Hướng tới tự do hoá lãi suất

Lời mở đầu Nghị quyết đại hội đảng toàn quốc lần thứ 6 đã đưa ra phương hướng đổi mới căn bản nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó buộc hệ thống tài chính tiền tệ phải có những cải tổ toàn diện để thể hiện được sứ mạng là huyết mạch, là trung tâm tiền tệ tín dụng, thanh toán của nền kinh tế hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một loại giá cả rất nhạy cảm và là một biến số l

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hướng tới tự do hoá lãi suất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uôn luôn được quan tâm và theo dõi chặt chẽ nhất. Sự giao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tài chính tín dụng và của toàn bộ nền kinh tế. Và cũng chính lãi suất là một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và kiểm soát lạm phát. Một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác động tích cực tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Vì thế đòi hỏi phải có một cơ chế lãi suất thích hợp ở nước ta sau hơn mười năm đổi mới chính sách lãi suất đã góp phần bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, kích cầu tăng trưởng thu nhập quốc dân. Cơ chế lãi suất được thay đổi phù hợp từng thời kỳ và được điều tiết linh hoạt. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng cường mức độ hội nhập vào thị trường tài chính khu vực cũng như quốc tế NHNN phải tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá.Tuy nhiên hiện nay việc xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất tiến tới tự do hoá trên cơ sở đảm bảo sự kiểm soát của nhà nước đối với thị trường là một bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy ngiên cứu tìm hiểu đề tài “Hướng tới tự do hoá lãi suất” là hết sức cần thiết nó mang giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc. Trong đề án này em chỉ nêu ra một cách tổng quát nhất qúa trình điều chỉnh chính sách lãi suất của NHNN theo hướng tự do hoá lãi suất cũng như một số giải pháp kiến nghị. Bài viết này còn nhiều thiếu sót, em mong được sự chỉ bảo của thầy cô. Phần nội dung a.lý luận cơ bản về lãi suất và tự do hoá lãi suất. 1.Lãi suất. 1.1.Một số khái niệm về lãi suất. Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi NHTƯ, đặc biệt những nước đang phát triển. Vì vây có rất nhiều hiểu biết về lãi suất trong đó chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm cơ bản: Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn giắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng và các hoạt động kinh tế liên quan đến việc vay và cho vay tiền. Sự biến động của lãi suất ảnh hưởng tới các quyết định của các cá thể kinh tế; lãi suất ảnh hưởng tới các quyết định tiêu dùng hay tiết kiệm của các cá nhân cũng như các quyết định đầu tư mở rộng sản suất hay thu hẹp sản suất của doanh nghiệp. Lãi suất còn là công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ của mỗi nước. Do đó, lãi suất luôn được theo dõi chặt chẽ nhất và diễn biến của nó luôn được thông tin hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Do đó việc xác định và ấn định lãi suất có ý nghĩa rất quan trọng phản ánh quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường. Lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất được ấn định trên thị trường không được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá hay tỷ lệ lạm phát dự tính. Lãi suất thực là lãi suất được điều chỉnh lại theo sự thay đổi của mức giá hay tỷ lệ làm phát dự tính. Nó là một phép đo tốt hơn đối với những ý muốn đi vay hay cho vay đối với lãi suất danh nghĩa. Và nó là một công cụ chỉ báo tốt hơn về độ căng thẳng của các điều kiện ở thị trường tín dụng so với lãi suất danh nghĩa. Theo Fishes, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r) cộng với tỷ lệ lạm phát dự tính(a): i = r + a Lãi suất hoàn vốn : Là một loại lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ (cổ phiếu, trái phiếu…) với giá trị hôm nay của công cụ nợ đó. Đây là phép đo được các nhà linh tế coi là phép đo chính xác nhất. Lãi suất tái cấp vốn : Là lãi suất do NHNN áp dụng khi tái cấp vốn cho các NHTM Và các TCTD khác. Lãi suất tái triết khấu: Là hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi NHNN tái triết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các NHTM và các TCTD . Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng nơi các ngân hàng thực hiện vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ báo tốt hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng và cung cầu vốn trên thị trường. Lãi suất tiền gửi: là lãi suất mà các ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi trả cho các cá nhân doanh nghiệp gửi tiền. Lãi suất tín dụng: lãi suất áp dụng khi các ngân hàng , các TCTD cho công chúng doanh nghiệp vay tiền. Lãi suất trên thị trường phải đảm bảo: Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất huy động vốn < Lãi suất cho vay vốn < Tỷ lệ lợi nhuận bình quân. 1.2.Vai trò của lãi suất 1.2.1.Lãi suất với sự phân bổ các nguồn lực Tất cả các nguồn lực đều cá tính khan hiếm . Vấn đề là xã hội phải phân bổ và sử dụng như thế nào sao cho có hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường cho thấy, giá cả có vai trò rất quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế. Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay là một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được từ nghành kinh tế đó , dự án đó hay tài sản đó so với chi phí ban đầu . điều này có nghĩa là phải xem xét một nghành, một dự án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và đủ để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không . Nghành nào , dự án kinh doanh nào có tỷ xuất lợi tức lớn hơn lãi suất thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó , và đó là sự phân bổ hiệu quả . Thông qua lãi suất , các doanh nghiệp có thể lựa chọn những nghành xản xuất khác nhau , để đầu tư nhằm thu tỉ suất lợi nhuận cao . Như vậy lợi xuất là tín hiệu , là căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã hội , lãi suất là yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư . 1.2.2 Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm . tỉ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập , vấn đề hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng , hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó . Khi lãi suất thấp , chi phí tín dụng tiêu dùng thấp , người ta vay nhiều hơn cho việc mua sắm các hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn . Ngược lại khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng . i.2.3 Lãi suất với đầu tư Hoạt động đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập , chi phí kỳ vọng trong kinh doanh . Trong đó lãi suất thể hiện chi phí đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định đầu tư. Khi lãi suất ở mức cao , ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay , do vậy chi tiều cho đầu tư giảm , ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn , chi tiêu đầu tư sẽ tăng. Ngay cả khi một doanh nghiệp có dư thừa vốn và không muốn vay để đầu tư vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu tư vẫn bị ảnh hưỏng của lãi suất cho doanh nghiệp có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao , chi phí cơ hội của một khoản đầu tư sẽ cao , chi tiêu đầu tư giảm do các doanh nghiệp mua chứng khoán sẽ tốt hơn và đầu tư vốn hiện vật . Khi lãi suất chi phí cơ hội của đầu tư giảm , chi tiêu đầu tư sẽ tăng lên vì đầu tư vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn hơn cho doanh nghiệp so với mua chứng khoán . Đối với đầu tư hàng dự trữ , chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để mua hàng . Lãi suất làm việc tăng chi phí biên của việc giữ hàng dự trữ so với lợi ích biên đã gỉa định trưóc làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm . Như vậy lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào vốn hiện vật và hàng dự trữ . 1.2.4lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác . Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả , thuế quan , sự ưa thích hàng nội , hàng ngoại , năng suất lao động … Ngoài ra tỷ giá trong ngăn hạn còn chịu ảnh hưởng của lãi suất : lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ . Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi ) thì tỷ giá giảm . Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng ( tỷ lệ lạm phát không đổi ) thì giá đồng tiền trong nước tăng , tỷ giá tăng . Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng , đồng nội tệ sẽ giảm giá ( tỷ giá giảm ) và ngược lại . Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động XNK. Nếu lãi suất tăng làm tăng tỷ giá sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm , nhập khẩu tăng và ngược lại . như vậy thông qua tỷ giá hối đoái , lãi suất có ảnh hưởng lớn tới xuất nhập khẩu , xuất khẩu ròng của một quốc gia . 1.2.5 Lãi suất với lạm phát Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát . Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao . Những nước trải qua lạm phát cao cũng chính là những nước có mức lãi suất cao . Lạm phát là hiện tượng mất giá của đồng tiền , là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy cũng có nhiều biện pháp khác nhau để kiểm soát lạm phát , trong đó giải pháp về lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Trong thời kỳ lạm phát , tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm , cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm , lạm phát được kiềm chế . như vậy lãi suất sẽ góp phần chống lạm phát . Tuy nhiên , việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đâù tư giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng . do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát , ổn định giá cả , ổn định đồng tiền . Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế . 2. tự do hoá lãi suất . 2.1.Những bất lợi của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp . Trong cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp thì nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất ( cơ chế ấn định lãi suất ). Các ngân hàng và các tổ chức phải tuân theo một cách tuyệt đối . Chúng ta có thể thấy rằng cơ chế kiểm soát trực tiếp lãi suất có những thuận lợi nhất định như : dễ thực hiện , phù hợp với những nước đang phát triển với thị trường tài chính sơ khai và mức độ cạnh tranh kém, chưa có công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp và hạn chế trong năng lực quản lý điều hành . Tuy nhiên, nó cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng . Đó là : -Mặc dù chưa có định lượng rõ ràng cho thấy kiểm soát trực tiếp lãi suất như hiện nay đang cản trở phát triển kinh tế nhưng có dấu hiệu và lý do để tin rằng việc kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ, phân bổ nguồn tín dụng, và sự không hiệu quả do dễ bị các tổ chức tín dụng lẩn tránh, khả năng cạnh thấp dẫn đến làm giảm chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng do sự thiếu linh hoạt và cứng nhắc. -Kiểm soát lãi suất cũng sẽ kích thích kiểm soát chi tiết các điều kiện tiền tệ bằng cách áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp như tồn tại nhiều loại trần lãi suất cho vay, gây ra kém hiệu quả và biến dạng hơn. Việc kiểm soát lãi suất sẽ làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ, vì sự gia tăng mở rộng thị trường không đ\ược kiểm soát. -Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh , các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép của tự do cạnh tranh khiến cho quá trình giải quyết khó khăn của họ tồn tại kéo dài. Những khó khăn lớn gắn với việc kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức . Cả hai loại rủi ro này đều có xu hướng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng . 2.2.Lý luận chung về tự do hoá lãi suất Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính , tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung – cầu vốn trên thị trường , loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành của lãi suất . Nó cho phép các ngân hàng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất kinh doanh của mình . Trong cơ chế tự do hoá lãi suất nếu nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế tự do hoá hoàn toàn ( thả nổi hoàn toàn ) . Nếu nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hướng xác định thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lý và khi đó NHTƯ tác động tới lãi suất chủ yếu dựa trên các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở , tái chiết khấu , hợp đồng mua lại , và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc . Có thể khái quát sự tác động gián tiếp đó như sau : Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market operations ) NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng , mở rộng tín dụng bằng cách mua vào các chứng khoán có giá sẽ làm cho cung về tiền tệ tăng lên , dẫn đến lãi suất giảm . Ngược lại , khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các chứng khoán có giá, cung tiền tệ giảm xuống dẫn đến tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ . Lãi suất tái chiết khấu ( Discount Rate) Khi NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu , các NHTM phải tăng dự trữ để tránh phải vay với lãi suất cao khi thiếu hụt khả năng thanh toán . Đồng thời NHTM cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp cho những khoản tăng thêm dự trữ do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên . Ngược lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các NHTM giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó làm hạ lãi suất thị trường . Hợp đồng mua lại ( Repurchase Agreement) Hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng khoán , trong đó người bán cam kết mua lại những chứng khoán này vào một thời điểm trong tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng. Như vây , thực chất hợp đồng mua lại là cho vay có thế chấp ( tức cho vay) , NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi suất ngăn hạn. Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình , NHTƯ hút tiền ra khỏi thị trường tiền tệ và do đó làm tăng lãi suất ngắn hạn . 2.3.Tại sao phải tiến hành tự do hoá lãi suất Theo như trên đã đề cập thì với chính sách kiểm soát lãi suất có những hạn chế rất lớn và có những tác động một cách tiêu cực tới sự phát triển của nền kinh tế , muốn phát triển nền kinh tế một cách mạnh mẽ lành mạnh nhất thiết phải từ bỏ cơ chế kiểm soát này để có thể tận dụng được mọi nguồn lực trong nước nhằm tránh sự lãng phí . Thứ nhất , lãi suất được tự do hoá , biến động theo cung cầu về vốn , có thể phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho những người vay một cách có hiệu quả nhất ; đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi với chi phí hợp lý nhất được cả ngân hàng và người gửi chấp nhận. Điều này không thể thực hiện được trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát hành chính , làm cho các hoạt động đầu tư bị biến dạng . lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi bị kiểm soát , có khả năng điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi , tự động tạo ra sự kích thích cho tăng trưởnn tài chính cải tiến và thay đổi cơ chế hành chính , cải tiến và thay đổi cơ câú mà chính phủ hoặc là không thể quản lý hoặc là chậm thu được kết quả . THứ hai việc thực hiện tự do hoá lãi suất cũng xuất phát từ thực tế là không được chính phủ hay của NHTƯ naò có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng vốn khác nhau ,cho dù bộ maý hành chính và thanh tra ngân hàng có lớn đến đầu đi chăng nữa chúng ta có thế thấy được rằng có rất nhiều quan điểm khác nhau về mức lãi suất của hệ thống ngân hàng . các chính trị gia , những người đi vay vốn nói chung , các doanh nghiệp mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước nói riêng thì mong muốn làm sao có được những khoản vay với mức lãi suất có thể được ( ta thấy điều cũng khó có thể thoả mãn một cách tuyệt đối ), trong khi đó cac NHTM thì muốn duy trì mức lãi suất cao ( một điều dẽ hiểu vì họ cũng là các nhà kinh doanh , hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu có lợi nhuận cao nhất ) , từ đây chúng ta có thể thấy được mâu thuẫn đã nảy sinh giữa người đi vay và người cho vay . Mối người đứng trên các quan điểm riêng của mình và có những cách đối sử khác nhau . Nhiều lúc vấn đề này được đưa ra bản thảo một cách gay gắt tuy nhiên không có lời giải cuối cùng , và ngưòi ta cũng không thể có bằng chứng thuyết phục nhằm đưa ra được một mức lãi suất hợp lý . Để giảm thiểu những tranh luận này cách tốt nhất là để lãi suất cho thị trường quyết định , tức là tự do hoá . Thứ ba, chúng ta đang sống trong một môi trường đang diễn ra toàn cầu hoá, mà toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình này . Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu hoá đặt ra những cơ hội và thách thức mới, trong đó một thách thức lớn là giảm kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp như quy định trần lãi suất ; thay vào đó, để bảo đảm kiểm soát tiềm tệ được hiệu quả, các nước dần chuyển sang thực hiện các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại…,tức là các công cụ định hướng thị trường. Để đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính trước hết lãi suất phải được tự do hoá. Thứ tư, tự do hoá cho phép ngân hàng tự chủ hơn, và điều đó sẽ dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các doanh nghiệp và các hộ gia đình khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi ngân hàng sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, và do đó sẽ thay thế cho nguồn đi vay nước ngoài để tài trợ cho đầu tư. Nguồn tiết kiệm nội địa này được chuyển tải thông qua hệ thống tài chính ngân hàng chính thức mà không phải thông qua thị trường tiền tệ không chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và lãi suất thực cao hơn dẫn đến mở rộng đầu tư và làm tăng hiệu quả đầu tư. Kết quả là làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa việc tăng lãi suất có thể thu hẹp khoảng chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, từ đó có thể tránh được hiện tượng ngoại tệ hoá(tức là người dân trong nước sẽ không nắm giữ ngoại tệ như trước đây khi lãi suất chênh lệch quá lớn giữa hai đồng tiền ) nền kinh tế. Những lý do trên đã cho chúng ta thấy việc tiến hành thực hiện tự do hoá lãi suất là cần thiết cho bất cứ một quốc gia nào mong muốn phát triển nền kinh tế của nước mình một cách lành mạnh, tuy nhiên trong quá trình tiến hành tự do hoá lãi suất cần phải có những bước đi những cách thức thận trọng, hợp lý, có cân nhắc, tránh nóng vội để có thể loại bỏ được những tác động tiêu cực của nó có thể gây ra cho nền kinh tế xã hội. B.Chính sách lãi suất và quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam 1.Quá trình nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam. Quá trình đổi mới cả về tổ chức và cơ chế chính sách hoạt động của ngân hàng sang cơ chế thị trường cũng là quá trình đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất . Chính sách lãi suất của nhà nước ta trong những năm qua đã đổi mới rất mạnh mẽ nhưng cũng rất thận trọng, đi đần từng bước phù hợp với từng giai đoạn trên con đường tiến tới chính sách lãi suất thị tr\ường theo hướng tự do hoá lãi suất. Diễn biến quá trình nới lỏng chính sách lãi suất trong thời kỳ đổi mới có thể chia thành các giai đoạn: 1.1.Giai đoạn trước năm 1992. Mặc dù từ năm 1990 nhà nước ta đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng nhằm tách hệ thống ngân hàng một cấp thành ngân hàng hai cấp, từng bước chuyển hoá hoạt động của ngân hàng sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên do lạm phát còn ở mức độ rất cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất âm. NHNN quy định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay để các NHTM thực hiện. Đặc điểm lãi suất thời kỳ này là: -Lãi suất tiền gửu thấp hơn tỉ lệ lạm phát. -Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động . 1.2.Giai đoạn từ cuối 1992 đến đầi 1996 . Trong giai đoạn này nhà nước thực hiện chính sách lãi suất thực dương, tỉ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức thấp. Từ 1/10/1993 NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận vuợt mức cho vay cụ thể (QĐ 184/QĐ-NH1 ngày 28/9/1993). Lãi suất thoả thuận được hiểu là: nếu ngân hàng thiếu vốn thì được phép phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn tối đa 0.2%/tháng và cho vay vơi lãi suất cao hơn mức 2,1%/tháng trên cơ sở thoả thuận vơi khách hàng theo phương châm ngân hàng kinh doanh được và người vay chấp nhận được .Với cơ chế này mức chênh lệc giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao (từ 0,7%-1%/tháng). Nên hầu hết các ngân hàng đều có lợi nhuận cao, tuy nhiên thiệt hại do các cá nhân doanh nghiệp vay vốn. Thời kỳ này lãi suất này bắt đầu được sử dụng như một công cụ của chính sách tiền tệ, cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực . 1.3.Giai đoạn từ 1996 đến 8/2000.(cơ chế điều hành trần lãi suất được duy trì) Theo quy định, NHNN khống chế lãi suất cho vay tối đa và quy định khống chế chênh lệch bình quân giữa lẫi suât cho vay và lãi suất huy động vốn ở mức 0.35%/tháng (bao gồm cả phí, thếu và lợi nhuận) Trần lãi suất thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong năm 1998, 1999. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này ( từ 1.1%/tháng năm 1997 còn 0.7%/tháng từ 1/1/1999). Đây là lần đầu tiên các tổ chức tín dụng được tự do áp dụng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong phạm vi giới hạn của nhà nước. Chính sách lãi suất đã kích thích hoạt động tín dụng buộc các NHTM chuyển hướng hoạt động đa năng, đổi mới cung cach phục vụ, mở mang thêm các loại hình dịch vụ tín dụng góp phần đa năng hoá kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Thành quả lớn nhất mà cơ chế trần lãi suất mang lại chính là tạo các cơ hội giảm chi phí một cách bình đẳng với mọi thành phần doanh nghiệp, tăng thêm động lực cho guồng máy kinh tế góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước. Có thể thấy việc điều chỉnh chính sách lãi suất trong thời kỳ này nhằm tiến tới một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu và thúc đẩy đầu tư tiêu dùng. 1.4.Giai doạn từ 8/2000 đến nay. Đến ngày 2/8/2000 NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất : xoá bỏ cơ chế trần lãi suất, qui định cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với lãi suất cho vay bằng nội tệ và cơ chế thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Theo điều 18 của luật NHNN Việt nam qui định “NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn” Khoản 12 điều 9 luật NHNN Việt nam giải thích “lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”. Khi xác định và công bố lãi suất cơ bản phải căn cứ vào: -Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. -Chỉ số lạm phát dự kiến trong năm. -Lãi suất gửi tiền phải thực dương. -Tình hình cung cầu vốn trên thị trường. -Lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước trong các phiên đấu thầu gần nhất. -Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất ngoại tệ với lãi suất nội tệ. -Thậm chí cả tình kinh tế chính trị trong và ngoài nước. Theo đó mức lãi suất cho vay bằng mức lãi suất cơ bản cộng với tỷ biên độ giao động. NHNN công bố lãi suất cơ bản và biên độ giao động từng thời điểm trên cơ cung cầu tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam và lãi suất trên thị trường quốc tế. Mới đây 5/2001 NHNN tuyên bố tự do hoá lãi suất đối với đồng ngoại tệ. Nội dung điều hành lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất thị trường phản ánh được tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế. Mặt khác đảm bảo được sự kiểm soát của NHNN, phù hợp với luật pháp và thực tiễn Việt nam. Tóm lại chính sách lãi suất phù hợp phải là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng mà chủ yếu là các nhà kinh doanh. Lãi suất gắn vơ quan hệ cung cầu vốn. Khi nào điều kiện cho phép NHHN có thể tự do hoá lãi suất trên cơ sở lãi suất cơ bản của luật NHNN Việt nam qui định. Có như vậy lãi suất tín dụng mới trở thành đòn bẩy trong cơ chế tạo vốn và sử dụng vốn của NHTM.Tự do hoá lãi suất tạo động lực cạnh trong các NHTM. Cạnh tranh thúc đẩy tiến bộ và phát triển trong hoạt động ngân hàng. 2. Tại sao Việt Nam lại chọn hình thức tiệm tiến trong cải tổ cơ chế điều hành lãi suất. Có thể nói đổi mới kinh tế Việt nam cùng với cải tổ khu vực tiền tệ ngân hàng đã diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô không được ổn định, khu vực tài chính quốc gia khó khăn tiền lực tài chính cũng như trình độ chuyên môn của hệ thống tài chính và khu vực sản suất thấp, chính vì vậy, việc lựa chọn hình thức tiệm tiến trong cải tổ lãi suất lãi suấtà hoàn toàn phù hợp. Về mặt lý thuyết, cũng như kinh nghiệm của các nước chỉ ra rằng, việc tự do hoá hoàn toàn lãi suất trong điều kiện nền kinh tế vĩ mô bất ổn có thể gây ra khủng hoảng tài chính kinh tế. Điểm hình cho các hình thức thả nổi lãi suất trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định lãi suất là Achentina, Chilê và uraguay. Cả ba nước này đều rơi vào khủng hoảng. Tại sao vậy? Việc thả nổi lãi suất trong điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định thường làm tăng mạnh lãi suất để bảo hiểm rủi ro lãi suất, lạm phát cao không dự đoán trước được. Rủi ro đạo đức sẽ xẩy ra khi các ngân hàng lại lựa chọn các nhà đầu tư với các dự án có khả năng sinh lời cao để cấp tín dụng. Bên cạnh đó, lãi suất thực quá cao gây ra sự đổ vỡ hàmg loạt các đơn vị kinh tế có tỷ lệ sinh lời trung bình, nợ quá hạn và không có khả năng thu hồi trong khu vực ngân hàng. Đối với nền tài chính quốc gia, những khó khăn cũng bùng phát, một phần do quá trình tự do hoá khu vực sản xuất(thường đi trước hoặc ít nhất lãi suất đi cùng với tự do hoá tài chính) làm mất đi nguồn thu thuộc sở hữu trước đây, bên cạnh đó lãi suất tăng mạnh lãm tăng các nghĩa vụ nợ của Chính phủ. Nghiêm trọng hơn, ở các nước này quá trình tự do hoá lãi suất thực đã làm gia tăng nhanh chóng vấn đề nợ nước ngoài . Khối tiền trong nước tăng mạnh cùng với nguồn ngoại tệ đổ vào gây áp lực hơn nữa đối với vấn đề lạm phát. Tình hình ngày càng nghiêm trọng và các trương trình ổn định với việc tái can thiệp của nhà nước đã xuất hiện hoặc khủng hoảng đã diễn ra. Thực tế Việt nam cũng minh chứng rằng, việc lựa chọn hình thức tiệm tiến là thích hợp. Thứ nhất, chương trình thí điểm lãi suất thoả thuận vào năm 1993 ngay lập tức cho thấy rằng lãi suất bị đẩy lên vượt xa so với tỷ lệ sinh lợi trong nền kinh tế 3,5%/tháng. Đó cũng chính là lý do buộc NHTƯ phải chấm dứt chương trình thí điểm này vào năm 1995. Thứ hai, thâm hụt ngân sách thời điểm cải tổ nền kinh tế rất cao, bình quân những năm 86-90 là 7,8% GDP. Thứ ba, mặc dù hệ thống ngân hàng đã được tăng cường đáng kể về mắt số lượng, nhưng tiềm lực tài chính rất mỏng, chuyên môn và công nghệ ngân hàng còn sơ khai, sự độc quyền vẫn phổ biến. Trong những điều kiện như vậy, việc thị trường hoá lãi suất theo liệu pháp sốc chắc chắn sẽ đẩy lãi suất lên rất cao. Ngoài ra, khả năng chống đỡ của khu vực sản xuất đối với việc tăng lãi suất thực cao hơn nữa ( nêu có ) rất thấp cũng là một lý do hạn chế việc theo đuổi hình thức thả nổi ngay lập tức lãi suất . Thức tế, sự đổ vỡ của khu vực tín dụng ngân hàng và các đơn vị kinh tế vào những năm 80-90 do lãi suất quá cao là một minh chứng cho vấn đề này. Thời gian sau đó , tình hình hầu như cũng không được cải thiện. Sự bùng phát các đơn vị kinh tế và khu vực trung gian tài chính đã tạo ra một mậng lưới các đơn vị kinh tế và trung gian tài chính với tiềm lực tài chính rất mỏng. Đối với các đơn vị kinh tế vốn vay thường chiếm tới 80%-90% tổng vốn sản xuất. Hơn thế nữa, cỏ chế tài chính lỏng lẻo đã làm cho hầu hết các đơn vị kinh tế đều có những vấn đề tài chính. Sự ưu đãi có tính bao cấp nguồn tín dụng cho các DNNN đã ngày càng đẩy phu vực này ngập sâu vào nợ lần; Chất lượng tín dụng cũng như trình độ chuyên môn của khu vực tài chính không được cải thiện. Nói tóm lại, tiềm lực tài chính hay khả năng trống đỡ với lãi suất thực cao của toàn bộ khu vực sản xuất cũng như hệ thống trung gian tài chính vẫn rất thấp. 3. Liệu tốc độ điều tiết lãi suất của Việt nam trong thời gian qua có quá chậm? Lựa chọn hình thức nới lỏng lãi suất là hoàn toàn đúng đắn, nhưng cho tới đầu năm 2000 trần lãi suất vẫn được sử dụng. Phải chăng tốc độ điều tiết lãi suất của Việt nam thời gian qua là quá chậm? Thực tế thời gian tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở các nước nói chung là trên dưới 10 năm. ở Nhật bản là 15 năm(từ năm 1979-1994). Đối với nước ta, thời gian cho tự do hoá lãi suất có thể còn dài hơn vì chúng ta còn phải xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng hai cấp. Hơn thế nữa cũng trong thời gian qua hàng loạt các sự kiện đã xẩy ra và một trong số đó đã hạn chế tiến trình tự do hoá lãi suất của Việt nam. Thứ nhất, việc sụt giảm giá đất vào giữa những năm 90 đặc biệt là ở những thành phố lớn đã có sự thay đổi chưa từng có. Đầu thập kỷ 90 việc cải tổ nền kinh tế đã làm cho kinh tế tăng trưởng và thu nhập đầu người tăng mạnh. Giá đất tăng vọt và kích thích nhiều hoạt động kinh tế mở rộng hơn nữa trong đó có tín dụng ngân hàng. Mặc dù vốn vay chiếm tới 80%-90% tổng vốn sản xuất tiền lực tài chính của các đơn vị kinh tế rất mỏng nhưng tín dụng vẫn được cấp ra trên nguyên tắc đảm bảo tài sản cầm cố thế chấp cho vay nợ tín dụng, đó là do sự tăng giá của bất động sản. Hơn thế nữa hệ thống pháp luật và những nguyên tắc thận trọng đối với hệ thống trung gian tài chính vẫn còn sơ khai , cho tới năn 95 hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng vẫn còn hoạt động theo hai pháp lệnh ngân hàng; hiệu quả hoạt động của hệ thống thanh tra giám sát không cao, nên việc đắt vấn đề nới lỏng hơn nữa việc điều hành lãi suất có thể chưa chín muồi. Thứ hai, Việt nam tham gia AFTA từ năm 1995: đây cũng là một nhân tố hạm chế tốc độ tự do hoá lãi suất kinh doanh. ở nước ta hệ thóng sản xuất mà tiêu chuẩn chất lượng và giá cả vẫn đang là vấn đề nổi nê._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30010.doc
Tài liệu liên quan