, ký thác và cả phát hành giấy bạc nữa. Mặt khác, trong một nền kinh tế đã phát triển với thu nhập của những người làm công ăn lương gần tương đương nhau và một hệ thống ngân hàng trung gian hiện đại, thì mọi người chỉ có vay tiền ngân hàng, hầu như không vay mượn lẫn nhau. Đó là lý do để người ta đồng nhất tín dụng với cho vay của ngân hàng. Dù sao vay và cho vay vốn gắn liền với nền sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường của một nền kinh tế hàng hoá lớn, do vậy không thể không nói đến tín dụng, tín dụng ra đời là hình thức vận động của vốn cho vay. Tín dụng xuất hiện bắt nguồn từ đặc điểm chu chuyển của vốn mà tiền phải trãi qua quá trình tuần hoàn và chu chuyển trong sự vận động của quá trình tái sản xuất mà chủ thể sản xuất kinh doanh cần. Vì vậy, tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn tiền thông qua ngân hàng làm môi giới. * Cho vay tiền: Là nghiệp vụ tín dụng, trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. 1.2.1.2. Bản chất, chức năng và các hình thức tín dụng. a- Bản chất tín dụng : Tín dụng ra đời rất sớm so với sự xuất hiện của môn kinh tế học và được xuất phát từ ngôn ngữ la tinh: Creditum có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm, theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn. Theo tiếng Anh và tiếng Pháp tín dụng là " Credit ", khái niệm của Tooke được Mác thừa nhận: Tín dụng dưới các hình thức biểu hiện đơn giản là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến cho một người này giao cho một người khác một số tư bản nào đó dưới hình thái tiền hoặc dưới hình thái hàng hoá đánh giá một số tiền nhất định nào đó. Số tiền này được trả lại trong một thời hạn nhất định… khi tư bản được cho vay người ta tăng số tiền phải hoàn trả lên thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định coi là tiền để trả về quyền sử dụng tư bản [23]. Điều kiện để phát sinh và tồn tại tín dụng là một điều kiện hai mặt: - Sản xuất và lưu thông hàng hoá (trong giai đoạn tiền tư bản chủ nghĩa là sản xuất và lưu thông hàng hoá giản đơn) - Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá thì tiền tệ cũng đã phát triển những chức năng của nó. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá (sản xuất hàng hoá giản đơn) thì " chỉ một giá trị mà lúc nào cũng biểu hiện thành hai thái cực: ở cực này là hàng hoá, ở cực kia là tiền tệ" [25, tr.188]. Như vậy là có sự tách rời giữa giá trị và các hình thái của nó - giá trị với tư cách là thực thể của lao động, là lao động vật thể hoá hay lao động kết tinh trong hàng hoá tách rời với các hình thái của nó là hàng hoá hoặc tiền tệ - Vật ngang giá của giá trị hàng hoá. Chính đó là điều kiện cơ bản, là cái gốc của vấn đề làm nảy sinh các quan hệ sau: - Quan hệ cho vay và đi vay - Quan hệ mua chịu và bán chịu C.Mác đã nói đến tín dụng: Sau khi phân tích việc mua bán chịu làm chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ. Mác viết: " Tiền tín dụng bắt nguồn trực tiếp từ chức năng phương tiện thanh toán của tiền bạc…Hệ thống tín dụng mà càng lan rộng ra thì chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ càng phát triển" [26, tr.195]. Có thể nói, sự phát triển của tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng là cơ sở cho sự ra đời của ngân hàng và ngược lại, nhờ sự phát triển của hệ thống ngân hàng các hoạt động tín dụng được đẩy nhanh hơn bao giờ hết. Sự ra đời và hoạt động của nó là tấm gương phản ánh trình độ xã hội hoá sở hữu thông qua quá trình chu chuyển các khoản tín dụng và các hoạt động thanh toán trong xã hội. Sự phát triển ngày càng hoàn thiện của chế độ tín dụng và hệ thống ngân hàng gắn với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, đã tạo cơ sở hình thành thị trường tài chính và phát triển các công ty cổ phần. Trên thực tế tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú, nhưng dù ở bất cứ lĩnh vực nào bản chất của tín dụng cũng thể hiện ở sự chuyển dịch vốn từ một người này, một tổ chức này sang một người khác, một tổ chức khác. Nó là sự chuyển dịch đơn phương của một lượng giá trị tạm thời tách khỏi quyền sở hữu và lượng giá trị đó sẽ quay về điểm xuất phát ban đầu sau một chu kỳ nhất định nào đó. Chính vì vậy, tín dụng là mối quan hệ giữa một bên là người cho vay và bên kia là người đi vay, người cho vay và người đi vay có mối liên hệ bắc cầu qua sự vận động giá trị vốn tín dụng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của ngân hàng là nguồn vốn huy động của khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các sở hữu chủ mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng, ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn, thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của ngân hàng. b- Chức năng của tín dụng : Trong nền kinh tế thị trường tín dụng thực hiện hai chức năng có bản sau đây: - Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả. Hệ thống các NHTM hiện nay có mạng lưới trãi rộng trong nền kinh tế, chính vì vậy đã tập trung được một số lớn nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để hình thành quỹ cho vay, hay nguồn vốn tín dụng. Các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội được thu hút tập trung vào các ngân hàng bằng những cơ chế chính sách và lãi suất khác nhau nhằm khuyến khích người đầu tư tiết kiệm hay người gửi tiền. Trên cơ sở quỹ cho vay đã có, các tổ chức tín dụng tiến hành phân phối nguồn vốn này cho các đối tượng có nhu cầu bổ sung vốn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Đây là quá trình phân phối lại vốn tiền tệ. Quá trình này không những đòi hỏi phải tuân theo các nguyên tắc của tín dụng mà còn phải chấp hành đẩy đủ những quy định của pháp luật về chế độ tín dụng hiện hành. Quá trình tập trung và phân phối lại vốn tín dụng đã giúp các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội. Do đó, chức năng này của tín dụng đã góp phần quan trọng vào quá trình bình quân hoá suất lợi nhuận trong nền kinh tế quốc dân. - Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua tiền tệ. Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng các ngân hàng tiến hành kiểm soát các đơn vị vay vốn là việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Kiểm soát việc sử dụng vốn vay để đảm bảo các khoản cho vay được hoàn trả đúng thời hạn là điều kiện tiên quyết để các tổ chức tín dụng tồn tại và phát triển. Quá trình kiểm tra, kiểm soát được các tổ chức tín dụng tiến hành liên tục bằng các nghiệp vụ cụ thể; kiểm tra trước khi cho vay, kiểm tra trong khi cho vay và kiểm tra sau khi cho vay. Mục đích của quá trình kiểm tra là để đảm bảo hiệu quả sử dụng của các khoản tiền vay và tạo điều kiện thu hồi được nợ cả vốn lẫn lãi tiền vay. Như vậy, kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua tiền tệ là chức năng quan trọng của tín dụng. Chức năng này được thực hiện đầy đủ không những mang lại lợi ích trực tiếp cho đơn vị vay vốn, cho tổ chức tín dụng mà còn đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. c - Các hình thức tín dụng: Bất cứ chế độ nào, hoạt động tín dụng ngân hàng cũng đều chịu sự can thiệp của nhà nước, nó là công cụ quản lý vĩ mô được dùng để quản lý điều hành nền kinh tế, tăng trưởng và phát triển kinh tế phục vụ cho giai cấp cầm quyền. Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau. Nó được thể hiện dưới dạng tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước…Riêng tại Việt Nam hiện đang áp dụng chủ yếu các hình thức tín dụng: + Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm, thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống. + Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. + Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. Theo quy định của NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam hiện nay thời gian cho vay từ 60 tháng trở lên, nhưng không quá thời gian hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống. Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ba hình thức tín dụng chủ yếu nêu trên, còn nhiều hình thức như: Tín dụng ứng trước, tín dụng thuê mua, tín dụng chiết khấu, tín dụng cầm cố, tín dụng nhà ở… đã đang được các tổ chức tín dụng triển khai, mở rộng phù hợp với xu thế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 1.2.2.1. Tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, góp phần đầu tư và phát triển kinh tế Trong hoạt động tín dụng, khả năng cho vay phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn hiện có của ngân hàng, mà nguồn vốn này chủ yếu lại được hình thành từ khả năng tập trung huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, do đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn nên đôi khi không có sự ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa việc mua vật tư hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất với việc tiêu thụ hàng hoá, một số doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm tài sản bằng nguồn vốn tích luỹ, song nguồn vốn tích luỹ này chưa đủ để thực hiện các mục đích đã định nên cũng tạm thời nhàn rỗi. Ngoài ra các nguồn vốn thuộc dự trữ quốc gia, nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư…đều là các tiềm năng đáng kể để ngân hàng thu hút vốn, tạo nguồn vốn để sẳn sàng đầu tư cho vay. Xét nhu cầu vay vốn, thực tế cho thấy: xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn chu chuyển vốn và sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa mua và bán vật tư hàng hoá phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp thiếu hụt về vốn. Mặt khác, theo quy luật chung, việc tái sản xuất mở rộng là không ngừng; nếu doanh nghiệp chỉ trông chờ vào nguồn vốn tiết kiệm và tích luỹ được để đầu tư thì không thực tế, khó có thể thực hiện được; rồi nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân trong xã hội, sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước, tất cả đều dẫn đến nhu cầu vay vốn để bù đắp phần thiếu hụt. Trên thực tế nếu xét trên phạm vi từng doanh nghiệp hoặc trên toàn bộ nền kinh tế thì khả năng về nguồn vốn cho vay và nhu cầu vay vốn đan xen vào nhau, mối quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng và chủ thể thiếu hụt vốn có nhu cầu bù đắp gặp phải nhiều hạn chế; người có nhu cầu về vốn khó có khả năng tìm gặp người có vốn. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải có hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhằm tập trung toàn bộ vốn tiền tệ nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để cung cấp cho các chủ thể có nhu cầu bổ sung vốn tạm thời trong nền kinh tế. Điều này cho thấy ngân hàng vừa là "người đi vay" vừa là"người cho vay", tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục; tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất, đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Tóm lại, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Ngoài việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng đã góp phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất và lưu thông; thúc đẩy các ngành kinh tế, các doanh nghiệp nhanh chóng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Sự thể hiện vai trò của mình với tư cách là người hỗ trợ, tín dụng ngân hàng được coi như một mắc xích không thể thiếu được đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của cả toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam hiện nay, cơ cấu kinh tế nhiều mặt còn chưa hợp lý, thất nghiệp ở mức độ cao, việc đầu tư vốn tín dụng sẽ góp phần sắp xếp lại sản xuất, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Qua hoạt động tín dụng sẽ khai thác sử dụng vốn có hiệu quả nguồn lao động, nguồn tài nguyên, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội để duy trì sản xuất kinh doanh liên tục, góp phần đầu tư và phát triển kinh tế. 1.2.2.2. Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quyết định đến thời cơ kinh doanh và chủ động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bản chất vốn tín dụng là bổ sung nhu cầu vốn thiếu hụt tạm thời của các doanh nghiệp, nhưng sử dụng khoản vốn tín dụng bắt buộc phải trả một khoản lãi suất theo quy định và chịu sự ràng buộc bởi các quy định thuộc cơ chế tín dụng. Do vậy, các doanh nghiệp chỉ sử dụng việc vay vốn tín dụng vào thời điểm mà mình thiếu vốn và không còn nguồn hỗ trợ nào khác để thoả mãn mục đích kinh tế của mình. Như vậy, nếu không có nguồn vốn tín dụng thì doanh nghiệp không thể thực hiện được mục đích kinh tế của mình trong những điều kiện cụ thể, hay nói khác hơn là nhờ nguồn vốn tín dụng bổ sung kịp thời, các doanh nghiệp mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 1.2.2.3. Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Ngân hàng thông qua vai trò trung gian tài chính đã thực sự là cầu nối giữa những người có tiền muốn cho vay với những người thiếu vốn cần vay để thoả mãn được nhu cầu sản xuất kinh doanh và các chi tiêu. Với chức năng là " người cho vay", ngân hàng phải có cơ cấu vốn tương đối ổn định với quy mô nhất định. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn tự có của ngân hàng, nguồn vốn vay từ thị trường trong nước và nước ngoài; và bộ phận chủ yếu có tỷ trọng lớn quyết định đối với hoạt động của một ngân hàng là nguồn vốn huy động. Nguồn vốn này được hình thành từ nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, tiền nhàn rỗi của các cá nhân trong xã hội…Tất cả được tập trung vào ngân hàng thông qua chiến lược tạo vốn của ngân hàng. "Sự khơi dậy và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội, thu hút mạnh vốn nước ngoài hình thành thị trường vốn và tiến tới thị trường chứng khoán" [45, tr.214] là nền tảng cơ bản để tập trung vốn vào NHTM. Với chức năng là " người đi vay", đòi hỏi ngân hàng phải tính toán để sử dụng vốn vay có hiệu quả, để đảm bảo khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho các chủ sở hữu. Như vậy, ngân hàng không thể cho vay tràn lan, cho mọi đối tượng có nhu cầu về vốn mà phải tập trung cho vay các doanh nghiệp, hộ sản xuất có hướng phát triển tốt, kết quả kinh doanh ổn định. Và như vậy đối với ngân hàng "một mặt cần phải có chính sách đầu tư theo định hướng cơ cấu kinh tế, mặt khác cần đổi mới căn bản cơ cấu đầu tư". Việc đầu tư tập trung là một quá trình tất yếu, bởi vì nó vừa đảm bảo hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng vừa tạo điều kiện giúp đỡ cho các doanh nghiệp sản xuất có nhu cầu vốn để bù đắp những thiếu hụt tạm thời hoặc các nhu cầu về vốn để duy trì và phát triển sản xuất..góp phần tổ chức sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chiến lược huy động vốn trong nước là một trong những khâu quan trọng trong chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của NHTW và các NHTM. Mặt khác sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia luôn luôn phụ thuộc vào định hướng phát triển kinh tế, vào các nguồn lực và cách thức tạo ra nguồn lực đó - một trong những nhân tố quan trọng cấu thành nguồn lực này là vốn. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách tài chính- tiền tệ phù hợp tạo động lực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. 1.2.2.4. Tín dụng là công cụ tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn, then chốt, hỗ trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển. Sự phát triển của các ngành kinh tế then chốt chính là yếu tố tạo sự bình ổn, tự chủ về kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là nền tảng vững chắc để đẩy mạnh các ngành kinh tế mũi nhọn đạt được những ưu thế nhất định trên thị trường thế giới, tạo thế liên hoàn thúc đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế cùng nhau phát triển toàn diện. Nhất là trong bối cảnh nền kinh tế kém phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, nguồn vốn đầu tư còn thiếu hụt nghiêm trọng, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối nặng nề, hiệu quả thấp lại không ổn định như nước ta hiện nay thì việc sắp xếp lại sản xuất, xác lập từng bước cơ cấu kinh tế hợp lý theo định hướng phát triển kinh tế xã hội và những mục tiêu đã định. Nó đòi hỏi phải có hàng loạt các chính sách, biện pháp đồng thời và hợp lý mà trong đó tín dụng ngân hàng đóng góp phần hết sức quan trọng. Tín dụng ngân hàng là công cụ tập trung huy động vốn để cho vay đầu tư đúng đối tượng, đúng nguyên tắc và có hiệu quả. Nó ưu tiên tập trung vốn cho các ngành kinh tế then chốt có tính quyết định trong nền kinh tế và hỗ trợ vốn cho các ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn để có cơ hội tạo ra các bước nhảy quan trọng. Tín dụng ngân hàng còn vận dụng cơ cấu vốn hợp lý và chính sách lãi suất thích hợp để khuyến khích các ngành các lĩnh vực kinh tế chậm phát triển. Ngoài ra, thông qua chính sách tiền tệ, tín dụng còn góp phần ổn định giá cả có tác dụng tích cực thúc đẩy nhiều thành phần kinh tế phát triển. 1.2.2.5. Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Như chúng ta đã biết tín dụng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, làm tiền đề quan trọng để sản xuất lưu thông hàng hoá. Nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội. Mặt khác, trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức cho vay: tổ chức tín dụng dân cư, thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, cho vay theo chương trình tín dụng EC … vốn tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các nhà doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Từ đó tín dụng góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo công ăn việc làm, qua đó góp phần ổn định xã hội. 1.2.3. Tín dụng ngân hàng trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới có nhiều lợi thế phát triển mạnh mẽ (phát triển cả nông - lâm - ngư nghiệp, phát triển cả trồng trọt, chăn nuôi và mọi ngành nghề dịch vụ trong nông thôn). Là nền nông nghiệp dựa trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và từng bước cơ cấu kinh tế nông nghiệp được chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá; là nền nông nghiệp mà sự phát triển nông nghiệp gắn liền với việc phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, làm cho nông thôn ngày càng văn minh và giàu đẹp. Nông nghiệp là một ngành kinh tế xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội loài người và có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò của nông nghiệp thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây: - Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm là nhu cầu tối cơ bản của con người. C.Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn rồi sau đó mới nói đến hoạt động khác. Người cho rằng:" Nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người…" [27, tr.197], " Và việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống của họ và của mọi lĩnh vực sản xuất nói chung" [28, tr.134]. - Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. "nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Sản phẩm nông nghiệp là nhu cầu tối cơ bản của con người" [27, tr.197]. Như vậy, cho dù trong quá khứ, hiện tại hay tương lai, sản phẩm nông nghiệp vẫn đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại của xã hội loài người. - Nông nghiệp là ngành cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội. Để thực hiện vai trò này của nông nghiệp đòi hỏi phải giải quyết tốt quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến và cả phân bố sản xuất, quy trình kỹ thuật, mô hình tổ chức và quan hệ về lợi ích kinh tế. - Nông nghiệp là ngành cung cấp một khối lượng hàng hoá lớn để xuất khẩu; là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội. Đồng thời là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. ở nước ta ngày nay, nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư, vì vậy, nông nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát về thực hiện đề án cơ cấu lại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo&PTNT) giai đoạn 2001 - 2005 là: Ngân hàng Nông nghiệp phải thực sự trở thành lực lượng chủ đạo và chủ lực trong vai trò cung cấp tín dụng cho đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn phù hợp với chính sách, mục tiêu của Đảng, Nhà nước trong từng giai đoạn. Mở rộng hoạt động một cách vững chắc, an toàn, có quy mô vốn tự có đủ lớn, áp dụng công nghệ tin học, cung cấp các dịch vụ và tiện ích thuận lợi, thông thoáng đến mọi loại hình doanh nghiệp và dân cư ở thành phố, thị xã, tụ điểm kinh tế nông thôn, nâng cao và duy trì khả năng sinh lời, phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực để có sức cạnh tranh và thích ứng nhanh chóng trong quá trình hội nhập [32]. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã tập trung mọi nỗ lực, cố gắng thực hiện Quyết định số 161/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại NHNo giai đoạn 2000-2010 và đã đạt được những kết quả to lớn. Việc triển khai thực hiện Đề án giai đoạn (2001-2005), hoạt._.u thụ. Chính tình trạng này đang là một cản trở, làm trì trệ sản xuất đòi hỏi phải có sự điều chỉnh các biện pháp, chính sách điều tiết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm từ phí Nhà nước. Khảo sát gần đây của nhiều cơ quan nghiên cứu cho thấy hiện nay đang diễn ra tình trạng phát triển sản xuất không, hoặc chưa gắn bó mật thiết với thị trường tiêu thụ. Sự thiếu gắn bó thể hiện cả về khối lượng, chất lượng, mẫu mã và giá cả các mặt hàng nông sản làm ra. Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất có biểu hiện thiếu tính toán, hướng dẫn, nghiên cứu về dung lượng thị trường đã dẫn đến cung - cầu không ăn khớp, khi giá cả tăng lên thì nông dân đổ xô vào đầu tư, khi giá hạ, sản phẩm không tiêu thụ được lại cùng nhau huỷ bỏ sản xuất đã trở thành căn bệnh kinh niên. Trong thực tế những năm vừa qua tình trạng đó vừa không tạo ra một cơ cấu sản xuất ổn định, vừa gây nhiều thua thiệt cho người sản xuất, nhà đầu tư. Thực tế trên đây đòi hỏi Nhà nước cần phải có chính sách can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm tạo ra sự cân bằng cung - cầu để ổn định tương đối giá tiêu thụ hàng nông sản, không để người sản xuất bị quá thua thiệt khi cần bán sản phẩm. Chính sách điều tiết khối lượng sản xuất theo nhu cầu của thị trường là một chính sách rất quan trọng mà nhiều nước đang áp dụng. Bên cạnh đó cần phải giúp nông dân tổ chức ra các kênh tiêu thụ sản phẩm của chính họ có như vậy mới giúp họ tiếp cận thị trường một cách hợp lý, kịp thời và tự bảo vệ mình trong thương trường. Hiện tại, trong nước cần tập trung phát triển thị trường ở các tỉnh duyên hải Miền Trung và các tỉnh , thành trong cả nước, các thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh,… các khu công nghiệp chế xuất, công nghiệp chế biến . Thị trường xuất khẩu ngoài nước, trong những năm tới vẫn tiếp tục giữ vững thị trường truyền thống như: Trung Quốc, Đài Loan, Cộng hoà Liên bang Nga…Bên cạnh đó cần có chính sách tiếp thị thâm nhập vào các thị trường mới khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trong đó chú trọng thị trường trong khu vực như Nhật Bản, ASEAN…với thị trường ASEAN đây là một thị trường đầy tiềm năng nó không những là một thị trường lớn mà còn là thị trường dễ tính. Nhà nước cần có chính sách thực sự khuyến khích mạnh ở tầm vĩ mô, như chính sách thuế xuất nhập khẩu, hàng rào thuế quan, bảo trợ sản phẩm xuất khẩu tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản trong thời gian tới. 3.2.1.5. Phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tốc độ và kết quả của tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Con người là yếu tố trung tâm của sự phát triển nhanh và bền vững, quy định mức tăng năng suất lao động. Do vậy, phải coi phát triển nâng cao nguồn nhân lực là một trong những giải pháp quan trọng nhất cần được quan tâm đúng mức. Để đáp ứng nhu cầu cán bộ khoa học và lực lượng lao động được đào tạo để phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong thời gian tới cần phải: - Tiến hành điều tra, đánh giá trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ khoa học- kỹ thuật và trình độ văn hoá, kỹ thuật của lực lượng lao động nông nghiệp, có chương trình và tổ chức tốt mạng lưới đào tạo dạy nghề, hướng nghiệp để vừa đào tạo đội ngũ lao động lành nghề phục vụ thiết thực tại địa phương, vừa tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, chuyên gia giỏi ở nhiều lĩnh vực đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trong từng giai đoạn. - Thu hút các nguồn tài trợ trong nước và ngoài nước, tăng ngân sách cho phát triển giáo dục đào tạo ở nông thôn, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị trường học, bồi dưỡng đào tạo cho giáo viên, lập các quỹ khuyến học cho học sinh. Thực hiện đa dạng hoá hình thức đào tạo, xã hội hoá giáo dục, khuyến khích các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân, hộ gia đình đầu tư phát triển giáo dục- đào tạo, mở các trường lớp, hiến đất xây dựng trường, đóng góp tiền, công lao động cho xây dựng trường sở. - Xây dựng chương trình và nội dung đào tạo phù hợp với từng loại đối tượng trong nông nghiệp, tăng cường đào tạo kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, làm vườn để tăng năng suất và hiệu quả sản xuất của người nông dân. Tăng cường đào tạo nghề cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. - Xây dựng và kiện toàn đội ngũ viên chức nhà nước tại địa phương, từng bước thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ theo quy định của nhà nước, xây dựng quy chế tuyển dụng công chức, đảm bảo có năng lực, trình độ thực hiện tốt công việc được giao. Đồng thời tăng cường bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh để tăng khả năng quản lý nông nghiệp, thực hiện liên kết giữa nông dân với nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học trong phát triển nông nghiệp. - Thực hiện đào tạo nghề cho thanh niên vào tuổi lao động, đảm bảo cho mọi thanh niên được học nghề trước khi bước vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và hoạt động dịch vụ nông thôn. Mở rộng các hình thức đào tạo như: đào tạo, kèm cặp tại chỗ các cơ sở sản xuất, xí nghiệp; đào tạo tại trung tâm giáo dục thường xuyên, gửi đi đào tạo. Ngoài ra cần liên tục mở các lớp tập huấn ngắn ngày về kỹ thuật - công nghệ và chuyển giao công nghệ cho nông dân. - Có chính sách thu hút nguồn cán bộ khoa học kỹ thuật, lao động kỹ thuật có kiến thức, trình độ tay nghề cao từ nơi khác về công tác tại địa phương. Ngoài ra, cũng cần tạo điều kiện cho cán bộ, học sinh có nhu cầu nâng cao trình độ, đi nghiên cứu, thực tập, du học ở nước ngoài. - Từng bước thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 22 tháng 12 năm 2004 của Ban Thường vụ tỉnh uỷ về việc đào tạo và sử dụng cán bộ dân tộc ít người. Đối với 6 huyện miền núi cao, trong kế hoạch 5 năm 2005-2010 phải tăng tỷ lệ cán bộ dân tộc ít người lên 30-40%(hiện nay bình quân mới chỉ đạt xấp xỉ 19,6%). Trong đó có từ 30% trở lên cán bộ giữ các chức vụ trưởng, phó phòng, ban, uỷ viên thường vụ, ban chấp hành các đoàn thể cấp huyện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp thôn [1]. 3.2.1.6. Vận dụng có hiệu quả hệ thống chính sách kinh tế thúc đẩy nông nghiệp phát triển. - Chính sách đất đai Đối với sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam nói chung và tại huyện Phước Sơn nói riêng, vấn đề ruộng đất luôn luôn là sự quan tâm hàng đầu của người nông dân, vì nó là tư liệu sản xuất cơ bản nhất. Mặc dù hiện nay tại địa phương đất rộng người thưa, nhưng phần lớn diện tích đất thuộc các nông lâm trường quốc doanh là các chủ quản lý sử dụng đất, song trong thực tế những người chủ quản lý cụ thể gắn bó với từng diện tích đất sản xuất lại không rõ ràng. Do vậy, sự gắn kết giữa người lao động với tư liệu sản xuất (đất đai) rất lỏng lẻo dẫn đến kìm hãm động lực của sự phát triển. Nhằm khắc phục hạn chế đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã quyết định giao khoán ổn định đến hộ nông dân xã viên với thời gian 15 năm đối với cây trồng hàng năm và 50 năm đối với cây lâu năm, với mức khoán ổn định trong 5 năm. Để hoàn thiện và nâng cao chủ trương trên, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VII (tháng 6năm 1993) đã khẳng định: ruộng đất được giao cho các hộ nông dân để sử dụng lâu dài, tạo điều kiện để hộ nông dân thực sự tự chủ trên ruọng đất được giao. Trong thời gian sử dụng đất, hộ nông dân được hưởng 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng. Kết quả cuối cùng là năng suất, sản lượng cây trồng đã tăng liên tục trong những năm qua. - Về chính sách đầu tư phát triển Chính sách đầu tư của nhà nước nói chung và đối với nông nghiệp, nông thôn nói riêng trong những năm gần đây đã được điều chỉnh theo hướng: Nhà nước tập trung, cắt giảm các khoản đầu tư hiệu quả thấp hoặc chưa bức xúc; tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng bỏ vốn đầu tư vào sản xuất- kinh doanh; đồng thời với chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế Việt Nam đã có thêm nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, các nguồn vốn đầu tư chính cho nông nghiệp là: + Vốn ngân sách: nguồn vốn này được tập trung đầu tư vào các lĩnh vực chủ yếu như: Thủy lợi, đường giao thông, xây dựng các viện, trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Phủ xanh đất trống đồi núi trọc (trồng, khoanh nuôi bảo vệ rừng); Khai thác đất hoang hóa bãi bồi ven sông, ven biển; Xây dựng các cảng cá; Xây dựng cơ sở hạ tầng trong các nông trường quốc doanh, nhà máy chế biến nông-lâm thủy sản. + Vốn tín dụng:(thường với lãi suất ưu đãi) được đầu tư vào. Trồng mới các cây công nghiệp như cao su, chè, cà phê, mía đường; Nâng cấp xây mới các cơ sở chế biến; Đóng mới, cải hoán các tàu có công suất lớn (từ 45CV trở lên) phục vụ đánh cá xa bờ; Cho vay theo nhu cầu sản xuất; Các mục tiêu cho vay khác. + Vốn của các doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư. + Vốn của tư nhân và các hộ nông dân tự đầu tư. + Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Nhờ có sự đa dạng hoá các nguồn vốn và kênh đầu tư mà tổng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn đã tăng lên đáng kể trong những năm qua. - Chính sách khoa học kỹ thuật Mục đích CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn là triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào các khâu nuôi trồng, sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy hàng năm địa phương nên dành một tỷ lệ ngân sách thích đáng cho nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các hội khoa học kỹ thuật thành lập các tổ chức khoa học- công nghệ để đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và triển khai dịch vụ khoa học- công nghệ phục vụ CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn. Ban hành các chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ công nghệ- kỹ thuật vào nông nghiệp. Tạo điều kiện về trang thiết bị, kỹ thuật mà địa phương có thể, nhằm phục vụ việc nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả. - Chính sách bảo trợ cho nông dân Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bảo trợ sản xuất là yêu cầu tất yếu đối với kinh tế nói chung và nông dân nói riêng. Xuất phát từ những yêu cầu đặc thù vốn có của nông nghiệp, chu kỳ sản xuất của một số cây trồng, vật nuôi; những sản phẩm nông nghiệp lại trực tiếp bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con người. Cho nên, yêu cầu của sự ổn định sản phẩm nông nghiệp được đặt lên hàng đầu, nhất là đối với những sản phẩm thiết yếu. Sản xuất nông nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường tất yếu cũng phải tuân thủ những quy luật chung của nó. Nhưng để không làm rối loạn quan hệ cung - cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp, không gây biến động và làm mất cân đối trong sản xuất, làm phương hại lợi íh chính đáng của người nông dân và phát triển kinh tế nông nghiệp theo những cơ cấu đã được xác định, cần thiết phải có vai trò điều tiết của Nhà nước. Chính sách bảo trợ là biện pháp can thiệp trực tiếp của Nhà nước để khắc phục tình trạng biến động về giá cả do quan hệ cung - cầu của thị trường trong và ngoài nước gây ra. Đây chính là giải pháp để ổn định sản xuất, ổn định thu nhập và nâng cao đời sống của dân cư nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo ra sự ổn định về kinh tế - xã hội. Nhà nước có thể sử dụng nhiều chính sách để tiến hành bảo trợ sản xuất cho người nông dân: bảo trợ trực tiếp hoặc gián tiếp; cũng có thể bảo trợ "đầu vào" thông qua giảm giá vật tư, nhiên liệu, giống và các dịch vụ do Nhà nước đảm bảo; hoặc bảo trợ "đầu ra" bằng việc Nhà nước bao tiêu những sản phẩm cần khuyến khích. Hiện nay, do nguồn vốn từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, thì hình thức bảo trợ tốt nhất là bảo trợ gián tiếp, Nội dung của phương thức này là Nhà nước không dùng ngân sách để can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường, mà thông qua hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô để tác động vào quá trình CNH, HĐH nông nghịêp, nông thôn. Những biện pháp hỗ trợ bao gồm: bảo trợ về giá, hỗ trợ về vốn, hoặc chính sách thuế, tín dụng: miễn giảm thuế, lãi suất ưu đãi và hỗ trợ lãi suất…Trong các biện pháp đó, bảo trợ về giá tỏ ra có ưu thế tích cực. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách có hạn, cần lựa chọn những sản phẩm, những ngành, những lĩnh vực có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế trên địa bàn để tiến hành bảo trợ, bên cạnh đó cần kết hợp với các biện pháp khác để tạo điều kiện kinh tế nông nghiệp luôn giữ được ổn định và tăng trưởng một cách bền vững. 3.2.2. Nhóm giải pháp đối với NHNo &PTNT nhằm đầu tư, đầu tư có trọng điểm và hiệu quả phục vụ sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải xác định: nông thôn là thị trường cho vay, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu của mình. Tạo mọi điều kiện thuận lợi về nguồn vốn để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. 3.2.2.1. Những giải pháp về huy động vốn - Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn theo phương châm " đi vay để cho vay", chủ yếu là huy động vốn tại chỗ, thực hiện mô hình người vay vốn lúc này là người cung ứng vốn những lúc khác, nhằm làm cho đồng vốn vận động liên tục, mang lại hiệu quả tối đa của đồng vốn trong các doanh nghiệp và hộ dân cư. Ngoài những hình thức huy động vốn truyền thống của mình. NHNo&PTNT cần đưa ra nhiều hình thức tiết kiệm có kỳ hạn với lãi suất tiết kiệm được vận dụng năng động phù hợp với diễn biến của thị trường trong từng thời kỳ, như trả lãi trước, tiền gửi có khuyến khích, tiết kiệm dự thưởng bằng vàng, kỳ phiếu có mục đích kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng,…Tăng cường mở rộng các điểm huy động tiết kiệm đến từng cụm dân cư, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là các tụ điểm kinh tế như thị xã, thị trấn, thị tứ, chợ, vận động mọi đối tượng dân cư sử dụng hình thức tiết kiệm "bỏ ống" và có cán bộ định kỳ đi thu gom tiền tiết kiệm này. Biểu 3.4: Chiến lược tăng trưởng nguồn vốn huy động NHNo&PTNT huyện Phước Sơn ( 2005 - 2010) Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2010 Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng Tổng nguồn vốn huy động 1. Tiền gửi dân cư Trong đó: - Tiền gửi tiết kiệm - Tiền gửi phát hành kỳ phiếu Trong đó: + Kỳ phiếu trên 1 năm 2. Tiền gửi các tổ chức kinh tế 3. Các loại tiền gửi khác 47.670 26.218 10.487 15.731 9.438 7.151 14.301 100% 55% 22% 33% 19,79% 15% 30% 95.340 57.204 22.881 34.323 20.539 14.301 23.810 100% 60% 24% 36% 21,54% 15% 25% Nguồn: Ngân hàng No&PTNT huyện Phước Sơn tháng 5/2005 - Để đáp ứng đầu tư chiều sâu cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần phải có vốn trung và dài hạn để cung ứng cho nhu cầu bức xúc này. Cần tăng loại hình tiết kiệm dài hạn, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có kỳ hạn từ 3 -5 năm và từ 5 - 10 năm với lãi suất được điều chỉnh thoả đáng theo nguyên tắc thời gian huy động càng dài lãi suất càng cao. Đồng thời, áp dụng bảo hiểm tiền gửi theo giá trị vàng để đảm bảo giá trị tiền gửi cho người gửi tiền. - Tham gia tích cực hơn vào thị trường vốn của hệ thống ngân hàng nói chung (thị trường liên ngân hàng, thị trường đầu tư tín phiếu, trái phiếu kho bạc và các thị trường thứ cấp khác…) để tạo nguồn vốn lớn cho đầu tư tín dụng. - Huy động tiền gửi tiết kiệm gắn với tín dụng, để tạo ý thức tiết kiệm trong toàn dân tăng khả năng thu hút và cung cấp tín dụng của ngân hàng. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ vốn huy động tăng bình quân hàng năm là 20%, trong đó vốn có kỳ hạn trên một năm đạt 20,5 tỷ đồng, chiếm 21,54%/tổng nguồn vốn huy động (biểu 3.4). 3.2.2.2. Những giải pháp về sử dụng vốn Trên cơ sở chiến lược tăng trưởng dư nợ đến năm 2010 tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Phước Sơn (Biểu 3.5), phấn đấu tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân hàng năm là 19%/năm, trong đó dư nợ cho vay kinh tế cá thể, Hộ gia đình chiếm 50% tổng dư nợ, với 2.032 hộ có dư nợ, chiếm 54,77% số hộ trên địa bàn, đồng thời tăng dư nợ cho vay trung, dài hạn từ 5.550 triệu đồng lên 23.087 triệu đồng, đáp ứng nhu cầu vốn đối với các Hộ gia đình phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn. Để đạt được tốc độ tăng trưởng nêu trên, phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp: - Đa dạng hoá các hình thức cho vay kết hợp với chu kỳ sản xuất và thu hoạch. Thời gian qua, NHNo&PTNT đã từng bước đa dạng hoá các hình thức cho vay, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, song cần phải kết hợp giữa thời hạn cho vay với chu kỳ sản xuất và thu hoạch của nông sản, vì đối tượng cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp là các hộ nông dân và các doanh nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, thời hạn cho vay phải tương ứng với chu kỳ sản xuất cộng với thời gian tiêu thụ sản phẩm, như vậy mới tạo cho hộ nông dân thu hồi được vốn và có lãi. Biểu 3.5: Chiến lược tăng trưởng tín dụng NHNo&PTNT huyện Phước Sơn (2005 - 2010) Đơn vị tính : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2010 Dư nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng Tổng dư nợ 1. Dư nợ Kinh tế Quốc Doanh 2. Dư nợ kinh tế ngoài Quốc doanh 3. Dư nợ kinh tế tập thể 4. Dư nợ kinh tế cá thể, Hộ gia đình Trong đó: - Ngắn hạn + Số hộ + Số tiền - Trung, dài hạn + Số hộ + Số tiến 39.464 16.764 4.200 0 18.500 1.015 hộ 12.950 449 5.550 100% 42,48% 10,65% 46,87% 32,81% 14,06% 76.954 15.390 23.087 37.477 1.269 hộ 15.390 763 23.087 100% 20% 30% 50% 20% 30% Nguồn: Ngân hàng No&PTNT huyện Phước Sơn tháng 5/2005 - Đơn giản hoá thủ tục vay vốn đối với các hộ nông dân. Cần coi việc dùng tài sản thế chấp chỉ là phương tiện, là biện pháp đề phòng rủi ro đối với các khoản vốn vay lớn, còn đối với hộ nông dân vay món nhỏ có thể thực hiện cấp sổ vay vốn để hộ nông dân vay trả nhiều lần, thông qua bảo lãnh của trưởng thôn, của xã, hoặc lấy thu nhập gia đình làm căn cứ cho vay. - Xử lý lãi suất là vấn đề nan giải trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, làm thế nào để lãi suất cho vay phải vừa bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng Nông nghiệp, vừa tạo được động lực chính sách khuyến khích kinh tế hộ nông dân phát triển. Đây là vấn đề lớn trong điều kiện kinh tế thị trường, khi mà lạm phát trong nền kinh tế không ổn định. Việc xử lý lãi suất phải được phối hợp và điều hành trong toàn hệ thống của Ngân hàng Nông nghiệp. Cần căn cứ vào điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội của từng miền, từng vùng, từng khu vực để có những quy định thích hợp, mềm dẻo và linh hoạt. Đồng thời ngân hàng phải tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay. - Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thấp tỷ lệ nợ qúa hạn: Chính vì việc cho vay ở nông thôn, nỗi ám ảnh về rủi ro, thất bát luôn đè nặng lên tâm lý người cho vay và người sản xuất nông nghiệp và hàng loạt các nhân tố gây rủi ro của nền kinh tế thị trường đối với hàng nông sản, thực phẩm… Ngân hàng Nông nghiệp phải có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và giảm thấp tỷ lệ nợ xấu, không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng. - Tiếp tục đào tạo lại nhân viên và sử dụng máy vi tính nối mạng trong toàn hệ thống để quản lý điều hành thống nhất, tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong quá trình hoạt động là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tăng cường sức mạnh nội lực trong hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, là nhân tố quyết định sự phát triển ổn định vững chắc trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu giai đoạn 2006 - 2010 tín dụng Ngân hàng cần phối hợp tập trung thực hiện các nội dung sau đây: Một là, xây dựng chính sách huy động vốn, đầu tư theo mô hình tổng hợp lực nguồn, gồm tất cả mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn trong nước là quyết định, nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài (từ nước ngoài, địa phương khác) là quan trọng. Nguồn vốn ngân sách là nhân tố "dẫn đường, dọn đường, nền tảng" của mọi công cuộc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, do đó càng phải tiết kiệm, bảo toàn, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của nguồn vốn này. Tập trung đầu tư cải tạo, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn từ nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn ODA và các nguồn tài trợ ưu đãi khác. Xây dựng những dự án đầu tư tổng thể vào nông nghiệp để cứ một đồng vốn ngân sách đầu tư phải kéo theo, thu hút hàng trăm ngàn lần vốn của mọi thành phần kinh tế khác. Hai là, đa dạng hoá việc huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp trên cơ sở khai thác, sử dụng có quy hoạch, có kế hoạch và có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh: lao động, đất đai, thổ nhưỡng, tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái…đặc biệt chú trọng thu hút "chất xám", các phát minh, tiến bộ khoa học - kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, xúc tiến thương mại. Bên cạnh đó cần tôn trọng nguyên tắc " lấy ngắn nuôi dài", bảo toàn, tái tạo và tăng trưởng giá trị vốn bằng tiền, dưới các dạng vốn tài chính, vốn tín dụng, vốn sử dụng đất, vốn góp liên doanh, vốn cổ phần. Tranh thủ thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài viện trợ không hoàn lại, nguồn vốn tài trợ ưu đãi cho các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ba là, xây dựng hệ thống chính sách phát triển nông nghiêp, nông thôn thống nhất, đồng bộ ở tầm quốc gia, trong đó có chính sách đầu tư là bộ phận cấu thành quan trọng nhất, xuyên suốt nhất. Để triển khai chính sách đầu tư cho nông nghiệp cần kiện toàn chính sách tài chính - tiền tệ, với khâu then chót là ưu đãi cho khu vực nông nghiệp, nông thôn về thuế, lãi suất tín dụng và phân bổ vốn ngân sách. Chính sách bảo trợ xuất khẩu, chính sách tiêu thụ hàng nông sản, chính sách đất đai, chính sách mặt hàng, giá cả và thị trường, là những cấu thành hết sức quan trọng góp phần tháo gỡ ách tắc " đầu vào - đầu ra" trong lưu thông hàng nông sản, thiết lập môi trường tốt thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Bốn là, xây dựng chính sách đầu tư tín dụng cho nông nghiệp vừa thích ứng với cơ chế thị trường, vừa tuân thủ sự điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuân thủ nguyên tắc tín dụng trong sự kết hợp hài hoà với đầu tư phát triển theo quy hoạch, kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội về lâu dài, khắc phục tư tưởng cho theo lợi ích cục bộ, kinh doanh đơn thuần, trước mắt. Từng bước tiến tới xoá bỏ mọi bao cấp qua con đường tín dụng. Lấy tín dụng làm phương thức đầu tư chủ yếu mọi nguồn vốn, phân biệt rạch ròi tài trợ chính sách xã hội với đầu tư tín dụng kinh doanh. Năm là, phát huy vai trò đòn bẩy lãi suất tín dụng một cách hợp lý và linh hoạt, giảm nhẹ gánh nặng lãi suất cho nông nghiệp, nông dân. Cần nâng lãi suất tiền gửi của đồng tiền cao chút ít để thu hút nguồn nội lực trong nước hơn việc chú trọng vay nợ nước ngoài đưa đến gánh nặng nợ ngoại tệ chồng chất. Kiện toàn cơ chế tín dụng và từng bước áp sát thị trường, sử dụng đồng tiền tín dụng định hướng sản xuất - kinh doanh, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn của nông dân, hạn chế dần những hợp đồng ít ỏi, rải mành mành, thủ tục tiếp nhận vốn nhiêu khê, lãi suất thực sự bị tăng cao do phụ phí lớn. Sáu là, nhà nước cần có chính sách ưu đãi tích cực hoạt động tín dụng dài hạn trong nông nghiệp, chuyển dần từ bù lỗ do " bao cấp " lãi suất sang trợ giá lâu dài một số hàng nông sản chiến lược, miễm giảm hoặc giãn thuế cho hệ thống các tổ chức tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; thậm chí có chính sách ưu đãi rõ ràng đối với bất kỳ chương trình đầu tư nào của mọi tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, tư nhân trong và ngoài nước vào nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ, tạo nguồn thu ngoại tệ lớn. Bảy là, kết hợp nguyên tắc tín dụng với các công cụ tài chính khác (như nới lỏng thuế, phí, bù lỗ lãi suất, trợ giá hàng nông sản, cấp đủ vốn lưu động…) để giảm thiểu rủi ro, bảo toàn vốn tín dụng ngân hàng. Tăng cường thanh tra, giám sát việc đầu tư vốn trong nông nghiệp, đảm bảo chất lượng mọi quy trình thẩm định, xét duyệt, phân bổ, sử dụng vốn đầu tư. Cải tiến đa dạng hoá các hình thức cho vay và thanh toán nhằm vừa rút ngắn quãng đường vận động của đồng vốn đến đúng các địa chỉ đầu tư, vừa tiết kiệm đồng vốn, giảm chi phí tín dụng; phòng ngừa tốt rủi ro bằng cách phát huy tín dụng đồng tài trợ theo dự án; tín dụng khép kín, hoàn chỉnh theo quy trình sinh trưởng cây trồng, vật nuôi; quy trình cung ứng vật tư - sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ - xuất khẩu nông sản hàng hoá, tín dụng tập thể, tương hỗ đến từng hợp tác xã, tổ, đội, đoàn thể hoặc nhóm người lao động… Tám là, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tổ chức đầu tư vốn trong nông nghiệp, nông thôn thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong đó kênh đầu tư vốn ngân sách, vốn tín dụng tập trung (Nhà nước thống nhất quản lý) đóng vai trò chủ đạo. Thống nhất các loại hình tín dụng nông thôn theo một số định chế thích hợp hoàn cảnh, địa bàn cụ thể: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Quỹ tài trợ xuất khẩu nông sản, Quỹ tín dụng nhân dân, Quỹ trợ giúp áp dụng tiến bộ kỹ thuật…Tập trung quản lý các nguồn vốn đầu tư thông qua phát triển thị trường vốn nông thôn có sự tham gia cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng của mọi thành viên. Kiện toàn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động đầu tư tín dụng nông thôn. Xây dựng cơ chế đầu tư thích hợp tính chất nguồn vốn đầu tư. Chín là, hướng mạnh chính sách đầu tư tập trung vốn cho các chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Nâng cấp, đổi mới trang thiết bị máy móc, kỹ thuật, xây mới cơ sở hạ tầng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ nông nghiệp, nông thôn, áp dụng các thành tựu công nghệ sinh học, chú trọng bảo vệ môi trường, dự báo thời tiết, phòng ngừa thiên tai. Chú trọng đầu tư nâng cấp các khâu bảo quản, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ hàng nông sản. Tranh thủ những kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiến tới xây dựng và mở rộng thị phần một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ra thị trường bên ngoài. Ngoài ra cần phải phát huy vai trò kinh tế hộ gia đình, xây dựng thiết chế dân chủ nông thôn và lành mạnh hoá tài chính cơ sở. Đó cũng là những điều kiện hết sức cơ bản góp phần thực hiện huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư để phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Hệ thống hai nhóm giải pháp trong một chỉnh thể, là môi trường, điều kiện cần và đủ đảm bảo phát triển cầu và cung vốn có hiệu quả kinh tế-xã hội bền vững. kết luận Đa số người nghèo ở Việt Nam sống ở vùng nông thôn. Chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia sẽ không thành công trọn vẹn nếu không nâng cao được chất lượng cuộc sống của khu vực đông dân cư này, đặc biệt là những người sống ở vùng núi, nơi chiếm tới 70% diện tích đất Việt Nam. Thất bại trong việc nâng cao đời sống nông dân sẽ càng nới rộng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, tạo nên những khác biệt lớn về sức khỏe cũng như về giáo dục giữa hai vùng trên. Điều này sẽ dẫn tới những thành phố đông đúc chật hẹp quá tải ngoài ý muốn, nghèo đói ở khu vực nông thôn sẽ ảnh hưởng đến khu vực thành thị kéo theo sự sa sút trong sản xuất và tụt hậu về kinh tế. Chính vì vậy: Huy động, cho vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát triển nông nghiệp là vấn đề thiết thực cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Thực trạng kém phát triển của nông nghiệp trong nhiều năm qua là một cản trở lớn đến tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tại địa phương hiện nay. Do nông nghiệp là một ngành kinh tế lớn, có ảnh hưởng sâu rộng đến phát triển KT - XH của đất nước, nên việc tập trung đầu tư vốn để phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Phước Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam có nhiều tiềm năng, thế mạnh. Song bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt khó khăn, hạn chế để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Đó là tiềm năng lao động, đất đai, mặt nước chưa được khai thác triệt để, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm. Sản xuất nông nghiệp nhiều nơi còn phân tán, mang yếu tố tự phát; trình độ khoa học- công nghệ của sản xuất còn lạc hậu nên năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp còn thấp, kém hiệu quả, đời sống một bộ phận nông dân, nhất là ở vùng sâu, vừng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Từ năm 2000 đến nay, bằng việc triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng sáng tạo vào điều kiện địa phương, toàn huyện đã triển khai phát triển nông nghiệp một cách sâu rộng và đã thu được một số kết quả nhất định: Bước đầu đã chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất tự cung tự cấp khép kín sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, đáp ứng yêu cầu cung cấp lương thực, thực phẩm tại địa phương, cơ cấu kinh tế nông nghiệp được chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp đã góp phần to lớn vào ổn định kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người dân nông thôn. Đặc biệt là đã có tác động lớn đối với số đông đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương trong việc nhận thức chuyển đổi phương thức canh tác, cách thức làm ăn, xoá bỏ dần tình trạng sản xuất manh mún, phân tán, nhỏ lẻ. Do đặc thù của một huyện miền núi, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nên việc triển khai phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng một nền sản xuất hàng hóa là hết sức khó khăn và phức tạp, không thể một sớm một chiều là xong, mà phải trải qua nhiều nấc thang với nhiều bước đi cụ thể. Để quá trình này thực hiện với tốc độ nhanh và có hiệu quả, cần đặc biệt coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước, đồng thời phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo của người nông dân, sự hỗ trợ của các doanh nghiệp và các tổ chức đoàn thể. Tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là tỉnh Đảng bộ Quảng Nam, huyện Đảng bộ Phước Sơn cùng với truyền thống cách mạng của nhân dân tại địa phương, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn nhất định sẽ thu được những kết quả tốt đẹp. Mặc dù tác giả luận văn có nhiều cố gắng trong nghiên cứu, nhưng do trình độ năng lực có hạn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô và những ai quan tâm đến vấn đề này. Tác giả xin tiếp thu và xin chân thành cảm ơn./. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2469.doc
Tài liệu liên quan